Giêsu Nói Láo Nhiều Hơn Nói Thật "Rồi Các Ngươi Sẽ Biết Sự Thật, Và Sự Thật Sẽ Giải Thoát Các Ngươi" Trần Chung Ngọc | ||
LTS: Sự tương quan mật thiết giữa lịch sử truyền đạo và lịch sử chiến tranh ở xứ ta là một việc quá hiển nhiên, nhưng luôn luôn được số đông người vô tình hay cố ý tách rời như phân biệt khái niệm chính trị với tôn giáo. Hai khái niệm này vốn đã sẵn tách rời trong xã hội Á Đông từ ngàn xưa, do đó những người lương hoặc những con chiên ngoan hiền thường vô tình không muốn liên kết những chuyện của Ca-tô Rô-ma giáo vào uẩn khúc của lịch sử Việt Nam. Nhưng các "đấng chăn chiên", những kẻ có miệng to nhất, được tự do gạt gẫm trong các nhà thờ mỗi ngày mỗi tuần ở khắp nơi, nếu họ cất lên tiếng nói "chuyện lịch sử chính trị không liên hệ gì đến việc tôn giáo" chỉ có nghĩa là họ tiếp tục giảng một bài gạt gẫm to tát hơn mà thôi. Như một nỗi ám ảnh khôn nguôi, mỗi khi nói về vận mệnh đất nước trong lịch sử cận đại, GS Trần Chung Ngọc không thể không nhắc đến đạo Ca-tô Rô-ma giáo, cái mà người tín hữu người Việt ham hố thích xưng là Công giáo. Và đó là lý do cho những bài viết về tôn giáo như sau đây có được cảm hứng từ những ngày lịch sử như 30 tháng 4, 1 tháng 11,... Mỗi bài của GS Trần là một khám phá mới trong cuộc phiêu lưu vào cõi "Hội Thánh" "Rồi Các Ngươi Sẽ Biết Sự Thật, Và Sự Thật Sẽ Giải Thoát Các Ngươi" (Then You Will Know The Truth, And The Truth Will Set You Free.) (Jesus, New Testament, John: 8: 32) Trong lãnh vực học thuật, đối với giới trí thức có lương tâm, và nhất là đối với các khoa học gia, thì sự thật cần phải được tôn trọng, bất kể khuynh hướng cá nhân của mình về chính trị, tôn giáo v…v... như thế nào. Vì bản chất của sự thật thuần túy chỉ là sự thật, không có tính chất phe phái, vượt ra ngoài mọi khác biệt về văn hóa, dân tộc, chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo v…v… Biết sự thật thì con người có thể tránh được những sai lầm nhiều khi có thể hại cho mình, cho người. Những điều mơ ước viển vông trong đầu óc con người mà không bao giờ có thể đạt được hay thực hiện được thì không phải là những sự thật. Đó chỉ là những ảo tưởng. Sự thật phải là những gì chúng ta thấy chúng đúng là như vậy. Phật Giáo có câu “Như thực tri kiến”, nghĩa là biết và thấy đúng nó là như vậy. Thí dụ, trái đất quay xung quanh mặt trời, đó là sự thật. Vũ trụ hình thành cách đây mười mấy tỷ năm, và trái đất cũng hình thành cách đây hơn 4 tỷ năm, đó là những sự thật. Luật vô thường cũng là một sự thật.Do đó, sự thật không phải là Gót đã sáng tạo ra vũ trụ và thế giới cách đây trên dưới 6000 năm. Sự thật cũng không phải là những lời tự nhận của Giê-su như “Ta là sự thật, là con đường, là sự sống” mà các tín đồ tin, vì không có một bằng chứng nào có thể chứng minh đó là sự thật, và đại đa số con người trên thế giới cũng không thấy đó là sự thật. Trái lại, theo những nghiên cứu nghiêm chỉnh của các học giả Tây phương, xét theo lịch sử và những gì viết trong Tân Ước, thì sự thật của Giê-su là sự dối trá, con đường của Giê-su là con đường đi tới mê tín, và sự sống của Giê-su là sự chết, chết trong vô minh, chết trong ảo tưởng, như chính Giê-su đã chết. Thật vậy, CJ Werleman đã chứng minh là Giê-su toàn là nói láo trong cuốn “Giê-su Nói Láo: Ông Ta Chỉ Là Người Thường. Vạch Trần Tân Ước” (Jesus Lied: He Was Only Human. Debunking the New Testament). Tác giả viết: “Qua từng mạch văn một, chúng tôi sẽ phá hủy những cơ cấu tạo thành huyền thoại về Giê-su, như là một siêu sao (trong tôn giáo). Điều này sẽ để lại cho quý vị ba kết luận chung cùng là: 1. Giê-su nói láo; 2. Những người viết tiểu sử Giê-su nói láo; 3. Ki Tô Giáo thực ra được đặt trên nền tảng những chuyện tào lao mà những người có khả năng đặt ra” (Thread by thread, we will destroy the fabric that is the myth of Jesus Christ, Superstar. This will leave you with three ultimate conclusions, that 1. Jesus lied; 2 Jesus’ biographers lied; 3. Christianity is actually founded on talented horse-crappery). Tác giả viết không sai. Điều Giê-su nói láo nhất là hứa hẹn với những người theo ông ta là ông ta sẽ trở lại trần ngay khi vài môn đồ của ông ta còn sống, như đã viết rõ trong Tân Ước, nhưng nay đã 2000 năm, và khoan nói đến các môn đồ của ông ta, mà hàng tỷ người tin theo “sự thật” của ông ta đã qua đời mà cũng chưa ai thấy “sự thật” đó là sự thật. Điều nói láo vĩ đại thứ hai của Giê-su là: “Nếu có đức tin chỉ bằng hạt cải thì có bảo núi này rời đi thì núi sẽ tự động bò xuống biển”. Điều nói láo thứ ba của Giê-su là dạy tín đồ: “Cầu gì thì sẽ được nấy”. Và còn nhiều nhiều điều nói láo khác nữa. Quý vị có thể tự mình kiếm ra một số không nhỏ những lời nói láo của Giê-su trong Tân Ước. Nếu các tín đồ Ki Tô Giáo cần tôi giúp thì cứ có vài lời năn nỉ, tôi sẽ chỉ cho đọc ở đâu trong Tân Ước. Bài viết này để giúp những người quan tâm biết những sự thật về Công giáo, những sự thật có ảnh hưởng đến tương lai của đất nước. Ngàn năm một thuở, góp phần ghi thêm một trang lịch sử oanh liệt cho Việt Nam, ngày 30/4/75 không chỉ là ngày đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, chủ quyền về tay người Việt, mà còn là ngày đánh dấu một cuộc di cư chưa từng có của người Việt Nam. Mở đầu là vài trăm ngàn được chính quyền Mỹ chấp thuận cho tháo chạy chiến thuật sang Mỹ, trong đó có tôi, và rồi làn sóng vượt biên tiếp theo kéo dài nhiều năm, sau cùng là một số HO. Kết quả là hiện nay người Việt Nam sống rải rác trên hầu hết mọi quốc gia trên thế giới, một số lớn sinh sau 1975. Nhưng cũng vì vậy mà người Việt hoặc tị nạn CS, hoặc di cư, nay đã trở thành công dân của nhiều quốc gia, có cơ hội tiếp xúc với thế giới ngoài Việt Nam, kiến thức mở mang, nếu muốn, biết những sự thật về lịch sử, tôn giáo, văn chương, nghệ thuật v..v… những yếu tố tạo nên nền văn minh Tây phương (Western civilization), nếu để tâm tìm hiểu. Người Việt Nam ở hải ngoại cũng còn có cơ hội tiếp xúc với nhiều nền văn hóa (culture) khác nhau. Đối với một số trí thức thì đây là một món quà tinh thần vô giá trong lãnh vực học thuật, nghiên cứu để tăng thêm kiến thức.. Đây là nói đến số người tị nạn hay di cư những đợt đầu, chứ còn giới trẻ sinh sau thì chúng đã tiếp cận với những vấn đề trên trong học đường và xã hội. Lẽ dĩ nhiên, mỗi người theo đuổi tìm kiếm sự thật trong những lãnh vực mà mình quan tâm. Riêng đối với tôi, và chắc chắn cũng đối với một số người khác trong lớp tuổi tôi, lớp người sống sót sau hai cuộc chiến ở Việt Nam, thì những vấn đề liên hệ đến cuộc chiến Việt Nam và tôn giáo ở Việt Nam là những mối bức xúc trong đầu. Cuộc chiến Việt Nam đã đưa đến một vết thương sâu đậm trong dân tộc, vết thương chia rẽ, hận thù còn kéo dài cho tới ngày nay trên một số người không những không chịu tìm hiểu sự thật, mà còn đóng sập cửa vào mặt sự thật khi sự thật đến gõ cửa.. Sự kiện lịch sử đã rõ ràng. Sự thật là cuộc chiến Việt Nam vừa qua là cuộc chiến tiếp nối tinh thần yêu nước của tiền nhân, cuộc chiến chống xâm lăng của Việt Nam, trước là Pháp, sau là Mỹ, như đại đa số trí thức Tây phương đã ghi nhận. Tất cả những lý do để biện minh cho việc Pháp trở lại Đông Dương hay để biện minh cho việc Mỹ can thiệp vào Việt Nam đều vô giá trị. Đây là kết luận của tôi từ lâu sau khi đọc không dưới 100 cuốn sách viết về cuộc chiến ở Việt Nam của các tác giả Mỹ và Pháp. Và gần đây, xem đoạn phim 49 phút “So close, so far away” trên sachhiem.net, https://www.youtube.com/watch?v=tdPG5JqtHF0 về cuộc đời của nữ phỏng viên người Úc gốc Việt, Cath Turner (Nguyễn Thị Cẩm Tú), một trong những đứa trẻ được đưa ra ngoại quốc trong chiến dịch Babylift vào năm 1975, tôi biết thêm về mặt trái của chiến dịch này, và qua cuộc phỏng vấn của Cath Turner với Fran Smith, người CIA phụ trách chiến dịch Babylift trước đây, thì khi Fran nói: “Người Mỹ đến Việt Nam không phải vì quan tâm cho người Việt Nam” và “Người Hoa Kỳ không ngại dùng người VN trẻ hay già để thực hiện những mục tiêu thầm kín” thì đó chỉ là những điều tôi đã biết từ lâu, nhưng đã gây sốc cho Cath Turner. Về vấn đề tôn giáo thì sự thật là không ai có thể phủ nhận chính quyền Ngô Đình Diệm là một chính quyền độc tài, gia đình trị, tàn bạo, tôn giáo trị, dù rằng tôn giáo đây là tôn giáo của thiểu số nô lệ ngoại bang, đưa đến cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm 1963 và của đa số người dân vào tháng 11. Có kiến thức, có hiểu biết, thì hiểu biết đó, kiến thức đó, đối với những người có lương tâm trí thức, phải dùng chúng để giúp ích cho đời. Đó là lý do Giao Điểm ra đời, và tiếp theo là Chuyển Luân, Sách Hiếm cùng một số trang nhà khác như Nhân Dân Việt Nam, Đông Dương Thời Báo v…v…. Những trang nhà này không làm gì khác hơn là cố gắng tìm hiểu sự thật về lịch sử và tôn giáo ở Việt Nam và trình bày những sự thật đó trước quần chúng. Chúng tôi coi đây là bổn phận của người trí thức trong mục đích mở mang dân trí về một số lãnh vực trong xã hội mà chúng tôi nghiên cứu, hi vọng có thể để lại cho hậu thế những sự thật về tôn giáo và lịch sử Việt Nam. Nhưng cũng vì vậy mà những trang nhà trên đã làm cho những kẻ sợ sự thật và những kẻ không quên được những mối thù hận một chiều căm thù, cho nên chúng đã làm đủ mọi cách, từ bịa đặt, xuyên tạc, đến chụp mũ, đe dọa hay phê bình bằng những ngôn từ hạ cấp, thiếu văn hóa, với hi vọng có thể che dấu sự thật và bịt miệng những người nói lên những sự thật nhưng không vừa ý chúng. Những thủ đoạn thiếu văn hóa này không có bất cứ một ảnh hưởng hay tác dụng nào, có chăng chỉ để cho chúng tự sướng với nhau, vì kết quả là càng ngày càng có nhiều người vào đọc những trang nhà trên. Với mục đích tăng thêm kiến thức cho đồng bào như vậy, chúng tôi cảm thấy không hề có lỗi gì đối với bất cứ ai, với cá nhân, chính quyền hay tôn giáo nào, khi đưa ra những sự thật về những vấn đề chúng tôi nghiên cứu. Chúng tôi đã nhiều lần khẳng định là chúng tôi sẵn sàng đón nhận những phê bình trí thức nghiêm chỉnh về những chủ đề nghiên cứu của chúng tôi, nhưng đã mấy chục năm nay, chúng tôi chưa thấy một bài nào phê bình theo tinh thần học thuật. Cuộc chiến đã qua, vấn đề còn lại là tương lai đất nước, và tôn giáo hiển nhiên đóng một vai trò quan trọng trong đó. Vấn nạn chính là Công giáo, như sẽ được trình bày sau đây. Do đó chúng tôi đã để công sức để nghiên cứu tìm hiểu về vấn nạn này. Khi nghiên cứu về tôn giáo, và với những kinh nghiệm lịch sử, chúng tôi thấy đây là một vấn đề lớn cho Việt Nam, và nếu chúng ta không tìm hiểu cho cặn kẽ để tìm ra một lối thoát thì hậu quả không thể lường được. Tinh thần tôn giáo của Việt Nam là tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên, tinh thần hòa hợp và sống chung giữa ba tôn giáo lớn: Phật Giáo, Khổng Giáo, và Lão Giáo. Ngoài ra, trong dân gian, con người được tự do tin bất cứ những gì mà mình muốn, miễn là niềm tin đó không phương hại đến dân tộc, đến chủ quyền quốc gia. Do đó người Việt Nam có thể tin ở Thần Cây Đa, Thần Bình Vôi, hay những điều mê tín như Lên Đồng, Đốt Vàng Mã mà không có vấn đề. Nhưng tại sao khi Công giáo xâm nhập nước ta thì lại gây ra cảnh chia rẽ Lương-Giáo, và nguyên nhân từ đâu đã khiến cho các chính quyền khi xưa phải đưa ra những biện pháp cấm đạo. Linh mục Lương Kim Định, nguyên giáo sư đại học Văn Khoa Saigon, viết trong cuốn Cẩm Nang Triết Việt, trg. 57: "..sự truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam gặp quá nhiều xui xẻo bất hạnh gây nên những vụ bắt bớ đổ máu rất đau thương, và đưa đến sự chia khối dân tộc đang thống nhất thành hai phe lương giáo làm cho sự liên lạc giữa đôi bên trở nên nhức nhối đầy e dè nghi kỵ. Đấy là một tai nạn lịch sử mà thời gian tuy có làm giảm đi nhưng xem ra không sao xóa sạch được." Câu viết trên của một người thuộc thành phần trí thức lãnh đạo Công Giáo Việt Nam đã cho chúng ta biết một sự thật: đó là, đại khối dân tộc Việt Nam đang thống nhất trong tinh thần "Tam Giáo đồng nguyên" từ cả hơn ngàn năm nay, đã trở thành chia rẽ vì sự du nhập của Thiên Chúa Giáo vào Việt Nam. Vậy, làm sao xóa bỏ được sự chia rẽ trên, lấy lại được tinh thần hòa hợp cố hữu của dân tộc, nếu chúng ta không đủ can đảm đối diện với sự thật? Ngoài ra, có một vấn đề cần được sáng tỏ: có thật Thiên Chúa Giáo đã gặp quá nhiều xui xẻo bất hạnh khi truyền vào Việt Nam, hay là Thiên Chúa Giáo đã mang đến cho Việt Nam bao sự xui xẻo bất hạnh, như ở rất nhiều nơi khác trên thế giới mà lịch sử đã ghi rõ? Đây là những vấn đề cần phải nghiên cứu kỹ. Công giáo là tôn giáo lớn thứ nhì ở Việt Nam. Nhưng thắc mắc lịch sử của chúng tôi là tại sao Giáo hội Công giáo lại có thể biến những tín đồ Việt Nam thành một tổ chức phi dân tộc, và tất nhiên phản bội dân tộc như lịch sử đã ghi, qua nhiều sự kiện trong cuộc xâm lăng của Pháp vào hậu bán thế kỷ 19, và khi Pháp trở lại toan tính tái lập nền đô hộ trên đất nước vào hậu bán thập niên 1940, (Xin đọc: https://giaodiemonline.com/2008/02/nhinlai.htm) và tại sao chính quyền Công giáo Ngô Đình Diệm lại quá tàn bạo, giết hại nhiều người vô tội, qua chính sách gia đình trị, tôn giáo trị, muốn tiêu diệt mọi tôn giáo khác, đi ngược lại tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên của Việt Nam?, (Xin đọc https://giaodiemonline.com/dec/vainet2.htm) Vậy thì những xui xẻo bất hạnh của Thiên Chúa Giáo khi vào Việt Nam là bắt nguồn từ đâu? Muốn giải đáp những thắc mắc này, không còn cách nào khác là phải tìm hiểu về đạo Công giáo, từ lịch sử thành lập, nội dung cuốn sách viết về những huyền thoại của dân tộc Do Thái mà Công giáo gọi là Kinh Thánh, lịch sử truyền bá, cho đến những thủ đoạn truyền đạo trên thế giới. Tổng hợp những hiểu biết về đạo Công giáo qua hàng núi tài liệu nghiên cứu của các học giả Tây phương, ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội KiTô Giáo, chúng tôi thấy rõ đó không phải là một tôn giáo, mà chỉ là một tổ chức buôn thần bán thánh của những kẻ xảo quyệt rao bán lừa dối, hoặc dựa trên cường quyền cưỡng nhét vào đầu những người dân đầu óc yếu kém, ít hiểu biết, những điều huyền hoặc mà trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại ngày nay, không còn mấy người có đầu óc có thể tin được.. Ngoài ra, xét qua những sự kiện lịch sử và nội bộ Công giáo, sách lược truyền đạo, thì đạo Công giáo rõ ràng chỉ là một tà đạo, đạo chích, và đạo bịp. Ba thuộc tính này đã được chứng minh, qua nhiều tài liệu mà mức độ khả tín không ai có thể phủ nhận, gồm cả những tài liệu chính thức đã thành văn của Vatican, trên https://giaodiemonline.com/2011/10/caidao2.htm Đi sâu vào nội bộ Công giáo thì về vấn đề đạo đức trong Công Giáo là một vấn nạn quan trọng khác. Không có một tôn giáo nào trên thế gian mà có những bậc chăn chiên vô đạo đức như Giáo hội Công giáo La mã. Trong giới giáo hoàng, mà các con chiên được dạy là những đại diện của Chúa trên trần, là những “đức thánh cha”, do đó họ phải tuyệt đối tuân phục các Giáo hoàng trong “đức vâng lời” để có thể được một cái vé lên thiên đường, lẽ dĩ nhiên là sau khi chết và không biết sẽ chết bao giờ, mà ngày nay chúng ta đã biết đó chỉ là một-cái-bánh-vẽ-trên-trời (từ của Mục sư Ernie Bringas: A-pie-in-the-sky), thì nhiều Giáo hoàng, đã phạm đủ mọi thứ tội, từ giết người, hoang dâm vô độ, loạn luân với mẹ và con, ấu dâm, ăn cắp, đồng giống luyến ái… Xin đọc chi tiết trên: https://giaodiemonline.com/2007/06/duccha.htm Còn trong giới linh mục, mà các con chiên được dạy là các “Chúa thứ hai”, do đó, cũng vì để được một chỗ trên thiên đường sau khi chết, hoàn toàn nghe theo và thi hành theo mọi lời dạy của các bề trên, thì chúng ta đã biết là nhiều vị đã đồi bại như thế nào, trong số này có cả các linh mục Việt Nam. Linh mục đã phạm tội hiếp dâm ngay cả chị em nữ tu của mình trên 27 quốc gia, thánh giá lê lết trên ngực nữ tín đồ, và trên 5000 linh mục đã bị truy tố về tội cưỡng bức tình dục trẻ em. Xin đọc tài liệu nghiên cứu trên: https://giaodiemonline.com/2010/05/loandam.htm và trên https://www.sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5236 Nhưng làm những công việc nghiên cứu về Công giáo này để làm gì? Thật ra đó chính là thể hiện hạnh từ bi. Từ là cho vui, và bi là cứu khổ. Người Công giáo bị chính sách nhồi sọ và mê hoặc của Giáo hội nên không biết rằng họ đang bị giam giữ trong vòng tù ngục của những sự lừa dối tâm linh, trong tinh thần tuân phục bề trên theo “đức vâng lời”, một hình thức nô lệ, dù là nô lệ tâm linh. Giúp cho họ biết được sự thật để tự giải thoát ra khỏi cảnh khổ của nô lệ, mà nhiều khi người ở trong vòng không biết là mình đang ở trong cảnh khổ của một ngục tù tư duy và tâm linh, đó chính là cung cấp cho họ một nguồn vui và đã cứu họ ra khỏi cảnh khổ. Lẽ dĩ nhiên, đó là tâm nguyện của chúng tôi, nhưng nếu chúng tôi muốn giúp mà họ không để cho chúng tôi giúp thì đó là chuyện của họ, không phải là chuyện của chúng tôi. Tôi không chống cá nhân những người Công giáo chỉ vì họ tin vào một Gót hay một người mà họ gọi là Chúa Jesus, vì chúng tôi biết rõ trong Công giáo có rất nhiều người ăn ở lành thiện, có lòng vị tha. Nhưng vấn đề chính là ở chỗ, từ những niềm tin này, Công giáo đã làm gì đối với nhân loại và khi du nhập vào Việt Nam, đã làm gì đối với tổ quốc và đồng bào Việt Nam? Như vậy, cái mà tôi chống không phải là niềm tin của bất cứ ai, mà là những hành động của họ bắt nguồn từ niềm tin đó. Bởi vì những hành động bắt nguồn từ niềm tin Công giáo không chỉ thu hẹp trong cộng đồng người Công giáo mà còn có ảnh hưởng trên toàn thể xã hội. Ở đây, tôi chỉ xin nêu ra hai trong số khá nhiều lý do tại sao tôi thấy cần phải đưa ra những sự thật về Công Giáo: ● Vì cái lịch sử tội ác của Ki-tô Giáo nói chung, Công Giáo nói riêng, đối với nhân loại, mà những tội ác của Công giáo lại là nhân danh Gót, nhân danh Chúa Giê-su, để vinh danh Gót, vinh danh chúa Giê-su. Lịch sử 7 núi tội ác của Công giáo đối với nhân loại đã được chính Giáo hoàng Công giáo John Paul II xưng thú cùng thế giới ngày 12/3/2000, một lịch sử tàn bạo đẫm máu với cả trăm triệu sinh mạng trên bờ vai của Giáo hội, một lịch sử đã loại bỏ những lời tự nhận của Giáo hội Công giáo như thánh thiện, tông truyền, cao quý, mang phúc lợi đến cho nhân loại. Đây là những sự kiện không ai có thể chối cãi, và chúng tôi đưa những sự kiện này ra chỉ có mục đích giúp cho người Công giáo hiểu rõ hơn về đạo của mình, và để cho người dân, không chỉ người Công giáo, biết rõ về bản chất thật của Công giáo. ● Vì những tác hại mà Công Giáo đã mang đến cho đất nước Việt Nam. Lịch sử đã chứng tỏ là giáo dân Công giáo bị mê hoặc bởi những luận điệu lừa dối của các thừa sai ngoại quốc và các linh mục bản địa để phản bội quốc gia, làm tay sai cho thực dân Pháp và dã góp một phần không nhỏ giúp cho Pháp có thể thiết lập được nền đô hộ ở Việt Nam. Vì cái niềm tin tôn giáo bị mê hoặc đó mà cho tới ngày nay, người Công giáo Việt Nam vẫn tiếp tục làm loạn ở Việt Nam, coi giáo luật Công giáo của Vatican hơn luật pháp quốc gia, coi lệnh của Vatican hơn lệnh của chính quyền Việt Nam. Khi Giáo hoàng John Paul II chính thức xưng thú 7 núi tội ác của Công Giáo và xin thế giới tha thứ cho những tội ác của Công Giáo bằng những lời lẽ rất đại cương, thì ký giả Lewis Weinstein đã viết trong tờ Chicago Tribune ngày 16 tháng 3, 2000, như sau:
"Hầu hết các ín đồ Công Giáo không biết đến cái lịch sử (chứa đầy tội ác của Công Giáo) mà Giáo hoàng nói đến, và nếu, theo lời của Hồng Y John O'Connor, tổng giám mục địa phận New York, tín đồ Công Giáo phải "được sự thật giải phóng", thì họ phải biết sự thật đó như thế nào." (Most Catholics are unaware of the history to which the pope alluded, and if, in the words of Cardinal John O'Connor, archbishop of New York, Catholics are to be "liberated by the truth", then they must know what that truth is.) Vấn đề then chốt ở đây là, theo lời Hồng Y John O’Connor, tín đồ Công giáo cần phải biết những sự thật về những núi tội ác của Công Giáo. Năm Chương về 5 núi tội ác của Công giáo đối với nhân loại đã có trên https://sachhiem.net/TCN/TCNtg/CGchinhsu/CGCS3.php. Chúng tôi không làm gì hơn là đưa ra những sự thật để giúp cho người dân ở trong cũng như ở ngoài đạo khỏi bị mê muội bởi những luận điệu mê hoặc của Ki Tô Giáo mà ngày nay đã không còn mấy giá trị trong thế giới văn minh Tây phương. Ở Tây phương, số tín đồ Ki-tô giáo vẫn còn đông, nhưng trước những tác phẩm nghiên cứu về Ki Tô Giáo của giới thức giả, trước những thành quả của khoa học trong mọi bộ môn, hầu hết tín đồ chỉ là theo truyền thống xã hội và văn hóa địa phương; rửa tội, cưới hỏi trong nhà thờ, chết có cây thập giá trên mồ v…v… chứ chẳng mấy ai còn tin vào những tín lý của Giáo hội như: Thiên Chúa sáng tạo ra vũ trụ muôn loài trong 6 ngày, Adam và Eve sa ngã cho nên nhân loại phải gánh tội tổ tông trên vai, Giê-su là con Thiên Chúa sinh ra từ một nữ trinh do một hồn ma (Holy Ghost) nhập vào, chết đi rồi sống lại bay lên trời để ngày sau trở lại phán xét tội lỗi hay đạo đức của nhân loại. Và người dân Âu Mỹ ngày nay đã thức tỉnh, đặt quyền lợi quốc gia lên trên tín ngưỡng tôn giáo, và không nằm ngoài luật pháp quốc gia. Đây là những sự thật mà chúng tôi muốn cho người dân Việt Nam biết trong mục đích mở mang trí tuệ của người dân. Chúng tôi không làm gì hơn là theo gót giới trí thức Tây phương, với tất cả sự lương thiện trí thức, trình bày những sự thật, chỉ là những sự thật, không gì ngoài sự thật, với đầy đủ tài liệu và bằng chứng, về Ki Tô Giáo. Làm công việc bạc bẽo vô vị lợi này, khoan nói đến khổ nạn bị những tín đồ Công giáo cuồng tín thiếu hiểu biết căm thù, chúng tôi chỉ hi vọng các tín đồ Ki-tô nói chung hãy thức tỉnh, hãy có can đảm chấp nhận những sự thật bất khả phủ bác về chính tôn giáo của mình, và từ đó bớt đi sự cuồng tín, nguồn gốc chia rẽ trong lòng dân tộc và xa lìa dân tộc. Với hiểu biết về những sự thật về tôn giáo của mình, người Công giáo sẽ bớt đi sự cuồng tín bắt nguồn từ sự hiểu sai lạc về chính đạo của mình, do đó sự hòa hợp trong đại khối dân tộc tự nhiên sẽ dễ dàng đi tới hơn. Nhưng cho tới nay, chúng tôi vấp phải một vấn nạn nghiêm trọng, vấn nạn của Công Giáo, từ giáo hội xuống tới giáo dân. Vấn nạn chính của Công Giáo là “sợ sự thật”. Samuel Butler đã đưa ra một nhận định: “Các tín đồ Công giáo không sợ bất cứ gì khác mà chỉ sợ sự thật”. Không chỉ sợ sự thật, mà người Công giáo thường đóng chặt đầu óc, không muốn biết sự thật, và thường từ chối, không chấp nhận trước những sự thật hiển nhiên. Nhưng tại sao Giáo hội lại sợ sự thật? Vì toàn thể cấu trúc Công Giáo được xây dựng trên những ngụy tạo, dối trá. Và sự thật có thể làm cho các tín đồ, ít ra là những người có đầu óc, thấy những giáo lý và tín lý của Giáo hội chẳng qua chỉ là những lời dối trá để mê hoặc đầu óc con người và từ đó đức tin của họ chao đảo. Vì thế cho nên Giáo hội cố hết sức giữ cho tín đồ khỏi biết những sự thật về cuốn Kinh Thánh, về lịch sử Công giáo, về những giáo lý đã lỗi thời của Giáo hội. Nói tóm lại, Giáo hội áp dụng chính sách “ngu dân dễ trị”, nhốt tín đồ trong một ngục tù hạn hẹp của kiến thức, để giữ tín đồ. Cuối thế kỷ 19, Robert G. Ingersoll, một tư tưởng gia vĩ đại nhất của nước Mỹ , đã đưa một nhận định chính xác: Công giáo La Mã sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ rằng quần chúng tín đồ thì dốt nát [vì nằm trong chính sách “ngu dân dễ trị” của giáo hội] và các linh mục thì xảo quyệt[vì đưa ra những mánh mưu thần học sai sự thật để tạo những quyền lợi tinh thần và vật chất trên đám tín đồ.] [Roman Catholicism dies hard. What does that prove? It proves that the people are ignorant and that the priests are cunning.] Russell Shorto đã viết trong cuốn Sự Thật Của Phúc Âm (Gospel Truth) như sau: Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Công giáo bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại… Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư [chắc chỉ ở trong các nước Tây Phương tân tiến chứ không thể ở Việt Nam]. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn lại trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. (Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth… Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.) Như vậy, rõ ràng là chính sách của Giáo hội là nuôi dưỡng sự ngu dốt trong đám tín đồ kém hiểu biết. Chính sách này kéo dài cho tới ngày nay. Cho nên chúng ta thấy, từ Giáo hoàng trở xuống đến đám con chiên, ai ai cũng luôn luôn xuyên tạc sự thật, che dấu sự thật, và nhất là, sợ sự thật? Một thí dụ điển hình về chính sách này là vụ bao che các linh mục loạn dâm gần đây của từ giáo hoàng trở xuống cho đến các Tồng giám mục các xứ đạo. Hiển nhiên là người Công giáo vẫn tự trói mình trong bóng tối của một cái ngục tù tâm linh của Giáo hội Công giáo mà bản chất chỉ là một tổ chức thế tục buôn thần bán thánh ngụy trang đàng sau bộ mặt tôn giáo, mà ngày nay sự phá sản đạo đức và tâm linh đã quá rõ rệt. Không kể đến sự thật bên ngoài về tôn giáo khác như Phật Giáo mà Liên minh Quốc tế Tiến bộ Tôn giáo và Tâm linh đặt ở Geneva, Thụy Sĩ (ICARUS) năm 2009 đã trao giải thưởng “Tôn giáo Tốt nhất Thế giới” cho Cộng Đồng Phật Giáo, và Liên Hiệp Quốc đã vinh danh Đức Phật qua chính thức tổ chức lễ Tam Hợp (Vesak) trên thế giới, có những sự thật bên trong nội bộ Công Giáo mà tuyệt đại đa số tín đồ thấp kém mê muội không biết đến. Thật vậy, sự thật trong Công Giáo nói riêng, Ki-tô Giáo nói chung, nằm ngay trong cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo, một cuốn sách về những chuyện hoang đường về lịch sử Do Thái, một cuốn sách được in ra nhiều nhất và nhiều ngôn ngữ nhất trên thế giới, nhưng lại là cuốn sách mà tín đồ lại ít đọc nhất. Việc diễn giải Thánh Kinh là đặc quyền của giới giáo sĩ, chọn ra những đoạn lặt vặt trong Thánh Kinh để giảng giải ngoài ngữ cảnh, với mục đích mê hoặc tín đồ. Và tín đồ, vì bị giam cầm trong một “đức tin” mù quáng, không cần biết, không cần hiểu, nên khi phải đối diện với những sự thật về tôn giáo của mình, muốn bảo vệ đức tin của mình cũng chỉ có thể nhắc lại những điều giảng giải lệch lạc có tính cách lừa dối của các bề trên để giảo biện chống đỡ trước những sự thật hiển nhiên về cuốn Thánh Kinh. Trong thời đại mà Giáo hội ở vị thế toàn quyền, trên cả vua chúa ở Âu Châu, thì Giáo hội cấm tín đồ tự đọc cuốn Thánh Kinh? Lý do rất dễ hiểu, vì đọc Thánh Kinh người ta thấy rất nhiều điều vô đạo đức, sai trái, phi lý trí, phản khoa học ở trong đó, cho nên Giáo hội sợ tín đồ biết đến những sự thật đó. Ngày nay, những người vô thần thường khuyến khích các tín đồ Ki-tô Giáo hãy tự mình đọc cuốn Thánh Kinh, vì : “Người ta thường nóicách tốt nhất để cải đạo người Ki-tô thành vô thần là hãy yêu cầu họ đọc cuốn Thánh Kinh” (It's often said that the best way to make a Christian convert to atheism is simply to ask them to read the Bible.). Những người Công giáo Việt Nam thường chụp mũ “vô thần” lên đầu người khác, hàm ý vô thần là một nhãn hiệu xấu xa vô đạo đức chỉ vì không tin Chúa của họ, thực sự chỉ là những người không có đầu óc của con người, vì họ không biết là có bao nhiêu danh nhân trí thức là vô thần. Họ không biết là trên thế giới ngày nay, hơn 2/3 nhân loại, nghĩa là trên 4 tỷ người, không cần biết đến Chúa của họ là ai. Nước Mỹ ngày nay có tới 16% là vô thần, nghĩa là khoảng trên 40 triệu người. Họ không thể hiểu được rằng, từ “hữu thần” đến “vô thần” là một bước tiến dài từ mê tín đến hiểu biết. [Xin đọc: https://giaodiemonline.com/2007/04/vothan.htm]. Trong mạng nối kết trên có một danh sách liệt kê tên cả trăm danh nhân trí thức quen thuộc trong giới “vô thần”. Hơn nữa, Giáo hội còn đưa ra một danh sách hơn 4000 đầu sách đủ loại (Index of Forbidden Books), nhiều cuốn nổi tiếng trên thế giới như của Voltaire, Diderot, Kant, Thomas Paine, Mark Twain v…v… và cấm tín đồ đọc. Và gần đây, tại sao từ giáo hoàng John Paul II cho đến giáo hoàng hiện thời, Benedict XVI, và toàn thể “hội thánh Ca-tô” lại có chính sách bao che các linh mục loạn dâm và ấu dâm? Những sự kiện lịch sử trên đã chứng tỏ hơn gì hết là giáo hội cũng như giáo dân rất sợ sự thật. Nếu không thì tại sao phải bưng bít, dấu diếm sự thật, nếu không phải là thiếu tự tin và sợ sự thật? Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Giáo hội đã dẹp bỏ cuốn ghi những đầu sách cấm tín đồ đọc (Index of Forbidden Books) vào năm 1966, nhưng Giáo hội vẫn dạy con chiên sự cấm đoán đó là một sức mạnh đạo đức (moral force), nói là để ngăn ngừa con chiên khỏi phạm tội, nhưng thực ra là muốn con chiên biết càng ít càng tốt, vì các sách bị giáo hội cấm tín đồ đọc không phải là những tác phẩm chứa những chuyện tàn bạo, dâm ô, loạn luân như cuốn Thánh Kinh, mà phần lớn chỉ là những tác phẩm triết lý, khoa học không phù hợp với những tín lý có tính cách mê hoặc của Công Giáo, hoặc đưa ra những sự thật về Công giáo. Chúng ta còn nhớ, cuối thập niên 1940 Giáo hoàng Pius XII đã ra sắc lệnh đe dọa tuyệt thông bất cứ tín đồ nào hợp tác với CS hay cả đọc sách báo của CS. Vì không biết sự thật về đòn phép “Tuyệt Thông” của Vatican mà Linh Mục James Kavanaugh đã nhận định như sau: “...Tuyệt thông, trong nhiều thế kỷ, đã là vai trò của giới quyền lực đóng vai Gót . Đó là sự chối bỏ sự tự do suy tư của con người một cách vô nhân đạo và phi-Ki-tô. Nhưng nhất là, nó đã là nỗ lực điên cuồng của một quyền lực, vì quá lo sợ mất đi quyền lực của mình, nên phải kiểm soát tín đồ thay vì hướng dẫn họ đi tới một tình yêu thương tự do và trưởng thành. Tuyệt thông toan tính biến sự thực chứng tôn giáo thành một trại huấn luyện quân sự trong đó sĩ quan phụ trách nhào nặn lên những người máy trung thành bằng cách làm chúng ngạt thở bởi giam hãm và sỉ nhục. Những phương pháp này thực là trẻ con và bất lương khi xử lý với sự liên hệ của con người đối với Gót; nhưng thật không thể tin được là chúng vẫn còn tồn tại. (...Excommunication had for centuries been authority's way of playing God. It was the inhuman and unchristian denial of man's freedom of conscience. But most of all it had been a deeply frigtened authority's frantic effort to dominate and control men and woman rather than to direct them toward a free and mature love. Excommunication attempted to turn the religious experience into a boot camp where the officer in charge aspires to build loyal robots by smothering them with confinement and indignity. They are only childish and dishonest in dealing with a man or woman's relationship with God, but incredulously they still exist.) cho nên, giáo hội Công giáo tại Việt Nam lại quay lưng lại với dân tộc, lại tiếp tay với thực dân đang muốn tái lập nền đô hộ ở Việt Nam. Và ngày nay chúng ta vẫn thấy các bề trên, không cấm mà chỉ “khuyên” tín đồ đừng đọc sách này, sách nọ. Và các con chiên, vì đã được nhào nặn để sống quen trong “đức vâng lời”, thực ra chỉ là vòng kìm kẹp đầu óc tín đồ của giáo hội và các bề trên, cho nên cũng không dám đọc, nghĩa là không dám đối diện với những sự thật về tôn giáo của mình. Vì vậy, trong đám trí thức Công giáo, chúng ta thấy một hiện tượng rất rõ rệt. Họ có thể rất giỏi, rất thành công trong một lãnh vực chuyên môn nào đó. Nhưng vì không dám đối diện với những sự thật trong các tác phẩm nghiên cứu của các học giả, những sách nghiên cứu về chính tôn giáo của mình cho nên sự hiểu biết của họ về chính tôn giáo của họ không ngoài những điều họ đã bị nhồi sọ. Do đó, họ không có khả năng thảo luận hay đối thoại về những luận điểm trong những bài mà người ngoài đạo và trong đạo viết về tôn giáo của họ. Họ vẫn cố hết sức chống đỡ cho những niềm tin của họ, không phải qua sự đối thoại nghiêm chỉnh để đi đến hiểu biết, mà qua những thủ đoạn nhiều khi rất hạ cấp để tấn công cá nhân những tác giả họ chống đối chỉ vì những tác giả này dám đụng đến những sự thật trong tôn giáo của họ. Thời đại thông tin điện tử ngày nay đã giúp chúng tôi phổ biến những tài liệu nghiên cứu nghiêm chỉnh về Công giáo của giới trí thức Tây phương để cho ai muốn đọc thì đọc. Chúng tôi không hề ép buộc ai phải đọc những bài nghiên cứu của chúng tôi, và chúng tôi sẵn sàng đón nhận những ý kiến phê bình nghiêm chỉnh, thảo luận trực tiếp vào những chủ đề mà chúng tôi nêu lên. Nhưng chúng tôi cảm thấy thất vọng vì chưa hề thấy một đáp ứng nào như chúng tôi mong muốn như trên. Trong thời đại mà các thông tin trên báo chí và trên Internet khiến cho mọi người có thể cập nhật kiến thức của mình trong mọi lãnh vực, Giáo hội Công giáo không có cách nào có thể ngăn chận được những thông tin chân thực về Công Giáo, và cũng không có cách nào cấm tín đồ đọc những loại sách mà ngày xưa, vi phạm là bị vạ tuyệt thông. Nhưng vì cái mầm mống sợ sự thật đã ăn sâu vào đầu óc, cho nên ngoài một số trí thức, các tín đồ thấp kém cũng rất ít đọc những sách bên ngoài. Để giúp những người nào quan tâm, sau đây tôi xin giới thiệu một số tác phẩm điển hình về Ki Tô Giáo nói chung, Công giáo nói riêng. Tôi xin nhấn mạnh là trong số những tác phẩm sau đây, không có một cuốn nào của Cộng Sản hay của Phật Giáo. Vậy đừng có ai kéo CS hay PG vào những công cuộc nghiên cứu trí thức của các học giả Tây phương ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-tô. Tôi có thể bảo đảm với quý vị là: “Không có ai đọc sách mà bị xuống hỏa ngục hay bị vạ tuyệt thông như Giáo hội thường đe dọa”. Bằng chứng là nhiều trí thức Công giáo đã đọc những cuốn sách do Giao Điểm xuất bản, và những bài trên giaodiemonline.com hay sachhiem.net, nếu không làm sao họ có thể thù hận các trang nhà trên đến thế, qua những luận điệu mạ lỵ hạ cấp, xuyên tạc, hay chụp mũ của họ. Bằng chứng khác là họ vẫn sống mà đâu có bị vạ tuyệt thông hay hề hấn gì do sự trừng phạt của Giáo hội. Người Công giáo cần phải biết những sự thật về đạo của mình, và như vậy cần phải biết ít nhiều về cuốn Kinh Thánh, về Gót Cha và Gót Con mà mình tôn sùng thờ phượng, về Vatican, về lịch sử Giáo hội Công giáo v…v… để có thể đối thoại trí thức với những người ngoại đạo về những niềm tin của mình, nếu có thể. Nội dung những tác phẩm mà tôi giới thiệu, và đây chỉ là một số nhỏ, đều chứa những sự thật về Ki Tô Giáo nói chung và Công Giáo nói riêng. Và bây giờ chúng ta hãy đi vào những sự thật. Ngày nay, những ai còn nói chuyện “Thiên chúa mạc khải” hay thẩm quyền của Thánh Kinh, thật ra chỉ là những người còn sống trong bóng tối, lạc hậu ít ra là vài thế kỷ. Bởi vì, thực tế là, Thánh Kinh có phải là do Thiên Chúa mạc khải hay không và cuốn Thánh Kinh có thẩm quyền gì hay không thì trong Thánh Kinh, những chuyện loạn luân vẫn là loạn luân, độc ác vẫn là độc ác, giết người vẫn là giết người, phi lý phản khoa học vẫn là phi lý và phản khoa học v..v… Và trong Thánh Kinh, chúng ta phải thành thực mà công nhận rằng, không thiếu gì những chuyện thuộc những loại này. Thật vậy, rất nhiều người thuộc giới trí thức, học giả, và ngay cả những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo đã nghiên cứu cặn kẽ về cuốn Kinh Thánh của Ki Tô Giáo, và họ đã xuất bản những tác phẩm nghiên cứu của họ cho quảng đại quần chúng đọc. Sau đây là một số tác phẩm điển hình nghiên cứu về nội dung cuốn Kinh Thánh. ● “Cuốn Thánh Kinh Thuộc Loại Dâm Ô: Một Nghiên Cứu Bất Kính Về Tình Dục Trong Thánh Kinh” [The X-Rated Bible: An Irreverent Survey of Sex in the Scripture, AA Press, Austin, Texas, 1989] của Ben Edward Akerley: cuốn sách dày hơn 400 trang, liệt kê những chuyện tình dục dâm ô, loạn luân trong Thánh Kinh. ● “Tất Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong Thánh Kinh” [All The Obscenities in the Bible, Kas-mark Pub., MN, 1995] của Kasmar Gene: cuốn sách dày hơn 500 trang, liệt kê tất cả những chuyện tục tĩu, tàn bạo, giết người, loạn luân v..v.. (Human sacrifice, murder and violence, hatred, sex, incest, child cruelty etc..) trong Thánh Kinh. ● “Sách Chỉ Nam Về Thánh Kinh” [The Bible Handbook, AA Press, Ausrin, Texas, 1986] của W. P. Ball, G.W.Foote, John Bowden, Richard M. Smith …: Liệt kê những mâu thuẫn (contradictions), vô nghĩa (absurdities), bạo tàn (atrocities) v..v.. trong Thánh Kinh. ● “Sách Hướng Dẫn Đọc Thánh Kinh Của Người Tái Sinh Nhưng Hoài Nghi” [The Born Again Skeptic’s Guide To The Bible, Freedom From Religion Foundation, Wisconsin, 1979] của Bà Ruth Hurmence Green, một tín đồ Ki Tô Giáo: Bình luận những chuyện tàn bạo, dâm ô, kỳ thị phái nữ trong Thánh Kinh. ● “Một Trăm Điều Mâu Thuẫn Trong Thánh Kinh” [One Hundred Contradictions in the Bible, The Truth Seeker Company, New York, 1922],Marshall J. Gauvin: Liệt kê 100 điều mâu thuẫn trong Thánh Kinh. ● “Lột mặt nạ Thánh Kinh” [The Bible Unmasked, The Frethought Press Association, New York, 1941] của Joseph Lewis: đưa ra những sai lầm trong Thánh Kinh. ● “Thẩm Vấn Ki Tô Giáo” [Christianity Cross-Examined, Arbitrator Press, New York, 1941], William Floyd: Phân tích từng quyển một trong Thánh Kinh. ● https://www.evilbible.com/ Giết người tế thần, Hiếp dâm trong Kinh Thánh, Giết người trong Kinh Thánh, Nô lệ trong Kinh Thánh,Những điều độc ác trong Kinh Thánh, Giê-su nói láo, Những mâu thuẫn trong Kinh Thánh, Bất khoan nhượng trong Kinh Thánh, Mâu thuẫn trong các Phúc âm (RitualHumanSacrifice, RapeintheBible, MurderintheBible, SlaveryintheBible, Evil Bible Quotea, Jesus lied, Biblical contradictions, Biblical intolerance, Contradictions of the Gospel) ● https://www.godlessgeeks.com/LINKS/BibleQuotes.htm#hell: Những trích dẫn từ cuốn Kinh Thánh (Quotes from the Christian Bible.) ● Vô Nghĩa trong cuốn Thánh Kinh: Duyệt lại Thánh Kinh cho những tín đồ Ki-tô nghi ngờ đức tin [Biblical Nonsense: A Review of the Bible for Doubting Christians (2005)], Jason Long, Ph.D., Tín đồ Ki tô Giáo, Kindle Edition [Nghiên cứu về những mâu thuẫn và những điều không thể tin được trong Kinh Thánh] ● Cuốn Thánh Kinh Mang Tin Xấu: Cuốn Tân Ước [The Bad News Bible: The New Testament], Voas, David, Giáo sư đại học, Prometheus Books, New York, 1995. [Tân Ước không phải là Tin Mừng mà là Tin Xấu] ● Theo đúng sách vở: Những thảm họa trong quá khứ và hiện tại do quyền lực của cuốn Thánh Kinh (Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority), Bringas, Ernie, Mục sư, Hampton Roads Pub. Co., VA., 1996 ● Sự Thật Trong Phúc Âm , Gospel Truth,Shorto, Russell, Riverhead Books, New York, 1997. ● Những gian dối và huyền thoại của cuốn Thánh Kinh [Deceptions & Myths of the Bible], Graham, Lloyd M., The Citadel Press Book, New York, 1995. Xin nhớ là, những cuốn sách khảo cứu về Thánh Kinh như trên mà tác giả đều là những người sống trong nước Mỹ mà phần lớn theo Ki Tô Giáo, , nhiều người đã là những tín đồ Ki Tô Giáo từ nhỏ theo truyền thống gia đình, đã được phổ biến rộng rãi trên đất Mỹ, và Công Giáo cũng như Tin Lành, dù có nhiều quyền thế và tiền bạc, cũng không có cách nào dẹp bỏ những cuốn sách trên, hay đối thoại để phản bác, vì tất cả đều là sự thật. Lẽ dĩ nhiên, trong cuốn Kinh Thánh còn có những điều mà giới giáo sĩ trích dẫn chọn lọc để mê hoặc tín đồ. Nhưng vấn đề là, nếu một cuốn sách mà chứa những nội dung như trong các tác phẩm nghiên cứu trên thì thực ra có thể gọi đó là cuốn Kinh Thánh hay không? Thánh ở chỗ nào. Gần đây, báo chí loan tin, Giáo hoàng Benedict XVI, một người nổi tiếng là vô đạo đức, bị tố cáo là bao che ếm nhẹm vụ các linh mục loạn dâm trong Giáo hội, đã phong thánh thêm cho 7 nhân vật trong đó có một thổ dân Mỹ từ thế kỷ 16, một người Phi Luật Tân trong thế kỷ 17. Thật là chuyện khôi hài lố bịch hết chỗ nói. Một người tội lỗi mà lại có quyền phong thánh cho người khác. Thế mà có đám tín đồ đến phất cờ ở Vatican, vui mừng vì trong giáo hội mình có thêm thánh. Tại sao Giáo hoàng đột nhiên lại đưa ra mửng phong thánh cho những nhân vật từ mấy thế kỷ trước mà tên tuổi chẳng có ai biết đến. Đó là cùng một sách lược như của Giáo hoàng John Paul II, phong thánh cho 117 tên thực dân và các tín đồ Việt Nam phản bội quốc gia trước đây. Báo Chicago Tribune ngày 22/10/2012 giải thích: “Giáo hội bắt đầu vận động để lấy lại đức tin trong những thành trì của Giáo hội trước đây khi đối diện với xì-căng-đan về tình dục của giới chăn chiên và những sự bất đồng về những giáo lý của giáo hội.” [The church begins a drive to reclaim flagging congregations in former strongholds in the face of sex abuse scandals and dissent against church teachings.] Cho nên, Vatican phong thánh cho những nhân vật trong Công giáo thực chất chỉ là thủ đoạn với mục đích vớt vát lại niềm tin, duy trì đức tin và sự cuồng tín trong đám tín đồ thấp kém, để chúng tự sướng với nhau, chứ đối với người ngoài thì hoàn toàn vô giá trị. Vì trong Công giáo không thiếu gì các thánh vô đạo đức, trí tuệ thấp kém, nhưng được phong thánh vì thuộc loại cuồng tín vào bậc nhất, hay làm lợi cho Giáo hội bất kể thủ đoạn, và phần lớn là để mê hoặc tín đồ. Chuyện phong Thánh là chuyện nội bộ của Giáo hội và chỉ có giá trị đối với các tín đồ không hiểu thế nào là Thánh cả. Tôi không muốn đi vào những chuyện thuộc nội bộ của Giáo hội,cho nên, ngoài các thánh trong Kinh Thánh như thánh Abrham tổ phụ của đạo Chúa lấy em làm vợ, thánh David mà người Công giáo Việt Nam thường cầu nguyện để được mau về hiệp thông với ông ta, chỉ là một tên tướng cướp, sau lên làm vua thì hoang dâm vô độ, âm mưu giết thuộc hạ để cướp vợ v…v…, sau đây tôi chỉ đưa ra vài lời "Thánh phán" của các thánh ở ngoài đời, rất nổi danh trong Công Giáo để độc giả thấy rõ đầu óc của họ, những người giáo dân thường tôn thờ là Thánh. Thánh Ignatius of Loyola (1491-1536), Người sáng lập dòng Tên: "Chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng tin rằng trắng thực sự là đen, nếu hàng giáo phẩm trong Giáo hội quyết định như vậy." (We should always be disposed to believe that which appears white is really black, if the hierarchy of the Church so decides.) Thánh Augustine (354-430), cha đẻ của nền Thần học Công giáo và được Công giáo tôn sùng, coi như là có trí tuệ "siêu việt", tác giả cuốn Đô Thị Thiên Chúa (City of God)): "Nếu những đứa trẻ sơ sinh vô tội, không phải vì chúng thiếu ý chí làm hại mà chỉ vì chúng không đủ sức thôi." (If babies are innocent, it is not for lack of will to do harm but for lack of strength.) "Những kẻ thù như vậy (những người theo phái Tự Ngộ) , ta thật ghét chúng thậm tệ: Ôi, hãy giết chúng đi bằng gươm của ngươi." (The enemies thereof, I hate vehemently: O that thou wouldest slay them with thy two- edged sword.) "Không thể nào có chuyện có người ở phía bên kia của trái đất (không tin là trái đất có hình cầu), vì Thánh Kinh không ghi lại bất cứ giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam." (It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded by Scripture among the descendants of Adam.) "Người đàn bà, khi xét cùng với chồng, là hình ảnh của Thượng đế.., nhưng khi xét riêng là đàn bà...thì không phải là hình ảnh của Thượng đế, nhưng đối với người đàn ông xét riêng, thì đó là hình ảnh của Thượng đế." (The woman, together with her own husband, is the image of God..., but when she is referred to separately..the woman alone, then she is not the image of God, but as regards the man alone, he is the image of God.) “Tôi không thấy người đàn bà đã được tạo ra để giúp cho đàn ông như thế nào, ngoài mục đích sinh sản. Nếu người đàn bà không giúp đàn ông để sinh con, thì họ có thể giúp được gì?“ (I don’t see what sort of help woman was created to provide man with, if one excludes the purpose of procreation. If woman is not given to man for help in bearing children, for what help could she be?) 3. Thánh Bernard (1090-1153): "Những lính chiến Ki Tô "phải tiến hành cuộc chiến tranh của Chúa Ki Tô mà không sợ phạm tội giết kẻ thù hay sợ bị kẻ thù giết, vì khi họ giết hay bị giết, họ không phạm tội ác nào, vì tất cả là để cho sự vinh quang của họ. Nếu họ giết, đó là cho sự lợi lộc của Chúa; nếu họ chết, đó là cho sự lợi lộc của chính họ." (Christian soldiers "are to wage the war of Christ their master withoutfearing that they sin in killing their enemies or of being lost if they are themselves killed, since when they give or receive the death blow, they are guilty of no crime, but all is to their glory. If they kill, it is to the profit of Christ, if they die, it is to their own.") 4. Thánh Anthony (1195-1231): "Khi các ngươi thấy một người đàn bà, hãy coi như là các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính là một con quỷ. Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con rắn." (When you see a woman, consider that you face not a human being, but the devil himself. The woman's voice is the hiss of the snake.) 5. Thánh Clement ở Alexandria (150-215): “Mọi phụ nữ đều nên cảm thấy mình nhục nhã vì nghĩ đến điều mình đã sinh ra là đàn bà” (Every woman should be filled with shame by the thought that she is a woman. [HE, 114] 6. Thánh Thomas Aquinas (1225-1274): “Thiên Chúa đã phạm phải một sai lầm khi sáng tạo ra người đàn bà: không nên tạo ra cái gì thiếu sót hoặc hư hỏng [như đàn bà] khi sáng tạo ra những vật đầu tiên; do đó đàn bà không nên được tạo ra khi đó.” (God had made a mistake in creating woman: nothing (deficient) or defective should have been produced in the first establishment of things; so woman ought not to have been produced then. [HE, 115]) 7. Thánh Paul, 1 Corinthians 11:3: “Nhưng tôi muốn các người hiểu rằng đấng Ki Tô là chủ nhân của mọi đàn ông, chủ nhân của mọi đàn bà là chồng họ, và chủ nhân của đấng Ki Tô là Thượng đế.” (But I want you to understand that the head of every man is Christ, the head of every woman is her husband, and the head of Christ is God.) 1 Tim. 2:11-12: “Hãy để cho người đàn bà học sự phục tùng trong im lặng. Tôi không cho phép người đàn bà nào được giảng dạy hay được quyền hơn người đàn ông; họ phải giữ im lặng” (Let a woman learn in silence with all submissiveness. I permit no woman to teach or to have authority over men; she is to keep silent.) [Phải chăng vì vậy mà cho đến ngày nay Giáo hội vẫn không cho phụ nữ làm linh mục?? Và ngay trong thời buổi này, ngày 9/8/2006, Mục sư Timothy Labouf của First Baptist Church, Watertown, N.Y., đã giải nhiệm bà Mary Lambert, một thầy giáo dạy các lớp học ngày chủ nhật trong 54 năm, giải thích là theo đúng lời Thánh Paul dạy như trên trong Kinh Thánh. Ông mục sư này đần đến độ không hiểu rằng phụ nữ ngày nay giữ nhiều chức vụ cao cấp trong ngành giáo dục.] Trên đây là vài tư tưởng "vĩ đại" của vài vị Thánh "vĩ đại" trong Công giáo. Những tư tưởng vừa ngu vừa dốt vừa mê muội cuồng tín như trên mà đều là những tư tưởng của các thánh Công giáo. Có lẽ chúng ta cũng nên biết rằng việc phong Thánh bừa bãi của Giáo hoàng John Paul II đã gây nên nhiều phản ứng bất lợi cho chính Giáo hội, đến nỗi Hồng Y Silvio Oddi cũng phải than phiền là: "Vatican đã trở thành một "Xưởng chế tạo Thánh"" (The Vatican has become a saint factory.) Điều hiển nhiên là 117 vị được phong Thánh ở Việt Nam cũng không nằm ngoài kế hoạch chế tạo Thánh cho những mục đích chính trị và mê hoặc của Vatican. Gót Cha và Gót Con chẳng qua chỉ là những nhân vật trong huyền thoại của dân Do Thái chứ chẳng liên quan gì đến các dân tộc khác. Ki Tô Giáo bành trướng trên thế giới, mang cái huyền thoại này ra, diễn giải lệch lạc theo nền thần học lắt léo của những kẻ trí tuệ thấp kém khi xưa để mê hoặc đám dân ngu dốt, ngự trị trên đầu đám dân đáng thương này. Hỏi xem có ai biết Gót là cái gì không. Gót chỉ có ở trong đầu con người, do đó ngày nay chúng ta có nhiều định nghĩa về Gót, tùy theo con người nghĩ về Gót như thế nào. Gót Cha và Gót Con của Ki Tô Giáo nằm trong cuốn gọi là Kinh Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước. Dựa vào những gì viết trong hai cuốn Ước này, các học giả đã khám phá ra rất nhiều điều thú vị, và để lại cho đời nhiều tác phẩm rất có giá trị về hai Gót. Sau đây là một số tác phẩm điển hình.
-
Không cần phải bàn cãi gì nữa, Gót trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay trả thù; một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường. [The God of the Old Testament is arguably the most unpleasant character in all fiction: jealous and proud of it; a petty, unjust, unforgiving control-freak; a vindictive, bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic, racist, infanticidal, genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic, capriciously malevolent bully.]
Mục đích của tôi là mang Gót trở lại cho quần chúng, nhắc nhở cho họ biết thực sự Gót là cái gì. Gót, như thể hiện trong chính cuốn Kinh Thánh của ông ta, là một tên ưa trả thù, đồng bóng, giết con nít, diệt chủng, tàn nhẫn, diệt dân tộc khác, ghét phái nữ, kẻ hiếp đáp ở trên trời. (My aim was to bring God back to the people, reminding them of who God really is. God, as depicted in his own Bible, is a vindictive, capricious, baby killing, genocidal, merciless, ethnic-cleansing, misogynistic, sky-bully)- Không Thể Có Gót (The Impossibility of God), Michael Martin & Ricki Monnier, Prometheus Books; 1 edition (December 1, 2003) - Không Chắc Là Có Gót (The Improbability of God), Michael Martin, Ricki Monnier, Prometheus Books (February 6, 2006) - Chứng Minh Gót Không Hiện Hữu Như Thế Nào (How to prove God does not exist), G.M Jackson, Kindle Edition - Sự Không Hiện Hữu Của Gót (The Non-Existence of God), Nicholas Everitt, Routledge; 1 edition (December 18, 2003) - Vi-rút Gót: Tôn Giáo Làm Nhiễm Độc Đời Sống Và Văn Hóa Của Chúng Ta Như Thế Nào (The God Virus: How Religion Infects Our Lives and Culture), Dr. Darrel W. Ray, IPC Press; First edition (December 5, 2009) - Gót Và Đức Tin Ngu Xuẩn; Sự Bất Phù Hợp Của Tôn Giáo Và Khoa Học (God and the Folly of Faith: The Incompatibility of Science and Religion), Victor J. Stenger, Prometheus Books; Original edition (April 24, 2012) - Phê Bình Về Gót: Thiết Lập Lý Lẽ Chống Niềm Tin Vào Gót (Critiques of God: Making The Case Against Belief In God), Angeles, Peter A., Prometheus Book, New York, 1997. - Giê-su Là Ai? (Who Was Jesus?), Cross, Colin, Barnes & Nobles Books, New York, 1993. - Ai Giết Giê-su? (Who Killed Jesus?), Crossan, John Dominic, Harper, San Francisco, 1996. Chúa Ki-Tô Hay Quỷ? Bộ Mặt Đồi Bại Của Ki Tô Giáo ở Phi Châu (Christ or Devil? The Corrupt Face of Christianity in Africa), Obianyido, Anene, Delto Publications Limited, 1988 - Ảo Tưởng Về Giê-su (The Jesus Delusion), G.M. Jackson, Kindle Edition - Giê-su Nói Láo: Ông Ta Chỉ Là Người Thường. Vạch Trần Tân Ước (Jesus Lied: He Was Only Human. Debunking the New Testament), CJ Werleman, Kindle Edition. Sách viết về Vatican và các triều đại Giáo hoàng cũng có khá nhiều, không kể ở trên Internet. Sau đây tôi xin giới thiệu vài cuốn điển hình, nội dung trong đó cũng đủ để nói lên bản chất của các triều chính Giáo hoàng và những chuyện thuộc loại “bí lục” trong cung đình Vatican. Chúng ta nên nhớ, Giáo hội Công giáo tại Việt Nam có thể nói là hoàn toàn lệ thuộc và tuân phục bất cứ những gì từ Vatican đưa ra. Vụ Giám mục Ngô Quang Kiệt xúi dục giáo dân gây loạn, cầu nguyện với búa, kìm, và xà beng ở Tòa Khâm Sứ, bất chấp lời khuyên can của chính quyền địa phương, nhưng chỉ bằng một văn thư của Hồng Y Bertone ở Vatican là đã líu ríu cuốn cờ rút lui có trật tự. 1. Peter de Rosa, Những Đại Diện Của Chúa Ki Tô: Cái Mặt Đen Tối Của Triều Chính Giáo Hoàng (Vicars Of Christ: The Dark Side of The Papacy), Crown Publishers, Inc., New York, 1988: Linh Mục dòng Tên Peter de Rosa nguyên là giáo sư Siêu Hình Học (Metaphysics) và Đạo Đức tại Trường Dòng Westminster, Khoa Trưởng khoa Thần học tại Trường Đại Học Corpus Christi ở Luân Đôn. Năm 1988, ông xuất bản cuốn Những Đại Diện Của Chúa Ki Tô: Cái Mặt Đen Tối Của Những Triều Chính Giáo Hoàng (Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy) trong đó tác giả vạch trần cái mặt đen tối đã ngự trị trong nhiều triều chính Giáo hoàng, từ St. Peter (Phê-rô) đến John Paul II, như đồi bại, ngụy tạo tài liệu, loạn dâm, giết người, theo đuổi chính sách diệt chủng v..v.. (corruption, document-forgery, sex scandals, murder, genocide etc..). Tác giả đã mở toang những khung kính màu (mẫu mực các cửa kính ở Vatican) và để lộ ra những điều “Giáo hội dạy rằng...”, thường là “hình thành bởi những ham muốn đồi bại, độc tài và cuồng tín của các Giáo hoàng (de Rosa opens the stained glass window and reveals that the Church’s teachings were too often “shaped by the whims of corrupt, despotic and fanatical Popes.”. Cuốn sách đã được nhiều tín đồ Công Giáo đánh giá cao vì tính chất lương thiện và nghiêm túc của nó (The book was appreciated for its honesty and seriousness by many Catholics). de Rosa đã đưa ra nhiều tài liệu chứng minh rằng, ngay trong thế kỷ qua, các Giáo hoàng đã coi “tự do tôn giáo” là điên rồ, bầu cử tự do là vô Thiên Chúa, và tự do báo chí là vô thần (..Within the past century, Popes have called religious freedom madness, free elections godless, and a free press tantamount to atheism). Người Công Giáo Việt Nam, lẽ dĩ nhiên, vẫn tin và luôn luôn khoa trương, đánh bóng bộ mặt tự do, dân chủ chưa từng có của Giáo hội. 2. Đức Ông Luigi Marielli, Lột Trần Vatican (The Vatican Mis À Nu), Traduit de l’Italien par Pierre-Émmanuel Dauzat, Edition Robert Laffont, Paris, 2000. Ảnh https://www.pagina12.com.ar/1999/99-08/99-08-22/pag25.htm Cuốn sách này là bản dịch sang tiếng Pháp của bản gốc tiếng Ý: VIA COL VENTO IN VATICANO. Bản dịch tiếng Anh có tên Gone With The Wind In The Vatican mà có người Việt Nam dịch là Cuốn Theo Chiều Gió Ở Vatican. Bản tiếng Anh không thấy bán trong các tiệm sách nhưng có thể đặt mua trên Internet. Tôi mua được bản tiếng Pháp ở Paris, hè 2002. Bản tiếng Pháp không dịch mà đặt tên khác: Lột Trần Vatican (Vatican Mis À Nu). Đúng là lột trần vì độc giả sẽ thấy một hình ảnh Vatican mục nát, không mũ mãng, quần áo lòe loẹt trang trí bên ngoài. Cuốn sách này là con dao mổ xẻ của tác giả đã đâm ngập vào một vết thương sâu (ce livre est un bistouri plongé dans une plaie profonde) với hi vọng có thể cắt bỏ những máu mủ độc hại trong đó. Tác giả đã vạch trần bộ mặt vô tín vô luật (sans foi ni loi) trong trung tâm chỉ đạo của Giáo hội Công giáo La Mã (Curie Romaine) gồm hầu hết những kẻ chạy chọt làm áp-phe, chạy theo chức tước, đồng giống luyến ái, tranh chấp phe đảng, và những công cụ để được thăng chức nhanh chóng... (Affairisme, carriérisme, homosexualité, la course aux postes, la lutte des clans, des instruments de promotion accélérée...) Chúng ta hãy đọc vài lời nơi trang bìa sau: Ngày 16 tháng 7, 1999, Đức Ông Luigi Marielli, một giáo sĩ cao cấp trong tập đoàn chỉ đạo của giáo hội La Mã, bị gọi đến trước tòa án vủa Vatican để giải thích về việc xuất bản một cuốn sách mà người ta đồn ông là tác giả. Cuốn sách này, bị mọi nhà xuất bản ở bán đảo Ý từ chối, cuối cùng được phát hành bởi một nhà xuất bản nhỏ chống giới giáo sĩ, xuất phát từ một nhóm viên chức cao cấp của Vatican, “Les Millénaires” [nhóm người hi vọng một thời kỳ tốt đẹp, thịnh vượng và công bằng hơn], những người chọn con đường bẻ gẫy luật im lặng. Và nếu tòa Thánh ước mong cuốn sách này không được bán, thì chính tòa Thánh đã lên án một cách độc hại sự đồi bại tinh thần và vật chất trong hệ thống lãnh đạo của giáo hội. Sự xuất hiện của Đức Ông Marielli đã đẩy mạnh cuốn sách lên hàng bán chạy nhất. Người ta không biết được cái gì ở đàng sau nhóm “Les Millénaires”, ngay cả khi người ta xì xào là có một Hồng y trong đó. Điều chắc là, đây là lần đầu tiên, tấm màn (che dấu những sự đồi bại) đã được kéo lên từ bên trong, để lộ hệ thống lãnh đạo rất tối tăm của Giáo hoàng...Làm áp-phe, chạy theo chức tước, đồng giống luyến ái, tam điểm: bức tranh mà nhóm “Les Millénaires” phác họa triều chính Giáo hoàng thật là dễ sợ, tất cả với rất nhiều chi tiết chứng tỏ một sự hiểu biết sâu đậm về hậu trường của trung tâm chỉ đạo của Giáo hội Công Giáo La Mã. Phải chăng Vatican sẽ nằm trong tay của một băng đảng của những kẻ chạy theo chức tước, vô tín vô luật. (Le 16 Juillet 1999, Mgr Luigi Marielli, un prélat de la curie romaine, est convoqué devant un tribunal du Vatican pour s’expliquer sur la publication anonyme d’un livre dont la rumeur lui attribute la paternité. Cet ouvrage, refusé par tous les éditeurs de la Péninsule, finalement publié par une petite maison anticléricale, serait l’émanation d’un groupe de hauts dignitaires du Vatican, “Les Millénaires”, qui aurait choisi de briser la loi du silence. Et si le Saint-Sìege souhaite le voir retiré de la vente, c’est qu’il dénonce avec virulence la corruption morale et physique régnant dans le gouvernement de l’église. La comparution de Mgr Marielli propulse l’ouvrage en tête des best-sellers.. On ne sait toujours pas qui se cache derrière “Les Millénaires”, même si l’on murmure qu’un cardinal en ferait partie. Ce qui est certain, c’est que pour la premìre fois, le voile a été levé, de l’intérieur, sur le très opaque gouvernement pontifical...Affairism, carriérisme, homosexualité, franc-maconnerie: le tableau que “Les Millénaires” brossent de la cour du Pape est effarant, le tout avec un luxe de détails qui trahit une connaissance approfondie des coulisses de la curie. Le Vatican serait-il aux mains d’une coterie de carriéristes sans foi ni loi? ) 3. Đặc biệt là Đức Ông Rafael Rodríguez Guillén, ngoài những tác phẩm như: “The Vatican’s Finances”; “The Antichrist in the Vatican”; “The Lies of Pope John Paul II” v..v.. còn viết cuốn Mafia Của Vatican (The Vatican’s Mafia) với những chương mục như sau: Contents Xin quý vị biết rằng cuốn sách đã được phổ biến rộng rãi và quý vị có thể download hoặc mua cuốn này từ trên Internet để mà đọc. Tôi tin rằng, trong tương lai, bằng cách này hay cách khác, cuốn sách này sẽ được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam trong chiều hướng tiến bộ trí thức của người Việt, và quý vị không có cách nào có thể ngăn chận được chiều hướng này. Quý vị cũng nên biết Công giáo là một tập đoàn còn rất mạnh trong chính trường Âu Mỹ và tiền bạc có thể nói là vô tận, cho nên nếu các tác giả trên viết không đúng lịch sử, không đúng sự thật thì Giáo hội sẽ không ngần ngại truy tố họ vì tội phỉ báng hay vu khống. Nhưng giáo hội luôn luôn giữ im lặng và dấu kín sự hiện hữu của những tác phẩm này trước đám tín đồ, và thường cấm tín đồ không được đọc những sách thuộc loại này, cho nên phần lớn tín đồ rất mù mờ, không biết gì về thế giới bên ngoài cũng như về chính giáo hội của mình, và vẫn huênh hoang lên tiếng hãnh diện được ở trong một “hội thánh”. Về Vatican, chúng ta có thể đọc thêm những tác phẩm sau đây: - “The Love Affairs of the Vatican or The Favorites of the Popes”, Dr. Angelo S. Rappoport, Barnes & Nobles Books, New York, 1995. - “The Vatican’s Holocaust”, Baron Avro Manhattan Ozark Books, Springfield, MO., 1986 - “O Vatican: A slightly wicked view of the Holy See”, Paul Hofmann, Congdon & Weed, Inc., New York, 1984. - “The Vatican Connection”, Richard Hammer, Chanter Books,New York, 1983. - “Unholy Trinity: How The Vatican's Nazi Networks Betrayed Western Intelligence to the Soviets”, Aarons, Mark & Loftus, John, St. Martin's Press, New York, 1991. - “The Vatican Empire”, Nino Lo Bello, Triden Press, New York, 1968. - “The Vatican Assassins”, Eric Jon Phelps, có thể mua trên www.amazon.com/Vatican-Assassins-Wounded-House-Friends/dp/0970499906 - Freedom's Foe - The Vatican, Pigott, Adrian, The Pioneer Press, 1965. - The Vatican Exposed: Money, Murder, and the Mafia, Paul L. Williams (May 2003), Kindle Edition. - The Politics of the Vatican, Nichols, Peter, Frederick A. Praeger, Publishers, New York, 1968 Tuyệt đại đa số các tín đồ Công giáo, phần lớn ở trong thế giới thứ ba, ở Phi Luật Tân, và ở những ốc đảo Công giáo ở Việt Nam hay ở trong các cộng đồng người Việt di cư ở hải ngoại thường không biết gì về chính giáo hội của mình. Họ bị các bề trên nhồi sọ là Giáo hội Công giáo là hiền thê của Chúa Giê-su, thật ra chỉ là con điếm ở Babylon (a harlot of Babylon), là Giáo hội tông truyền do Chúa thành lập, là Giáo hội thánh thiện, duy nhất trên thế gian. Tất cả những luận điệu nhồi sọ lừa dối ở trên hoàn toàn trái ngược với thực chất của Giáo hôi Công giáo trên hoàn cầu. Những tài liệu về Vatican ở trên đã nói rõ hơn gì hết bản chất và thực chất của Giáo hội Công giáo. Các học giả Tây phương, ở trong cũng như ở ngoài Giáo hội, đã nghiên cứu không ít về mọi mặt của Giáo hội trong gần 2000 năm lịch sử của Giáo hội.
Linh mục Charles Chiniquy sống trong Giáo hội Công Giáo 50 năm, với 25 năm hành nghề Linh mục. Từ bé, ông ta đã học thuộc lòng Thánh Kinh. Trở thành Linh mục, ông ta đặt tất cả sự tin cậy vào Giáo hội, nhưng rồi nhận thấy Giáo hội đã luôn luôn nói một đàng, làm một nẻo. Trong vài lời đề tặng (dedication) ở đầu cuốn sách “50 Năm Trong Giáo Hội La Mã”, Linh mục Charles Chiniquy viết như sau: “Hỡi những linh mục trung thành của Phúc Âm! Tôi dâng cuốn sách này cho các ông để các ông có thể biết rằng cái Con Quỷ Giáo Hội La Mã đã làm đổ máu tiền nhân của các ông, vẫn còn tiếp tục ngày nay, ngay trên ngưỡng cửa của các ông, để xiềng xích dân của các ông vào chân những hình tượng của giáo hội. Các ông sẽ thấy đời sống bên trong của chế độ giáo hoàng, từ nghệ thuật siêu đẳng mà Giáo hội dùng để trói buộc đầu óc con trẻ và nhút nhát của giới trẻ, cho đến sự hạ thấp phẩm giá không thể nói lên thành lời của các linh mục dưới gót chân sắt của các giám mục. Những sự mê tín, những lễ tiết lố bịch và ô nhục, những sự đau khổ cùng cực về tinh thần và kín đáo của các nhà tu, nữ tu và linh mục, sẽ được trình bày cho các ông. Những sự sai lầm của Công Giáo La Mã sẽ được thảo luận và bác bỏ một cách đơn giản và rõ ràng. Cuốn sách này cũng được hiến tặng cho các Giám mục, Linh mục và tín đồ Công Giáo La Mã vì lợi ích của những linh hồn bất diệt của quý vị. Với lòng nhân từ của Thiên Chúa quý vị sẽ thấy quý vị đã bị lừa dối một cách độc ác như thế nào bởi cái truyền thống hão huyền và láo khoét của quý vị. Quý vị sẽ thấy rằng quý vị không được cứu rỗi bởi những lễ tiết, thánh lễ, xưng tội, nơi chuộc tội (hay luyện ngục), xá tội, nhịn ăn v..v..” (Faithful ministers of the Gospel! I present to you this book that you may know that the monster Church of Rome, who shed the blood of your forefathers, is still at work today, at your very door, to enchain your people to the feet of her idols. You will see the inside life of the popery from the supreme art with which the mind of the young and timid child is fettered, to the unspeakable degradation of the priest under the iron feet of the bishop. The superstitions, the ridiculous and humiliating practices, the secret and mental agonies of the monks, the nuns and the priests, will be shown to you. The errors of Romanism are discussed and refuted with clearness and simplicity. To the bishops, priests, and people of Romanism this book is also dedicated for the sake of your immortal souls. By the mercy of God, you will find, in its pages, how you are cruelly deceived by your vain and lying tradition. You will see that you are not saved through your ceremonies, masses, confessions, purgatory, indulgences, fastings etc..)
Linh mục dòng Phan-xi-cô (Franciscan) Emmett McLoughlin, 40 năm trong giáo hội, 15 năm trong nghề linh mục, là tác giả của những cuốn sách nổi tiếng như “Linh Mục (Cha) của quần chúng” (People’s Padre) và “Nền Văn Hóa Mỹ và các Trường Học Công Giáo” (American Culture and Catholic Schools) trong đó ông ta đã vạch trần bô mặt thật của giới Linh mục, những lễ tiết đượm màu mê tín trong Công Giáo, và những tác hại của nền giáo dục Công Giáo trong xã hội Hoa Kỳ. Nhưng cuốn sách nổi tiếng hơn cả là cuốn “Tội Ác Và Vô Luân Trong Giáo Hội Công Giáo” (Crime and Immorality In The Catholic Church). Chúng ta có thể đọc vài dòng trong phần Dẫn Nhập của cuốn sách: “Sản phẩm quan trọng nhất của bất cứ giáo hội hay tôn giáo nào là luân lý.. Tôn giáo có nghĩa là hòa bình giữa các quốc gia, công lý giữa những cá nhân, từ thiện đối với những người kém may mắn. Nó có nghĩa là đời sống gương mẫu của những giáo sĩ đã hiến thân cho đạo. Nó có nghĩa là không được giết chóc, không được tấn công, không ăn cắp, không nói dối; nói tóm lại, là tuân hành những luật căn bản của xã hội. Mục đích của cuốn sách này là chứng tỏ Giáo hội Công Giáo La mã, trong nhiệm vụ tạo ra sản phẩm quan trọng nhất như trên là một sự thất bại. Trong tập thể các tín đồ Công Giáo, tội ác và vô luân thì nhiều hơn là trong số những người không ở trong giáo hội nào hay ở trong các giáo hội khác. Bất cứ những gì khác Giáo hội Công Giáo La mã có thể làm ở “trên trời, dưới đất hay dưới địa ngục’, nó không thể, chưa từng, làm cho đa số tín đồ tốt hơn, thánh thiện hơn.. Trước những sự kiện đã được chứng minh, một người đi tìm sự thật với đầu óc không có thiên kiến bắt buộc phải kết luận rằng chẳng có Chúa nào lập ra Giáo Hội Công Giáo La Mã. Anh ta có thể suy ra rằng luân lý và một đời sống tốt đẹp hơn không phải là sản phẩm quan trọng nhất của Giáo hội. Anh ta có thể trở thành hoài nghi và tự hỏi Công Giáo La Mã có thật sự là một tôn giáo hay không, hay có lẽ đó chỉ là một xí nghiệp không lấy gì làm cao cả, khôn khéo ngụy trang đàng sau cái mặt nạ tôn giáo? Cuối cùng, “bằng vào những việc mà chúng đã làm, chúng ta có thể biết rõ chúng” [Câu này trích từ Tân Ước ra.] (The most important product of any church or religion is morality...Religion means peace among nations, justice among individuals, charity toward those down on their luck. It means the good, living example of a dedicated clergy. It means no killing, no assault, no stealing, and no lying; in short, the observance of the first laws of society... The purpose of this book is to show that the Roman Catholic Church in its most important work is a failure. Among its members crime and immorality are greater than among the unchurched or the members of other churches. Whatever else the Roman Catholic Church may be able to do “in Heaven, on earth and under the earth”, it cannot, it has not, and it does not make the majority of its members better and holier.. In the face of the proven facts, an unbiased seeker after truth might be forced to conclude that the Roman Catholic Church was not divinely established. He might reason that morality and the better life are not its most important product after all. He might become rather cynical and wonder if Roman Catholicism be really a religion at all, or whether it is perhaps some less noble enterprise cleverly disguised under the masquerade of religion. After all, “By their fruits you will know them” )
Linh mục Joseph McCabe là một học giả nổi tiếng về bộ sử 8 cuốn: A Complete Outline of History. Bộ sử này được dùng trong các đại học Mỹ trong nhiều thập niên. Nhưng nổi tiếng hơn cả là một bộ sách Thế Lực Đen Quốc Tế “The Black International” (Chỉ Công Giáo La-Mã) gồm gần 20 cuốn, viết về mọi mặt của Công Giáo La Mã, trong đó có những cuốn điển hình như sau: #1: Tội Ác Sau Cùng (không phải là cuối cùng. TCN) Của Vatican: Thế Lực Đen Quốc Tế Đã Âm Mưu Chống Tự Do, Chủ Nghĩa Giải Phóng, và Dân Chủ Trên Thế Giới Như Thế nào?” (The Vatican’s Last Crime: How The Black International Joined The World-Plot Agaisnt Freedom, Liberalism, and Democracy); #11: Cấu Trúc Toàn Trị Của Giáo Hội La Mã: Giáo Hoàng (tác giả so sánh Giáo hoàng với Hitler mà người Đức Quốc Xã gọi là Fuehrer (lãnh tụ), trang 12: The Pope is an autocrat, a dictator, a Fuehrer in just the same sense as Hitler or Mussolini), Tổng Giám Mục (cai quản một giáo phận, được so sánh với Gauleiter, một quan chức lãnh đạo một vùng hay một miền dưới thời Đức Quốc Xã, Ibid., trang 18: Today in every country, the archbishops are the Gauleiter, the regional representatives of the Fuehrer, in the Nazi-Papal system, and their loyalty to the central caucus at Rome is easily secured today), Tổ Chức Linh Mục (so sánh với Gestapo của Đức Quốc Xã, Ibid., trang 20: The Roman Church has its Gestapo and other agents scattered over every country which it has conquered or hopes to conquer: quarter of a million priests, a vast army of monks and nuns, and an immense body of “technical experts” (journalists, teachers, writers, paid agents, organizers etc..; Each of these priests is, like the Gestapo men, a pocket edition of the head Dictator), Và Cơ Quan Kinh Tài của Giáo Hội ( The Totalitarian Church of Rome: Its Fuehrer, Its Gauleiter, Its Gestapo, and Its Money-Box); #13: La Mã Đặt Sự Phá Hoại Trên Văn Hóa: Giáo Hội La Mã, Nghèo Nhất Về Văn Hóa, Giầu Nhất Về Tội Ác (Rome Puts A Blight on Culture: The Roman Church The Poorest in Culture and Richest in Crime); # 14: Giáo Hội La Mã, Kẻ Thù Của những Công Nhân: La Mã Là Đồng Minh Đương Nhiên Của Mọi Giới Bóc Lột (The Roman Church The Enemy Of The Workers: Rome Is The Natural Ally Of All Exploiters) v..v.. Nhưng tác phẩm dài nhất và đầy đủ về cấu trúc của chế độ Giáo hoàng, Thực chất giới Linh Mục, Học thuật Công Giáo (Catholic Scholarship), Các lễ tiết, bí tích mê tín trong Công Giáo La mã v..v.. là cuốn Sự Thật Về Giáo Hội Công Giáo (The Truth About The Catholic Church). Cuốn sách này gồm có hai phần: Phần đầu nói về Lịch sử Giáo Hội La Mã (The History Of The Roman Church), và Phần hai nói về Giáo Hội Ngày Nay (The Church Today). Ngay chương đầu, Linh mục Joseph McCabe viết: “Trong tất cả những chuyện giả tưởng vẫn còn được ẩn núp dưới cái dù dột nát “Chân lý Công Giáo”, truyền thuyết về chế độ giáo hoàng được thành lập bởi Chúa và hệ thống giáo hoàng thật đúng là lì lợm và có tính cách tiểu thuyết nhất. Chẳng có quyền lực thần thánh nào, mà chỉ là một chuỗi những ngụy tạo và cưỡng bách, những lừa đảo tôn giáo và tham vọng ngỗ ngược, phạm phải trong một thời đại cực kỳ ngu si, đã dựng lên quyền lực của giáo hoàng, hệ thống giáo sĩ và tín ngưỡng. Từ “Giáo hội” chẳng có nghĩa gì trong thời của Giê-su và Phê-rô. Không có từ đó trong tiếng Aramic. Giê-su đã phải nói là “Giáo đường” [nơi tụ tập cầu nguyện của người Do Thái], và ông ta ghét những Giáo đường.” (Of all the fictions which still shelter from the storm of modern criticism under the leaky umbrella of “Catholic Truth”, the legend of the divine foundation of the Papacy and the Papal system is quite the boldest and most romantic. No divine force, but a pitifully human series of forgeries and coercions, of pious frauds and truculent ambitions, perpetrated in an age of deep ignorance, built up the Papal power, hierarchy and creed... The word “church” had no meaning at all in the days of Christ and Peter. There was no such word in Aramaic. Christ would have had to say “synagogue”; and he hated synagogues.)
Trước đây, trang nhà Giao Điểm đã đăng bài Huyền Thoại Cứu Rỗi (The Salvation Myth) mà tôi lược dịch từ một chương trong cuốn Sự Sinh Ra Của Thiên Chúa (The Birth of God) của Linh mục James Kavanaugh. Nhưng cuốn sách bán chạy nhất và được nhiều người Công Giáo đọc nhất là cuốn Một Linh Mục Hiện Đại Nhìn Lại Vào Cái Giáo Hội Đã Lỗi Thời Của Mình (A Modern Priest Looks At His Outdated Church) trong đó ông ta đã thẳng thắn phê phán những giáo luật độc tài phi lý của Giáo hội Công giáo, phân tích con người Công Giáo (The man who is a Catholic) qua các vấn đề như còn đắm mình vào trong những sự mê tín như tin vào phép lạ Lộ Đức (Lourdes), Fatima v..v.., bị mất nhân vị (The loss of Personalism), bị đối xử vô nhân đạo trong việc cưới hỏi và ly dị, ngừa thai, không biết đối thoại, chỉ biết nhắc lại những lời đã được dạy để bảo vệ giáo hội của mình v..v.. Linh mục Kavanaugh viết rất thành thực và thẳng thắn đến độ một phê bình gia đã kết luận: nếu ông ta viết cuốn sách này trước đây vài trăm năm thì ông đã bị đưa lên giàn hỏa thiêu sống. (In an earlier day, I believe he would have been burned at the stake). Cuốn sách đã được nhiều trăm ngàn tín đồ Công Giáo cũng như Tin Lành đọc nghiến ngấu, những người đang tìm kiếm một ý nghĩa của cuộc đời, chấm dứt một cuộc sống ràng buộc bởi những luật lệ ấu trĩ [của Giáo hội Công Giáo] (eagerly devoured by hundreds of thousands of Catholics – and an equal number of non-Catholics- who are searching for a meaning of life and an end to childish rule-bound living). 90% hồi ứng của độc giả ở trong cũng như ở ngoài Giáo hội Công giáo tán thán công trình và sự ngay thẳng trí thức của ông ta. Kết quả là Linh mục James Kavanaugh được mời đi thuyết trình ở nhiều trường đại học, lên nhiều đài truyền hình và đài phát thanh để phổ biến những tư tưởng của ông cho đại chúng. Sau đây là thêm vài tác phẩm về Giáo hội và Giáo lý Công giáo: - The Bad Popes, Chamberlin, E. R., , A Signet Book, New York, 1969. - Comment J’ai Donné Congé Aux Dogmes, Linh Mục Abbé J. Turmel, Aux Éditions de l’Idée Libre, Herblay (Seine-et-Oise) [Cuốn này đã được Giuse Phạm Hữu Tạo dịch ra tiếng Việt: “Tại Sao Tôi Bỏ (Những) Giáo Điều (Tín Lý??) Công Giáo”, 2005. - “Church: Charism & Power” của Linh mục Leonardo Boff, Crossroad, New York, 1986. - Toxic Christianity, DeBlassie, Paul, , Crossroad, New York, 1992. - The Dark Side Of Christian History, Ellerbe, Helen, , Morningstar and Lark, Orlando, 1999. - “Our Hands Are Stained With Blood: The Tragic Story of the "Church" and the Jewish People” của Michael L.Brown, Destiny Image Pub., 1992. - A Gospel of Shame: Children, Sexual Abuse, and the Catholic Church, Burkett, Elinor & Bruni, Frank, Viking, New York, 1993 - Betrayal of Trust, Clergy Abuse of Children Gaylor, Annie Laurie, Freedom from Religion Foundation, WI, 1988. - “Lead Us Not To Temptation: Catholic Priests and the Sexual Abuse of Children” của Jason Berry, Doubleday, New York, 1992. - Unholy Orders, Tragedy at Mount Cashel Harris, Michael, Penguin Books Ltd., Middlesex, England, 1990 - “Holy Horrors: An Illustrated History Of Religious Murder And Madness”, James A. Haught, Prometheus Books, New York, 1990. - The Popes Bare All, A Frank Study of Sex & Corruption in the VaticanUnzipped, Ide, Arthur Frederick,:, AA Press, TX, 1987. - The Inquisition of the Middle Ages, Lea, Henry Charles, , Barnes & Nobles Books, New York, 1993. - Genocide in Satellite Croatia: 1941-1945, Paris, Edmond, The American Institute for Balkan Affairs, Chicago, 1961 - The Spanish Inquisition Plaidy, Jean, , Barnes & Nobles Books, New York, 1994 - Priests & Politicians: The Mafia of the Soul Rajneesh, B.S., The Rebel Publishing House, Cologne, Germany, 1987 - Shattered Vows, Priests Who Leave Rice, David, William Morrow & Co., Inc., New York, 1990 - Sex, Priests, and Power: An Anatomy of a Crisis, Sipe, A.W. Richard, Brunner/Mazel Publishers, New York, 1995 - The Final Superstition: A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy, Daleiden, Joseph L., Prometheus Books, New York, 1994 - Resurrection: Myth or Reality? A Bishop's Search For The Origins of Christianity, Harper Collins Pub., New York, 1994; 3. Born of a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus, Harper, San Francisco, 1992; Spong, John Shelby, Giám Mục. Trong cuốn "Một Linh Mục Hiện Đại Nhìn Vào Cái Giáo Hội Đã Lỗi Thời Của Mình" (A Modern Priest Looks At His Outdated Church), Linh Mục James Kavanaugh đã viết nguyên một chương, chương 3, về đề tài thế nào là "Con Người Công giáo" (The Man Who is a Catholic). Có lẽ không ai biết rõ giáo hội cũng như con chiên của mình bằng một người đã hành nghề Linh Mục lâu năm như Linh Mục James Kavanaugh. Sau đây là vài nét về con người Công giáo của Linh mục James Kavanaugh: Người Công giáo nhìn thế giới qua một hệ thống ngăn cấm họ là chính họ... Hắn chưa từng bao giờ thực sự biết đến sự thích thú của tìm tòi, sự kỳ lạ của khám phá, sự lý thú của sự tự do trong những quyết định cá nhân. Hắn được dạy phải đọc những gì, suy tư làm sao, và coi ai là bạn. Tôi quan sát người Công giáo đến xem lễ và thương hại cho cách đào tạo đã vặn vẹo đầu óc của hắn và làm méo mó ý thức về tôn giáo của hắn. Hắn tới vì hắn được các bậc lãnh đạo tôn giáo bảo tới, những người cũng ngoan ngoãn và vô danh như hắn. Hắn đọc những lời kinh cầu nguyện gói ghém trong những câu giả tạo và làm những cử chỉ (quỳ gối làm dấu thánh giá. TCN) hoàn toàn xa lạ với lối sống hiện đại của hắn. Hắn sống trong thời đại của máy bayphản lực và bom nguyên tử, và cầu nguyện trong thế giới ma thuật của thời Trung Cổ… [Hãy nghĩ đến những màn thắp nến cầu nguyện hiệp thông của Công giáo ở Việt Nam đã được cổ súy rộng rãi và đẩy mạnh trong thời gian gần đây và những màn cầu nguyện trong thế giới ma thuật đó đã mang lại những kết quả như thế nào. TCN] Nhưng về tôn giáo hắn là một người máy chỉ biết đọc lại những câu trả lời mà người ta đã dạy hắn. Hắn chấp nhận mọi quyết định của giới linh mục mà không phản đối, hâm lại những chân lý mà hắn đã học trong những trường đạo, và ủng hộ cái giáo hội đã tước đoạt đi đầu óc của hắn. Người Công giáo, nam hay nữ, đã mất đi sự tiếp cận với đời sống. Hắn sợ phải đọc những sách mà người khác đọc, sợ coi những phim truyện phản ánh đời sống hiện đại... Giáo hội, giống như là những bậc cha mẹ sợ hãi và giận dữ, vơ vào phần mình mọi công trạng trong việc giúp đỡ mà giáo hội có thể cống hiến cho con người. Kết quả là những người Công giáo bị đối xử như những đứa trẻ và chúng tiếp tục cư xử như những đứa trẻ... Hắn không có quyền hành động theo lương tâm của chính mình, hay có quyền chọn lựa những nguyên lý sống có thể giúp hắn. Hắn là một tín đồ Công giáo, một đứa trẻ đòi người khác chọn lựa thay cho hắn.. Do đó, người Công giáo không thể biết ý nghĩa thực của sự đối thoại, chỉ biết đưa ra những luận cứ để chống đỡ cái lập trường mà hắn đã thừa hưởng từ khi còn nhỏ... Người Công giáo là một dịch vụ trả lời có tổ chức mà nhiệm vụ đầu tiên của hắn là bảo vệ giáo hội của hắn... (The Catholic man sees the world through a system which forbids him to be himself… He has never really known the joy of search, the wonder of discovery, the exciting freedom of personal decision…He has been taught what to read, how to think, and whom to call his friend. I watch the Catholic come to Mass and pity the formation that warped his mind and distorted his religious sense. He comes because he has been told to come by religious leaders who are as docile and listless as he. He read the prayers wrapped in stilted phrases and make the gestures totally foreign to his modern way of life. He lives in a world of jet and atomic bombs, and prays in a world of medieval magic. In religion he is a robot who can only recite the answers he has learned. He will accept the priestly decisions without protest, a rehash of the truths he learned in school, and support the Church which has robbed him of his mind... The man or woman who is a Catholic has lost his touch with life. He is afraid to read the books that others read, to see the movies that reflect our modern life... The Church, like a frightened and angry parent, takes too much credit for the help that it can offer man. Consequently Catholics are treated as children and they continue to behave as such... He has not the right to follow his own conscience, or the power to select the principles that give him help. He is a Catholic, a child, who demands that another make for him his choice... Thus, the Catholic man cannot truly know the meaning of dialogue, but only give arguments to defend the position he has inherited from his youth... The Catholic man is an organized answering service whose first obligation is to protect his Church.) Đọc những điều người Công giáo viết để nhận định hay phê bình một bài viết hay một tác phẩm nghiên cứu về Công giáo mà không đúng ý họ chúng ta thấy tất cả những luận điệu của họ đều không ra ngoài những điều mà Linh mục James Kavanaugh mô tả về họ như trên: chỉ biết đọc lại những câu trả lời mà người ta đã dạy hắn; không thể biết ý nghĩa thực của sự đối thoại; chỉ biết đưa ra những luận cứ để chống đỡ cái lập trường mà hắn đã thừa hưởng từ khi còn nhỏ. Nhưng thực ra những luận cứ chống đỡ của họ chẳng phải là luận cứ mà chỉ là những niềm tin cũ kỹ, những điều mê sảng đã lỗi thời mà chính những bậc lãnh đạo cao cấp trong tôn giáo của họ đã loại bỏ. Chúng ta đều biết rằng, tuyệt đại đa số tín đồ Công giáo rất ít đọc Thánh Kinh, khoan nói đến chuyện đọc cả cuốn. Về Thánh Kinh, họ chỉ biết đến những đoạn mà các bề trên giảng cho họ, nhiều khi ngoài ngữ cảnh, mục đích chỉ để tạo niềm tin trong đầu óc họ. Đối với những người có đôi chút đầu óc thì họ không biết gì hơn là dùng những luận điệu ngụy biện của các bề trên dạy cho họ để giải thích những điều sai trái trong Kinh Thánh, hoặc lấy những luận cứ đã phá sản trong những phong trào như “Khoa học sáng tạo” hay “Thiết kế thông minh” của các nhà bảo thủ Ki Tô Giáo để bảo vệ sự mê tín của họ. Thường là họ luôn luôn tránh né thảo luận vấn đề, có thể là không đủ khả năng, thay vào đó đặc biệt là họ luôn luôn vu khống chụp mũ CS để gây thù hận, lợi dụng lòng thù hận Cộng sản của một số người hành nghề buôn thù hận, dù rằng những chủ đề nghiên cứu chẳng liên quan gì đến CS hay tư bản, hay bất cứ lập trường tôn giáo hay chính trị nào. Thay vì phản biện trên các chủ đề, nếu có thể, họ thường lái sang vài điều tiêu cực của nhà nước hay của Phật Giáo, tưởng rằng như vậy là có thể làm nhẹ bớt hay xóa đi những sự thật về tôn giáo của họ. Họ không bao giờ dám chấp nhận là tất cả những gì người khác trình bày mà họ chống chỉ là sự nghiên cứu trong lãnh vực học thuật mà các trí thức Tây phương, trong đó có không ít những bậc lãnh đạo Ki Tô Giáo, khoan kể đến những chuyên gia, học giả, giáo sư đại học và cả các tín đồ Ki-tô Giáo, đã làm từ ít ra là 200 năm nay, với cả ngàn đầu sách nghiên cứu về mọi khía cạnh của Ki-tô giáo, hiện nay có đầy trong các thư viện và các tiệm sách lớn. Phải chăng các trí thức Tây phương đều là tay sai của Cộng Sản hay viết theo đơn đặt hàng của Cộng Sản? Phải chăng họ là những người ngoại đạo chống đạo? hay là người của Giao Điểm, Sách Hiếm? Phải chăng chỉ có người Tây phương mới có quyền nghiên cứu về Công giáo, còn người Việt thì không? Một luận điệu rất ấu trĩ của họ trong thời đại này là chụp cái mũ “chống Công Giáo” lên đầu những tác giả viết ra những sự thật về Công giáo. Luận điệu này chỉ có thể kích động được những người có đầu mà không có óc, hoặc những con chiên Công Giáo cuồng tín, hoặc vài ba Phật tử có lòng từ bi đặt không đúng chỗ. “Chống Công Giáo” là lời kết tội, nếu thực sự đó là một tội, của Giáo Hội Công Giáo trong thời Trung Cổ, khi mà Giáo Hội, ở vị thế tuyệt đối làm chủ thế quyền cũng như thần quyền, nắm trong tay quyền sinh quyền sát dân lành, để tra tấn, giết hại những người không hẳn là “chống Công Giáo” mà chỉ là bất đồng ý kiến với Giáo Hội, hay những người mà giáo hội cho là “lạc đạo” (heretics). Nhưng ngày nay, đúng như John E. Remsburg đã viết trong cuốn False Claims, trang 24: “Bó củi (để thiêu sống người) và thanh gươm (để giết người) đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Giáo Hội Công Giáo, và ngày nay Giáo hội chỉ còn có dùng được hai vũ khí: gây hận thù và vu khống.” ( The fagot and the sword have been wrested from her (The Roman Catholic Church) bloody hands, and hatred and slander are the only weapons left her now). Đọc những gì người Công giáo Việt Nam viết để nhận định, phê bình những bài viết của người ngoại đạo về các khía cạnh của Công Giáo: từ cuốn Kinh Thánh cho đến lịch sử của giáo hội, từ đạo đức của các “đại diện của Chúa trên trần”, các giáo hoàng, cho đến đạo đức của các “Chúa thứ hai”, các linh mục, cho tới hàng con chiên v…v… chúng ta thấy rõ ràng là họ không biết đối thoại hay phê bình, mà chỉ tận dụng hai vũ khí của giáo hội: gây thù hận và vu khống. Sở dĩ họ có những hành động vô trí trên là vì họ không nhìn ra thế giới bên ngoài, luôn luôn thu hẹp trong vòng tập thể Công giáo Việt Nam với tâm cảnh day dứt, cha truyền con nối, còn sót lại của nền đạo lý Thiên-La – Đắc-lộ của những thời đại huy hoàng của họ dưới thời đô hộ của thực dân Pháp và dưới thời Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Họ không biết đền những diễn biến về chính tôn giáo của họ trong thế giới bên ngoài cũng như trong nội bộ tôn giáo của họ. Phụ Lục: Sau đây chúng ta hãy điểm qua một số tạm gọi là “lý luận phê bình” của người theo đạo Chúa trên Internet, để chúng ta thấy rõ trình độ hiểu biết, tinh thần đối thoại trí thức cũng như nền giáo dục của gia đình và nhà thờ đã tạo ra con người như ông/bà ta. Chúng ta sẽ thấy rõ ràng là tất cả những “lý luận” này bắt nguồn từ sự kiện là họ không dám đọc sách, không biết về lịch sử của giáo hội, không biết về những diễn biến ngay chính trong nội bộ của Công Giáo. Đối với người ngoại đạo mà viết ra những sự thật về Công giáo thì họ không từ một thủ đoạn nào, từ bịa đặt về đời tư, chụp mũ Cộng sản, trù ẻo cho đến dọa giết v..v…. Tên tuổi những người viết, thường là dấu tên, không đáng để chúng ta biết đến. Những điều họ viết, gọi là "phê bình", nếu không phải là ngụy biện thì toàn là bịa đặt, tưởng tượng, nhiều lúc đem những gì tệ hại hay thất bại của chính mình ra gán cho người khác, bất cố liêm sỉ, cốt để hạ nhục cá nhân những người viết ra sự thật như chúng tôi cho hả dạ mà thôi. Thí dụ chính họ là những con vẹt, đọc mãi mấy câu kinh cùng một quyển sách, ngày này qua ngày nọ, năm này qua năm khác, nhưng lại gọi người khác là vẹt, chẳng biết xấu hổ là gì. Xin liệt kê ra để độc giả thấy mức độ ác tâm, ác khẩu, lưu manh, và du côn của những kẻ "phê bình" thuộc dạng như thế. - Người theo đạo Thiên Chúa Giáo cứ bảo các ông trong nhóm Giao Điểm Sách Hiếm là không hiểu gì về Kinh Thánh cả. Thiệt đúng lắm! Tôi đây còn nói tổ tiên của các ông là khỉ đột nên mới sinh ra các ông là loài khỉ con. Vì thế, các ông cứ đưa Kinh Thánh ra mà bươi móc. [Nếu Kinh Thánh không có gì bậy bạ sai trái thì ai có thể bươi móc. Thuyết Tiến Hóa không phải để cho con chiên Việt Nam hiểu. Khỉ con mới có trí tuệ bươi móc, còn con chiên thì chỉ có việc nhắm mắt mà tin những điều nhảm nhí trong Kinh Thánh] - Các ông là những người chuyên môn đưa cái thuyết lý của người ngồi xe lăn (Stephen Hawking) ra để mà nói thì không bao giờ đạt mục đích và các ông là những người bồi bút cho bọn Việt Cộng, bọn chúng bảo các ông đánh phá Thiên Chúa Giáo. [Mục đích thuyết lý của "ông ngồi xe lăn" là gì? "Bồi bút" viết ra nhưng chẳng có "nhà thông thái" nào dám phản biện] - Chúng tôi xem các ông là những con người đội lốt khỉ đột, là những bồi bút đắc lực cho bọn Việt Cộng để đánh phá Cộng Đồng Hải Ngoại bằng cách đưa Thiên Chúa Giáo ra làm mục tiêu. [Cả công đồng hải ngoại theo Thiên Chúa Giáo? Cái gì cũng vơ vào!] - Có biết tại sao ông ta (TCN) lại bài bác Công giáo không, bởi trước đây ông từng là tu sĩ công giáo, nhưng lại bị đuổi vì phạm luật nhà dòng (còn tội gì thì không ghi ra ở đây, mắc công dơ màn hình), bởi thế ông mang thù hận từ đó, mà làm chuyện của 1 con quỷ đội lốt người. [Chuyện tiếu lâm của Công giáo. Có biết điều thứ 8 của 10 điều răn bên đạo là gì không? ] - Việt gian Trần Chung Ngọc - Công việc Giáo sư hay chức vụ của 1 tên chùi rửa ống nghiệm trong giảng đường? [Chùi rửa ống nghiệm trong giảng đường? Có đến đấy bao giờ chưa?] - Trần Chung Ngọc, thằng ngu-xuẩn, tri-thức 3 xu, ăn cơm quốc gia thờ ma công-sản. Bay giờ không ai thuê mươn, viết bậy bạ, giỏi lắm cũng chỉ đi lái xe taxi kiếm sống mà thôi... [??? ] - Ý của Einstein hay ý của em bò và CTN và 1 lũ vô thần vô loại lúc nhúc như dzòi bọ ngoài kia ? [Nhắc lại 1 câu ở trên: Từ “hữu thần” đến “vô thần” là một bước tiến dài từ mê tín đến hiểu biết (from superstition to knowledge)] - GS Đầu bò Trần Chung Ngọc [Chỉ có đầu bò mới viết lên được câu này, vì đầu của Trần Chung Ngọc còn thông thái hơn đầu Chúa cả trăm lần] - Ông ta đang bị bại liệt bán thân, ngồi xe lăn, và không còn gõ trên bàn phím được nữa. [sic] Như vậy kể cũng tạm đủ để chúng ta thấy tư cách của các "phê bình gia" Công giáo Việt Nam. Ngày nay thì ai cũng biết là những người viết như trên thuộc những người Công giáo Việt Nam cuồng tín nhất hành tinh. Lẽ dĩ nhiên, không phải tất cả mọi người Công giáo đều có mức độ cuồng tín như nhau. Cuồng tín có nhiều mức độ, nhưng chung chung là, theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức thì “Cuồng tín là lòng say sưa mù quáng bất kể phải trái”. Trong các loại cuồng tín thì cuồng tín tôn giáo là loại nguy hiểm nhất. Vì sao? Tôi xin phép Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang trích dẫn những nhận định về những sắc thái của “cuồng tín” của các triết gia mà Giáo sư đưa ra trong cuốn “Thực Chất Của Giáo Hội La Mã”, trang 484-485: ● O. H. Holmes: “Tinh thần của kẻ cuồng tín giống như đồng tử trong con mắt: càng chiếu nhiều ánh sáng vào đó thì nó lại càng thu nhỏ lại” ● John Foster: “Kẻ cuồng tín xem tôn giáo, không phải như là một hình cầu mà như là một đường thẳng; và đó là đường thẳng trên đó hắn chuyển động. Hắn như một con trâu Phi Châu – nhìn thẳng về đàng trước, không nhìn sang phải hay sang trái. Hắn không thấy được một đàn thiên thần hay ma quỷ chỉ cách mươi thước tây ở bên này hay bên kia.” ● O’Connell: “Cuồng tín không có đầu óc, và không thể suy tư được; không có tim và không thể cảm xúc được. Khi nó di chuyển là di chuyển trong phân của chính nó; khi nó đứng yên là đứng yên trong hoang tàn; câu kinh lời kệ của nó là những lời nguyền rủa; Chúa của nó là con quỷ - phép thông công của nó là sự chết.” ● Coltron: “Cuồng tín giết hại tôn giáo để lấy bóng ma tôn giáo dọa những người điên” ● Addison: “Một người phải vừa ngu ngốc vừa thiếu lòng nhân mới có thể tin rằng không có đức hạnh hoặc chân lý ở ngoài phe cánh của hắn ta” [Người Ki-tô thường nói: “không có Thiên Chúa thì con người có thể làm bất cứ điều gì” để hạ thấp những người vô thần]. ● Junius: “Một khi mà một người nhất định tin thì chính cái vô lý trong giáo điều sẽ khiến cho hắn càng vững tin hơn nữa” ● E. H. Chapin: “Không có cái gì sỉ nhục cho bằng sự cuồng tín mà các giáo phái phải dùng để bảo tồn hàng hóa của họ. Nó làm cho tâm hồn teo quắt lại bằng cách đóng cửa không cho những chân lý từ những lục địa tư tưởng khác vào, và ngăn chặn cả những luồng tư tưởng của chính họ không cho chúng chuyển động được” ● Charles Buck: “Phần lớn những người cuồng tín hay bám vào những ý kiến được chấp nhận mà không tra cứu, và bảo vệ mà không có luận cứ, trong khi hắn ta khăng khăng ngoan cố đối với ý kiến của người khác… Tôi vẫn sợ những người cuồng tín, bất cứ trong lãnh vực nào. Họ ấu trĩ về phương diện trí tuệ và không đủ lương tri để nhận ra điều này. Họ không biết họ là những người máy, những tên nô lệ bị sai khiến và bị lợi dụng. Do đó, họ là mối họa cho quần chúng (public danger) cần được dán cái nhãn hiệu đầu lâu và hai khúc xương bắt chéo để mọi người biết mà tránh.” Nếu chúng ta đã đọc những gì mà một số người Công giáo, trí thức hay không, viết trên các diễn đàn truyền thông công cộng thì chúng ta thấy rõ là họ đều có không ít thì nhiều những sắc thái của cuồng tín như trên. Tại sao vậy? Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã nói rõ trong cuốn sách trên, trang 487: Giáo hội La mã là một thế lực chủ trương áp dụng chính sách giáo dục nhồi sọ để phục vụ cho chính sa1cyh ngu dân dễ trị của Giáo hội. Chính sách giáo dục nhồi sọ này đã được các nhà truyền giáo của Giáo hội du nhập vào Việt Nam và được áp dụng suốt trong thời kỳ Việt Nam nằm dưới ách thống trị của Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Pháp – Vatican cho đến tháng 7 năm 1954 và ở miền Nam Việt Nam cho đến ngày 30-4-1975… Mục đích áp dụng chính sách giáo dục nhồi sọ là Giáo hội muốn cho mọi người do Giáo hội đào luyện không còn khả năng lý luận phân tách để rồi suy đoán về những sắc lệnh, giáo luật, lời dạy trong thánh kinh cũng như các phép bí tích, phép mầu của Giáo hội sáng chế ra… Hậu quả của chính sách giáo dục nhồi sọ là cố làm cho nạn nhân trở thành cuồng tín mà ngu đi, không còn khả năng lý luận và phân tách để suy luận quy nạp. Những người bị nhồi sọ sẽ bị điều kiện hóa mà các nhà khoa học gọi là phản ứng Pavlov. Họ chỉ biết nói như con vẹt, nghe theo và lập lại những lời nói hay lời dạy của các đấng bề trên truyền cho mà chẳng hiểu ý nghĩa là cái gì cả và họ cũng không đủ khả năng lý trí để tiên liệu hậu quả những lời nói như con vẹt của họ sẽ như thế nào. Qua chính sách giáo dục nhồi sọ, nạn nhân đã trở thành những người cuồng tín. Chính những người cuồng tín này là những khách hàng hăng say tiêu thụ sản phẩm “tín điều, phép lạ, và tất cả các chuyện hoang đường trong cái chợ đạo mà lái buôn chính là các ông tu sĩ của cái tôn giáo đó.” Hơn thế nữa, chính những người cuồng tín này đã trở thành chiến binh dưới quyền chỉ huy của các ông tu sĩ lái buôn này và sẵn sàng đánh phá, hãm hại những người nào có niềm tin khác với họ. Trên đây là chủ đích của giáo hội làm ra chính sách giáo dục nhồi sọ. Để kết luận, có một câu hỏi tôi đã đặt ra nhiều lần nhưng vẫn chưa thấy ai trả lời: Tại sao một giáo hội do chính Chúa thành lập, thường tự xưng là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn" v...v... lại có thể phạm những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại đến độ không thể bưng bít được nữa, Giáo hoàng John Paul II và bộ Tham Mưu của ông ta đã phải lên tiếng xưng thú cùng thế giới về 7 núi tội ác của Giáo hội đối với nhân loại, ngày 12/3/2000, trong khi các đạo khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị Ki Tô Giáo, và ngay chính Giáo hoàng John Paul II trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”, chụp cho cái mũ “vô thần” lên đầu, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương hại nào cho con người trong quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki Tô Giáo hơn 500 năm? Hi vọng lần này sẽ có các bậc cao minh trong Công giáo ở trong và ngoài nước trả lời cho bàn dân thiên hạ suy nghiệm và quán chiếu. Một lời cuối: Có lẽ chúng ta không khỏi thắc mắc là: với một giáo hội Công giáo như vậy, từ lịch sử tàn bạo đẫm máu, giáo lý dối trá, cho đến đạo đức thấp kém của giới chăn chiên, từ giáo hoàng trở xuống (không phải là tất cả), mà tại sao các tín đồ vẫn cảm thấy vinh dự ở trong một tổ chức buôn thần bán thánh như vậy? Câu trả lời là: Tất cả chỉ vì cái mà Mục sư Ernie Bringas gọi là “Một-Cái-Bánh-Vẽ-Trên-Trời” (A-pie-in-the-sky). Và đây chính là chủ đề của bài viết tới của tôi. Trần Chung Ngọc Ngày 1 tháng 11, 2012 | ||
Trang Tôn Giáo |