|
đăng ngày 28 tháng 3, 2008
|
Toàn tập :
0
1
2
3
4
5
CHƯƠNG II
KINH TIN KÍNH CÔNG GIÁO
Trong chương này, tôi sẽ thảo luận về Đức
Tin Ca-Tô (Catholic Faith) trong ánh sáng của Khoa Học và Lý Trí. Như đã
viết trong phần Dẫn Nhập, Đức Tin và Lý Trí là hai con đường trái ngược
nhau, con đường đi tới mê tín đối với con đường đi tới hiểu biết. Nhưng
chúng ta đã biết, gần đây Giáo Hoàng Gion Pôn Hai (John Paul II) đã gửi một
bức thư thông tri (Encyclical letter) cho các giám mục của ông về đề tài
"Mối quan hệ giữa đức tin và lý trí " (The relationship between faith
and reason). Trước khi bàn đến mối quan hệ giữa Đức Tin và Lý Trí, chúng ta
cần phải biết rõ định nghĩa của hai từ này. Tôi dịch "Faith" là Đức Tin và
"Reason" là Lý Trí.
Theo định nghĩa của H. L. Mencken thì Faith
hay Đức Tin là "một kiểu tin phi-lôgic vào sự xảy ra của những gì không
chắc có thực" (an illogical belief in the occurrence of the
improbable). Theo định nghĩa trong tự điển thì Faith hay Đức Tin là "sự
tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực"
(Firm belief in something for which there is no proof.) Định nghĩa của
Reason hay Lý Trí trong tự điển là "khả năng có những tư tưởng hợp lý,
suy lý, hoặc phân biệt" (The capacity of rational thought, inference, or
discrimination) hay "suy xét đúng, phán đoán hợp lý" (good judgment,
sound sense). Theo những định nghĩa trên thì hiển nhiên là Đức Tin Ca-Tô
Giáo Rô-Ma và Lý Trí là hai từ có nghĩa loại trừ hỗ tương (mutual
exclusive), có cái này thì không có cái kia. Thật vậy, khi chúng ta dùng lý
trí để xác định và chấp nhận một điều gì thì chúng ta không cần đến đức tin,
và khi chúng ta tin vào điều gì mà không cần biết, không cần hiểu, thì lý
trí trở nên thừa thãi. Trong Ca- Tô Giáo Rô-Ma có nhiều thí dụ để chứng
minh luận điểm này. Trước hết, chúng ta hãy nghe một lời Thánh phán.
Thánh Ignatius of Loyola (1491-1536), người
sáng lập dòng Tên, phán rằng:
Chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng tin
rằng cái mà chúng ta thấy là trắng thực sự là đen, nếu hàng giáo phẩm trong
Giáo hội quyết định như vậy. 1
Cho nên, bất kể những quyết định của
Giáo hội phi lý đến đâu, phản tiến bộ và phản khoa học đến đâu, xúc phạm đến
các tôn giáo khác đến đâu, các tín đồ Ca-Tô chỉ có việc nhắm mắt tin theo,
không cần biết, không cần hiểu, và lẽ dĩ nhiên không bao giờ cần dùng đến lý
trí. Nhưng trong giáo hội Ca-Tô không phải chỉ có toàn những người nhắm
mắt tin theo tất cả những lời "giáo hội dạy rằng", mà còn có những vị thuộc
giới lãnh đạo Ca-Tô Giáo và những tín đồ trí thức đã dùng lý trí để phân
tích toàn bộ giáo lý của Ca-Tô Giáo và đưa ra những nhận định về chính tôn
giáo của mình. Những nhận định này sẽ được trích dẫn, khi cần, trong phần
phân tích Đức Tin Ca-Tô sau đây.
Tín đồ Ca-Tô tin nhiều thứ lắm.
Họ tin rằng Thánh Kinh là những lời "mạc
khải" của Thần Ki Tô nên không thể nào sai lầm, tuy ngày nay bằng chứng tràn
ngập cho thấy vô số những điều trong Thánh Kinh sai lầm về cả Thần học lẫn
khoa học.
Họ tin rằng Thánh Linh hay Thánh Ma (Holy
ghost) có thể làm cho Bà Mary mang thai rồi sinh ra Giêsu, tuy ngày nay khoa
sinh học đã chứng minh rằng không có tinh trùng của phái Nam, Mary chỉ có
thể sinh ra con gái (như sẽ được trình bày với nhiều chi tiết hơn trong một
đoạn sau.) Một hồn ma nhập vào người mà có tinh khí gồm 2 loại sắc tố
(chromosome) X và Y để có thể làm cho người đàn bà thụ thai và sinh ra con
trai là điều không tưởng.
Họ cũng tin rằng Thánh Ma là nguồn tâm
linh hướng dẫn giáo hội, dẫn dắt các Hồng Y trong việc bầu Giáo Hoàng. Vậy
mà giáo hội đã phạm 7 núi tội lỗi đối với nhân loại, và ngày nay các nhà
nghiên cứu về Ca-Tô Giáo đã chứng tỏ từ xưa tới nay, Giáo Hoàng lên ngôi
phần lớn dựa vào bạo lực và bằng những thủ đoạn, âm mưu, đàng sau hậu
trường, khoan kể là số Giáo hoàng vô luân, vô đạo đức trong Ca-Tô Giáo không
phải là nhỏ. Những sự kiện lịch sử này sẽ được trình bày trong một phần
sau.
Họ tin rằng Giáo Hoàng là đại diện của Chúa
(Vicar of Christ) trên trần, giữ trong tay những chìa khóa mở cửa Thiên
đường, tuy Tiến sĩ Arthur Frederick Ide, sau khi nghiên cứu lịch sử các Giáo
hoàng, đã viết trong cuốn Unzipped: The Popes Bare All, rằng các
Giáo hoàng thực sự chỉ giữ những chìa khóa mở những cánh cửa vào nhục dục,
trụy lạc, và bạo lực (..which history shows actually open the doors to
sex, vice, and violence). Thiên đường chỉ là một hứa hẹn trống rỗng mà mà
giáo hội nhồi vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ, chứ thực tế không có một căn
bản thuyết phục nào về sự hiện hữu của Thiên đường, và cũng chưa có ai biết
Thiên đường ở đâu, như thế nào. Cho nên, trước sự tiến bộ trí thức của nhân
loại, nhất là, trước những bằng chứng tràn ngập của những khám phá khoa học
về vũ trụ, gần đây, tháng 7, 1999, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai đã phải tuyên bố:
"Thiên đường chẳng phải ở trên Trời, trên các tầng mây, Thiên đường ở
trong Tâm con người".
Tuy nhiên, Ngài vẫn tự cho rằng mình có
quyền, hoặc Vatican có quyền, "tuyệt thông" tín đồ, nghĩa là quyền khai trừ
tín đồ ra khỏi giáo hội, không cho tín đồ hưởng các "bí tích" trong "hội
Thánh" và lên Thiên đường hiệp thông cùng Chúa. Đối với những tín đồ thấp
kém, nhẹ dạ, cả tin, "tuyệt thông" hay "dứt phép thông công" là một vũ khí
hù dọa hữu hiệu, vì họ đã được nhồi vào đầu từ khi con nhỏ là muốn hiệp
thông với Chúa thì phải đi qua các trung gian như Linh mục, Giám mục, Giáo
hoàng hay "Tòa Thánh". Nhưng đối với giới trí thức, ngay cả trong giáo hội,
thì đó chỉ là một trò cười đáng khinh vì nó vô giá trị, vô nghĩa và lỗi
thời. Thật vậy, trong cuốn Thần Chưa Chết: Từ Sự Sợ Hãi Tôn Giáo Đến Sự
Tự Do Tâm Linh, Linh Mục James Kavanaugh đã vạch rõ cho chúng ta thấy
bản chất và ý nghĩa của "tuyệt thông" như sau:
Tôi thấy khó mà có thể tin được là trong
thời đại kỹ thuật không gian này mà một đoàn thể tôn giáo (Ca-Tô giáo.
TCN) lại có thể quá lỗi thời để tin rằng một hình phạt thuộc loại huyền
thoại như vậy vẫn còn có ý nghĩa gì đối với con người.
...Tuyệt thông, trong nhiều thế kỷ, đã là
vai trò của giới quyền lực đóng vai Thượng đế . Đó là sự chối bỏ sự tự
do suy tư của con người một cách vô nhân đạo và phi-ki-tô. Nhưng nhất là,
nó đã là nỗ lực điên cuồng của một quyền lực, vì quá lo sợ mất đi quyền lực
của mình, nên phải kiểm soát tín đồ thay vì hướng dẫn họ đi tới một tình yêu
thương tự do và trưởng thành.
Tuyệt thông toan tính biến sự thực chứng
tôn giáo thành một trại huấn luyện quân sự trong đó sĩ quan phụ trách nhào
nặn lên những người máy trung thành bằng cách làm chúng ngạt thở bởi giam
hãm và sỉ nhục. Có thể những phương pháp này có nghĩa trong việc huấn luyện
con người để chiến đấu ngoài mặt trận. Những phương pháp này thực là trẻ
con và bất lương khi xử lý với sự liên hệ của con người đối với Thượng đế;
nhưng thật không thể tin được là chúng vẫn còn tồn tại.
2
Họ tin rằng linh mục mà họ thường gọi một
cách sai lầm là cha, cũng là một Chúa khác. Một người học nghề linh mục
trong mấy năm để trở thành một loa phóng thanh cho các "bề trên" mũi lõ mắt
xanh ngồi ở tận Rô-Ma xa xôi là có thể thay Chúa tha tội cho họ, dù chính
bản thân nhiều vị linh mục, về kiến thức cũng như về đạo đức, còn thua và
tội lỗi hơn cả tín đồ. Thật vậy, số linh mục đồng giống luyến ái (gay
priests), nghiện rượu (alcoholic priests), bị bệnh AIDS, phạm tội cưỡng bách
tình dục trẻ em (child abuse) đã lên tới mức độ mà Tòa Thánh không có cách
nào che dấu bằng cách thuyên chuyển họ đi một giáo xứ khác như trước, đành
phải lập ra những ủy ban nghiên cứu để giải quyết vấn đề, cùng gửi họ đi các
trung tâm chữa trị, phí tổn lên đến trên tỷ đô la. Tín đồ Ca-Tô biết rất
ít về các linh mục, giám mục v...v... của họ, họ vẫn tin rằng các "bề trên"
này của họ là cao quý, đạo đức lắm. Họ không đọc lịch sử các Giáo hoàng, họ
không đọc lịch sử cái mà họ gọi là "Hội Thánh". Đôi khi trong đám tín đồ
cũng có người biết những chuyện động trời của các linh mục nhưng họ không
dám động gì tới họ vì Giáo hội dạy rằng như vậy là mang tội với Chúa. Thật
là tội nghiệp cho họ.
Họ được dạy rằng quyền phán xét các linh
mục là thuộc về Chúa. Do đó, họ không cần để ý đến chuyện Chúa có thể
tha tội cho linh mục của họ, nhưng chính quyền dân sự lại vượt trên quyền
của Chúa, vẫn đưa "Cha cũng như Chúa" của họ vào nhà tù như thường nếu "Cha
cũng như Chúa" của họ phạm những tội hình dân sự.
Nếu kể hết những điều tín đồ Ca-Tô tin thì
quá dài, nên sau đây tôi chỉ luận qua một số tín điều căn bản trong Ca-Tô
Giáo Rô-Ma.
Căn bản những niềm tin chính trong Ca-Tô
Giáo được gói ghém trong bản Kinh Tin Kính của các Tông Đồ (Apostle's Creed)
thường gọi tắt là Kinh Tin Kính, đặt ra khoảng năm 150. Trong thời đại đế
Constantine, qua công đồng Nicene năm 325, kinh này được thêm vào vài đoạn
nâng Giêsu Kitô (Chúa Con) lên cùng hàng với Chúa Cha với những lời có tính
cách mơ hồ, trống rỗng vô nghĩa như "Thần của Thần, ánh sáng của ánh sáng"
(God of God, light of light) v..v.. Kinh này đưa đến một sự mâu thuẫn, bất
đồng ý kiến giữa giáo hội miền Đông và giáo hội miền Tây. Đến thế kỷ thứ 7,
kinh này lại được thay đổi và thêm vào thuyết Chúa Ba Ngôi và nhiều điều
hoang đường nữa, dài hơn kinh Tông đồ và kinh Nicene nhiều. Kinh này có tên
là Kinh Tin Kính Athanasius. Vì kinh này dài và lủng củng nên chẳng có mấy
ai đọc nó. Anh Giáo thường dùng kinh Nicene làm căn bản và Ca-Tô Giáo dùng
kinh Tông đồ làm căn bản. Trong sách Giáo Lý Công Giáo của Việt Nam chỉ có
kinh Tin Kính của Tông đồ chứ không có những kinh Nicene hay Athanasius.
Nguyên văn bản kinh như sau, chúng ta nên
để ý rằng bản kinh bằng tiếng Việt (Sách Giáo Lý Công Giáo, nxb Zieleks,
Texas, 1991, trg. 14) có vài chỗ không đúng với bản kinh bằng tiếng Anh.
Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc
vô cùng
dựng nên trời đất.
Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu KiTô
là con một Đức Chúa Cha cũng là Chúa chúng
tôi,
bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống
thai,
sinh bởi bà Maria đồng trinh,
chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô,
chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết và
táng xác,
xuống ngục tổ tông,
ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại,
lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc
vô cùng;
ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ
sống và kẻ chết.
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần.
Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế
này,
Các Thánh thông công.
Tôi tin phép tha tội.
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.
Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Có vẻ như Kinh Tin Kính tiếng Việt ở trên
pha trộn hai bản văn khác nhau, cũ và mới. Để cho vấn đề được rõ ràng và dễ
bề so sánh, tôi xin đăng nguyên 2 văn bản tiếng Anh như sau. Những phần để
trong dấu ngoặc cong (..) là thuộc bản văn mới trong cuốn Catechism of the
Catholic Church, xuất bản năm 1994, hoặc để thay một từ cũ (có gạch dưới),
hoặc mới thêm vào. Còn những phần trong dấu ngoặc thẳng [..] là trong bản
văn cũ được bỏ đi:
I believe in God the Father Almighty,
maker (creator) of heaven and earth
And in Jesus Christ, his only Son, our Lord
who (He) was conceived by (the power of) the
Holy Spirit,
(and) born of the Virgin Mary;
(Jesus Christ) suffered under Pontitus Pilate,
was crucified, dead (died), and (was) burried;
he descended into hell
(on) the third day he rose again [from the
dead];
he ascended into heaven
and sitteth (is seated) on (at) the right hand
of
[God] the Father [Almighty]
from thence he shall (will) come (again)
to judge the living and the dead.
I believe in the Holy Spirit,
(I believe in) the holy catholic church,
[the communion of saints]
(I believe in) the forgiveness of sins,
(I believe in) the resurrection of the body,
(I believe in) [and the] life everlasting,
Amen.
Bản kinh trên rõ ràng là sản phẩm của
một số người ở vài thế kỷ đầu, không hiểu gì về vũ trụ học, sinh học, di
truyền học, sinh hóa học, cổ sinh vật học, địa chất học, vật lý học hiện đại
v...v..., những môn học mới phát triển trong những thế kỷ gần đây. Ngoài
ra, bản kinh này còn chứa nhiều điều mâu thuẫn, phi lý, hoang đường, chỉ hợp
với những tín đồ đã bị điều kiện hóa, không có khả năng tự mình suy nghĩ.
Chứng minh?
Trước hết, tưởng chúng ta cũng nên biết,
Giám Mục John Shelby Spong đã viết một cuốn khảo luận nhan đề Tại Sao Ki
Tô Giáo Phải Thay Đổi Hoặc Chết trong đó ông đưa ra một nhận định tổng
quát về Kinh Tin Kính:
Những lời trong Kinh Tin Kính của các
Tông đồ, và sau đó được khai triển thành Kinh Tin Kính Nicene, được nặn
ra trong một thế giới quan mà ngày nay không còn hiện hữu. Thật vậy,
thế giới quan này thật là xa lạ đối với thế giới mà tôi đang sống trong đó.
Cách nhận thức thực tại khi những Kinh Tin Kính của Ki Tô Giáo được đề ra
thì nay đã bị xóa sạch bởi sự phát triển hiểu biết của con người.
3
Muốn hiểu tại sao Giám Mục Spong lại nhận
định như trên, chúng ta hãy phân tích những lời kinh này từng câu một trong
ánh sáng của lý trí, của khoa học hiện đại và thực tế.
Kinh mở đầu bằng câu:
"Tôi Tin Kính Đức Chúa Trời..." .
Với sự hiểu biết của con người hiện nay thì
câu trên trở thành vô nghĩa và huyền hoặc, không hợp với thực tế. Tín đồ
Ca-Tô Việt Nam dịch God là Đức Chúa Trời trong khi, như chúng ta đã biết,
God trong Ki Tô Giáo chỉ là một vị Thần của một dân tộc hay một bộ lạc Do
Thái cổ xưa. Mặt khác, người Ca-Tô hiểu rằng Trời là trụ xứ của Thần Ki Tô
(Christian God) như được mô tả trong Thánh Kinh, nghĩa là ở trên các tầng
mây một chút, vì vậy họ thường ngẩng mặt cầu nguyện "Lạy Cha chúng tôi ở
trên Trời". Cũng vì vậy mà họ gọi cái "nhà ở trên trời", nơi Chúa ngự, là
"Thiên đường", đường tiếng Hán có nghĩa là cái nhà. Trong một phần sau, tôi
sẽ trình bày với nhiều chi tiết hơn về cái gọi là "vòm Trời" trong Thánh
Kinh. Ngày nay, cái vòm Trời như được mô tả trong Thánh Kinh đã tan vỡ ra
thành từng mảng trước những khám phá của khoa học về vũ trụ. Khi con người
bắt đầu ý thức được rằng, qua những khám phá của Copernicus và Galileo,
chẳng có vòm Trời nào để cho "Chúa Trời" ngự trên đó mà phán xét, thưởng
phạt con người, thì những nhà bảo vệ tín lý Ki Tô Giáo bèn thay đổi chỗ ở
của "Chúa Trời", sửa lại là "Chúa Trời" không ở "trên đó" (up there) mà ở
"ngoài đó" (out there), hàm ý ở khắp mọi nơi, hi vọng sự thay đổi này sẽ làm
cho con người tin vào "Chúa Trời" hơn. Nhưng, với một vũ trụ được cả thế
giới, kể cả Tòa Thánh Vatican, công nhận là vô biên, thiên hà Andromeda gần
giải ngân hà của chúng ta nhất cũng cách xa chúng ta khoảng 2 triệu năm ánh
sáng, và vũ trụ gồm cả tỷ thiên hà như vậy, có thiên hà cách xa chúng ta cả
13 tỷ năm ánh sáng, mỗi năm ánh sáng là một khoảng cách vào khoảng
9460800000000 cây số (9 ngàn 4 trăm 60 tỷ 8 trăm triệu), thì "Chúa Trời" ngự
ở đâu? Cả "trên đó" và "ngoài đó" đều không có ý nghĩa. Chưa kể là thay đổi
từ "trên đó" thành "ngoài đó" hàm ý bác bỏ một điều tin trong Kinh Tin Kính:
"Sau khi chết Chúa Con lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha". Khoa học tiến
tới đâu thì "Chúa Trời" lui tới đó, và hiện nay "Chúa Trời" đã bị đẩy ra
khỏi "vòm Trời" tưởng tượng của những người viết Thánh Kinh, và rơi vào cõi
hoang tưởng của những người có đầu mà không có óc. Trước khi đi vào chi tiết
vấn đề này, tưởng chúng ta cũng nên tìm hiểu về nguồn gốc đức tin Ca-Tô về
một "Chúa Trời".
Đức tin Ki Tô nói chung, Ca-Tô nói riêng,
bắt nguồn từ một thế giới khác hẳn với thế giới mà chúng ta đang sống hiện
nay. Trong thế giới đó, thế giới của người Do Thái, trí tuệ con người chưa
mở mang. Trong thế kỷ đầu, khi các Phúc Âm trong Tân Ước được viết ra, quan
niệm về thế giới viết trong Cựu Ước chỉ phản ánh sự hiểu biết của người Do
Thái trong thời đó về vũ trụ. Nhưng Ki Tô Giáo cho đó là những lời mạc khải
của "Chúa Trời" nên không thể sai lầm, vì một điều sai lầm trong Thánh Kinh
sẽ đưa tới kết luận là tư cách thần thánh, toàn năng, toàn trí của Chúa
Trời, theo như "giáo hội dạy rằng", chỉ là điều tưởng tượng của những người
khi xưa sùng tín Thần của họ.
Theo Cựu Ước thì vũ trụ gồm có ba tầng:
trái đất mà chúng ta đang sống trên đó thì phẳng và dẹt như một cái đĩa, là
trung tâm của vũ trụ, đứng vững dưới một tầng trời, ở dưới trái đất là tầng
địa ngục. Tầng trời được hiểu là nơi trú ngụ của "Chúa Trời", nơi đây "Chúa
Trời" thường xuyên ngồi xem xét những chuyện của con người và can thiệp vào
những chuyện thế gian. Cho nên, những gì mà trí tuệ con người thời đó chưa
hiểu nổi, thí dụ như thiên tai, bệnh tật, và ngay cả những hiện tượng thiên
nhiên như sấm, sét v..v... đều được coi là những hành động của "Chúa Trời"
(acts of God) để trừng phạt tội lỗi của con người, những vụ được mùa được
coi là ân sủng của "Chúa Trời". Ngày nay, chúng đã biết, và biết rất rõ,
nguyên nhân của những hiện tượng thiên nhiên và có thể tiên đoán khá chính
xác khi nào thiên tai nào xảy ra và ở đâu.
Trải qua 16 thế kỷ, niềm tin tất cả là do
"Chúa Trời" tạo ra đã tạo thành đức tin của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo
nói riêng, ở phương trời Âu Mỹ. Nhưng khi nền văn minh hiện đại bắt đầu ló
dạng vào đầu thế kỷ 16 thì quan niệm về một Thiên Đường nơi đó "Chúa Trời"
ngồi để phán xét những việc thế gian cũng bắt đầu chao đảo và hiện nay thì
trở thành Hoang Đường (cái nhà hoang), ít ra là đối với đa số dân chúng trên
thế giới, nhất là đối với tuyệt đại đa số những người trong giới trí thức
hiểu biết. Muốn chứng minh luận cứ này, chúng ta cần trở lại sự tiến bộ của
nhân loại từ khi cuộc cách mạng khoa học bắt đầu.
Có thể nói rằng cuộc cách mạng tư tưởng của
Tây phương bắt đầu bằng những công cuộc khảo cứu của Nicolaus Copernicus
(1473-1573) khi ông nghiên cứu vũ trụ, khi đó chỉ gồm có mặt trời, trái đất
và trăng sao mà con người nhìn thấy trên trời. Ông đưa ra một nhận định phá
đổ dứt khoát quan niệm về trời mà con người khi đó cho là trụ xứ của "Chúa
Trời". Nhận định của Copernicus có ít người biết đến cho đến khi Galileo
Galilei (1564-1642), dựa trên những tư tưởng của Copernicus và trên những
kết quả quan sát thực nghiệm, xác định lại quan niệm về vũ trụ và vị thế của
trái đất trong vũ trụ. Galilei đi tới kết luận là không phải là mặt trời
quay xung quanh trái đất như đã viết trong Thánh Kinh mà chính là trái đất
quay xung quanh mặt trời. Kết luận này làm thay đổi toàn bộ hệ thống tư
tưởng của con người về vũ trụ, và làm "lạnh xương sống" giới giáo sĩ Ca-Tô
Giáo, những kẻ buôn bán quyền lực (power brokers) thời đó, những kẻ xây dựng
quyền lực trên sự "không thể sai lầm của Thánh Kinh" và trên sự hiểu biết vô
cùng giới hạn của quần chúng Tây phương. Nói rõ hơn, trái đất không còn
được coi như là đứng yên, trung tâm của vũ trụ như là "lời không thể sai
lầm" của "Chúa Trời" trong Thánh Kinh, và vì thực tế là trái đất luôn luôn
di chuyển trong không gian với một vận tốc trên 1 trăm ngàn cây số một giờ,
đồng thời quay xung quanh trục Nam Bắc với vận tốc quay khoảng 1600 cây số
một giờ cho nên không có chỗ nào để cho "Chúa Trời" ngồi yên "trên đó" hay
"ngoài đó" mà can thiệp vào việc hàng ngày của thế gian. Muốn theo dõi sự
việc trên thế gian để mà can thiệp, "Chúa Trời" cũng phải điên đảo, đảo điên
như là trái đất đang điên đảo, đảo điên trong không gian. Cũng vì vậy mà,
như trên đã nói, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai, trước sự tiến bộ của khoa học, đã
phải thú nhận: "Không làm gì có Thiên đường ở trên các tầng mây."
Trên đây là những điều mà hầu như cả thế
giới chấp nhận, kể cả một số trong hàng giáo phẩm Ca-Tô Giáo gồm có Giám
mục, Linh mục và một số trí thức trong chính giáo hội, qua sự phân tích khoa
học, dùng lý trí suy luận để tìm ra sự thực. Đối với đa số tín đồ mà lý trí
được coi như là một xa xỉ phẩm không cần thiết thì vấn đề lại khác hẳn, vì
họ vẫn còn tin theo lời dạy giả dối của giáo hội cho đám tín đồ thấp kém,
rằng "Chúa Trời" toàn năng, hay là "phép tắc vô cùng", làm gì cũng được.
Đây chính là câu tiếp theo trong Kinh Tin Kính mà chúng ta sẽ thảo luận:
"... Là Cha Phép Tắc Vô
Cùng"
"Chúa Trời" bây giờ
được gọi là Cha, nghĩa là giống đực. Tại sao lại là Cha mà không phải là
Mẹ? Căn bản giống đực của "Chúa Trời" dựa vào đâu? Chữ "Cha" trong câu
kinh này chẳng qua chỉ là sản phẩm của những người sống trong thời đại và
địa phương theo chế độ phụ hệ, kỳ thị và coi rẻ phái nữ. Chính chữ "Cha"
này đã được các giáo hội Ki Tô dùng làm căn bản "truyền thống thiêng liêng
của giáo hội" (sacred tradition of the Church) trong suốt 20 thế kỷ nay để
biện minh cho đường lối coi thường và đàn áp phái nữ, kéo dài cho tới tận
ngày nay.
Chúng ta biết rằng, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai
đã ra thông tri quyết định không chấp thuận cho phái nữ làm linh mục với lời
tuyên bố: "Trong Giáo hội Ca-Tô Rô-Ma, đàn bà sẽ không bao giờ được làm
linh mục, vì Giêsu không chọn người đàn bà nào làm tông đồ của Người"
(Women will never be priests in the Roman Catholic Church because Jesus did
not choose any women to be his disciples). Có người hỏi lại rằng: "Thế
Giêsu có chọn một người Ba Lan nào làm tông đồ của Người không? Tại sao một
người Ba Lan như Karol Jozef Wojtyla (tên tục của Giôn Pôn Hai) vẫn
có thể làm linh mục, rồi leo lên làm Giáo hoàng, một địa vị mà "giáo hội dạy
rằng" kế nghiệp Phê-rô, làm đại diện cho Giêsu trên trần?" Có cách nào
trả lời câu hỏi trên cho hợp lý ngoài cách dựa vào một tín điều: "Giáo
hoàng là một bí nhiệm"? "Bí nhiệm" là từ giáo hội thường dùng để
"giải thích" những điều "bí đặc", không thể giải thích được cho nó hợp lý.
Khi giáo hội tuyên bố đó là một bí nhiệm thì con người chỉ có thể hoặc tin
hoặc chối bỏ, không phải là vấn đề để thắc mắc, bàn cãi. Mọi lý luận đều
trở thành vô giá trị, do đó lý trí trở thành thừa thãi.
Nhưng không phải chỉ có chữ "Cha" trong
kinh Tin Kính mang sắc thái coi thường, hạ thấp phụ nữ mà trong cuốn Thánh
Kinh chúng ta cũng thấy đầy những tư tưởng kỳ thị, coi rẻ phụ nữ, coi phụ nữ
như là vật sở hữu của đàn ông, là công dân hạng hai, nhơ nhớp v..v...
Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong Thánh
Kinh. Thánh Phao Lồ phán, 1 Cor. 11: 3:
Nhưng còn điều này tôi muốn nhắc anh
em: Chúa Cứu Thế là chủ của người Nam; Người Nam là chủ của người Nữ;
Thượng đế là chủ của Chúa Cứu Thế (mâu thuẫn với thuyết Chúa Ba Ngôi.
TCN)..
Và trong 1 Timothy 2: 2: 11-12 chúng ta đọc:
Người đàn bà hãy học hỏi trong yên lặng,
với tinh thần tuân phục. Ta không cho phép người đàn bà nào dạy hoặc có
quyền đối với đàn ông, mà phải yên lặng.
Chẳng thế mà một số Thánh nổi tiếng trong
Ca-Tô Giáo Rô-Ma đã đưa ra những nhận định kỳ thị phái nữ, những nhận định
có thể đưa các Ngài vào tù trong thời đại này. Thí dụ, Thánh Augustine
(354-430) (cha đẻ của nền Thần học Ca-Tô và được Ca-Tô Giáo tôn sùng, coi
như là có trí tuệ "siêu việt", tác giả cuốn Đô Thị Của Thần Ki Tô), đã phán:
Người đàn bà, khi xét cùng với chồng, là
hình ảnh của Thiên Chúa Ki Tô .., nhưng khi xét riêng là đàn bà...thì không
phải là hình ảnh của Thiên Chúa nhưng đối với người đàn ông xét riêng, thì
đó là hình ảnh của Thiên Chúa.
4
Thánh Jerome (347-420) thì phán:
Đàn bà là cửa ngõ của quỷ, của đường xấu
xa, cái chích của con bọ cạp, nói tóm lại, là một thứ nguy hiểm.
5
Và Thánh John Chrysostom (347-407) coi đàn
bà còn tai hại hơn là thú dữ:
Trong những thú dữ, không có con
nào gây hại như một người đàn bà.
6
Còn Thánh Anthony (1195-1231) thì coi đàn bà
như là quỷ, là rắn:
Khi các ngươi thấy một người đàn bà, hãy
coi như là các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính là
một con quỷ. Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con rắn.
7
Như vậy, chúng ta đã hiểu tại sao Ruth
Hurmence Green, một phụ nữ đã trưởng thành trong một gia đình Ca-Tô và trong
nền giáo dục Ca-Tô, đã phải viết như sau trong cuốn "Quyển sách của Ruth":
Không có một trang sách nào trong Thánh
Kinh mà không làm tôi bất bình về một phương diện nào đó... Và khi tôi thấy
Thánh Kinh coi thường phụ nữ thường là tôi muốn quẳng nó ra cuối phòng.
Tôi nguyện không bao giờ còn cầm cuốn Thánh Kinh một cách lộ liễu trên tay ở
nơi công cộng. 8
Quý độc giả nào muốn biết rõ hơn về căn bản
kỳ thị, khinh rẻ phụ nữ trong Thánh Kinh, xin đọc cuốn Ki Tô Giáo, Chế Độ
Nam Trị, Và Sự Lạm Dụng: Một Phê Bình Của Phái Nữ (Christianity,
Patriarchy, and Abuse: A Feminist Critique) của Joanne Carlson Brown và
Carole R. Bohn, trong đó có 10 bài tiểu luận về các đề tài xung quanh vấn đề
kỳ thị phụ nữ viết bởi các giáo sư đại học phái nữ. Thật là tội nghiệp cho
những tín đồ phụ nữ trong giáo hội Ca-Tô, vì một lời hứa hẹn hão huyền về
một cái bánh vẽ "cứu rỗi" trên trời mà phải chịu an phận với sự kỳ thị đã
được nuôi dưỡng bởi giáo hội trong suốt 20 thế kỷ.
Giám Mục Spong cũng cho rằng chữ "Cha"
trong kinh Tin Kính đã được dùng trong nhiều ngàn năm để biện minh cho sự
đàn áp phụ nữ của các định chế tôn giáo (Ibid., trang 5): "The word
Father...shouts of the masculinity of the deity, a concept that has been
used for thousands of years to justify the oppression of women by religious
institutions..."
"Phép tắc vô cùng" là dịch sai từ chữ
"Almighty". Vì "phép tắc vô cùng" làm ta liên tưởng đến Tề Thiên Đại Thánh,
đệ tử của Đường Tăng Trần Huyền Trang, theo Thầy đi Thiên Trúc thỉnh Kinh
Phật. Giám mục John Shelby Spong giảng Almighty, theo nghĩa Thần học của
Giáo hội, có nghĩa là Toàn Năng và Toàn Trí (Almighty has been translated
theologically by the Church into such concepts as omnipotence (all-powerful)
and omniscience (all-knowing), nghĩa là "làm gì cũng được", và "cái gì cũng
biết", kể cả quá khứ vị lai. Ngoài hai thuộc tính này, về sau Giáo hội còn
đặt ra một thuộc tính nữa là Toàn Thiện (omnibenevolent) nghĩa là "nhân từ
vô cùng". Ba thuộc tính trên đã là những điều mà các tín đồ Ca-Tô cứ nhắc
lại như những con vẹt mà không chịu tìm hiểu, phân tích để biết ý nghĩa thực
của những từ này là như thế nào. Đó cũng là những điều mà con người trong
thời Trung Cổ ở Âu Châu bắt buộc phải tin, nếu không thì bị tù đầy, tra tấn,
và thiêu sống như lịch sử Ca-Tô Giáo đã chứng minh. Nhưng khi Giáo hội
Ca-Tô mất quyền sinh sát vì sự tiến bộ của nhân loại thì chính ba thuộc tính
trên lại là những vấn nạn quật ngược lại nền Thần học của Giáo hội, vì Giáo
hội không có cách nào giải thích được những mâu thuẫn trong những quan niệm
trên, và nhất là thực tế đã bác bỏ hoàn toàn những quan niệm về Toàn Năng,
Toàn Trí và Toàn Nhân, ba thuộc tính mà Giáo hội đặt ra để gán ép vào Thiên
Chúa Ki Tô.
Để cho vấn đề được rõ ràng, chúng ta hãy
luận về ba thuộc tính trên của Thiên Chúa Ki Tô.
Thứ nhất, chúng ta hãy nhìn vào thực tế
trên cõi đời: từ những em bé mới sinh ra đã bị tật nguyền cho tới những
thiên tai gây ra cảnh tang tóc thiệt hại cho con người; từ những bệnh truyền
nhiễm cho tới những chiến tranh tàn sát hàng triệu người; từ những cuộc
tranh chấp chính trị nhỏ cho tới những cuộc chiến tranh tôn giáo còn đang
tiếp diễn ở Bosnia, Ireland, Palestine; rồi những cảnh trẻ em đang bị chết
đói ở Rwanda, Ethiopia v...v.., chúng ta có thể tin được chăng là có một
Thần Ki Tô "làm gì cũng được" và có lòng “nhân từ vô cùng” được không? Tại
sao những tín đồ Ca-Tô vẫn còn tin vào lòng thương yêu của Thiên Chúa Ki Tô
theo như lời rao giảng của các cán bộ truyền giáo? Bởi vì họ đã được reo
rắc vào trong đầu óc một tâm cảnh ích kỷ, chỉ biết đến mình mà không nghĩ
đến người khác. Họ được dạy rằng những bất hạnh xảy ra cho mình là do ý
Chúa để thử thách, cứ kiên trì tin Chúa, thờ phụng Chúa thì Chúa sẽ cho sống
đời đời tốt đẹp bên Chúa. Nếu có gì may mắn xảy ra cho mình thì đó là do
lòng thương yêu của Chúa, hoặc ân sủng của Chúa ban cho. Chẳng thế mà trong
một tai nạn máy bay, 3 hành khách sống sót trong số 286 người trên chuyến
bay, đã cám ơn Chúa vì Chúa đã thương yêu, cứu họ. Họ không hề để ý đến
chuyện 283 người tử nạn kia sẽ cám ơn ai? Cái tâm cảnh ích kỷ này đi đến độ
cực đoan là những tín đồ tân tòng, ở Việt Nam cũng như ở bất cứ nơi nào trên
thế giới, vui sướng vì tin là mình sẽ được lên Thiên đường ở cùng Chúa, mà
không hề nghĩ đến ông bà tổ tiên hay đồng bào mình bị đày địa ngục vì không
tin Chúa, theo như lời dạy lố bịch, hoang đường, mê tín, xúc phạm đến mọi
tôn giáo khác của Giáo hội. Ngày nay, một số nhà Thần học đã đưa ra vấn đề
"có sự cứu rỗi ngoài giáo hội" (salvation outside the church) nhưng luận
điểm này mang nhiều sắc thái gượng ép vì cho rằng con người ngoài giáo
hội cần đến một sự cứu rỗi không tưởng trong Ki Tô Giáo. Những thực tế
trên cõi đời đã cho chúng ta thấy rõ ràng là Thiên Chúa, nếu có, chẳng phải
là một Thiên Chúa đầy lòng thương yêu nhân loại, vậy thì người hãy thương
lấy người, và vứt bỏ đi những cặp nạng Toàn Năng, Toàn Trí và Toàn Nhân
trong Thần học Ki Tô. Ngày nay những sự việc xảy ra trên khắp thế giới
đã chứng minh rất hùng hồn là chỉ có con người mới giúp được con người.
Trận lụt lớn ở miền Trung Việt Nam vào đầu tháng 11, 1999, nếu không có bàn
tay vô Thần cấp thời và tích cực cứu giúp của chính quyền, quân đội và đồng
bào; và sau đó, không có sự cứu trợ vật chất với tính cách đại qui mô của
các tổ chức tôn giáo như Chùa Từ Đàm, Chùa Từ Hiếu v..v.., với sự hăng say
hoạt động từ thiện của các Tăng, Ni Phật Giáo cùng đồng bào trong nước
v..v.., sự đóng góp của đồng bào hải ngoại v..v... thì những sự đau khổ về
chết chóc, thiệt hại và thiếu thốn vật chất của nạn nhân bão lụt không biết
lên tới mức nào. Đâu có thấy bàn tay cứu giúp của Chúa ở đâu, dù rằng Thánh
Kinh viết rằng Chúa Cha có thể làm mưa bánh mì cho những người đang đói ăn,
và Chúa Con cũng có khả năng biến một ổ bánh mì thành trăm ổ bánh mì. Phải
chăng Chúa chỉ có khả năng làm bánh mì cho dân Do Thái, chứ không có khả
năng thổi cơm hay chế tạo mì gói ăn liền cho dân Việt Nam?
Lịch sử thế giới cũng cho thấy, những người
chết đói ở Somalia, Rwanda, Ethiopia cứ tiếp tục chết đói cho đến khi có
những cơ quan từ thiện quốc tế cứu giúp, dù rằng trong những xứ này có khá
nhiều người tin Chúa. Các nhà bảo vệ tín lý bèn diễn giải rằng, những cơ
quan từ thiện chính là bàn tay cứu giúp của Chúa. Đến khi bị hỏi ngược lại
là trong số những người làm việc thiện có rất nhiều người không theo đạo thờ
Thiên Chúa, không tin là có Thiên Chúa, và nhất là, tại sao Thiên Chúa lại
để cho sinh ra những nạn đói kém hay thiên tai trên thế giới rồi mới đưa bàn
tay ra cứu giúp một phần, vì trước khi cứu giúp đã có nhiều người chết đói
rồi? Câu trả lời có tính cách mạ lỵ đầu óc con người là: những việc Thiên
Chúa làm, con người không thể nào hiểu nổi. Người ta lại hỏi: nếu con người
không hiểu nổi thì tại sao các ông lại cứ tuyên bố là Thiên Chúa muốn thế
này, Thiên Chúa muốn thế nọ, và muốn chúng tôi phải thờ Thiên Chúa của ông?
Câu trả lời để chấm dứt mọi lý luận là: tin thì lên Thiên đường, thắc mắc
thì xuống điạ ngục.
Cách đây khoảng 23 thế kỷ, triết gia
Epicurus đã đặt vấn đề Toàn Năng, và Toàn Thiện như sau:
"Hoặc Thiên Chúa muốn hủy bỏ sự ác, và
không thể
Hoặc Thiên Chúa có thể hủy bỏ nhưng không
muốn
Hoặc Thiên Chúa không thể, và không muốn
Nếu Thiên Chúa muốn, nhưng không thể làm
được, Thiên Chúa bất lực. (nghĩa là không Toàn Năng)
Nếu Thiên Chúa có thể, nhưng không muốn,
Thiên Chúa thật là xấu xa. (nghĩa là không nhân từ)
Nếu Thiên Chúa không thể và cũng không
muốn,
Thiên Chúa vừa bất lực vừa xấu xa.
Nhưng nếu (như họ thường nói) Thiên Chúa có
thể hủy bỏ sự ác
Và Thiên Chúa thật sự muốn như vậy
Tại sao trên cõi đời này lại có sự ác?"
(Either god wants to abolish evil, and cannot;
Or he can, but does not want to;
Or he cannot, and does not want to.
If he wants to, but cannot, he is impotent.
If he can, but does not want to, he is wicked.
If he neither can, nor wants to,
He is both powerless and wicked.
But if (as they say) god can abolish evil,
And god really wants to do it,
Why is there evil in the world?)
Từ xưa tới nay, chưa có ai trả lời được
câu hỏi mà Epicurus đã đặt ra, dù những bộ óc kém cỏi đã phát minh ra chuyện
Thiên Chúa muốn trừng phạt sự xấu xa của con người, những sản phẩm do chính
Thiên Chúa tạo ra theo y như hình ảnh Thiên Chúa và tự khen tác phẩm của
mình là "tuyệt hảo", như được viết trong Cựu Ước, chương Sáng Thế. Tại sao
con người do Thiên Chúa tạo ra một cách tuyệt hảo như trên lại làm ác? Câu
trả lời phi lôgic của các nhà truyền giáo là Thiên Chúa muốn cho con người
tự do, không muốn con người là những người máy. Nhưng nếu Thiên Chúa toàn
năng thì tại sao không thể tạo ra một con người tự do giới hạn, nghĩa là
không thể có cái tự do làm ác mà chỉ có tự do làm thiện mà thôi. Vậy nguồn
gốc của sự xấu ác ở trên đời là ở đâu? ở con người hay ở Thiên Chúa?
Những tín đồ Ki Tô tin vào một Thiên Chúa
toàn năng trong khi họ không hiểu toàn năng là gì. Họ không thể hiểu
được rằng, theo định nghĩa, không làm gì có chuyện toàn năng. Vì toàn năng
nghĩa là có khả năng làm bất cứ điều gì mà con người có thể tưởng tượng
được, thí dụ, làm cho một cặp vợ chồng da đen sinh ra một đứa con da trắng,
làm ra một con rùa có lông, hay con thỏ có sừng, hay một cây mít sinh ra
trái soài v...v.. Có người đã đặt một câu hỏi rất ý nhị về thuộc tính toàn
năng của Thiên Chúa của Ki Tô giáo: " Thiên Chúa có thể tạo ra một
phiến đá nặng đến nỗi chính Thiên Chúa cũng không vác nổi không?" Đây
là một câu hỏi không một nhà thần học Ki Tô nào trả lời nổi, vì trả lời "có"
hoặc "không" đều đương nhiên bác bỏ thuộc tính toàn năng của Thiên Chúa.
Kết luận: thuộc tính toàn năng không thể có. Nếu thuộc tính toàn năng không
thể có thì một vị Thiên Chúa toàn năng cũng không thể nào có. Mặt khác,
toàn năng và toàn trí (cái gì cũng biết) là hai thuộc tính có tính chất loại
trừ hỗ tương (mutual exclusive), nghĩa là có cái này thì không thể có cái
kia, cho nên một vị Thần kiêm cả hai thuộc tính toàn năng và toàn trí là
điều không tưởng. Thật vậy, nếu Thiên Chúa "biết" cái gì sẽ xảy ra trong
tương lai và Thiên Chúa không thể thay đổi được sự việc đó, điều này
rất rõ ràng trước những thực tế và quy luật thiên nhiên ở ngoài đời, thì làm
sao có thể gọi là " Thiên Chúa toàn năng" được? Ngược lại, nếu Thiên
Chúa có khả năng thay đổi sự việc nhưng lại không biết những gì sẽ xảy ra để
mà thay đồi, vậy thì "toàn trí" ở chỗ nào? Nói tóm lại, một vị Thiên Chúa
toàn năng, toàn trí chỉ có trong niềm tin đã được nhồi vào óc từ khi còn
nhỏ của những người không hiểu thế nào là toàn năng, toàn trí.
Sau cùng, đọc Thánh Kinh, nhất là Cựu
Ước, thì không ai có thể chấp nhận Thiên Chúa Ki Tô trong đó là bậc toàn
thiện. Tại sao? Vì Thiên Chúa trong Cựu Ước được mô tả như một vị Thần
tiền hậu bất nhất, lòng đầy thù hận, trí tuệ kém cỏi, ham vật chất, ham
gái, độc ác, vô lương tâm, tàn nhẫn, bất công ..., những thuộc tính hoàn
toàn trái ngược với thiện tâm và lòng nhân từ của con người. Chứng minh?
Trong chương I, tôi đã trích dẫn vài đoạn
trong Cựu Ước chứng tỏ một vài hành động độc ác, bất nhân của Thiên Chúa, ví
dụ như chuyện Thiên Chúa dùng Vua Ai Cập để giáo dục dân Do Thái nhưng rồi
lại gây ra 10 tai họa cho dân Ai Cập, với cao điểm là làm cho tất cả những
đứa con đầu lòng trong mọi gia đình dân Ai Cập chết hết (Exodus 11: 4-6);
khi dân Do Thái chạy ra khỏi Ai Cập thì Thiên Chúa rẽ nước biển ở Hồng hải,
nghĩa là tạo ra một lối thoát khô, để cho dân Do Thái chạy qua, rồi sau đó
lại đóng nước lại làm cho cả toán quân Ai Cập đuổi theo chết đuối hết ở Hồng
Hải (Exodus 15) v.. v.. Ngoài ra chúng ta còn có thể đọc trong Cựu Ước:
Thiên Chúa là một người chinh chiến (Exodus 15:3: The Lord is a man of
war); Thiên Chúa khuyến khích dân Do Thái quật đầu những đứa trẻ dân Edom
vào đá cho chết (Psalm 137: 7-9); Thiên Chúa ra lệnh cho Moses tiêu
diệt dân Midian (Numbers 31: 1,2), quân lính của Moses thiêu rụi mọi thị
trấn của dân Midian, cướp bóc hết của cải, gia súc v...v..., giết chết mọi
đàn ông (Numbers 31: 7) nhưng chừa lại đàn bà và trẻ con. Điều này làm
Moses nổi giận, ra lệnh giết hết đàn bà và trẻ con trai, chỉ chừa lại các
trinh nữ để chia cho Thiên Chúa một phần. Tất cả có 16000 trinh nữ, số
nộp cho Chúa là 32 (Numbers 31: 40) v...v... Thật là khôi hài khi ta
đọc đến những điều răn của Thiên Chúa trong đó có những khoản như: không
được giết người, không được trộm cắp, không được tà dâm, những điều khoản mà
chính Thiên Chúa là người đầu tiên vi phạm. Một Thiên Chúa độc ác, bất nhân
như vậy có đáng để chúng ta tôn kính hay không? khoan nói đến chuyện thờ
phụng.
Đó là về Chúa Cha, và chúng ta nên nhớ
Chúa Cha chỉ có con một là Chúa Con, Giê-su. Thánh Kinh Tân Ước cũng viết
rõ, Chúa Con, Giêsu, được phái xuống trần để dạy con người thi hành luật
của Chúa Cha, những luật mà nếu thi hành trong thời đại này thì sẽ bị cả thế
giới lên án và đưa ra tòa án quốc tế xét xử (Hãy đọc kỹ 4 Phúc Âm Matthew,
Mark, Luke, John và các chương Acts, Corinthians, Revelation v..v.. trong
Tân Ước). Điều đáng nói là đọc kỹ Tân Ước chúng ta thấy trí tuệ, đạo đức
của Chúa Con, Giê-su, cũng chẳng hơn Chúa Cha là bao nhiêu. Những nhận định
này sẽ được chứng minh trong một phần sau.
Như trên tôi đã chứng minh không làm gì có
chuyện toàn năng, nhưng người ta vẫn cứ tin vào một Thiên Chúa toàn năng.
Chỉ cần nhin những sự việc xảy ra xung quanh mình cũng thấy toàn năng là một
thuộc tính tưởng tượng của con người. Toàn năng làm sao mà cho tới bây giờ
trên thế giới vẫn chỉ có khoảng 25% (1.8 tín đồ mọi tông phái Ki Tô trên
tổng số hơn 6 tỷ người trên thế giới) tin ở Thiên Chúa toàn năng? Chuyện
đã quanh quẩn lại trở thành quẩn quanh..
Trên một khía cạnh khác, tin vào Chú Cuội
hay tin vào Táo Quân còn đỡ hơn tin vào một Thiên Chúa toàn năng, vì chưa có
ai nhân danh Chú Cuội hay Táo Quân để giết người hay ép người khác phải tin
vào Chú Cuội hay Táo Quân, trong khi không biết bao nhiêu người đã tin vào
Thiên Chúa và đã nhân danh Thiên Chúa để phạm phải không biết bao nhiêu là
tội ác và gây ra không biết bao nhiêu thảm cảnh cho nhân loại.
Do đó, những quan niệm thuộc loại mê tín
như Thiên Chúa có thể ban phúc, giáng họa cho nhân loại, hoặc làm những phép
lạ để chứng tỏ khả năng thần thánh v...v..., là những quan niệm đã lỗi thời,
không phù hợp với sự hiểu biết của con người ngày nay và những thực tế ở
ngoài đời. Tôi xin lấy một thí dụ trong Thánh Kinh Do Thái - Ki Tô.
Thánh Kinh, Matthew 17: 14-21, viết:
Khi Đức Chúa Giê su và môn đồ đã trở lại
cùng đoàn dân, thì có một người đến gần, quỳ trước mặt Ngài, mà thưa rằng:
"Lạy Chúa, xin Chúa thương đến đứa con trai tôi! Vì nó mắc bệnh phong điên
(Kinh Thánh tiếng Việt dịch sai, Epilepsy là bệnh "động kinh" chứ không phải
là phong điên), phải chịu đau đớn quá, thường bị té vào lửa, và té xuống
nước. Tôi đã đem nó đến cho môn đệ Chúa, nhưng chữa không được." Đức Chúa
đáp rằng: "Hỡi dòng dõi không tin và gian tà kia, ta sẽ ở với các ngươi cho
đến chừng nào? Ta sẽ nhịn nhục các ngươi cho đến khi nào? Hãy đem con đến
đây cho ta." Rồi Đức Chúa Giê su quở trách Qủy, Quỷ liền ra khỏi đứa trẻ,
và từ giờ đó đứa trẻ được lành.
Các môn đồ bèn đến gần Chúa và hỏi riêng
rằng: "Vì cớ gì chúng tôi không đuổi Quỷ ấy được?" Ngài đáp rằng: "Ấy là
tại các ngươi ít đức tin. Vì ta nói thật cùng các ngươi, nếu các ngươi có
đức tin bằng một hạt cải, sẽ khiến núi nầy rằng: Hãy dời đây qua đó, thì nó
liền dời qua, vì không có sự gì mà các ngươi chẳng làm được." Nếu không cầu
nguyện và nhịn ăn, các ngươi không thể đuổi thứ quỷ này được.
Đọc đoạn trên trong Thánh Kinh các tín đồ
Ki Tô chắc hẳn sẽ rất lấy làm sợ và phục tài đuổi quỷ của Chúa Giê su.
Nhưng phân tích kỹ câu trên, và với kiến thức của con người ngày nay, chúng
ta biết được những gì?
Thứ nhất, điều rõ ràng là không có một môn
đồ nào của Chúa tin ở Chúa, không những thế còn hoài nghi khả năng của Chúa,
nên Chúa phải trổ tài chữa bệnh động kinh bằng cách đuổi quỷ ra khỏi đứa bé,
để thuyết phục đám đệ tử phải tin vào khả năng thần thánh làm phép lạ của
Chúa. Chỉ có điều, y học ngày nay đã xác định và chứng minh rằng bệnh động
kinh tuyệt đối không phải là do quỷ ám, mà là do sự nhiễu loạn của hệ thống
thần kinh làm cho con người mất đi một phần hoặc toàn bộ ý thức kiểm soát
những cử động của thân thể vì trong óc thiếu chất acid glutamic, gây nên sự
run rẩy hoặc co quắp thân thể, chân tay. Cho nên, chuyện Chúa chữa khỏi bệnh
động kinh bằng cách đuổi quỷ ám ra khỏi thân thể con người là chuyện hoang
đường, phản ánh trí tuệ của Matthew, người viết Phúc Âm Matthew trong Tân
Ước, trong lãnh vực y học ở một thời đại cách đây 2000 năm, cho rằng bệnh
động kinh là do quỷ ám. Và do lòng sùng bái cá nhân, Matthew muốn thần
thánh hóa Giê-su nên đã đặt ra chuyện Giê-su có khả năng thực hiện phép lạ,
đuổi quỷ ám ra khỏi thân người. Tất cả những "phép lạ" mà những người
viết Tân Ước kể là Chúa Giê-su thực hiện đều thuộc loại bịa đặt này như hàng
trăm học giả trong và ngoài giáo hội đã vạch rõ trong những tác phẩm.nghiên
cứu của họ. Chúng ta không thể trách Matthew được, vì nguyên nhân của
bệnh động kinh, con người mới biết rõ gần đây, trong thế kỷ 20, và ngày nay
các bác sĩ thường chữa bệnh động kinh bằng thuốc hoặc châm cứu để cho hệ
thống thần kinh được ổn dịnh và tìm cách gia tăng lượng acid glutamic trong
óc..
Thứ nhì, trong 2000 năm nay, người tin
Giê-su thì rất nhiều, người cầu nguyện cũng không thiếu, nhưng không có một
ai có đức tin dù chỉ nhỏ bằng hạt cải để có thể đuổi "quỷ ám" ra khỏi người
bị bệnh động kinh, và cũng chưa có ai có khả năng bảo trái núi này dời đi
chỗ khác là nó tự động bò đi chỗ khác. Chừng nào mà các tín đồ Ca-Tô, từ
Giáo Hoàng trở xuống, không bảo được núi dời đi chỗ khác hay "đuổi quỷ ám"
ra khỏi thân người mắc bệnh động kinh, thì họ đừng có hòng lên Thiên đường ở
cùng Chúa, vì theo lời Chúa trong Thánh Kinh thì họ chỉ thuộc dòng dõi không
tin và gian tà, đức tin của họ còn nhỏ hơn hạt cải, chưa đủ mức đòi hỏi của
Chúa nên Chúa đã phải than "Hỡi dòng dõi không tin và gian tà kia, ta sẽ ở
với các ngươi cho đến chừng nào?" Cũng vì vậy mà trong 2000 năm nay
Chúa đã không ngó ngàng gì đến các tín đồ theo Chúa, vì sự thực là chưa ai
có đủ đức tin để thấy được dung nhan Chúa ngồi bên tay phải của Chúa Cha ở
trên Trời, theo như lời dạy của giáo hội. Cho nên, điều mà các tín đồ tin
rằng sẽ được hiệp thông cùng Chúa thật ra chỉ là điều mơ tưởng ước mong dựa
trên những rao giảng sai sự thực. Mà dù tín đồ có đủ đức tin cũng không
thấy Chúa được, vì sự thực là chẳng làm gì có Chúa nào ngồi trên Thiên
đường. Thiếu tá Gagarin, phi hành gia đầu tiên bay trên thượng tầng không
khí xung quanh trái đất, đã nói về trung tâm khoa học không gian của Nga sô:
"Tôi chẳng thấy Thiên Chúa nào ở trên này" (I don't see any God up here).
Một thí dụ khác trong Thánh Kinh, Matthew
8: 28 - 34, cho chúng ta thấy rõ tính tình của Chúa Con trong một câu chuyện
khác, cũng nói về Chúa đuổi quỷ ra khỏi thân người, được tóm tắt như sau:
Có hai người bị quỷ ám gặp Chúa Giê-su
và quỷ trong hai người đó van nài Chúa Giê-su đuổi chúng ra và cho nhập vào
một bày heo. Chúa phán "đi ra", chúng liền nhập vào bầy heo và cả bầy heo
(độ 2000 con, theo Mark 5: 13) rông tuốt xuống sông chết đuối hết. Trẻ con
chăn heo chạy về làng kể chuyện lại cho dân làng nghe, cả làng kéo ra khỏi
làng gặp Chúa Giê-su và...van nài (có nghĩa là đuổi) Ngài hãy đi ra khỏi
vùng đất của họ.
Giê-su là con Chúa Trời, phép tắc vô cùng,
vậy thì chuyện đuổi quỷ ra khỏi thân người, nếu thực sự là có quỷ, là chuyện
dễ dàng. Chúng ta cũng nên nhớ, trong chuyện "đuổi quỷ" ra khỏi người bị
bệnh động kinh, Chúa chỉ đuổi nó ra thân người rồi để cho nó tự do muốn đi
đâu thì đi. Nhưng lần này, thử hỏi, 2000 con heo có tội tình gì mà Giê-su
để cho quỷ nhập vào chúng, rồi bắt chúng nhào xuống sông chết đuối hết? Như
vậy có phải là Giê-su là người không có lòng nhân, đang tâm tàn nhẫn giết cả
một đàn heo vô tội. Mà đàn heo cũng lại là những sản phẩm của chính Chúa
Cha “sáng tạo” ra, vì theo niềm tin Gia Tô thì mọi thứ trên đời này đều là
do Chúa tạo ra cả. Bởi vậy dân làng mới coi Giê-su như là một tên phù
thủy, một kẻ đáng chê trách, đã vô cớ hủy đi một nguồn lợi của dân làng, làm
cho họ tự nhiên mất đi cả một đàn heo tới 2000 con, cho nên họ kéo ra ngoài
làng, chặn đuổi Giê-su đi nơi khác, không dám để cho Giê-su vào làng.
Thánh Kinh có đầy những chuyện chứng tỏ
nhân cách và đạo đức thấp kém của Giê-su như trên, nhưng tín đồ vẫn được dạy
đó là những "phép lạ" mà Giê-su đã làm, và Thánh Kinh là những lời "mạc
khải" của Chúa, không thể nào sai lầm, Giê-su là "Con một của Chúa Cha" được
phái xuống trần để chịu tội thay cho mọi người, do đó, vẫn tin Giê-su là
đấng "Cứu Thế", "phép tắc vô cùng", có khả năng "cứu rỗi" những ai tin vào
Giê-su. Thật là tội nghiệp cho những người trong thời buổi này mà vẫn còn
tin vào những chuyện thuộc loại huyền thoại phản khoa học, đầy mâu thuẫn và
phi lý liên hệ đến nhân vật Giê-su như trên.
Chúng ta chỉ có thể tội nghiệp họ chứ không
thể trách họ, vì chính Giáo Hoàng John Paul II cũng vẫn còn tin là quỷ và
thiên thần có thực, theo như tài liệu của học giả Gia Tô Joseph L Daleiden
sau đây trong cuốn Sự Mê Tín Sau Cùng:
Giáo Hoàng John Paul II tin vào nhiều
điều mê tín mà đối với các tín đồ Gia Tô hiện đại họ cảm thấy ngượng ngùng.
Ngay gần đây trong ba bài dạy giáo dân ông vẫn tin rằng mỗi người đều có ít
nhất là ba thiên thần bảo hộ và thảo luận về những nhiệm vụ khác nhau của
các thiên thần trên Thiên đường. Giáo hoàng hét vào mặt cử tọa: "Hãy coi
chừng bọn quỷ". Ông tin rằng quỷ Satan hiện thân dưới dạng con một con sư
tử, một con rắn, một con rồng, hoặc một con dê có sừng.
9
Nhưng trên đây chỉ là những lời mà Giáo
hoàng đưa ra với một mục đích, mang thiên thần ở trên Thiên đường ra để
khuyến dụ, và mang quỷ ở địa ngục ra để dọa đám giáo dân thấp kém, vì gần
đây, tháng 7, 1999, ông đã tuyên bố rằng chẳng có nơi nào là Thiên đường hay
Địa ngục, tất cả chỉ đều do tâm con người tạo ra mà thôi. Ông biết rõ, các
linh mục không bao giờ giảng những điều có ảnh hưởng đến đức tin của tín đồ,
dù rằng những điều đó do chính những bậc lãnh đạo tôn giáo của họ phát
biểu. Sách lược “ngu dân dễ trị” từ ngàn xưa của Giáo hội là nuôi dưỡng đức
tin của giáo dân bằng cách giữ họ "càng biết ít bao nhiêu càng tốt bấy
nhiêu". Lịch sử đã chứng minh như vậy.
"...Dựng Nên Trời Đất"
Tín đồ Ca-Tô được dạy để tin rằng Thiên
Chúa, alias Chúa Cha, là bậc toàn năng đã tạo dựng nên trời đất và muôn
loài. Niềm tin mù quáng không cần biết đến lý lẽ, không cần hiểu này có tác
dụng đánh đổ mọi lý luận Thần học và mọi bằng chứng khoa học về vũ trụ của
chúng ta ngày nay. Tôi xin lấy một thí dụ:
Trong cuốn "Đối Thoại Với Giáo
Hoàng...", một tác giả, học giả Trần Văn Kha, đã đặt vấn đề "linh hồn"
đại khái như sau, trg. 82-83:
Nếu bảo rằng linh hồn là một thực thể
riêng biệt, không do thân xác sinh ra ra, nên không chết cùng với thân xác,
thì linh hồn ấy ở đâu mà ra? Nếu bảo rằng linh hồn do Chúa sinh ra, chứ
không phải thân xác, thì vị trí của cái linh hồn ấy đối với thân xác là như
thế nào? Sự thông minh, hay ngu dốt, hay tính độc ác của một người là ở
trong đầu óc, nghĩa là ở thân xác, hay ở linh hồn? Nếu bảo là ở thân xác,
thì tại sao Chúa lại đem một linh hồn trong sạch bỏ vào một thân xác ngu
đần, độc ác, rồi lại bắt linh hồn phải chịu trách nhiệm? Nếu bảo là ở linh
hồn, thì lại càng vô lý. Tại sao Chúa lại sinh ra linh hồn tội ác? Chúa có
chịu trách nhiệm về linh hồn do Chúa sáng tạo ra không? Những linh hồn do
Chúa sinh ra đều bình đẳng như nhau, hay có cái tốt , cái xấu, như xe hơi
Nhật, xe hơi Mỹ? Linh hồn có tội gì đâu mà sinh ra ở Phi Châu đói khổ, rồi
bị người da trắng cai trị, bóc lột, đem buôn bán làm nô lệ?
Những linh hồn do Chúa sinh ra, ở đâu
trước khi nhập vào một đứa trẻ sơ sinh? Ở một chỗ nào đó trên Thiên Đàng có
một kho chứa linh hồn? Kho ấy lớn hay nhỏ, hay cần tới đâu thì nới rộng tới
đó?... Nhập vào khi nào? Khi vừa bắt đầu thụ thai, hay khi đứa trẻ lọt lòng
mẹ? v...v...
Đó là những câu hỏi rất trí thức, xoáy
thẳng vào nền Thần học Ki Tô Giáo, nhưng Linh Mục Thiện Cẩm, nhà nghiên cứu
tôn giáo Ca-Tô ở Việt Nam, đã viết trên báo Chính Nghĩa, số 381, để
trả lời như sau:
Chỉ cần một bà lão công giáo nhà quê
cũng có dư khả năng để trả lời những thắc mắc của nhà học giả Trần Văn Kha.
Thật vậy, theo niềm tin Ki Tô Giáo, thì Thiên Chúa là Đấng toàn năng, chính
người đã tạo dựng nên thế giới muôn loài (nghĩa là cả những bão lụt, sấm
sét, thiên tai, động đất, khổng long (đã biến mất sau một thời gian),
rắn rết, hùm beo, vi trùng đủ thứ bệnh v...v.. TCN), vậy thì việc dựng
nên linh hồn cho mỗi con người, đâu có khó khăn gì? (các em nhỏ sơ sinh
bị khuyết tật, bị bệnh chứng Down, bị trì trệ trí óc (mentally retarded),
hay mới sinh ra đã tắt thở v...v... nên cám ơn vị Chúa toàn năng đầy lòng
nhân từ này. TCN).
Rồi, với "lý luận" như trên, Linh mục
Thiện Cẩm hạ một câu: "Như vậy làm sao có thể đối thoại nghiêm chỉnh với
một người như Đức Giáo Hoàng Gioan PhaoLồ II?"
Chắc hẳn Linh Mục Thiện Cẩm cho rằng đầu
óc của Giáo Hoàng cũng như đầu óc của những bà lão công giáo nhà quê, và đối
thoại nghiêm chỉnh là phải chấp nhận niềm tin về "một Thiên Chúa duy nhất,
đấng sáng tạo ra vũ trụ muôn loài" của những bà lão công giáo nhà quê.
Tôi không hi vọng một bà lão công giáo nhà quê nào đọc cuốn sách này, nhưng
nếu Linh mục Thiện Cẩm có đủ can đảm đọc cuốn sách này thì ông sẽ nhận thức
được thực chất của đấng sáng tạo trên, và với hi vọng rất mỏng manh của tôi,
ông có thể thoát ra khỏi được cái ngục tù tư tưởng hay cái lưới vô hình
xiềng xích trí tuệ của ca-Tô Giáo, điều mà hàng triệu tín đồ Ca-Tô đã làm và
còn đang tiếp tục làm trong những quốc gia văn minh tiến bộ ở Âu, Mỹ.
Rất may cho thế giới loài người là không
phải tất cả thiên hạ đều là những "bà lão công giáo nhà quê", do đó trí tuệ
con người hiện nay, tuyệt đại đa số không ở mức trí tuệ của Linh mục Thiện
Cẩm, hay của những “bà lão công giáo nhà quê” cũng vậy. Niềm tin tôn giáo
của Linh mục Thiện Cẩm đã tạo nên một điểm mù trước những tiến bộ về trí tuệ
của con người. Linh mục Thiện Cẩm không biết rằng khoa học ngày nay đã
bác bỏ hoàn toàn quan niệm về một linh hồn trong Ki Tô Giáo, do đó những kẻ
còn có ý định đi kiếm linh hồn cho Chúa là những kẻ sống trong tâm cảnh tối
tăm của thời Trung Cổ. Giám mục Spong cũng đặt vấn đề linh hồn trong Ki
Tô Giáo như sau:
Nếu chỉ có con người có linh hồn, như
Giáo hội đã dạy, thì chúng ta phải biết rõ khi nào nhân loại thành hình và
được Thần ban cho một linh hồn vĩnh cửu. Không có một sự sáng tạo tức thời,
sự ban cho một linh hồn này trở thành một vấn đề lớn. Những sinh vật đi
thẳng đứng có phải là con người không? Hay định nghĩa của con người chỉ
dành riêng cho tình trạng tiến hóa của sinh vật đi thẳng đứng thành con
người? Nếu vậy, ở giai đoạn nào của sự phát triển thành con người? Ngôn
ngữ chỉ xuất hiện trong khoảng từ 35 tới 50 ngàn năm. Nếu các nhà sinh học
không thể xác định tại thời điểm nào sinh vật đi thẳng đứng trở thành con
người, ngoại trừ chỉ có thể nói rằng, tiến trình này trải dài trong khoảng 1
triệu rưỡi năm, vậy các nhà Thần học có dám xác định rõ hơn không?
10
Chúng ta thấy rõ kiến thức của Giám Mục
John Spong khác xa với kiến thức của Linh Mục Thiện Cẩm, hay kiến thức của
những “bà lão Công Giáo nhà quê”, những đầu óc tin rằng việc Chúa "toàn
năng", tuy không hiểu thế nào là toàn năng, tạo cho mỗi người một linh hồn
đâu có khó khăn gì.
Nhưng, theo như nhận định của Giám mục
Spong thì, nếu thuyết Sáng Tạo là một sự thật, và con người được Thiên Chúa
tạo ra tại một thời điểm nào đó, vấn đề mỗi người có một linh hồn có thể tạm
cho là có lý tuy không thể nào chấp nhận được, vì không có tính cách hoàn
toàn thuyết phục. Nhưng điều rõ ràng là con người hiện nay đã tiến hóa dần
dần, trải qua nhiều triệu năm một cách liên tục, từ những sinh thể ban khai,
rồi tới những sinh vật đi thẳng đứng (homo erectus), sau cùng mới tới con
người như chúng ta (homo sapiens), vậy linh hồn của con người được Thiên
Chúa tạo cho vào thời điểm nào, và tạo như thế nào, biết rằng mỗi giây, mỗi
phút, trên thế giới có biết bao đứa trẻ đủ mọi chủng tộc, sắc dân, sinh ra
đời?
Kiến thức con người hiện đại đã bác bỏ
dứt khoát quan niệm về một Thiên Chúa toàn năng, sáng tạo ra muôn loài vì
quan niệm này cực kỳ phi lý trước những bằng chứng không ai có thể phủ bác
của khoa vũ trụ học, sinh học, sinh hóa học v..v.... Giáo hội Ca-Tô cũng
biết rõ như vậy, nhưng một mặt thì Giáo hoàng Gion Pôn Hai chính thức công
nhận thuyết Big Bang, thuyết Tiến Hóa và bác bỏ ngay cả sự hiện hữu của
Thiên đường và Địa Ngục như Giáo hội vẫn thường dạy con chiên, một mặt vẫn
hạn chế tối đa những thông tin thuộc loại này, duy trì sự tối tăm trí thức
của đám tín đồ thấp kém. Để làm gì, nếu không phải để duy trì những quyền
lợi thế tục bằng sự lừa dối quần chúng? Chứng minh?
Cái vũ trụ muôn loài của Ki Tô Giáo là một
vũ trụ trong đó trái đất thì phẳng và dẹt, đứng yên một chỗ và mặt trời thì
quanh xung quanh trái đất như được viết trong Thánh Kinh, những điều mà các
tín đồ Ki Tô thấp kém đều tin rằng không thể sai lầm, vì họ được nhồi vào
đầu từ khi còn nhỏ đó là những lời "mạc khải" của Thần sáng tạo. Dựa theo
những dữ kiện không thể sai lầm trong Thánh Kinh, Tổng Giám Mục James Ussher
ở Ái Nhĩ Lan (Ireland) đã tính rất kỹ và xác quyết rằng Thần Ki Tô đã sáng
tạo ra vũ trụ muôn loài này vào tối ngày thứ Bảy, 22 tháng 10, năm 4004
Trước Thường Lịch (TTL) (Archbishop James Ussher...concluded that God had
made heaven and earth on the evening of Saturday, October 22, 4004 B.C.),
nghĩa là cách đây khoảng hơn 6000 năm. Chỉ có điều, từ nhiều thế kỷ, con
người đã biết quả đất tròn, và không phải là mặt trời quay xung quanh trái
đất mà chính là trái đất quay xung quanh mặt trời. Ngoài ra, khoa học ngày
nay đã xác định tuổi của vũ trụ là khoảng 13.7 tỷ năm, và tuổi của trái đất
là vào khoảng từ 4 tỷ rưỡi đến 5 tỷ năm, và loài người đã có mặt trên địa
cầu cả vài triệu năm, hình thành theo định luật tiến hóa. Do đó, cái vũ trụ
muôn loài của Ki Tô Giáo là cái vũ trụ phản ánh trình độ hiểu biết của những
người viết Cựu Ước cách đây khoảng 3000 năm. Trình độ này như thế nào so
với kiến thức của con người hiện nay? Cả thế giới đều đã rõ, trừ những
tín đồ thuộc loại "bà lão công giáo nhà quê" như Linh mục Thiện Cẩm.
Quyền chọn lựa là quyền tự do của con
người. Chúng ta có thể chấp nhận những sự kiện khoa học về tuổi của trái
đất, hoặc chúng ta có thể tin Thiên Chúa đã tạo ra trái đất, dù rằng ngày
nay chúng ta có 100% bằng chứng là trái đất đã hình thành cách đây hơn 4 tỷ
năm, và 0% bằng chứng về một trái đất có tuổi từ 6 tới 10000 năm. Một cuộc
thăm dò ý kiến của viện Gallup năm 1993 cho biết, 45% dân Mỹ tin ở thuyết
Sáng Tạo, nghĩa là Thiên Chúa sáng tạo ra thế giới này cách đây mới có từ 6
tới 10000 năm. Chẳng cần phải nói chúng ta cũng biết số dân này thuộc những
thành phần nào trong xã hội. Điều này không có nghĩa là chúng ta đối diện
với 45% thuyết Sáng Tạo đúng, và 55% khoa học đúng. Không, như trên đã nói,
chúng ta đối diện với 100% đúng cho khoa học và 0% cho Sáng Tạo, nếu chúng
ta xét đến tổng hợp những kết quả nghiên cứu, đo lường trong vũ trụ học, địa
chất học, hóa học, vật lý học, cổ sinh vật học, sinh học đưa đến việc xác
định tuổi của trái đất. 100% là kết quả của lý trí, và 0% là sản phẩm của
đức tin. Thật là thú vị khi chúng ta so sánh hai con số trên: nếu chúng ta
biểu diễn tuổi thực của trái đất, thí dụ 4 tỷ rưỡi năm, bằng một đoạn giây
dài 150 thước (m), thì tuổi của trái đất trong Thánh Kinh, 10000 năm, chỉ
mỏng bằng một tờ giấy. Trong đức tin, phạm vi hiểu biết chỉ bằng bề dày
của một tờ giấy; ngoài đức tin, kiến thức con người trải dài 150 m.
Đối với giới trí thức, Giáo Hoàng Gion
Pôn Hai đã chính thức công nhận thuyết Big Bang, nguồn gốc của vũ trụ, và
thuyết tiến hóa, nguồn gốc của loài người, nghĩa là chôn vùi thuyết sáng tạo
trong đáy hầm Thần học của Vatican. Nhưng đối với quần chúng tín đồ
thấp kém, giáo hội vẫn duy trì thuyết sáng tạo. Tại sao? Vì toàn bộ tín
ngưỡng Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo nói riêng được xây dựng trên huyền
thoại sáng tạo, huyền thoại sa ngã của Adam và Eve tạo thành tội tổ tông, và
vai trò chuộc tội và cứu rỗi của Giê su. Nếu tuyên bố thuyết sáng tạo vô
nghĩa thì cả một hệ thống tín ngưỡng Ki Tô phải sụp đổ. Không có giáo hội
Ki Tô nào muốn như vậy cho nên vẫn cố gắng duy trì sự tối tăm trí thức của
quần chúng tín đồ thấp kém được chừng nào hay chừng đó.
Thật vậy, trong cuốn Những chuyện Hư Cấu
Trong Thánh Kinh, G. W. Foote đã đưa ra một nhận xét:
Trong mọi quốc gia theo Ki Tô Giáo, quần
chúng được dạy từ khi còn là trẻ thơ, rằng Thần Ki Tô đã tạo dựng nên vũ trụ
trong 6 ngày rồi nghỉ ngày thứ bảy. Tuy vậy, mọi sinh viên đều rõ là
điều này hiển nhiên sai lầm, mọi khoa học gia đều coi điều này là vô nghĩa,
và giới giáo sĩ có học cũng bắt đầu diễn giảng điều này khác đi. Nhưng
họ phải duy trì chuyện sáng tạo trong một nghĩa này hay nghĩa khác, vì hai
lý do rất quan trọng. Thứ nhất, thuyết sáng tạo đứng ngay ở ngưỡng cửa của
Thánh Kinh, và nếu thuyết này chỉ là một chuyện giả tưởng thì nó sẽ không
tránh được sự bác bỏ mọi điều sau đó trong Thánh Kinh. Thứ nhì, chuyện
sáng tạo dính liền với chuyện con người sa ngã trong Thánh Kinh. Cả hai
chuyện cùng sống hay cùng chết với nhau. Nếu chuyện con người sa ngã được
coi như là một huyền thoại (như ông Đỗ Mạnh Tri đã khẳng định trong cuốn
Ngón Tay và Mặt Trăng. TCN), thì Ki Tô Giáo sẽ trở thành cái gì? Kế
hoạch cứu rỗi của Ki Tô Giáo không thể hiểu được nếu không dựa trên tiền đề
là con người sa ngã. Không có sự sa ngã, và sự hiện thân của Chúa, chuyện
Chúa bị đóng đinh trên thập giá, và chuyện Chúa sống lại là những quan niệm
sai lầm vĩ đại.
Như chúng tôi sẽ trình bày sau đây,
chuyện sáng tạo thật là không rõ ràng, tự mâu thuẫn và vô nghĩa.11
Trong một đoạn trước, tôi đã viết về quan
niệm "trời" của những tín đồ Ca-Tô, một quan niệm của những người không hiểu
gì hết về sự sinh ra và cấu trúc của vũ trụ mà chúng ta biết ngày nay. Ngay
cả Thánh Augustine, một bộ óc được coi là sáng giá nhất của Ca-Tô giáo, cũng
không quan niệm nổi một trái đất có dạng của một quả cầu. Chúng ta cũng nên
nhớ rằng bản Kinh Tin Kính này được viết ra từ khoảng năm 150, khi đó trí
tuệ của những người viết bản Kinh Tin Kính này còn thuộc loại man khai.
Cũng vì vậy mà bàn về câu "..dựng nên trời đất" trong Kinh Tín Kính, Giám
mục John Shelby Spong đã đặt vấn đề như sau:
Trời là cái gì? Đâu là trời? Điều rõ
ràng là trong cái thế giới cổ xưa này, trời mà Thần Ki Tô dựng nên được nghĩ
là nơi ăn chốn ở của Thần, và nó ở trên quá vòm trời. Nhưng chúng ta trong
thế hệ này biết rõ rằng vòm trời không phải là mái của thế giới mà cũng
chẳng phải sàn nhà của cõi trời. Vậy chúng ta muốn nói gì khi chúng ta
khẳng định là Thần Ki Tô toàn năng toàn trí đã dựng nên trời? Phải chăng
chúng ta muốn nói đến một vũ trụ vô biên mà trong thời Thánh Kinh được viết
ra, không một người nào hiểu gì về cái vũ trụ đó như thế nào?
12
Với trình độ hiểu biết của con người hiện
đại, câu "..dựng nên trời đất" trong Kinh Tin Kính đã trở thành cái hí
trường (Colosseum) khi xưa của thành Rô-Ma, chỉ còn lại vài cột chống siêu
vẹo và những đống gạch ngổn ngang, để cho du khách thấy rõ sự tàn lụi của đế
quốc Rô-Ma, cũng như sự suy sụp của nền Thần học Ki Tô Giáo trong thời đại
của lý trí và khoa học.
Chúng ta hãy đọc tiếp Kinh Tin Kính:
"Tôi Tin Kính Đức Chúa Giêsu Là Con Một
Đức Chúa Cha Cũng Là Chúa Chúng Tôi, Bởi Phép Đức Chúa Thánh Thần Mà Người
Xuống Thai, Sinh Bởi Bà Maria Đồng trinh"
Phần đầu của câu trên: "Tôi tin kính Đức
Chúa Giê-su Ki-Tô" ít ra cũng gần với thực tế hơn là tin vào một Thiên Chúa
toàn năng, sáng tạo ra vũ trụ muôn loài. Vì chúng ta có thể chấp nhận sự
hiện hữu của Giê-su như là một nhân vật lịch sử, đã sống tại một địa phương
và trong một giai đoạn lịch sử mà chúng ta có thể kiểm chứng. Tuy có nhiều
thuyết đặt vấn đề về sự hiện hữu thực sự của Giê-su, nhưng ngày nay, hầu hết
các học giả nghiên cứu về Ki Tô Giáo đều chấp nhận sự kiện Giê-su là một
nhân vật lịch sử có thật. Tuy nhiên, hầu như không có mấy người chấp nhận
những huyền thoại về Giê-su được viết trong các Phúc Âm. Tôi sẽ lần lượt
phân tích những huyền thoại này qua Kinh Tin Kính. Nhưng trước hết, chúng
ta hãy tìm hiểu chút ít về nhân vật Giê-su trong Ki Tô Giáo.
Các tín đồ Ca-Tô nói riêng, Ki Tô nói
chung, đều tin và chấp nhận rằng Giê-su là Chúa của họ và là hiện thân của
Thần Ki Tô. Điều này thể hiện trong câu "..là con một Đức Chúa Cha và cũng
là Chúa chúng tôi" trong Kinh Tin Kính. Niềm tin này được cấy vào đầu óc
tín đồ ngay từ khi còn nhỏ, khi thân xác và trí tuệ chưa phát triển, cho nên
khi lớn lên họ khó có thể thay đổi được niềm tin này. Vì lối giáo dục đặc
biệt của Ca-Tô giáo, trong gia đình cũng như trong nhà thờ, đặt nặng vấn đề
tin và tuân phục, nên các tín đồ thường ít có khả năng suy nghĩ và thường
chỉ biết những gì họ được nghe các Linh mục giảng trong nhà thờ. Họ được
nhồi vào đầu ý tưởng là bất cứ cái gì trái với những điều "giáo hội dạy
rằng" đều là do những người ganh ghét chống cái đạo thiên khải cao quý của
họ. Ở ngoài đời, họ có thể theo kịp kiến thức của bất cứ bộ môn nào trừ
những kiến thức thực sự về tôn giáo của họ. Cho nên, Mục sư Ernie Bringas
đã cho rằng, về phương diện tôn giáo, đầu óc của họ có một khuyết tật "lỗi
thời" (an astrolabe mind). Astrolabe nguyên là một dụng cụ định hướng cho
tàu bè cho tới thế kỷ 17. Từ thế kỷ 18, với sự phát triển của kỹ thuật mới,
dụng cụ này đã được xếp vào bảo tàng viện vì thiếu chính xác và đã trở thành
lỗi thời. Mục sư Bringas dùng từ này để mô tả đầu óc của những tín đồ Ki Tô
vẫn giữ những niềm tin sai trái và lỗi thời trong Ki Tô Giáo, bất kể đến sự
tiến bộ trí thức của nhân loại trong những thế kỷ gần đây. Tôi dịch thoát
là khuyết tật vì nó đúng là một cái tật mà đa số tín đồ Gia Tô mang trong
đầu từ khi còn nằm trong nôi, cái tật không chấp nhận bất cứ điều nào không
hợp với đức tin của họ, bất kể là những khám phá mới về tôn giáo của họ
trong ánh sáng của phương pháp phân tích hiện đại, của lý trí và khoa học,
đã chứng tỏ rằng đức tin của họ không đặt trên những căn bản có tính cách
thuyết phục dựa trên sự thực. Sự hiểu biết của họ về Giê-su thật là nghèo
nàn, không thay đổi suốt 2000 năm nay, dù nhân loại đã tiến bộ rất nhiều,
nhất là về những kiến thức về chính nhân vật Giê-su.
Thật vậy, trong cuốn Ai Là Giê-su?,
học giả Ki Tô Colin Cross viết như sau trong phần dẫn nhập:
Nhìn từ xa và xét về toàn thể, Giê-su ở
Nazareth có vẻ như là một nhân vật lịch sử hiển nhiên. Nhưng khảo xát kỹ
về bất cứ chi tiết nào cũng làm cho hình ảnh này mờ nhòa. Lý do về sự bất
minh này thật là hết sức đơn giản. Đó là chúng ta không có bất cứ một tài
liệu nào, thuộc bất cứ lãnh vực nào, về phần lớn cuộc đời của ông. Ông ta
không viết một cuốn sách nào. Ngay cả hình dáng của ông ra sao cũng không
ai biết. Không có ngay cả một bằng chứng nào tự nó có giá trị để chứng tỏ
là ông đã hiện hữu. Những tài liệu hiện hữu, những phúc âm, chỉ viết về một
phần nhỏ nhoi của đời ông và được viết theo quan điểm sùng bái cá nhân và
nghi thức tôn giáo chứ không phải theo quan điểm sử học thông thường. Trong
những chuyện kể trong phúc âm có những điều bất phù hợp nghiêm trọng cũng
như những điều rõ ràng là không thể xảy ra.
13
Và Mục sư Ernie Bringas cũng viết như sau,
trong cuốn Thi Hành Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và
Hiện Tại Do Quyền Lực Thánh Kinh Gây Nên:
Điểm đồng thuận ngày nay là nhân vật
lịch sử Giê-su - những lời Giê su nói và những hành động Giê-su làm, và
những biến cố xảy ra trong cuộc đời của ông - không thể xác định được chính
xác. Trong khi chúng ta biết tác giả của một phúc âm nhìn nhân vật Giêsu
như thế nào như họ đã viết lại (và viết lại như thế nào), thường là chúng ta
không thể đi quá những điều viết trong phúc âm để biết về chính con người
thực của Giê-su. Chúng ta không thể đoan quyết là những lời nào viết trong
phúc âm về cuộc đời của Giê-su là đúng như sự thực.14
Trên đây chỉ là những nhận định tổng quát
về lý lịch mập mờ của Giêsu. Đi vào chi tiết và dựa trên Thánh Kinh, chúng
ta còn thấy rõ ràng là không có một căn bản nào có tính cách thuyết phục để
cho những người có đầu óc có thể tin vào nhân vật Giê su vì trong Thánh Kinh
có quá nhiều điều mâu thuẫn về con người lịch sử Giê su. Những chi tiết về
một phần nhỏ, khoảng 1/10 cuộc đời của Giê-su được mô tả trong bốn Phúc Âm
Matthew, Mark, Luke, và John. Nhưng chính những chi tiết này: khi sinh ra
đời, gia phả, thời gian gần 3 năm đi giảng đạo, khi chết, đều hoàn toàn mâu
thuẫn nhau. Cho nên, chúng ta không thể dựa vào đâu để tin chi tiết nào
thật, chi tiết nào giả. Chúng ta hãy đọc một phần nhỏ sự phân tích sau đây
của Thomas Paine trong cuốn Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason), một
cuốn sách đã giữ một địa vị cao trong nền văn học Tây phương từ thế kỷ 19
đến nay, về nhân vật Giê-su:
Lịch sử Giêsu KiTô được viết trong 4
cuốn mà người ta cho là Matthew, Mark, Luke, và John viết. Chương đầu trong
Matthew bắt đầu bằng gia hệ của Giêsu KiTô, và trong chương 3 của Luke cũng
có gia hệ của Giêsu KiTô. Nếu 2 gia hệ này phù hợp nhau, chúng cũng không
chứng minh được là đúng vì đó có thể là một gia hệ đã được đặt ra; nhưng vì
chúng mâu thuẫn nhau về từng chi tiết một, điều này chứng tỏ một cách tuyệt
đối là chúng đều là giả.
Nếu Matthew đúng thì Luke phải sai; nếu
Luke đúng thì Matthew phải sai; và vì không thể dựa vào đâu để tin ai đúng
hơn ai, cho nên không dựa vào đâu để mà tin ai; và nếu chúng ta không thể
tin được điều đầu tiên mà họ đưa ra, làm sao chúng ta có thể tin được những
điều họ nói về sau? Nếu chúng ta không thể tin họ về gia hệ của Giêsu mà họ
đưa ra, làm sao chúng ta có thể tin được khi họ nói với chúng ta những điều
kỳ lạ như Giê su là con của Thần sinh ra bởi một hồn ma, và một thiên thần
đã bí mật loan báo sự này cho mẹ của Giêsu?
15
Lý lịch không rõ ràng của Giê-su, do đó, là
một lợi điểm để cho Giáo hội khai thác và mê hoặc những tín đồ đầu óc thấp
kém, vì Giáo hội muốn giải thích thế nào cũng được, đặt ra chuyện nào cũng
xong, và với phương pháp nhồi sọ tín đồ ngay từ trong sữa mẹ, uốn nắn đầu óc
để cho tín đồ tuân phục hệ thống quyền lực trong Giáo hội, tín đồ trở thành
những người bị điều kiện hóa, không còn khả năng suy luận, chỉ còn biết tin
theo một cách mù quáng đi đến độ cuồng tín, không hề thắc mắc. Họ đáng
thương hơn là đáng trách.
Những tín đồ này bị nhồi vào đầu những
huyền thoại về tội tổ tông, về tư cách thần thánh của Giê-su, về khả năng
"cứu rỗi" của Giê-su, do đó tin rằng con người sinh ra là có tội, cần sự
"chuộc tội" và "cứu rỗi" của Giê-su, và tin vào những lời hứa hẹn về một đời
sau tốt đẹp hơn ở trên thiên đường, dù rằng từ xưa tới nay chưa có ai từ thế
giới bên kia trở về để cho thế gian biết thực chất của sự cứu rỗi đó như thế
nào, vì sự cứu rỗi này chỉ xảy ra, nếu có, sau khi chết. Giê-su là một
người Do Thái đãỵ chết như mọi người, nhưng được vài tín đồ sùng bái, đơn
phương khẳng định ông là con một của Thần Ki Tô, đã chết đi như mọi người
nhưng rồi sống lại và bay lên trời, sẽ trở lại trần gian để phán xét mọi
người, sống cũng như chết, và những ai tin vào ông sẽ được ông "cứu rỗi",
cho lên Thiên đường ở cùng ông v..v.., một huyền thoại được kể lại với nhiều
chi tiết mâu thuẫn khác nhau bởi những người viết Tân Ước, và lẽ dĩ nhiên
chưa ai có thể kiểm chứng được sự "cứu rỗi" này suốt trong 2000 năm lịch sử
của Ki Tô Giáo. Trái lại, ngày nay các chuyên gia nghiên cứu tôn giáo và cổ
sử trong và ngoài giáo hội đã bác bỏ hoàn toàn những huyền thoại về Giê-su
kể trên, như sẽ được trình bày trong những phần phân tích sau đây.
Điều đáng nói nhất là các tín đồ Ca-Tô được
nhồi sọ từ nhỏ để tin vào Giê-su, người mà họ coi là Chúa "phép tắc vô
cùng", là "tình yêu", là "ơn cứu rỗi" v..v.. trong khi họ không hề biết gì
về Chúa. Họ không hề đọc Thánh Kinh nên không biết rằng, tất cả những điều
họ biết về Giêsu chỉ là những điều họ được cha mẹ, trước đã bị nhồi sọ nay
lại nhồi sọ lại cho con cái, hoặc do các Linh mục giảng trong nhà thờ, phần
lớn là những điều chọn lọc một chiều trong Thánh Kinh mà bỏ qua những điều
phản ánh tư cách và hành động thấp kém, ác độc của Giê-su.
Thật vậy, Giám mục Spong, trong cuốn Hãy
Cứu Cuốn Thánh Kinh Ra Khỏi Phái Bảo Thủ, viết rằng:
Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả
Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả
đạo đức giả.16
Phải chăng Giám mục Spong viết sai sự
thực? Không đâu. Đọc Tân Ước, chúng ta thấy những lời nói và hành động của
Giê-su còn tệ hơn là của một người thường. Chứng minh?
Trong "Bài Giảng Trên Núi" (Sermont on the
Mount), bài giảng mà các tín đồ Ca-Tô thường coi là tuyệt vời, Giê-su dạy
môn đồ "phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho người khủng bố hành hạ các con"
(Matthew 5: 44), nhưng chính Giê-su thì lại hành động ngược lại:
Giê-su phán, Matthew 12: 30:
Kẻ nào không theo ta, ở với ta, là
chống đối ta.
coi những người không tuân phục Giê-su là kẻ
thù và dạy môn đồ, Luke 19:27 :
Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây,
những người không muốn Ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt Ta.
Giê-su dạy: "Người nào nguyền rủa anh em
sẽ bị lửa địa ngục hình phạt" (Matthew 5:22) nhưng chính Giê-su lại đi
nguyền rủa những người không chịu theo Giê-su:
Luke 8: 24: Nếu ngươi không tin
ta là con Thượng Đế, ngươi sẽ chết trong tội lỗi của ngươi.
Matthew 12: 34: Ôi thế hệ của
những loài rắn độc, ác như các ngươi làm sao có thể nói những lời tốt lành?
Matthew 23: 33: Ngươi là loài
rắn, ngươi là thế hệ của những rắn độc, làm sao các ngươi thoát khỏi hỏa
ngục?
Tuyệt đối tin vào Thánh Kinh, Giáo hội
Ca-Tô đã gây nên 9 cuộc Thánh Chiến, kéo dài những Tòa Hình Án (Inquisition)
trong 400 năm, bách hại dân Do Thái trong suốt 2000 năm, làm tiền phong,
đồng hành, hay theo gót thực dân v...v... nhằm tiêu diệt những người không
tin Giê-su, không muốn theo đạo Chúa, với kết quả là cả trăm triệu sinh mạng
vô tội đã được Giáo hội, nhân danh tình yêu của Chúa, nhân danh chương trình
"cứu rỗi" của Chúa, tra tấn, tù đầy và giết chóc.
Nhưng không phải chỉ có vậy. Chúng ta còn
thấy trong Thánh Kinh những lời nói, hành động của Chúa Con chứng tỏ một tâm
địa hẹp hòi, độc ác, chứa đầy hận thù đối với ngay cả chính gia đình mình.
Chứng minh? Chúng ta hãy trích dẫn vài đoạn khác trong Thánh Kinh. Trước
hết, Giê-su đối với cha mẹ ra sao?
Chúng ta thấy trong John 2: 4, Jesus trả
lời mẹ khi bà nói với Jesus là rượu đã hết trong một tiệc cưới:
Người đàn bà kia, sự quan tâm của
bà có liên quan gì tới Ta? Chưa đến lúc Ta trổ tài.
Tài gì? Tài biến nước thành rượu. Đây có
phải là lời lẽ của một người con hiếu kính cha mẹ? Và khi một đệ tử của
Jesus nói, Matthew 8: 21-22:
“Xin để con đi chôn cất cha con xong con
sẽ đi theo Ngài" Jesus trả lời: "Hãy đi theo ta ngay, hãy để cho
người chết (người không đi theo Giêsu. TCN) lo mai táng người chết
của họ.
Phải chăng đây là sự khuyến khích lòng hiếu
kính đối với cha mẹ?
Mục đích của Giê-su sinh ra trên thế gian
là gì, Matthew 10: 34-36 đã viết rõ:
Đừng tưởng rằng Ta xuống trần để mang
lại hòa bình trên trái đất. Ta không xuống đây để mang lại hòa bình mà là
gươm giáo. Vì Ta xuống đây để làm cho con chống lại cha, con gái chống lại
mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng, và kẻ thù của con người ở ngay trong nhà
hắn.
Sau đây là điều kiện Jesus đặt ra cho những
người nào muốn làm môn đồ của ông, Luke 14: 26:
Nếu kẻ nào đến với ta mà không "căm
ghét" cha mẹ, vợ con, anh chị em, và ngay cả đời sống của hắn, thì hắn không
thể là môn đồ của ta.
Theo Gene Kasmar trong cuốn All The
Obscenities in the Bible, p. 359, thì chữ "căm ghét" là dịch từ tiếng Hi
Lạp (Thánh Kinh gốc viết bằng tiếng Hi Lạp) "miseo", có nghĩa là ghét tởm
và khinh khi.
Trên đây tôi vừa trích dẫn vài lời nói
của Giê-su, những lời nói phản ánh một bộ mặt khác của Giê-su mà các tín đồ
thường không bao giờ biết đến. Sau đây là vài hành động của Giê-su cũng
phản ánh "tình yêu" thực sự của Giê-su đối với đồng loại, súc vật và cây cỏ.
Chúng ta biết rằng, trong Matthew 15:26
và Mark 7: 25-29, khi một người đàn bà không phải là người Do Thái đến xin
Giê-su chữa bệnh cho con gái thì Giê-su đã từ chối, nói rằng ông ta xuống
trần chỉ để cứu người Do Thái mà thôi, và còn gọi người đàn bà kia là chó.
Sau người đàn bà chấp nhận thân phận mình là chó để chứng tỏ lòng tin vào
Giê-su nên Giê-su mới chữa cho con gái bà khỏi bệnh. Đó là tình yêu của
Chúa đối với đồng loại.
Từ chuyện này tôi nghĩ, người nào không
phải là dân Do Thái muốn tìm sự cứu rỗi trong Chúa Giê-su xin cứ tùy tiện,
tôi tuyệt đối tôn trọng niềm tin của họ, nhưng trước hết họ phải từ bỏ thân
phận làm người của mình rồi hãy tính chuyện cứu rỗi.
Chúng ta cũng đã biết, trong Matthew: 8:
32, Mark 5: 13, Giê-su đã đuổi quỷ từ trong hai người bị quỷ ám, cho chúng
nhập vào 2000 con heo rồi bắt đàn heo rông xuống biển chết đuối hết. Đó là
tình yêu của Chúa đối với đàn súc vật vô tội.
Và chúng ta cũng biết, trong Matthew: 21:
18,19, hôm đó Giê-su đang đói, nhìn đàng xa thấy một cây sung, nhưng tới gần
chẳng thấy có quả nào, Giê-su bèn nổi sùng rủa một tiếng, thế là cây sung
chết héo queo, không bao giờ có thể ra trái nữa. Đó là tình yêu của Chúa
đối với cây cỏ. Điểm đáng nói trong chuyện này là: Giê-su có tài biến nước
thành rượu, biến một ổ bánh mì thành trăm ổ bánh mì, vậy làm sao ông ta có
thể đói được. Hơn nữa, ông ta “phép tắc vô cùng” nhưng lại không thể làm
cho cây sung ra trái lúc trái mùa để cho mình ăn lúc đói, rồi phải trổ tài
làm "phép lạ" nguyền rủa cho cây sung chết héo không bao giờ ra quả được
nữa.
Lẽ dĩ nhiên, những mâu thuẫn trong lời nói
và hành động của Giê-su như vừa nêu ở trên không bao giờ được giảng dạy
trong nhà thờ.
Quyền tự do tín ngưỡng là quyền của mọi
người. Ai muốn tin vào một Giê-su nhân từ, có khả năng cứu rỗi những người
tin ở sự cứu rỗi, thì cứ việc tin. Tôi tuyệt đối không ngăn cản. Nhưng đối
với tôi, từ những điều tôi đọc được trong Tân Ước về tư cách và đạo đức của
Giê-su, thì Giê-su không đáng để tôi kính trọng, đừng nói là thờ phụng.
Đừng có cho là tôi phỉ báng Chúa. Chính Tân Ước đã phỉ báng Chúa. Và,
không phải vì tôi là người không theo đạo Chúa mới có ý kiến như trên.
Chính Giám mục Spong cũng đã có những ý kiến tương tự (Ibid., trg. 21,24):
Chúng ta có thấy hấp dẫn đối với một
Chúa phải giết cả một bày heo để đuổi một con quỷ ra khỏi thân người hay
không? Chúng ta có nên khâm phục và kính trọng người mà chúng ta gọi là
Chúa đã nguyền rủa một cây sung khi nó không ra trái lúc trái mùa không?...
Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện
với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một vị Thần mà tôi
không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng.17
Các tín đồ ngày ngày đọc Kinh Tin Kính,
tin rằng Giê-su Ki Tô là con một Đức Chúa Cha. Như vậy thì họ là gì của Đức
Chúa Cha, là những đồ chơi của Đức Chúa Cha? Và tại sao họ thường cầu
nguyện một câu hoàn toàn vô nghĩa: "Lạy Cha chúng tôi ở trên Trời", vô nghĩa
vì Chúa Cha chỉ có một con là Giêsu. Vậy họ lấy tư cách gì để mà gọi Chúa
Cha là Cha? Rồi giáo hội dạy họ phải gọi các Linh Mục là Cha, coi Cha cũng
như Chúa, nhưng thực ra Chúa chẳng phải là Cha của họ, chỉ là Cha của Giê-su
mà thôi, cho nên khi họ gọi các Linh Mục là Cha thì đó là gọi bừa, vì Cha
đâu phải là Cha, chẳng qua chỉ là người học vài năm làm nghề Linh Mục để
chăn dắt đám tín đồ thấp kém, nhắc lại cho họ những điều "giáo hội dạy
rằng", và cả Cha lẫn con đều không thấy sự mâu thuẫn trong câu "là con một
Đức Chúa Cha" trong Kinh Tin Kính.
...Bởi Phép Đức Chúa Thánh Thần Mà Người
Xuống Thai, Sinh Bởi Bà Maria Đồng trinh...
Câu trên tóm tắt huyền thoại về sự sinh ra
đời của Giê-su, chủ ý muốn chứng minh tư cách thần thánh của Giê-su. Nhưng
Thánh Kinh lại viết rõ rằng, Giê-su có nhiều anh chị em. Điều này có nghĩa
là bà Mary, thân mẫu của Giê-su, đã sinh nở nhiều lần.
Không đếm xỉa gì tới Thánh Kinh, Giáo hội
Ca Tô quyết định rằng: bà Mary vẫn còn đồng trinh. Theo như lời dạy của
Giáo hội cho đám tín đồ thấp kém, Giáo hội Ca Tô được Thánh Linh hướng dẫn
trong mọi sự việc nên không thể sai lầm. Do đó, các tín đồ, nhất là đa số
tín đồ Việt Nam, vì không bao giờ đọc Thánh Kinh và thường bị nhốt trong
những ốc đảo ngu dốt (từ của LM Trần Tam Tĩnh), nên tuyệt đối tin rằng bà
Mary vẫn còn đồng trinh. Lý trí có thể dùng được gì trong đức tin này? Vì
nếu con người sử dụng đến lý trí thì câu hỏi đầu tiên được đặt ra là: làm
sao mà một người đàn bà, sau khi đã sinh đẻ nhiều lần, vẫn còn đồng trinh?
Từ “Mẹ đồng trinh” (Virgin Mother) là một từ đầy mâu thuẫn đối với thế giới
hiện đại.
Vậy tín lý "đồng trinh" đưa ra chỉ để thần
thánh hóa một người đàn bà ngẫu nhiên làm mẹ của Chúa Giê-su và nhốt tín đồ
vào vòng mê tín. Chưa kể là cái huyền thoại "đồng trinh" này đã được cóp
nhặt từ nhiều huyền thoại "đồng trinh" khác trong dân gian như các chuyên
gia nghiên cứu Thánh Kinh đã chứng minh. Thật vậy, muốn chứng tỏ sự hoang
đường của thuyết Giê-su là con Thiên Chúa, sinh ra từ Mary đồng trinh, chúng
ta cần phải biết chút ít về lịch sử nhân loại và Tân Ước.
Trong lịch sử nhân loại đã có nhiều nhân
vật được coi là sinh ra từ một trinh nữ, Giê-su không phải là nhân vật đầu
tiên. Chúng ta có thể kể: Horus, một vị Thần Ai Cập, sinh ra từ trinh nữ
Isis vào khoảng 1550 TTL; Attis sinh ra từ trinh nữ Nama ở miền Phrygia, vào
khoảng 200 TTL; Quirrnus, một đấng cứu thế của dân La Mã, sinh ra từ một
trinh nữ khoảng thế kỷ 6 TTL; Adonis, một vị Thần của dân Babylone, sinh ra
từ trinh nữ Ishtar; Mithra, một vị Thần của dân Ba Tư, sinh ra từ một trinh
nữ khoảng 600 TTL; Krishna, một vị Thần Ấn độ, sinh ra từ trinh nữ Devaki,
vào khoảng 1200 TTL v...v... Như vậy, huyền thoại Giê-su sinh ra từ Mary
đồng trinh cũng chẳng có gì đặc biệt, độc đáo, và đáng tin cậy hơn các
huyền thoại "đồng trinh" khác.
Trong Tân Ước, những thư của Thánh Paul
(Phaolồ) được coi như là viết sớm nhất, vào khoảng từ 15 đến 20 năm sau khi
Giê-su chết trên thập giá, coi Giê-su như là con đẻ của một Joseph và Mary
(born of a woman). Trong 4 Phúc Âm thì Phúc Âm Mark được coi là viết trước
tiên và viết vào khoảng 20 năm sau Paul, nghĩa là 40 năm sau khi Giê-su
chết, không hề viết gì về chuyện Giê-su sinh ra từ Mary đồng trinh. Phúc Âm
sau cùng, John, viết vào đầu thế kỷ 2, cũng không viết gì về hiện tượng
này. Chỉ có hai Phúc Âm Matthew và Luke, viết sau Phúc Âm Mark cả vài chục
năm, và 90% là cóp nhặt của Mark, là thêm thắt vào chuyện Giêsu sinh ra từ
Maria đồng trinh. Nhưng chuyện "giáng sinh" của Giêsu trong hai Phúc Âm
Matthew và Luke lại hoàn toàn khác nhau và chứa nhiều mâu thuẫn, sự kiện
lịch sử sai lầm v..v.. nên người đọc chẳng biết tin ai vì không có căn bản
nào để mà tin ai là đúng.
Ngoài ra, giáo hội còn dạy đám tín đồ có
đầu óc khuyết tật rằng: Giê-su là đấng cứu thế, thuộc dòng dõi vua David,
theo như lời tiên tri trong Cựu Ước. Và các tín đồ cứ nhắm mắt tin theo,
không hề để tâm suy nghĩ để biết rằng, "sinh ra từ Mary đồng trinh" và "đấng
cứu thế" là hai vai trò không thể cùng lúc diễn xuất trên sân khấu.
Để chứng minh đầu óc của đa số tín đồ
Ca-Tô thuộc loại khuyết tật, không có khả năng suy nghĩ, tôi xin trích dẫn
đoạn sau đây của Đức Ông Trần Văn Khả trong cuốn "Trần Lục", nhiều tác giả,
xuất bản tại Canada, năm 1996. Đức Ông Trần Văn Khả viết về Giê-su như sau,
trang 269:
Trong Kinh cầu Thánh Giuse, chúng ta đọc
như sau: "Ông Thánh Giuse là Cha Nuôi Con Đức Chúa Trời";
Ngay sau đó Đức Ông viết: “Chúa Giêsu là
dòng dõi Vua Đa-vít, mà Thánh Giuse là một thành phần (Matthew 1:16). “
Đó là những lời "giáo hội dạy rằng", và Đức
Ông nhắc lại mà không hề suy nghĩ. Thật vậy, nếu Giuse chỉ là cha nuôi của
Giê-su thì dù cho Giuse thuộc dòng dõi vua David, Giê-su cũng không thể nào
thuộc dòng dõi vua David. Vì sao? Vì Giê-su là hoa trái của sự "xâm phạm
tiết hạnh" của Thánh Ma vào Mary, một người đàn bà Do Thái đã có chồng là
Joseph (Giu-se), nếu chúng ta tin được chuyện Thánh Linh có thể làm cho Mary
mang thai. Vì vậy, Giê-su mới được gọi là Con Thiên Chúa và Giu-se mới được
coi như là cha nuôi của Giê-su. Đã là Con Thiên Chúa thì không thể thuộc
dòng dõi vua David, dù cha nuôi của Giê-su là Giu-se thuộc dòng dõi vua
David. Tôi có cảm tưởng rằng Đức Ông Trần Văn Khả cũng như các tín đồ
Ca-Tô, được Giáo hội dạy sao thì cứ nhắc lại đúng như vậy mà không hề bận
tâm suy nghĩ xem điều mình nói có hợp lý hay không. Nhưng tại sao Giáo hội
lại dạy Giê-su thuộc dòng dõi vua David? Vì, như đã trình bày trong chương
trên, theo niềm tin của dân Do Thái thời bấy giờ, thì một đấng Cứu Thế sẽ
xuất hiện để giải phóng dân Do Thái ra khỏi ách thống trị của La Mã, và đấng
Cứu Thế này bắt buộc phải thuộc dòng dõi Vua David, vì David là một ông Vua
có công chiến thắng dân Canaan, mở mang nước Do Thái. Do đó, vài người Do
Thái theo Giêsu, viết Phúc Âm, vừa muốn chứng minh rằng Giêsu đích thực là
đấng Cứu Thế nên phải thuộc dòng dõi vua David, vừa muốn "chứng minh" rằng
Giêsu là Con Thiên Chúa nên mới đặt ra câu chuyện hoang đường là do Thánh Ma
phủ nên Mary sinh ra Giê-su. Nhưng trí tuệ của những người viết Phúc Âm vào
thời đó chưa đủ trình độ để nhận ra tính loại trừ hỗ tương (mutual
exclusive), nghĩa là có cái này thì không thể có cái kia, về hai vai trò
"Con Thiên Chúa" và "Thuộc dòng dõi vua David". Khoan nói đến chuyện
Matthew và Luke viết về gia phả Giê-su, từ vua David trở xuống, hoàn toàn
khác nhau, với một đàng thì 28 thế hệ, đàng khác thì 42 thế hệ với tên khác
nhau. Vì thế, ngày nay thế giới mới cho rằng tiểu sử của Giê-su là một tiểu
sử bất minh nhất trong những tiểu sử bất minh.
Chuyện Giê-su sinh ra từ Mary đồng trinh
đã là đề tài nghiên cứu của nhiều người, gồm đủ thành phần trí thức trong xã
hội: linh mục, giám mục, nhà thần học, học giả, giáo sư đại học v...v...
Tuy nhiên, chẳng cần phải là những bậc trí thức chuyên gia như trên, chỉ cần
đầu óc có đôi chút suy luận chúng ta cũng có thể thấy sự mâu thuẫn trong
thuyết “Mary đồng trinh” nằm ngay trong Thánh Kinh.
Trước hết, chúng ta hãy xem Thánh Kinh kể
chuyện Giêsu sinh ra từ “Mary đồng trinh” ra sao. Như trên đã nói, trong
Tân Ước chỉ có hai Phúc Âm Matthew và Luke là nói về chuyện này, hai Phúc Âm
này viết sau khi Giê-su chết từ 50 tới 70 năm.
Phúc Âm Matthew (Mã-Thi) kể như sau,
Matthew 1: 18-24, xin đặc biệt chú ý những đoạn chữ đậm:
Sự sinh ra của Giê-su Ki Tô như sau: Sau
khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau,
người ta thấy bà có mang với Thánh Linh.
Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng,
và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn.
Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết
định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng,
“Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng
mang trong bụng là của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai,
ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi.
Việc xảy ra đúng như lời Thần Ki Tô tiên
đoán qua nhà tiên tri:
“Này, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ
một con trai, và họ (they? Ai?) sẽ đặt tên cho hắn là Immanuel”, có nghĩa
là “Thần ở cùng ta”.
Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên
sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa
con đầu lòng, đặt tên là Giê su.
Chúng ta hãy phân tích đoạn trên trong
Thánh Kinh. Phân tích Thánh Kinh với đầu óc tỉnh táo, không mê mẩn, là một
nghệ thuật, vì chúng ta có thể khám phá ra nhiều điều kỳ thú để mà thưởng
thức. Đoạn trên thường được các linh mục viện dẫn và giảng trong nhà thờ là
sự kiện Giê-su sinh ra đời phù hợp với lời tiên tri trong Cựu Ước, Isaiah 7:
14: “Cho nên, chính Thần sẽ cho ngươi một dấu hiệu: Này, một trinh nữ sẽ
mang thai và sinh ra con trai, và đặt tên nó là Immanuel.” (Therefore
the Lord Himself will give you a sign: Behold, the virgin shall conceive and
bear a son, and shall call his name Immanuel.) Nhưng đọc kỹ đoạn kinh trên,
chúng ta thấy rõ ràng Mã-Thi (Matthew) đã xen lẫn thật với giả và để lộ
nhiều sơ hở.
Thật vậy, thứ nhất, chuyện Joseph tốt bụng,
không muốn làm lớn trước công chúng chuyện bụng Mary càng ngày càng to, và
định kín đáo từ hôn không thể thực hiện được trong thời đó, theo luật
của Do Thái. Randel Helms viết trong cuốn Những Chuyện Giả tưởng Trong Phúc
Âm (Gospel Fictions), trang 48: “Có lẽ Matthew không biết là theo luật
Do Thái, điều này (kín đáo từ hôn) không thể nào thực hiện được; việc từ hôn
phải hợp pháp và công khai” (Matthew was perhaps unaware that this (the
marriage contract set aside quietly) was not possible under Jewish law; the
process had to be legal and public.)
Thứ nhì, chuyện thiên sứ hiện ra trong giấc
mộng của Joseph thì chỉ có mình Joseph biết, và Thánh Kinh không hề có chỗ
nào viết là Joseph kể chuyện này cho ai. Matthew viết phúc âm Matthew
khoảng 60 năm sau khi Giê-su chết, có nghĩa là khoảng 90 năm sau khi Giê-su
sinh ra đời. Matthew không thể là một nhân chứng trong giấc mộng của
Joseph. Mặt khác, Matthew không phải là một tông đồ của Giê-su. Kết luận?
Đây chỉ là một chuyện Matthew “bày đặt” ra với mục đích thần thánh hóa người
mình sùng tín: Giê-su, theo niềm tin riêng của mình. Nhưng chính cái chuyện
bày đặt này lại chứng tỏ Matthew không được thông minh cho lắm, vì ông ta
chỉ lấy ra cái đầu còn dấu đi cái đuôi. Ông ta lấy một câu trong Cựu Ước,
Isaiah 7: 14, để chứng minh rằng Giê-su sinh ra đúng như lời tiên tri trong
Cựu Ước. Ông ta biết rằng dân thường thời đó chẳng bao giờ đọc Cựu Ước,
cũng như ngày nay, các linh mục lấy những đoạn trong Thánh Kinh, ngoài toàn
bộ vấn đề (out of context), để giảng cho tín đồ vì biết tín đồ không bao giờ
đọc Thánh Kinh. Thật vậy, câu trong Isaiah 7:14, “Cho nên, chính Thần sẽ
cho ngươi một dấu hiệu: Này, một trinh nữ sẽ mang thai và sinh ra con trai,
và đặt tên nó là Immanuel.” chẳng phải là lời tiên tri chuyện Giê-su ra
đời mà là Isaiah nói ra trong một trường hợp khác hẳn. Đây là trường hợp
vua Ahaz của xứ Judah (Nam Do Thái) đang bị hai kẻ thù, Syria và Israel (Bắc
Do Thái) tấn công. Nhà “tiên tri” Isaiah của xứ Judah thời đó trấn an nhà
vua bằng một lời “tiên tri”, rằng hai kẻ thù kia sẽ bị đánh bại. Khi nào?
Lời “tiên tri” của Isaiah đã nói lên rõ ràng, Isaiah 7: 14-16:
Cho nên, chính Thần sẽ cho ngươi một dấu
hiệu: Này, một một người đàn bà trẻ sẽ mang thai và sinh ra con trai, và đặt
tên nó là Immanuel.
Đứa trẻ đó sẽ ăn bơ và mật cho đến khi
biết bỏ điều ác chọn điều thiện.
Nhưng trước khi đứa trẻ ấy biết bỏ điều
ác, chọn điều thiện, thì đất nước của hai vua mà ngài đang sợ hãi sẽ bị
hoang vu.
Chúng ta thấy ngay sự xảo quyệt của
Matthew trong việc trích dẫn Cựu Ước trên với mục đích truyền bá niềm tin
riêng của mình. Truyền thống này kéo dài trong giáo hội Gia Tô cho tới ngày
nay với những câu thêm thắt, ngụy tạo trong Tân Ước, cùng những lời diễn
giảng cắt xén chọn lọc ngoài toàn bộ vấn đề. Mặt khác, Isaiah thường được
coi như là một nhà đại tiên tri trong Cựu Ước. Nhưng thực ra, Isaiah chỉ
“tiên tri” láo, vì lời “tiên tri” trong Isaiah 7: 14-16 ở trên hoàn toàn sai
với sự thực nếu chúng ta đọc II Sử Ký 28 (2 Chronicles 28) kể chuyện Ahaz xứ
Judah bị hai nước đánh bại thê thảm như sau:
Ahaz được 20 tuổi khi lên ngôi, trị vì
16 năm tại Jerusalem.. Thần Ki Tô phó mặc Ahaz trong tay của vua Syria.
Quân đội Syria đánh bại Ahaz, bắt vô số tù binh giải về Damascus. Thần Ki
Tô cũng phó mặc Ahaz trong tay của vua Israel. Quân đội Israel đánh bại
Ahaz qua một cuộc tàn sát lớn. Vì Pekah, con của Remaliah, đã giết một
trăm hai mươi ngàn (120000) người Judah trong một ngày, tuy họ đều là dũng
sĩ.. Và quân đội Israel cũng bắt đi hai trăm ngàn (200000) tù binh gồm đàn
bà, con trai, con gái, và cướp đi hầu hết của cải và mang về Samaria.
Thứ ba, trong văn bản gốc Thánh Kinh bằng
tiếng Do Thái, Isaiah nói trong Isaiah 7: 14 là “Này, một người đàn bà
trẻ đang mang thai..” (a young woman is with child) chứ không phải là
một trinh nữ sẽ mang thai. Isaiah dùng chữ “almah”, có nghĩa là
“người đàn bà trẻ” (young woman), có chồng hoặc chưa có chồng. Còn
trinh nữ, tiếng Do Thái là “betulah”. Nếu Asaiah muốn nói đến một trinh nữ
thì phải dùng chữ “betulah”. Trong thời điểm mà người Do Thái càng
ngày càng đông ở Hi Lạp, các dịch giả đã dịch chữ “almah” thành “parthenos”
trong tiếng Hi Lạp. Parthenos có nhiều nghĩa, và một trong những nghĩa này
là trinh nữ. Giáo hội đã dựa vào văn bản tiếng Hi Lạp, nhặt câu trên từ Cựu
Ước ra và diễn giảng lệch lạc rằng đó là lời tiên tri về sự sinh ra của
Giê-su tuy sự thực câu trên chẳng liên quan gì đến sự sinh ra của Giê-su,
như tôi vừa chứng minh ở trên.
Thứ tư, nếu chúng ta không dùng đến đầu óc,
cứ giáo hội dạy sao thì tin vậy, và tin rằng thực sự nhà tiên tri Isaiah đã
tiên đoán sự sinh ra của Giê-su từ một trinh nữ, thì tên của đứa trẻ phải là
Immanuel chứ không phải là Jesus.
Thứ năm, câu cuối nói lên một sự kiện rõ
ràng nhất: “Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ,
nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng,
đặt tên là Giê su.” Câu này hàm ý Giê-su chỉ là đứa con đầu lòng của
Mary, Mary còn nhiều đứa con khác nữa. Joseph chỉ không giao hợp với Mary
cho đến khi Mary sinh ra Giê-su. Sau đó thì Joseph tha hồ làm bổn phận
người chồng. Do đó, một đoạn khác trong Thánh Kinh mới kể rằng Giê-su có 4
người em trai và ít nhất là 2 em gái (Mark 6: 3: “Đây có phải là anh thợ
mộc (Giê-su), con bà Mary, anh của James, Joses, Judas, và Simon? Các em
gái của hắn chẳng phải đang có mặt tại đây sao?” (Is this not the
carpenter, the son of Mary, and brother of James, Joses, Judas, and Simon?
And are not his sisters here with us?). Vậy mà Mary vẫn còn đồng trinh cho
tới bây giờ, đầu thế kỷ 21. Học thuật Gia Tô (Catholic scholarship) quả
thật là tuyệt vời trong việc uốn nắn đầu óc tín đồ. Nhưng đối với các học
giả nghiên cứu Thánh Kinh và cổ sử thì câu “Đây có phải là anh thợ mộc, con
bà Mary” lại nói lên một chuyện khác. Theo truyền thống Do Thái thời bấy
giờ thì dân chúng thường gọi một người còn trẻ là con ông này, con ông nọ,
chứ không bao giờ gọi là con của bà này, bà nọ. Gia hệ của Giê-su trong
Matthew và Luke đều kể tên đàn ông qua nhiều đời. Trường hợp gọi một người
là con của bà này, bà nọ là để ám chỉ đứa con đó là đứa con hoang
(bastard).
Thật vậy, trong tuần báo Time, tờ báo có uy
tín và phát hành vào bậc nhất trên thế giới, số ngày 6 tháng 12, 1999, có
bài viết của Reynolds Price, một học giả chuyên gia về Thánh Kinh (biblical
scholar), về Giê-su ở Nazareth: Xưa và Nay (Jesus of Nazareth: Then
and Now). Tác giả viện dẫn Phúc Âm James và viết như sau:
Chuyện người ta cho rằng Giê-su là đứa
con hoang có lẽ uẩn hàm trong câu hỏi của dân làng trong Mark 6, “Đây có
phải là con bà Mary không?” Bị gọi là con của người mẹ, thay vì con của
người cha, thường hàm ý đó là đứa con hoang, hay ít nhất là một dấu chỉ
không biết cha là ai, bất kể người cha này là thần thánh hay là người
thường. Nhiều người chống đối thuyết đồng trinh thời đó cũng cho rằng Mary
có mang Giê-su với một người lính La Mã tên là Panthera. Chuyện sinh ra đời
của Giê-su thật là mù mờ bởi những nghi vấn về người cha là ai.18
Nhiều học giả cho rằng, rất có thể những
chuyện Giêsu sinh ra từ một trinh nữ trong Matthew và Luke được tạo ra để
che đậy những phê bình phân tích về Ki Tô Giáo trong thế kỷ đầu: Giê-su là
một đứa con hoang của Mary. Rải rác trong các Phúc Âm có những chi tiết
chứng tỏ như vậy, nếu chúng ta biết đọc những bản văn này. Cũng vì vậy mà
Giám Mục Spong, trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ
Lại Chuyện Giê-su Sinh Ra Đời, đã đưa ra nhận xét:
Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa
trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời
này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con
hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có
những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những trái mìn chưa kiếm ra và
chưa nổ . 19
Chúng ta nên để ý, trong cuốn Thánh Kinh,
bản Mới Duyệt Lại dùng làm chuẩn (New Revised Standard Version of the
Bible), từ “trinh nữ” (virgin) đã được bỏ đi và thay bằng từ “người đàn bà
trẻ” (young woman) trong câu Isaiah 7: 14, để cho đúng với văn bản gốc bằng
tiếng Do Thái.
Luke 1: 26- 33 cũng thuật lại chuyện sinh
ra của Giê-su như sau:
Qua tháng sáu, Thần Ki Tô sai thiên sứ
Gabriel vào thành Nazareth, xứ Galilee, đến một trinh nữ đã hứa hôn với một
người tên là Joseph, thuộc dòng dõi vua David. Tên người trinh nữ là Mary.
Thiên sứ nói: “Hãy hoan hỉ lên, hỡi
người được đặc ân, Chúa ở cùng nàng, phúc cho người đàn bà như nàng.”
Nhưng khi Mary thấy thiên sứ, không hiểu
thiên sứ nói gì, và những lời chúc tụng kia có nghĩa gì.
Rồi thiên sứ nói với nàng, “Đừng sợ,
Mary, vì Thần đã ban đặc ân cho nàng. Và này, cô sẽ mang thai, và sinh ra
một con trai và đặt tên nó là Giê-su. Đứa trẻ đó sẽ thành vĩ nhân, và sẽ
được gọi là con của đấng tối cao; và Thần sẽ cho hắn ngôi vị của David. Hắn
sẽ cai trị dân Do Thái (hậu duệ của Jacob) mãi mãi, và nước hắn cai trị sẽ
bất diệt.
Sau đó Luke viết một chuyện hoang đường
nhất trong những chuyện hoang đường như sau:
Mấy ngày sau (sau khi thiên sứ đến
thăm), Mary vội vã lên đường, đến một thành phố miền đồi núi xứ Judah, vào
nhà Zacharias thăm bà dì Elizabeth (khi đó Elizabeth đang có mang được 6
tháng. TCN). Vừa nghe Mary chào, thai trong bụng Elizabeth liền nhảy mừng;
và trong Elizabeth có đầy dẫy thánh linh. Rồi bà ta nói lớn: “Phúc cho cô
trong giới phụ nữ, và phúc cho cái thai trong lòng cô . Nhưng tại sao tôi
được ban cái vinh dự là có mẹ Chúa tôi đến thăm? Thật vậy, vừa nghe tiếng
cô chào hỏi là cái thai trong bụng tôi đã nhảy mừng.
Để cho cuốn sách khỏi quá dài, tôi sẽ
không phân tích những đoạn trên trong phúc âm Luke, xin để cho quý độc giả
tùy nghi nhận định. Chẳng biết là Thánh Linh đã làm cho bà Mary mang thai,
hay là cái người giả làm thiên sứ Gabriel làm cho bà Mary mang thai. Ngày
nay, cũng có nhiều thiếu nữ nhẹ dạ, tin rằng ngủ với linh mục cũng như ngủ
với Chúa, vì Chúa cũng như cha. Những đứa con lai trong các vùng đi đạo ở
Việt Nam (theo sự nhận xét của Phạm Duy), nơi đây chỉ có các linh mục, giám
mục mũi lõ mắt xanh chứ không có lính Pháp, dưới thời Pháp thuộc, đã nói lên
sự kiện này. TV Mỹ cũng đưa ra nhiều trường hợp các con chiên kiện các linh
mục về tội dụ dỗ theo luận điệu này. Mặt khác, thiên sứ mới báo tin có vài
ngày mà Elizabeth đã biết là Mary mang Chúa trong người, và cả cái thai mới
được 6 tháng trong Elizabeth cũng biết, nên vội nhảy mừng. Chúng ta nên
nhớ, thời đó chưa có điện thoại mà cũng chưa có điện thư (E-mail) nên Mary
không thể kể cho Elizabeth nghe chuyện thiên sứ đến thăm trước khi đi bộ đến
thăm Elizabeth. Và, từ lúc Mary được thiên sứ đến báo tin sẽ được Thánh
Linh làm cho mang thai đến lúc gặp Elizabeth mới chỉ có mấy ngày thôi.
Thánh Kinh toàn những chuyện như vậy, chẳng trách trước đây giáo hội cấm tín
đồ không được đọc thánh kinh, vi phạm là bị tuyệt thông.
Chúng ta cũng nên để ý rằng, ngày nay các
chuyên gia khảo cứu Thánh Kinh đã chứng minh rằng Matthew và Luke không phải
là môn đồ của Giêsu. Hai Phúc Âm Matthew và Luke được viết ra ít nhất là 5,
70 năm sau khi Giêsu chết. Matthew kể rằng Joseph (Giuse), cha của Giêsu,
được thiên thần báo mộng cho biết về chuyện Mary được Thánh Ma (Holy Ghost)
làm cho mang thai sau khi Mary mang thai được 6 tháng, lẽ dĩ nhiên chuyện
nằm mơ này chỉ có mình Joseph biết. Luke thì kể Mary được thiên thần có tên
hẳn hoi là Gabriel đến báo cho biết sẽ được Thánh Ma làm cho mang thai, và
chuyện này cũng chỉ có mình Mary biết. Cả Matthew và Luke đều không phải là
môn đồ của Giêsu và cũng chẳng ai biết họ là ai, làm sao họ biết được chuyện
mà chỉ có mình Joseph hoặc mình Mary biết. Không lẽ Joseph và Mary kể lại
cho họ nghe? Điều này phi lý vì đọc Thánh Kinh chúng ta thấy rằng thiên
thần Gabriel báo cho Mary biết về ân sủng của Thần cả 6 tháng trước khi một
thiên thần khác báo mộng cho Joseph về chuyện này và khuyên Joseph chấp nhận
"chuyện đã rồi", đừng có làm to chuyện (Thánh Kinh kể Joseph định bỏ Mary về
chuyện "không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian sự thường"
này, và Mary cũng không hề nói cho Joseph biết chuyện được "thiên thần"
Gabriel thăm viếng.) Như vậy làm sao chúng ta có thể tin được những điều
Matthew và Luke viết? Phân tích chi tiết nội dung hai Phúc Âm Matthew và
Luke, các học giả ngày nay, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, đều cho rằng,
mục đích Matthew dựng lên chuyện đồng trinh là để chiêu dụ dân Do Thái tin
theo Giê-su, còn Luke dựng lên chuyện đồng trinh khác với Matthew để chiêu
dụ dân Gentile.
Nhưng đọc kỹ Thánh Kinh chúng ta mới thấy
trí tuệ của tác giả các phúc âm thật là kém cỏi, để lộ nhiều sơ hở và mâu
thuẫn. Thật vậy, trong Luke 2 có một chuyện khác. Nhân ngày lễ vượt qua,
vợ chồng Joseph, Mary và Giê-su, khi đó mới 12 tuổi, cùng đến Jerusalem.
Sau ngày lễ thì hai vợ chồng Joseph thấy biến mất ông con. Tưởng rằng ông
con đã đi cùng bạn bè đi về nhà nên ông bà cũng trở về nhà. Nhưng đi suốt
cả ngày cũng không thấy Giê-su đâu, lúc bấy giờ mới hỏi thăm và đi tìm
Giê-su. Hai ông bà quay trở lại Jerusalem và ba ngày sau thì thấy Giê-su
đang ngồi đối đáp với mấy thầy thông thái trong một đền thờ. Sau đây là
những lời đối đáp giữa bà Mary và ông con Giê-su, trích nguyên văn từ cuốn
Kinh Thánh: Cựu Ước và Tân Ước bằng tiếng Việt của American Bible
Society, New York, 1998, trang 58, Lu-Ca (Luke) 2 : 48 -50:
Khi cha mẹ thấy Ngài, thì lấy làm lạ, và
mẹ hỏi rằng: Hỡi con, sao con làm cho hai ta thế này? Này, cha và mẹ đã khó
nhọc lắm mà tìm con. Ngài thưa rằng: Cha mẹ kiếm tôi làm chi? Há chẳng
biết tôi phải lo việc Cha tôi hay sao? Nhưng hai người không hiểu lời ngài
nói chi hết.
Quý vị có thấy một đứa bé 12 tuổi nào hỗn
hào với cha mẹ như vậy chưa, trừ phi nó là con nhà mất dạy. Trước hết nó ở
lại Jerusalem một mình mà không hề xin phép cha mẹ. Sau đó khi cha mẹ tìm
được nó, trách nó, thì nó lại sẵng giọng cùng cha mẹ và hỏi họ kiếm nó làm
chi? Nhưng câu chót “Nhưng hai người không hiểu lời ngài nói chi hết” đã
chứng minh rằng chuyện thiên sứ Gabriel viếng thăm Mary là chuyện phịa, và
chuyện thiên sứ báo mộng cho Joseph cũng lại là chuyện phịa nốt, vì nếu thực
sự có hai chuyện này thì Joseph và Mary đã biết Giê-su là ân sủng đặc biệt
của Thần Ki Tô, là con của Thánh Linh, mà lại không hiểu Giê-su nói gì khi
Giê-su nói là đang lo việc của Cha, nghĩa là việc của Thần Ki Tô.
Đọc đoạn kinh trên, Uta Ranke-Heinemann, nữ
giáo sư thần học rất có uy tín của nước Đức, người phụ nữ đầu tiên trên thế
giới chiếm được một danh vị (ngôi vị cao được Tòa Thánh công nhận) trong môn
Thần Học Ca-Tô (The first woman in the world who hold a chair of Catholic
Theology) có nhận xét như sau trong cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con:
Trong truyền thuyết về Giê-su ở trong
đền thờ khi mới 12 tuổi, cha mẹ hắn rõ ràng là không hiểu hắn. Khi hắn nói
về Cha hắn ở trên trời, họ không hiểu hắn nói cái gì (Luke 2:50). Điều này
mâu thuẫn với chuyện loan báo (của thiên sứ Gabriel. TCN), và cũng chứng tỏ
rằng Luke đã đan những chiều hướng phát triển truyền thống khác nhau vào với
nhau. Trong những chiều hướng phát triển này, chuyện kể trong đoạn trên
không hề biết gì về chuyện Giê-su sinh ra từ một trinh nữ.
20
Nhận xét trên thật là chính xác, vì Matthew
không phải là môn đồ của Giê-su, chỉ viết lại theo ý mình những điều nghe
người khác truyền tụng. Cho nên chuyện này mâu thuẫn và phủ bác chuyện kia
là chuyện rất thường trong một tác phẩm như vậy.
Chuyện cha mẹ lo lắng cho con là chuyện tự
nhiên, nhưng chuyện “Chúa tôi” đối đáp với cha mẹ như vậy thì quả thật là
đặc biệt, ít ra là không hợp với nền luân lý của Việt Nam. Còn nền luân lý
của Do Thái ra sao thì tôi không biết. Phân tích những lời hỗn hào của
Giê-su đối với mẹ và gia đình trong nhiều trường hợp được viết trong Thánh
Kinh, một số học giả đã cho rằng, đúng là Giê-su có cái mặc cảm của một đứa
con hoang, bị thiên hạ khinh khi đàm tiếu cho nên hận gia đình, hận mẹ, hận
thân phận nghèo khó của mình v..v.. kết thành những thái độ và lời nói với
mẹ và gia đình như vậy. Ngoài ra, các học giả còn cho rằng những lời Giê-su
giảng trong bài Phúc Thật 8 Mối mà các tín đồ Gia Tô Việt Nam khen là “tuyệt
vời” thực ra chỉ nói lên những điều hoang tưởng của Giê-su phát xuất từ
những mặc cảm về thân phận của chính mình, chứ chẳng phải là tôn vinh người
nghèo, vì trước Thần Ki Tô, con người tuyệt đối bình đẳng vì cùng là tạo vật
của Thần.
Sau đây chúng ta hãy duyệt qua kết quả
nghiên cứu về đề tài “Giê-su sinh ra từ một trinh nữ” (virgin birth) của một
số người có tên tuổi trong nền văn học Âu Mỹ.
Trước hết là Thomas Paine trong cuốn Thời
Đại Lý Trí:
Khi người ta bảo tôi rằng, một người đàn
bà tên là Mary đồng trinh mà lại mang thai tuy chưa hề ăn nằm với người đàn
ông nào, và rằng chồng của bà, Joseph, nói rằng có một thiên thần nói với
ông ta như vậy, thì tôi có quyền tin hay là không, trường hợp như vậy cần có
bằng chứng vững chắc hơn là những lời họ nói, nhưng chúng ta cũng lại không
có ngay cả những lời họ nói, vì cả Joseph lẫn Mary đều không viết lại điều
gì, tất cả chỉ là những điều mà những người khác nói là họ nói như vậy - đó
chỉ là những lời đồn đãi trên những lời đồn đãi, và tôi không thể đặt niềm
tin của tôi trên loại bằng chứng như vậy.
Tuy nhiên, chuyện Giêsu là Con Thiên
Chúa cũng chẳng có gì là khó hiểu. Ông ta sinh ra ở một thời mà huyền thoại
dân gian đã làm cho đầu óc con người tin vào một chuyện như vậy. Hầu hết
những nhân vật đặc biệt sinh ra trong huyền thoại dân gian đều được coi như
là con của một vị Thần nào đó. Vào thời đó, tin rằng một người là con của
Thần không phải là điều mới lạ, và rằng Thần ăn nằm với phái nữ là một quan
niệm quen thuộc.
Câu chuyện về thiên thần loan báo cái mà
Giáo hội gọi là Thụ Thai Vô Nhiễm không được nhắc tới trong Phúc Âm Mark và
John; và được Matthew và Luke tả lại khác nhau, nhưng Joseph và Maria lại là
những bằng chứng không thể tin cậy vì chính họ chẳng nói gì mà là những
người khác nói thay cho họ.
Nếu ngày nay có một cô gái mang thai và
nói rằng, ngay cả thề thốt rằng, có một hồn ma làm cô mang thai, và một
thiên thần nói với cô ta như vậy, thì chúng ta có tin cô ta không? Chắc
chắn là không rồi. Vậy tại sao chúng ta lại tin vào cùng một chuyện như vậy
về một cô gái mà chúng ta không hề thấy, chỉ được kể lại bởi những người mà
không ai biết là ai, ở đâu và bao giờ.
21
Bình luận câu ...Bởi Phép Đức Chúa
Thánh Thần Mà Người Xuống Thai, Sinh Bởi Bà Maria Đồng trinh... Giám mục
Spong viết trong cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Chết:
Điều rõ ràng là nếu chúng ta hiểu câu
trên theo nghĩa đen thì nó vi phạm tất cả những gì chúng ta hiểu về sinh
học. Chúng ta đã chẳng biết là mọi chuyện sinh ra từ một trinh nữ - và
trong lịch sử nhân loại có nhiều chuyện như vậy - là những truyền thuyết hay
sao? Đó là con người toan tính đề xuất rằng nhân loại không có khả năng tạo
thành một nhân vật như được mô tả. Mọi chuyện sinh ra từ trinh nữ, kể cả
câu chuyện về Giêsu, như là một sự thực sinh học, đã trở thành hoàn toàn vô
giá trị bởi sự khám phá ra sự hiện hữu của tế bào trứng. Sự khám phá này có
nghĩa là người đàn bà không còn được coi như là vật thụ nhận hạt giống của
đàn ông như là câu chuyện sinh ra từ trinh nữ uẩn hàm. Chúng ta không còn
có thể nói rằng Thần thánh là một ân huệ trong đứa con của người đàn bà mà
không dính dáng gì tới tư cách con người của bà ta. Ngay từ lúc đó, người
đàn bà phải được coi như là đồng sáng tạo, một dự phần viên bình đẳng trong
sự truyền giống. 22
Về chuyện Giê-su sinh ra từ một trinh nữ,
giáo sư Thần Học Ca-Tô Uta Ranke-Heinemann viết như sau:
Sự sinh ra của Giêsu không nói đến một
khái niệm nào về sự truyền giống của con người. Không có sự dự phần nào của
người đàn ông, hoàn toàn không có. Sự tạo nên Giêsu là tác phẩm sáng tạo
đặc biệt của Thần Ki Tô, có thể so sánh với sự sáng tạo ra Adam từ một nắm
đất sét. Tuy nhiên, người đàn bà không phải là một nắm đất sét. Tất cả câu
chuyện về phép lạ sinh ra từ một trinh nữ được dựng lên ở một thời mà không
ai biết gì về cái tế bào trứng của phái nữ. Câu chuyện về sự sinh ra từ một
trinh nữ chỉ có thể nói lên ở một thời mà người đàn bà bị coi như là giữ một
vai trò hoàn toàn thụ động. Cho đến khi tế bào trứng được khám phá ra năm
1827, các nhà Thần học, kể cả Luke và Matthew, nghĩ rằng đàn bà không hơn gì
một chậu đất để trồng hoa mà người đàn ông đặt hạt giống của mình vào và từ
đó sinh ra đứa trẻ. Lối suy nghĩ như vậy bắt nguồn từ quan niệm về sinh học
của Aristotle, coi người đàn bà như là cái bình chứa trống rỗng để gây giống
cho người đàn ông. Người đàn ông làm tất cả trong sự truyền giống....
Do đó, theo cái mẫu cổ xưa này, Matthew
và Luke nghĩ rằng nếu loại bỏ một người cha trên trái đất sinh ra Giêsu thì
chỉ có mình Thần Ki Tô là chủ lực tạo ra Giêsu. Họ không thể nghĩ rằng, để
sinh ra một người, cần phải có hai cộng sự viên đồng đẳng, và dù cho con
người được thay thế bằng Thần, thì Thần cũng không phải là nguyên lý duy
nhất tạo ra con người.
Kể từ khi khám phá ra tế bào trứng của
người đàn bà - và do đó người đàn bà phải dự phần trong việc truyền giống -
ý tưởng truyền thống về chuyện Giê-su sinh ra từ một trinh nữ do hành động
sáng tạo đơn độc của Thần đã trở thành không có cách nào có thể biện minh
cho được.
Do đó, sự vô minh, thiếu hiểu biết, đã
được dùng làm nền tảng cho ý tưởng là Giê-su được sinh ra từ một trinh nữ do
quyền phép của Thánh Linh mà không cần đến giao hợp.
Ngoài ra, chúng ta cần phải xét đến điều
này: Trong trường hợp một trinh nữ thụ thai thì tế bào đầu tiên của cơ thể
Giê-su phải là một tế bào của phái nữ. Và nếu bằng một phép lạ nào đó mà
cái tế bào này phân chia ra mà không cần đến sự tham dự của người đàn ông,
và tiếp tục phân chia để hình thành một con người, thì cái sự thụ thai đồng
trinh này, khi sinh đứa bé ra, bắt buộc phải là một đứa bé gái.
23
Giáo sư Uta Ranke-Heinemann không giải
thích tại sao sự thụ thai dồng trinh chỉ có thể sinh ra một đứa con gái
trong cuốn sách của bà. Có lẽ bà cho rằng độc giả đều cập nhật hóa những
kiến thức ngày nay về sinh học, cho nên không cần giải thích. Tôi không
nghĩ vậy, nhất là đối với những tín đồ Ca-Tô, cho nên tôi xin có vài lời
giải thích để vấn đề thêm rõ ràng.
Khoa học ngày nay đã chứng minh rằng: bộ
đầy đủ “gien” (complete set of genes) của con người, danh từ khoa học gọi là
“genome”, gồm có 23 sắc tố (chromosome) thuộc cha và 23 sắc tố thuộc mẹ, cặp
với nhau thành 23 cặp riêng rẽ sắc tố. Các khoa học gia đã xếp các cặp sắc
tố này từ cỡ lớn nhất (số 1) cho tới cỡ nhỏ nhất (số 22), còn cặp sắc tố sau
cùng chính là cặp “sắc tố định giống” (sex chromosome) gồm có: 2 sắc tố X
trong cơ thể của đàn bà, và 1 sắc tố X và 1 sắc tố Y nhỏ hơn trong cơ thể
của người đàn ông. Về kích thước thì sắc tố X vào khoảng giữa hai cặp sắc
tố 7 và 8, còn sắc tố Y thì nhỏ nhất. Chính cặp sắc tố sau cùng này sẽ
quyết định đứa bé sinh ra là con trai hay con gái, tóc vàng hay tóc đen, mắt
nâu hay mắt xanh v..v..
Cơ thể con người có vào khoảng 100 ngàn tỷ
(Trillion) tế bào (cell). Trong mỗi tế bào có một nhân (nucleus). Trong
nhân tế bào có 2 bộ đầy đủ genome: một bộ genome của người cha và một bộ
genome của người mẹ. Mỗi bộ genome có vào khoảng từ 60000 đến 80000 “gien”
(Genes).
Như trên đã nói, cặp sắc tố quyết định
giống của đàn bà là 2 sắc tố X (X,X), và của đàn ông là 1 X và 1 Y (X,Y).
Trong quá trình truyền giống, nếu sắc tố X của đàn ông kết hợp với sắc tố X
của người đàn bà thì đứa trẻ sinh ra sẽ là con gái. Còn nếu sắc tố Y của
người đàn ông kết hợp với sắc tố X của người đàn bà thì đứa trẻ sinh ra sẽ
là con trai. Do đó, một mình Mary, nếu thực sự thụ thai mà không do giao
hợp với đàn ông và không có tinh khí của đàn ông thì không thể nào sinh ra
con trai được.
Đến đây tưởng chúng ta cũng nên biết một
chuyện: năm 1995, tại một làng bên Ý, hàng ngàn người kéo đến xem bức tượng
Mary khóc ra máu. Hiện tượng này được giới “chăn chiên” giải thích là Đức
Mẹ quá thương xót thế gian tội lỗi (phần lớn thuộc 7 núi tội lỗi của giáo
hội Ca-Tô. TCN) nên khóc đến chảy máu mắt. Các tín đồ cũng đều tin vậy, và
càng sùng tín thêm lòng thương yêu bao la của Đức Mẹ, không buồn để ý đến
chuyện Mẹ là mẹ của Chúa “quyền phép vô cùng” mà cũng bất lực trước những sự
đau khổ của con người, chỉ biết khóc thôi. Nhưng chuyện đáng nói nhất ở đây
là người ta đã lấy máu mắt này mang đi thử DNA và khám phá ra rằng máu đó là
của đàn ông, không thể là của đàn bà, vì chứa những sắc tố X và Y (của đàn
ông) chứ không phải là X và X (của đàn bà). (Gospel Truth, p. 35: ..as
recently as 1995, a statue of the Virgin “weeping tears of blood” drew
thousands to a village in Italy, despite DNA analysis that proved the blood
to be from a man). Người ta đã làm đủ trò để nhốt tín đồ vào trong vòng mê
tín, thật là đáng buồn, nhưng khoa học đã làm bớt đi phần nào mê tín..
Học giả Gia Tô Michael Martin, Giáo sư
Triết đại học Boston, viết trong cuốn Bản Án Chống Ki Tô Giáo như sau:
Có bằng chứng lịch sử nào về chuyện
Giê-su sinh ra từ một nữ trinh? Trong bốn phúc âm thì chỉ có hai là kể
chuyện này với hai nội dung tường thuật khác nhau. Như tôi đã ghi ở trên,
trong Matthew, tin về sự sinh ra của Giê-su được báo cho Joseph trong một
giấc mộng; trong Luke, thiên sứ Gabriel nói thẳng cho Mary biết. Hơn nữa,
Matthew cho rằng khi Giê-su sinh ra thì cha mẹ ông ta sống ở Bethlehem và họ
rời Bethlehem khi vua Herod tìm giết Giê-su.. Tuy nhiên, trong Luke, cha mẹ
Giê-su lại đi từ nhà ở Nazareth tới Bethlehem vì một cuộc kiểm tra dân số
của chính quyền La Mã..
Đúng vậy, nếu có hai chuyện loan báo
khác nhau về Giê-su sinh ra đời thì ít ra là một trong hai phúc âm trên phải
kể cả hai chuyện này. Ngoài ra, vì cách loan báo cho Joseph và Mary khác
hẳn nhau - bởi một thiên sứ và trong một giấc mộng - những sự loan báo trên
không có gì để chứng thực bởi bất cứ ai khác ngoài Mary và Joseph. Trong
trường hợp thiên sứ Gabriel đến loan báo cùng Mary, không có một nhân chứng
nào ngoài Mary. Trong trường hợp Joseph nằm mơ thì không thể có một nhân
chứng nào khác ngoài người nằm mơ. Như vậy, chúng ta không có một nhân
chứng nào để xác định những chuyện loan báo siêu nhiên kia là thực..
Ngoài tất cả những mâu thuẫn, những
điều không đúng với lịch sử, và những điều không thật rất hiển nhiên trong 2
phúc âm Matthew và Luke, cả Mark và John đều không viết gì về sự sinh ra của
Giê-su. Điều này thật là lạ lùng nếu ta cho rằng giáo điều “Mary đồng
trinh” đã được những tín đồ Ki Tô thuở sơ khai biết đến một cách rộng rãi.
Nhất là, tại sao Mark, người viết phúc âm đầu tiên, không nói gì về giáo lý
đồng trinh này nếu giáo lý đó được biết đến một cách rộng rãi vào cuối thế
kỷ đầu tiên? Còn nữa, tại sao John, người viết phúc âm sau cùng cũng không
nói gì về hiện tượng Giê-su sinh ra từ một trinh nữ nếu điều này mọi người
đều biết? Lời giải thích hợp lý nhất là Mark và John đều không cho rằng
chuyện đó là thật về đời Giê-su. Điều này chắc chắn là làm cho giá trị tính
chất xác thực của thuyết đồng trinh giảm đi nhiều.
24
Qua những tài liệu trên, tất cả đều là kết
quả nghiên cứu của một số lãnh đạo tinh thần trong Ki Tô Giáo, hoặc của các
giáo sư đại học, học giả Ki Tô, chúng ta thấy rằng, huyền thoại Giê-su sinh
ra từ một trinh nữ, nay đã bị xóa bỏ bởi sự tiến bộ trí thức của nhân loại,
bởi những sự kiện khoa học. Nhưng thực tế là, ở ngoài đời, vẫn có hàng
triệu người tin rằng bà Mary vẫn còn đồng trinh dù đã sinh nở nhiều lần, và
dù tất cả bằng chứng khoa học đã chứng minh chuyện Thánh Linh làm cho bà
Mary mang thai và sinh ra một người con trai không thể nào xảy ra được.
Nhưng chúng ta cũng nên hiểu rằng, đây là thuộc về đức tin, và như giáo sư
thần học John Dominic Crossan nhận định, “Không ai có thể làm cho niềm tin
như vậy thành một sự kiện” (Nobody can make it (an act of faith) as a
fact). Và Frederich Nietzche cũng đã đưa ra một nhận xét: “Những gì mà
quần chúng được dạy để mà tin không cần đến lý lẽ, vậy thì ai có thể dùng lý
lẽ để có thể phủ bác niềm tin này?” (What the populace learned to
believe without reasons, who could refute it then by means of reasons?)
Sau đây, chúng ta hãy đọc tiếp Kinh Tin
Kính của Ca-Tô Giáo Rô-Ma:
...Chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô,
chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết và táng xác...
Trước hết, cái giá bằng gỗ hình chữ thập mà
Giê-su bị đóng đinh trên đó không phải là “thánh giá” như bản văn tiếng Việt
cố tình dịch sai để vinh danh Giê-su. Bởi vì, hình phạt đóng đinh trên giá
gỗ hình chữ thập là một cực hình của đế quốc La Mã dành cho những kẻ nô lệ
phạm tội, trộm cắp, giết người, phản loạn v..v.. Thánh Kinh viết rõ, (Luke
23: 32,33; Matthew 27: 38)) Giê-su bị xử đóng đinh trên giá gỗ hình chữ thập
cùng lượt với hai tên tội phạm, trộm cướp (criminals, robbers) khác. Không
có lý do gì để chúng ta tin rằng cái giá gỗ mà Giê-su bị đóng đinh trên đó
khác với những giá gỗ cùng loại trong thời đó. Bản văn bằng tiếng Anh viết
là Giê-su “was crucified” chứ không phải là “was nailed on the holy cross”.
Mà “crucify” trong tự điển có nghĩa là: 1. Xử tử hình bằng cách đóng đinh
hoặc trói trên một giá hình chữ thập (To put to death by nailing or binding
to a cross); 2. Đối xử một cách độc ác, hành hạ (To treat cruelly;
torment). Cho nên, chẳng có gì có thể gọi là “thánh” ở đây cả. Ca Tô Giáo
đã thánh hóa một vật thuộc một cực hình tàn nhẫn và dã man nhất của nhân
loại. Người ta đã tôn sùng một biểu tượng của sự tàn ác, cố tình quên đi sự
khủng khiếp kết hợp với cây thập giá. Thật vậy, chúng ta hãy đọc một đoạn
nói về cực hình này của Russell Shorto trong cuốn Sự Thực Trong Phúc Âm:
Được đưa vào nghệ thuật Ki Tô qua nhiều
thế kỷ, cực hình đóng đinh trên thập giá đã trở thành một kiểu trình bày ước
lệ cao - đến độ như là một vật đẹp đẽ, làm cho ta khó mà có thể tưởng tượng
được sự khủng khiếp thực sự của nó. Nhưng thực tế là một cái gì khác hẳn.
Trước hết, chúng ta hãy xét đến ý nghĩa khủng khiếp của nó trong một xã hội
mà nhân phẩm - ngay cả nhân phẩm của một nông dân - là đức tính cao nhất.
Mang ra nơi công cộng - kết tội, phơi trần truồng (trên thập giá. TCN. Nghệ
thuật Ki Tô thường đóng thêm cái khố vào cho Giê-su trên thập giá) và chết
dần trong hấp hối - là hình phạt dã man hơn sự hành quyết nhiều.
Rồi có cả sự tra tấn. Thường là nạn
nhân bị trói vào cột rồi bị quất, hoặc bằng một cây roi ngắn gồm có nhiều
sợi dây da trên có đính những hạt bằng chì hay những mẩu xương, hoặc bằng
gậy. Nạn nhân thường bị đóng lên giá hình chữ thập ở ngay dưới đất rồi giá
được dựng thẳng đứng lên. Đinh thường được đóng qua bàn tay hay cổ tay và
bàn chân.. 25
Cây thập giá, tượng trưng cho một loại hình
phạt man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, nay đã biến thành
vật hàng triệu người tôn thờ. Tôi không biết người khác nghĩ sao chứ mỗi
khi tôi nhìn thấy cây thập giá bất cứ ở đâu, trên nóc nhà thờ, trên bộ áo
khoác, hay đeo trên cổ của bất cứ ai, là tôi lại nhớ đến cái cực hình đóng
đinh trên thập giá của dân La Mã cổ xưa, đã từng gây ra sự đau đớn cùng cực
của hàng trăm ngàn con người, và tôi nghĩ rằng không có cách nào có thể làm
cho tôi tôn thờ một vật có một lịch sử dã man đẫm máu như vậy, dù đó là cái
thập giá mà Giê-su hoặc bất cứ ai bị đóng đinh trên đó. Tín đồ Ki Tô thật
là kỳ lạ, họ tôn vinh một vật mà Chúa của họ chịu cực hình trên đó. Họ hân
hoan tin rằng sự đau khổ của Chúa chính là phương tiện giúp họ lên thiên
đường. Họ chỉ nghĩ đến thiên đường và ghi ơn sự chịu cực hình của Chúa họ.
Tôi nghĩ không có tôn giáo nào có thể nhồi vào đầu óc con người những ý
tưởng vô cùng ích kỷ như là Ki Tô Giáo.
Thứ đến, câu “Chịu nạn đời quan Phongxiô
Philatô” chứng tỏ rằng không phải là Giê-su tình nguyện leo lên thập giá
để cho người ta đóng đinh để rửa sạch tội lỗi của con người theo như lời
thuyết giảng hoang đường của giáo hội.
Thật vậy, chúng ta có thể thấy rõ tính chất
hoang đường của thuyết “chuộc tội” qua hai đoạn văn cực kỳ mâu thuẫn sau đây
trong cuốn Trần Lục, viết bởi Đức Ông Trần Văn Khả, trang 273:
Núi này (núi Sọ) ghi lại việc Chúa
Ki Tô chịu đóng đinh và chết trên cây thập tự.
Rồi tới trang 279, Đức Ông Khả viết:
Ở đây chúng ta nhận thấy có lòng sùng mộ
đặc biệt đối với Phép Thánh Thể, với cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Ki Tô.
Vậy thì Chúa Giêsu tự nguyện chịu đóng đinh
hay là bị tử nạn? Chịu đóng đinh là tự nguyện leo lên thập giá để cho người
ta đóng đinh lên mình. Còn tử nạn là vì tai nạn mà chết, ngoài ý muốn của
mình. Điều mâu thuẫn trên thuộc loại "giáo hội dạy rằng", và tín đồ, kể cả
Đức Ông, nhắc lại mà không suy nghĩ. Chúng ta thấy rằng, đầu óc của một
Đức Ông mà còn như vậy, huống chi là đầu óc của những tín đồ trong tầng lớp
thấp kém của xã hội.
Giáo hội dạy rằng Chúa Cha cho Chúa Con
giáng trần, chịu chết trên thập giá, lấy máu mình rửa sạch tội lỗi của nhân
loại. Chỉ có điều, từ ngày Chúa chết trên thập giá, tội lỗi con người càng
ngày càng gia tăng, con người càng ngày càng chê Chúa, xa Chúa cho nên Chúa
mới tạo ra những thiên tai, bệnh tật, chiến tranh khốc liệt chết hàng triệu
người để tiếp tục trừng phạt con người. Một mặt khác, giáo hội cũng dạy
rằng Chúa tử nạn vì bị người Do Thái giết, dựa theo những lời bịa đặt của
Thánh Phao Lồ (Paul), hoặc vài lời trong Phúc Âm Giăng (John) mà các học giả
ngày nay đã cho là giáo hội ngụy tạo, thêm thắt vào Thánh Kinh về sau để có
cớ bách hại người Do Thái, vì hầu hết dân Do Thái không tin Giêsu là đấng
Cứu Thế của dân tộc họ. Chúng ta nên nhớ rằng dân Do Thái là dân được Chúa
Cha chọn làm dân cưng của Ngài (chosen people). Nhưng dân tộc này lại phủ
nhận vai trò cứu thế của Giê-su. Điều này chứng tỏ Giê-su mắc bệnh hoang
tưởng, tự phong mình là Con Thần Ki Tô, là Chúa Cứu Thế, như một số nhà phân
tâm học đã chứng minh. Chúng ta đã hiểu tại sao Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô
Giáo Rô-Ma nói riêng, lại thù dân Do Thái suốt 2000 năm nay. Bởi vì sự phủ
nhận Giê-su là Chúa Cứu Thế của dân Do Thái đã chứng minh rằng Giê-su chỉ là
một Ngụy Chúa. Còn bằng chứng nào cụ thể hơn là một dân tộc được Chúa Cha
chọn làm dân cưng của Ngài lại không công nhận Chúa Con được Ngài phái
xuống?
Cũng vì vậy mà ngày nay, nhiều học giả,
trong cũng như ngoài giáo hội, đồng thuận ở điểm: “Trong Kinh Tin Kính của
Ca-Tô, chỉ có câu trên là có tính chất xác thực lịch sử, nghĩa là, “đích
thực Giê-su bị đóng đinh trên thập giá, chết, và táng xác. Chấm hết”
(Historically verifiable that Jesus was crucified, died, and was buried.
Period). Còn những huyền thoại về Giê-su trước khi bị xử tử, xung quanh
cuộc hành quyết, và sau khi chết, thì không thể nào tin được đó là những sự
kiện lịch sử (historical facts), và tuyệt đối không có một giá trị thuyết
phục nào trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại.
Chúng ta đã biết những chuyện hoang đường
về đời của Giê-su trước khi bị hành hình, ví dụ như, sinh ra từ một nữ
trinh, cứu người chết sống lại, đi trên sóng, làm yên một cơn bão tố, đuổi
“quỷ ám” ra khỏi một người bị bệnh động kinh, nguyền rủa cho cây sung chết
héo, biến nước lã thành rượu v..v.. Nhưng chính xung quanh cuộc hành quyết
cũng còn nhiều chuyện hoang đường không kém. Chúng ta hãy đọc ngay Thánh
Kinh, Matthew 27: 45 - 53:
Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9 (nghĩa là
từ trưa đến 3 giờ chiều), khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Ước chừng giờ
thứ 9, Giê-su kêu lớn lên rằng: Ê-li, Ê-li, lam-ma-sa-bách-ta-ni? Nghĩa là:
Chúa tôi ơi! Chúa tôi ơi! Sao ngài lìa bỏ tôi?.. Giê-su lại kêu lên một
tiếng lớn nữa rồi trút linh hồn..
Và này, cái màn trong đền thờ bị xé ra
làm hai từ trên xuống dưới. Đất thì rúng động, đá lớn bể ra, mồ mả mở ra, và
nhiều thây các thánh đã qua đời được sống lại. Sau khi Giê-su sống lại, các
thánh đó ra khỏi mồ mả, đi vào thành thánh (holy city: Jerusalem. TCN),
và hiện ra cho nhiều người thấy.
Chúng ta thấy ngay những điều mô tả trong
đoạn Kinh Thánh trên toàn là những điều hoang đường tưởng tượng trừ câu than
của Giê-su trước khi chết: Chúa tôi ơi! Chúa tôi ơi! Sao ngài lìa bỏ
tôi?.. chứng tỏ tâm trạng thực của Giê-su nói lên một nỗi thất vọng lớn
lao, hoàn toàn mâu thuẫn với điều “giáo hội dạy rằng”: Giê-su giáng thế,
tình nguyện chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Ngoài ra, chuyện “khắp cả
xứ đều tối tăm mù mịt” (Matthew 27: 45: ..there was darkness over all the
land) chỉ có thể xảy ra nếu vùng đó, trong ngày đó, có nhật thực toàn phần.
Các khoa học gia đã tính ngược trở lại và xác định rằng không thể có nhật
thực toàn phần ở vùng đất đó và trong khoảng thời gian gần đó. Tại sao?
Bởi vì, với những hiểu biết ngày nay về sự di chuyển của trái đất xung quanh
mặt trời, và sự di chuyển của mặt trăng xung quanh trái đất, chúng ta có thể
dùng máy điện toán (computer) tính ra và biết đúng, trong quá khứ cũng như
trong tương lai, khi nào có nhật thực toàn phần, khi nào không, và ở đâu
trên trái đất. Mặt khác, không có cuộc nhật thực toàn phần nào có thể kéo
dài 3 tiếng đồng hồ, từ trưa tới 3 giờ chiều, trừ khi, đang ngắc ngoải trên
thập giá, Giê-su ra lệnh cho cả trái đất lẫn mặt trăng đều đứng yên, giữ
nguyên vị trí nhật thực toàn phần, sau ba giờ, khi Giê-su tắt hơi, mới
chuyển động trở lại. Trong Cựu Ước có chuyện Joshua, được sự giúp đỡ của
Chúa Cha, chưa giết địch quân đã tay nên ra lệnh cho mặt trời, mặt trăng
ngưng lại đúng 1 ngày, kéo dài thời gian có ánh sáng, để cho Joshua giết cho
đã, rồi mới được chuyển động trở lại (Joshua 10: 12, 13). Nếu các tín đồ
Ca-Tô có thể tin được chuyện này, thì họ cũng có thể tin chuyện trời đất tối
tăm mù mịt trong 3 tiếng đồng hồ, khi Giê-su bị hành hình. Nhưng đọc kỹ
thánh kinh thì chúng ta lại thấy Luke còn phóng đại chuyện tối tăm mù mịt ra
toàn thể trái đất (Luke 23: 44: .. there was darkness over all the earth).
Điều này chứng tỏ chuyện trời đất tối tăm mù mịt khi Giê-su chết là chuyện
bịa của những đầu óc tối tăm mù mịt, không hiểu gì về sự chuyển động tương
đối của trái đất và mặt trăng đối với mặt trời, về hình dạng cũng như độ lớn
của trái đất.
Tôi thật không hiểu nổi, không những giáo
hội dạy tín đồ tôn vinh cây thập giá dùng để đóng đinh Giê-su, nô lệ, những
kẻ phản loạn và trộm cướp trên đó mà còn dạy tín đồ phải hoan hỉ ăn mừng
ngày chết của Giê-su, gọi đó là Ngày Thứ Sáu Tốt Đẹp (Good Friday). Nhất
định đó không phải là Ngày Thứ sáu Tốt Đẹp mà là Ngày Thứ Sáu đen tối, thê
thảm nhất đối với Giê-su. Tín đồ Gia Tô bị giáo hội lừa dối, dạy rằng đó là
ngày Giê-su chịu chết để chuộc cái tội tổ tông hoang đường của nhân loại.
Nhờ cái chết đó mà tín đồ được Chúa Cha tha thứ và được lên thiên đường.
Giáo hội biết tín đồ không bao giờ đọc Thánh Kinh, và giới chăn chiên cũng
không bao giờ giảng về tâm trạng của Giê-su trước khi chết dù Thánh Kinh đã
viết rõ. Tâm trạng này trái ngược hẳn với những lời tuyên truyền sai sự
thực của giới chăn chiên. Thật vậy, chúng ta hãy đọc vài đoạn trong thánh
kinh, Thánh kinh Hội Quốc Tế xuất bản, Văn phẩm Nguồn Sống phát hành, 1994,
Mác (Mark) 14; 33-36:
.. Ngài cảm thấy hoang mang, sầu não vô
cùng. Ngài bảo (các môn đồ. TCN): “Linh hồn ta buồn rầu cho đến khi
chết” Chúa đi một quãng, rồi quỳ sấp dưới đất, cầu xin cho giờ phút khủng
khiếp đừng đến với Ngài nếu có thể được. Ngài cầu nguyện: “Thưa Cha, Cha
quyền phép vô cùng, xin cho con khỏi uống chén (đau khổ) này, nhưng xin theo
ý Cha, chứ không theo ý con.”
Luke (Lưu Ca) 22:44 còn mô tả cảnh Giê-su
cầu nguyện như sau:
Trong lúc đau đớn thống khổ, Chúa cầu
nguyện càng tha thiết, mồ hôi toát ra như những giọt máu nhỏ xuống đất.
Đó là tâm trạng của Giê-su trước khi biết
mình sắp bị bắt. Như vậy có phải là ông ta tình nguyện leo lên thập giá,
chịu cho người ta đóng đinh, để chuộc tội cho nhân loại như lời diễn giảng
sai sự thực của giáo hội hay không? Và chúng ta cũng đừng quên, trước khi
thở hắt ra, Giê-su còn nói lên một câu đầy thất vọng: Chúa tôi ơi! Chúa tôi
ơi! Sao ngài lìa bỏ tôi?.. như được viết rõ trong phúc âm Matthew 27 và Mark
15. Cũng vì vậy mà G. W. Foote đã bình luận trong cuốn Những Chuyện Hư
Cấu Trong Thánh Kinh về ngày chết của Giê-su như sau:
Cũng như ngày 25 tháng 12, được coi như
là ngày sinh của Giê-su, là một chuyện giả tưởng hoàn mỹ mà giáo hội vay
mượn từ dân gian cổ xưa, ngày Giê-su bị đóng đinh trên thập giá cũng có tính
cách thuần túy tùy tiện. Nếu thực sự Giê-su chết thì ông ta cũng chỉ chết
vào một ngày nào đó, và ngày này cố định trên lịch.. Ngày chết của ông ta
bao giờ cũng rơi vào ngày thứ Sáu. Nhưng ngày thứ Sáu này khi thì trong
tháng này, khi thì trong tháng khác, và không bao giờ giống nhau trong hai
năm liên tiếp; điều này chứng tỏ chắc chắn là cái chết của “đấng cứu thế” là
một chuyện xảy ra trong huyền thoại. Tại sao cái ngày chết của ông ta lại
được quyết định bởi một sự tính toán thuộc môn thiên văn học? Tại sao nó
phải là ngày thứ Sáu đầu tiên sau ngày trăng rằm và sau ngày xuân phân?
Mặt khác, chúng ta cần phải ghi nhận:
“Ngày thứ Sáu tốt đẹp” là tên của ngày đã được xác định theo thiên văn. Đó
thực ra là ngày mà tấn thảm kịch xảy ra trên Núi Calvary sau cơn khắc khoải
và mồ hôi đổ ra như máu (của Giê-su) trong vườn Gethsemane. Cái con người
than khóc: “Cha ơi, nếu có thể, xin đừng bắt con uống chén này” rồi khi cảm
thấy cánh tay tử thần lạnh lẽo phủ lên người mình, còn than khóc cay đắng
hơn nữa: “Chúa tôi ơi, Chúa tôi ơi, sao ngài lại lìa bỏ tôi?”, cái ngày đó
mà gọi là “Ngày thứ Sáu tốt đẹp”. Đối với hắn ta (Giê-su), ngày đó là một
ngày xấu hoặc một ngày đen tối. Vậy mà những tín đồ của hắn coi đó là ngày
vui vẻ nhất trong lịch sử thế giới. Hắn chịu đau khổ để cho họ có thể vui
mừng; hắn xuống địa ngục để cho họ có thể lên thiên đường; và họ đón chờ
ngày tai họa đó với niềm vui và hân hoan. Con người thật là quá hão huyền và
ích kỷ, và tôn giáo cũng thường vậy, tôn phong sự ích kỷ. Và trong những
tôn giáo ích kỷ trên thế giới thì Ki Tô Giáo là tôn giáo ích kỷ nhất.
26
Chúng ta hãy bình luận tiếp chuyện Chúa
chết.
Khi Giê-su tắt hơi thì Đất thì rúng động,
đá lớn bể ra, mồ mả mở ra, và nhiều thây các thánh đã qua đời được sống
lại. Sau khi Giê-su sống lại, các thánh đó ra khỏi mồ mả, đi vào thành
thánh, và hiện ra cho nhiều người thấy.
Đất rúng động, đá lớn bể ra.. Đây có thể là
một cuộc động đất. Tuy nhiên, không có một sử gia nào, kể cả sử gia danh
tiếng đương thời là Flavius Josephus, ghi lại sự kiện này. Rồi mồ mả mở ra
để cho xác các thánh sống lại, nằm yên dưới mồ từ chiều thứ Sáu đến sáng Chủ
Nhật, chờ cho Giê-su sống lại rồi mới nhỏm giậy như quỷ nhập tràng, đi qua
đi lại trong thành Jerusalem, trình diễn cho bàn dân thiên hạ thấy. Thời
buổi này, ai có thể tin được những chuyện hoang đường như vậy? Hơn nữa,
Matthew không nói rõ các thánh đó là thánh nào, ai phong cho họ làm thánh,
và chết đi đã được bao lâu, xác còn nguyên hay đã rữa nát hết thịt chỉ còn
trơ lại bộ xương cứu Chúa. Sau khi đi diễn hành ở Jerusalem thì các “thánh”
đó đi đâu? Trở về các nhà mồ hay vẫn còn lang thang ở Jerusalem cho tới bây
giờ? Chuyện trong Thánh Kinh đều như vậy cả. Nay chúng ta đã hiểu những
người tin Thánh Kinh là những người đầu óc như thế nào.
Chúng ta hãy đọc tiếp Kinh Tin Kính:
..xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong
kẻ chết mà sống lại, lên trời ngự bên hữu đức Chúa Cha phép tắc vô cùng;
ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết..
Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại,
Giáo hội Ca-Tô không còn có thể lừa dối con người bằng củ cà rốt Thiên Đường
và cây gậy địa ngục được nữa. Cho nên, tháng 7, 1999, Giáo Hoàng Gion Pôn
Hai đã phải thú nhận rằng không làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây,
mà cũng không làm gì có hỏa ngục ở dưới đất, tất cả đều do tâm con người tạo
ra mà thôi. Điều thú nhận này đã làm cho hàng triệu tín đồ thất vọng, vì
điều mà họ mơ ước được lên thiên đường hưởng nhan thánh Chúa rút cục đã thực
sự trở thành cái bánh vẽ trên trời (A Pie-in-the-sky), đúng như nhận định
của Linh mục Ernie Bringas trước đây. Mặt khác, “tội tổ tông” chỉ là một
huyền thoại cho nên không làm gì có cái gọi là “ngục tổ tông” để mà Giê-su
“xuống” sau khi chết. Cho nên, trong mấy trăm năm nay, các tín đồ Ca-Tô
được dạy để đọc Kinh Tin Kính hàng ngày mà không biết rằng đó chính là những
lời lừa dối do chính giáo hội đặt ra để làm mê mẩn đám tín đồ không có mấy
đầu óc.
"Giáo hội dạy rằng": Giê-su sống lại 3
ngày sau khi chết, và 40 ngày sau thì "thăng thiên", nghĩa là cả hồn lẫn xác
tự nhiên bốc lên trời, và hiện nay đang ngồi bên phải Chúa Cha ở trên Thiên
Đường. Người nào tin ở Chúa, chỉ cần tin thôi, thì sau khi chết sẽ được lên
Thiên Đường ở cùng Chúa. Nhưng vì Giáo Hoàng là "đại diện của Chúa", là
người kế thừa Thánh Phê-rô giữ chìa khóa mở cửa Thiên Đường, nên các tín đồ
Gia Tô phải tuyệt đối phục tùng và tuân lệnh Giáo Hoàng, nếu không, Giáo
Hoàng hay Tòa Thánh Vatican ở Rô-Ma sẽ tuyệt thông, nghĩa là không cho phép
tín đồ hưởng các "bí tích" để hiệp thông với Chúa trên Thiên Đường. Đây là
những tín lý căn bản của Ca-Tô Giáo Rô-Ma mà các tín đồ bắt buộc phải tin,
không tin thì không được chấp nhận là Ca-Tô hữu.
Nhưng đây chỉ là những lời giáo hội bày đặt
ra để nắm giữ đầu óc đám tín đồ thấp kém, vì không làm gì có chuyện Giê-su
“xuống ngục tổ tông” mà cũng không làm gì có chuyện xác Giê-su bay lên
trời. Thánh Phao Lồ (Paul) đã viết rõ trong I Cổ-Linh (Corinthians) 15: 50:
Thưa anh em. Tôi xin nói rõ thân thể bằng
xương bằng thịt và máu không thể hưởng được nước Thượng Đế, vì thân thể hư
nát không thể hưởng sự sống bất diệt.
Giê-su vẫn tự nhận một lúc 2 vai: Con của
Thần và Con của người (Son of Man). Con của Thần thì chỉ có phần hồn, còn
Con của Người thì phải có xác phàm bằng xương bằng thịt. Do đó Giê-su không
thể nào bay lên trời ngự bên phải Thần theo như sự bày đặt của vài tín đồ
sùng tín tưởng tượng ra để thần thánh hóa Giê-su.
Tuy nhiên, dù Giáo Hoàng đã chính thức
tuyên bố cùng thế giới là không làm gì có thiên đường hay địa ngục như giáo
hội vẫn thường dạy con chiên, nhưng tôi tin chắc đa số tín đồ Ca-Tô trên thế
giới, nhất là những tín đồ Ca-Tô ở các nước nghèo, kém phát triển, không hề
biết đến chuyện này. Những lời tuyên bố công nhận sự thực khoa học của Giáo
hội chỉ để chỉnh trang bộ mặt của giáo hội trước dư luận trí thức thế giới
chứ không phải để cho các tín đồ biết. Đây là sách lược ngu dân dễ trị của
giáo hội từ xưa tới nay. Lẽ dĩ nhiên đám tín đồ thấp kém vẫn còn hi vọng
lên thiên đường cùng Chúa sau khi chết. Vậy thì thiên đường của Chúa mà
giáo hội đã nhét vào đầu óc tín đồ trong mấy ngàn năm nay là như thế nào, và
ở đâu?
Thiên Đường của Chúa ở trên một "Vòm"
(vault) gọi là "Trời" (Heaven) mà Thượng Đế tạo ra trong ngày thứ nhì của 6
ngày "Sáng Thế". Muốn hiểu vòm Trời trên có hình dạng ra sao, chúng ta hãy
đọc lời giải thích của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ, một tín đồ Ca-Tô trong khoảng
30 năm hồi thiếu thời, viết trong bài "Ít Nhiều Nhận Định về Thiên Chúa
Giáo", đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tập I, trang 16:
"The New Jerusalem Bible của Công Giáo
dịch là Vault (vòm), và chú rằng người dân Semites xưa coi cái vòm trời đó
cứng chắc, có thể giữ nước ở phía trên, không cho rơi xuống trần gian. Nó
hình nửa vòng cầu, hoặc như cái chảo úp, như ta thường trông thấy. Nó chắc
chắn là phải hết sức cứng vì có thể chứa được một số nước khổng lồ bên
trên. Vòm trời đó, theo Job, đã được đúc bằng "đồng thau" (Job 37:18). Vòm
đó có những cửa. Khi muốn có Hồng Thủy, những "cửa trời" đó sẽ được mở ra
cho nước trên trời tuôn xuống (Gen 7:11)...Cung đình Chúa và tòa ngôi ngài
đặt trên vòm trời đó (Psalm 11:4), vì Sáng Thế Ký đã định nghĩa cái vòm đó
là "trời" (Gen 1:8).
Chúa Giêsu cũng xác quyết Chúa Cha ở
trên đó, khi Ngài dạy cầu xin: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời (Mat. 6:9).
Thánh Joan dạy rằng lúc thế mạt vòm trời đó sẽ bị cuộn lại, cuốn đi, như một
trang sách (Rev 6:14). Chúng ta cũng nên nhớ rằng vòm trời đó có nhiều cột
chống đỡ (Job 27:11); và trái đất cũng có nhiều cột chống đỡ (Job 9:6). Đất
đã được Chúa đặt vững trên mặt nước (Psalm 136:6). Đất muôn đời đứng yên
một chỗ (terra in aeternum stabat, Vulgate, Eccl. 1:4)."
Theo đức tin Ca-Tô Giáo thì Thánh Kinh là
những lời "mặc khải" của Thượng Đế toàn năng sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài
nên không thể sai lầm. Chỉ có điều, trí tuệ của Thượng Đế khi đó không hơn
gì trí tuệ của những người bán khai là bao nhiêu cho nên mới "mặc khải" cho
các "Thánh Tiên Tri" những lời trong Thánh Kinh mà trí tuệ của con người
ngày nay đã hoàn toàn bác bỏ vì những lời "mặc khải" đó quá sai lầm, không
đúng với thực tại.
Vào đầu thập niên 1920, các chuyên gia
khảo cứu vũ trụ, qua những kính thiên văn tân kỳ, khám phá ra rằng giải Ngân
Hà (Milky Way) mà Thái Dương Hệ (hệ thống mặt trời và các hành tinh xoay
quanh mặt trời) của chúng ta nằm trong đó, có thể có tới cả trăm tỷ ngôi
sao, mỗi ngôi tương tự như mặt trời trong Thái Dương Hệ, thật ra chỉ là một
ốc đảo, một Thiên Hà (galaxy), trong vũ trụ. Các khoa học gia đã ước tính
rằng trong vũ trụ có khoảng 50 tỷ thiên hà tương tự như giải Ngân Hà. Trong
vũ trụ học, vì phải kể đến những khoảng cách vô cùng lớn nên người ta thường
dùng đơn vị đo chiều dài là 1 năm ánh sáng, hoặc đơn vị parsec bằng hơn ba
năm ánh sáng một chút (3.2616). Chúng ta đều biết, ánh sáng truyền trong
không gian với vận tốc khoảng 300000 cây số trong một giây đồng hồ. Chúng
ta cũng biết một phút có 60 giây, một giờ có 60 phút, một ngày có 24 giờ, và
một năm có khoảng 365 ngày. Do đó, chúng ta có thể tính ra khoảng cách của
một năm ánh sáng. Khoảng cách này vào khoảng 9460800000000 (9 ngàn 4 trăm
60 tỷ 8 trăm triệu) cây số, hoặc gần 6 ngàn tỷ miles.
Giải Ngân Hà có đường kính khoảng 100000
năm ánh sáng, và Thái Dương Hệ nằm cách xa tâm của giải Ngân Hà khoảng 30000
(ba mươi ngàn) năm ánh sáng. Chúa Giê-su mới "thăng thiên" cách đây khoảng
2000 năm, và dù cho chúng ta chấp nhận Chúa thăng thiên với vận tốc của ánh
sáng, một vận tốc giới hạn của mọi vật chất, thì Thiên Đường của Chúa cũng
chỉ quanh quẩn đâu đó cách đây nhiều nhất là 2000 năm ánh sáng. Chỉ phiền
có một điều, điểm đặc biệt trong những khám phá mới về vũ trụ là các kính
thiên văn tối tân nhất hiện nay đã quét khắp vòm trời, đến tận những thiên
hà cách xa trái đất cả hơn 10 tỷ năm ánh sáng, mà không thấy bóng dáng của
Thiên Đường ở đâu. Nếu cho rằng Thiên Đường ở xa hơn nữa, ngoài tầm khảo
sát của các kính thiên văn, thì lại đưa đến một vấn đề: cũng phải ít nhất là
10 tỷ năm nữa Chúa Giê-su mới lên tới Thiên Đường. Các tín đồ Ca-Tô tin
tưởng rằng sẽ được lên Thiên Đường cùng Chúa sau khi chết nên chuẩn bị một
thời gian ít ra là 10 tỷ năm trước khi có thể thấy dung nhan Chúa trên Thiên
Đường. Dù vậy cũng chưa chắc, vì vũ trụ đang ngày càng nở rộng, và trong
10 tỷ năm nữa thì vũ trụ nở rộng đến cỡ nào, chưa ai có thể biết trước
được. Khi đó, có thể mặt trời và trái đất sẽỵ không còn nữa vì các khoa học
gia ước tính trái đất và mặt trời chỉ có thể tồn tại nhiều nhất là 5 tỷ năm
nữa.
Đó là chuyện Chúa ở trên Thiên Đường.
Chuyện Chúa sống lại còn vui hơn nữa nếu chúng ta đọc Thánh Kinh với một đầu
óc sáng sủa, phân tích, một loại đầu óc mà Giáo hội Ca-Tô ghét nhất. Chẳng
thế mà đã có một thời Giáo hội cấm tín đồ đọc Thánh Kinh vì e rằng tín đồ sẽ
khám phá ra những lời diễn giảng Thánh Kinh sai lầm của Giáo hội.
Các học giả nghiên cứu Thánh Kinh đều đồng
ý là trong bốn Phúc Âm thì Phúc Âm của Mark là cổ nhất, viết vào khoảng 40
năm sau khi Giê-su chết. Ba Phúc Âm kia, Matthew, Luke, John đều viết sau
Phúc Âm của Mark nhiều năm, thí dụ Matthew viết vào khoảng cuối thế kỷ 1,
sau Mark khoảng 20 năm. Trước hết chúng ta hãy đọc chuyện Chúa sống lại
trong Mark 15 và 16.
Mark 15: 42-47; 16: 1 -8:
“Hôm đó, nhân ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua
(nghĩa là thứ Sáu. TCN). Đến chiều tối, Joseph, người Arimathea, một thành
viên có uy tín trong Hội Đồng Quốc Gia, từng trông đợi Nước Trời, bạo dạn
đến xin Philate cho lãnh xác Giê-su. Philate không tin Giê-su đã chết nên
gọi tên đội trưởng đến hỏi xem Giê-su đã chết thật chưa. Khi viên đội
trưởng xác nhận Giê-su đã chết, Philate cho phép Joseph lãnh xác Giê-su.
Joseph mua một cây vải gai, gỡ xác
Giê-su xuống khâm liệm, rồi đặt xác Giê-su trong một nấm mồ đục bên sườn núi
đá, rồi lăn một tảng đá lớn chặn trước cửa mồ.
Và Mary Magdalene và Mary, Mẹ của Joses
nhận biết nơi đặt xác Giê-su..
..Ngày thứ Bảy qua, Mary Magdalene, Mary,
mẹ của James và Salome đi mua hương liệu để ướp xác Giê-su. Sáng sớm Chủ
Nhật, lúc mặt trời mọc, họ cùng nhau đi tới mộ Giê-su, hỏi nhau không biết
nhờ ai lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ.
Nhưng khi tới nơi thì tảng đá lớn đã
được lăn ra khỏi cửa mộ rồi. Vào trong nhà mồ, họ thấy một thanh niên mặc
áo dài trắng ngồi ở phía bên phải làm cho họ hoảng sợ.
Nhưng người thanh niên nói: "Đừng sợ! Các
ngươi đến tìm Giê-su ở Nazareth, người đã bị đóng đinh trên thập giá. Ông
ta sống lại rồi. Ông ta không có ở đây. Vào mà coi chỗ người ta đặt xác
ông. Hãy đi báo cho các môn đệ của ông - và Peter (Phê-rô) - rằng Giê-su
đã đi đến xứ Galilee trước họ rồi, và họ sẽ thấy Giê-su ở đó, như ông đã dặn
trước.
Ba người bèn chạy nhanh ra khỏi mộ vì họ
run sợ và thấy kỳ lạ. Và họ không nói với ai lời nào vì sợ."
Bây giờ chúng ta hãy đọc chuyện Chúa
sống lại trong Matthew 27: 57-66 và Matthew 28: 1-8:
Đến tối (thứ Sáu), Joseph, một người
giàu có ở vùng Amarithea, cũng là một môn đệ của Giê-su, đến xin Philate cho
lãnh xác Giê-su. Philate ra lệnh trao xác Giê-su cho ông. Khi Joseph hạ
thi hài Giê-su xuống, ông gói xác trong một tấm vải gai sạch, rồi đặt xác
Giê-su trong một hầm mộ ông đục trên sườn núi đá. Joseph lăn một tảng đá
lớn chặn trước của mộ rồi bỏ đi. Mary Magdalene và bà Mary kia vẫn ngồi
trước mộ.
Hôm sau, kế ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua,
các thầy trưởng tế và Pharisees đến gặp Philate và thưa rằng: "Thưa Ngài,
chúng tôi nhớ rằng khi còn sống, tên lừa bịp này (Giê-su) đã nói: "Sau ba
ngày ta sẽ sống lại". Để phòng mưu gian, xin Tổng Trấn ra lệnh canh gác kỹ
mộ nó suốt ba ngày, như thế các môn đệ của nó không thể đánh cắp xác của nó
rồi phao tin rằng nó sống lại.
Sự lừa bịp này còn tai hại hơn là sự lừa
bịp trước." Philate nói: "Các ngươi có lính gác, cứ việc canh gác cho cẩn
mật." Họ liền niêm phong tảng đá và đặt lính canh gác trước cửa mộ..
..Sáng Chủ Nhật, trời mới rạng đông,
Mary Magdalene và bà Mary kia tới thăm ngôi mộ. Bỗng nhiên có một trận động
đất lớn vì một Thiên sứ từ trên trời bay xuống, lăn tảng đá lớn ra khỏi cửa
mộ rồi ngồi lên trên đó., mặt sáng như chớp nhoáng, áo trắng như tuyết. Bọn
lính gác khiếp sợ, đứng sững như xác chết. Nhưng Thiên sứ nói với hai người
đàn bà: "Đừng sợ! Ta biết các ngươi đến tìm Giê-su, người đã bị đóng đinh
trên thập giá. Ông ta không có ở đây, vì ông ta đã sống lại. Hãy vào mà
coi chỗ người ta đặt xác Chúa.
Hãy đi lẹ và loan báo cho các môn đệ của
ông ta rằng ông ta đã sống lại, và thật vậy, ông ta đã đi tới Galilee trước
và các ngươi sẽ thấy ông ta ở đó. Hãy nhớ những lời ta nói. Hai người đàn
bà vừa sợ vừa mừng, chạy vội ra khỏi mộ và đi báo tin cho các môn đệ của
Giê-su.
Chuyện Chúa sống lại trong Phúc Âm Luke và
Phúc Âm John tương tự như trong Phúc Âm Mark, tuy có một số chi tiết khác
nhau. Chúng ta thấy rằng chuyện Chúa sống lại trong Phúc Âm Mark và Phúc Âm
Matthew hoàn toàn khác biệt nhau. Vậy chúng ta nên tin chuyện nào và căn cứ
vào đâu mà tin chuyện đó. Nếu Mark đúng thì Matthew phải sai và ngược lại.
Vấn đề là chúng ta không thể biết ai đúng ai sai. Nếu dùng lý trí để xét
đoán một vấn đề thì khi chúng ta không thể căn cứ vào đâu để mà tin một
trong hai chuyện Chúa sống lại kia thì chúng ta phải loại bỏ cả hai. Các
chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh đã tìm ra nhiều điều thú vị trong chuyện
Chúa sống lại trong Thánh Kinh này.
Thứ nhất, Matthew 12: 40 kể lời Giê-su
“tiên tri” về sự sống lại của ông ta như sau:
“Chúa Giê-su đáp: “Như Giô-na (Jonah) đã
nằm trong bụng cá 3 ngày 3 đêm, ta sẽ vào lòng đất 3 ngày 3 đêm..”
Nhưng thực ra, không phải là Chúa sống lại
sau 3 ngày 3 đêm mà sau chỉ có 1 ngày rưỡi và 2 đêm: từ 3 giờ chiều ngày thứ
Sáu đến sáng sớm Chủ Nhật. Như vậy là lời tiên tri của Chúa có một sai số
là 50%. Trong khoa học, một dữ kiện có sai số 50% kể như là vứt đi, không
thể sài được.
Thứ nhì, trong Matthew, khi hai bà Mary đến
nơi mộ Chúa thì tảng đá chặn cửa mộ vẫn còn đó. Rồi một Thiên sứ từ trên
trời bay xuống và lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ. Ngôi mộ trống không. Vậy xác
Chúa ra khỏi mộ bằng cách nào? Cho rằng hồn có thể đi qua kẽ đá được, nhưng
xác thì đi qua tảng đá bằng cách nào?
Thứ Ba, cùng một chuyện Chúa sống lại mà
bốn Phúc Âm mô tả khác nhau, nhiều khi đối nghịch hẳn nhau với nhiều chi
tiết rất mâu thuẫn, vậy nếu dùng lý trí để hỗ trợ đức tin thì chúng ta phải
tin như thế nào đây. Và nếu tin rồi, nghĩa là không cần biết đến những mâu
thuẫn trong Thánh Kinh về chuyện Chúa sống lại, thì vai trò của lý trí đứng
chỗ nào trong đức tin đó. Nếu chuyện Giê-su sống lại trong cả 4 phúc âm đều
giống nhau thì chưa chắc điều này đã đúng như sự thực, vì rất có thể đó là
niềm tin của một số người cùng nghe lại một truyền thuyết. Nhưng chi tiết
trong 4 phúc âm về chuyện Giê-su sống lại có quá nhiều mâu thuẫn đối ngược
hẳn nhau, điều này chứng tỏ cả 4 phúc âm chẳng qua chỉ là tác phẩm của 4
người diễn giải sự việc theo lời đồn đại khác nhau trong dân gian và theo
niềm tin riêng của mình. Nhiều học giả nghiên cứu thánh kinh đã khám phá ra
rằng mỗi tác giả của 4 phúc âm đều có mục đích riêng khi viết chuyện giả
tưởng về sự sống lại của Giê-su.
Những cuốn phân tích kỹ lưỡng nhất về những
vấn đề ai là tác giả 4 phúc âm, viết với ý định gì, tài liệu lấy từ đâu và
lấy như thế nào v..v.., có thể nói là những cuốn Ai Viết Những Phúc Âm?
(Who Wrote The Gospels?) của Randel McGraw Helms Giáo sư đại học Arizona
State University, Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con (Putting Away
Childish Things) của Giáo sư Thần học Uta Ranke-Heinemann, Hãy Cứu cuốn
Thánh Kinh Khỏi Phái Bảo Thủ (Rescuing The Bible From Fundamentalism)
của Giám mục John Shelby Spong, và Năm Phúc Âm: Đích Thực Giê-su Nói Gì?
(The Five Gospels: What Did Jesus Really Say?) của The Jesus Seminar. Học
hội Giê-su kể luôn Phúc Âm Thomas nên mới là năm. Nhưng đây không phải là
nơi bàn luận chi tiết về thánh kinh, nên tôi không đi sâu vào những vấn đề
này.
Câu cuối cùng trong đoạn Kinh Tin Kính nêu
trên là:
..ngày sau bởi trời lại xuống phán xét
kẻ sống và kẻ chết..
Đây là niềm tin của những người sùng tín
Giê-su về một chuyện trong tương lai, cho nên không có một căn bản khả tín
nào. Trong 2000 năm qua, giáo hội Gia Tô và nhiều hệ phái Ki-Tô khác đã
nhiều lần tiên đoán ngày phán xét, nhưng ngày đó không hề xảy ra, và sẽ
không bao giờ có thể xảy ra cho đến khi trái đất không còn tồn tại nữa. Tại
sao? Bởi vì những huyền thoại do một số người sùng tín Giê-su bày đặt ra
theo niềm tin riêng của mình thì không bao giờ có thể trở thành sự thực.
Chứng minh?
Đọc Thánh kinh, chúng ta thấy rõ ràng là
những người viết Tân Ước đều tin rằng Giê-su sẽ trở lại trần gian trong một
tương lai rất gần (Matthew 16: 27-28: Ta sẽ trở lại với các thiên sứ trong
vinh quang của Cha ta để thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm. Ta cho
các con biết: một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy
ta vào trong nước ta; Mark 9: 1: Chúa bảo các môn đệ: “Ta cho các con biết,
một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy nước trời
thiết lập với uy quyền vĩ đại; Mark 13:30: Ta quả quyết, thế hệ này chưa
qua đi thì các biến cố đó (các biến cố xung quanh sự trở lại của Giê-su.
TCN) đã xảy ra rồi; Luke 21: 27, 30: Bấy giờ nhân loại sẽ thấy ta giáng
xuống trong mây trời với vinh quang và uy quyền tuyệt đối.. Ta quả quyết:
thế hệ này chưa qua đi, các biến cố ấy đã xảy ra rồi; John 14: 21: Ta đi
chuẩn bị chỗ ở cho các con. Khi chuẩn bị xong, ta sẽ trở lại đón các con về
với ta để các con ở cùng ta mãi mãi)
Nhưng Giê-su, với những lời hứa hẹn hão
huyền đầy tính chất tự tôn, tự cao, tự đại trên, đã cho các môn đệ ăn bánh
vẽ vì ông ta đã ra đi và không hề trở lại. 2000 năm qua, những người tin là
Giê-su có quyền phép “cứu rỗi” họ và cho họ lên thiên đường ở cùng ông đã
dài cổ ra ngóng chờ “ngày trở về” của Giê-su, nhưng năm này qua năm khác,
thế hệ này qua thế hệ khác, thiên niên kỷ này qua thiên niên kỷ khác, Giê-su
vẫn biệt tăm. Làm sao ông ta có thể trở về được khi ông ta đã bị đóng đinh
trên thập giá, chết, và táng xác? Lời hứa hẹn vô trách nhiệm đầy tính cách
lừa dối những kẻ nhẹ dạ như trên có giá trị gì khi những điều ông hứa không
hề mảy may thực hiện được đã 2000 năm nay. Hiện giờ ông ta ở đâu? Không ai
biết. Nhưng chắc chắn là không phải ở trên trời, vì Giáo hoàng John Paul
II, đại diện của ông trên cõi trần, đã khẳng định không làm gì có thiên
đường trên các tầng mây. Và điều này cũng phù hợp với những khám phá của
khoa học trong môn vũ trụ học. Không ở trên trời thì chỉ có thể ở dưới đất,
sâu ba thước. Nhưng ở đâu?
Vì sự tình cờ trong công tác ủi đất để xây
cất, một toán công nhân đã khám phá thấy những tiểu quách trong khu mồ
Talpiot, được biết là “Mồ của 10 Tiểu Quách” (Tomb of Ten Ossuaries). Công
tác được ngưng ngay và chính quyền Do Thái cũng như các nhà khảo cổ đã đến
nơi xem xét. Người ta thấy trong khu mồ đó có 10 cái tiểu quách, một cái
trong đó chứa “bộ xương cứu thế” của Giê-su, còn vài cái khác chứa xương của
gia đình Giê-su gồm vợ, con, bố, mẹ và em Giê-su. [Five of the 10
discovered boxes in the Talpiot tomb were inscribed with names believed to
be associated with key figures in the New Testament: Jesus, Mary, Matthew,
Joseph and Mary Magdalene. A sixth inscription, written in Aramaic,
translates to "Judah Son of Jesus."]
Các học giả ngày nay biết rằng từ năm 30
trước thời đại này cho đến năm 70 trong thời đại này, nhiều người ở
Jerusalem đã dùng vải gai quấn những xác chết rồi mang xác chết để trong
những tấm mồ đẽo trong hốc đó. Ở đó xác chết sẽ thối rữa trong một năm rồi
bộ xương được để vào một tiểu quách. [Scholars know that from 30 B.C. to 70
A.D., many people in Jerusalem would first wrap bodies in shrouds after
death. The bodies were then placed in carved rock tombs, where they
decomposed for a year before the bones were placed in an ossuary.]
Những cuộc thử nghiệm DNA chứng tỏ những
nhân vật trong các tiểu quách trên đó có viết những tên bằng tiếng Aramaic
như “Giê-su Con của Joseph” (Jesus Son of Joseph), “Judah con của
Giê-su” (Judah son of Jesus), và bằng tiếng Hebrew như “Maria”
[tiếng Latin là Miriam, tiếng Anh là Mary], và một tiểu quách trên có ghi
tiếng Hi Lạp "Mariamene e Mara," được dịch là “Mary được biết là Thầy
(Cô) Dạy”, có liên hệ gia đình với nhau. Ngoài ra cũng còn tiểu quách trên
có viết tên “Matia” [Matthew] và “Joseph”. Francois Bovon, Giáo sư
sử và tôn giáo tại đại học Harvard cho rằng "Mariamene” hay Mariamene, có
thể chính là tên của Mary Magdalene, vợ của Giê-su]
Phối hợp kết quả thử nghiệm DNA với những
thống kê về tên để tránh sự trùng hợp tên, Andrey Feuerverger, Giáo sư Thống
Kê và Toán tại đại học Toronto [Andrey Feuerverger, professor of statistics
and mathematics at the University of Toronto] đã đưa tới kết luận là khu mồ
ở Talpiot có xác suất là 600 trên 1, nghĩa là hầu như là chắc chắn, chính là
khu mồ của gia đình Giê-su [The study concludes that the odds are at least
600 to 1 in favor of the Talpiot Tomb being the Jesus Family Tomb. In other
words, the conclusion works 599 times out of 600.]
Và đài truyền hình Discovery Channel đã
trình chiếu cuốn phim "The Lost Tomb of Jesus" ngày 4 tháng 3, năm 2007 để
trình bày một cách khoa học về kết quả này. Độc giả cũng có thể tìm hiểu
chi tiết về vấn đề này trên các trang nhà như sau:
www.jesusfamilytomb.com và
dsc.discovery.com/news/
Lẽ dĩ nhiên Ki Tô Giáo không lấy gì làm
thích thú trước những khám phá này. Và chúng ta đã thấy một vài trang nhà
Ki Tô Giáo lên tiếng cho rằng những chữ viết trên các tiểu quách chỉ là ngụy
tạo. Nhưng cũng lẽ dĩ nhiên họ không hề giải thích là ai ngụy tạo, ngụy tạo
để làm gì, và các tín đồ thấp kém, từ con nít đến người già ở Việt Nam, vẫn
tiếp tục tin vào “bộ xương cứu thế’ của Giê-su, nghe lời xúi bậy của TGM Ngô
Quang Kiệt, đi cầu nguyện ngoài đường với búa, kìm, xà beng, và với hi vọng
là “bộ xương cứu thế’ này sẽ giúp họ đòi lại được Tòa Khâm Sứ, đất mà thực
dân Pháp toa rập cùng Giám mục Ca-Tô Puginier và Tổng Đốc tay sai Nguyễn Hữu
Độ, ăn cướp của Chùa Báo Thiên, xây nhà thờ để vinh danh Chúa Do Thái của
họ.. Thật là tội nghiệp.
Sau đây, chúng ta hãy đọc tiếp Kinh Tin
Kính:
..Tôi tin kính đức Chúa Thánh Thần. Tôi
tin có hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các Thánh thông công.
Thực ra, dịch Holy Spirit là Chúa Thánh
Thần không được đúng, vì chẳng có gì có thể gọi là Thánh hay Thần. Spirit
là dịch từ tiếng Do Thái “ruah”, có nghĩa là “hơi thở, không khí, gió”
(breath, air, wind). Ngày xưa, người ta coi nó như là một hồn ma, vì vậy mới
gọi là Thánh Ma (Holy Ghost). Cho tới bây giờ, vẫn còn rất nhiều người dùng
danh từ Holy Ghost. Tiếng thông dụng ngày nay là Thánh Linh. Gọi vậy thôi
chứ chẳng ai biết Thánh Linh là cái gì. Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma, cái gọi là
“Chúa Thánh Thần” đóng rất nhiều vai trò. Cái mà không ai nhìn thấy, không
ai sờ mó được, vô hình vô dạng, được tin là một trong ba ngôi Chúa, biến hóa
vô cùng.
Chúa Thánh Thần có thể làm cho bà Mary
mang thai mà không cần đến tinh khí của đàn ông; tới ngự trong đứa con nít
thay thế chỗ của Satan trong khi nó bị lôi đến nhà thờ làm lễ rửa tội; hướng
dẫn các Hồng Y trong việc tuyển chọn Giáo hoàng kể cả các giáo hoàng can tội
sát nhân, dâm loạn, bán phép giảm tội để lấy tiền v..v..; chủ sự hôn phối
cho những cặp nam nữ ở các nước Âu Mỹ có tỷ lệ ly dị rất cao; là nguồn tâm
linh hướng dẫn hành động của giáo hội Ca-Tô, kể cả những hành động gây ra 7
núi tội lỗi đối với nhân loại mà “tòa Thánh” mới thú tội và xin lỗi gần đây;
có mặt trong tất cả những bí tích của Ca-Tô giáo v..v.. Chúa Thánh Thần có
thể hiện ra dưới nhiều biểu tượng: nước, dầu, lửa, mây, ánh sáng, bàn tay,
ngón tay, chim cu. (Xin đọc Catechism of the Catholic Church, pp. 183-185).
Nhưng thực ra, những thuộc tính mà giáo hội Ca-Tô gán cho Thánh Linh và bắt
các tín đồ phải tin có đúng không, và có những bằng chứng gì để thuyết phục
những người ngoại đạo? Tôi sẽ bàn qua vai trò của Thánh Linh trong chương
sau, khi tôi luận về các “bí tích” trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma.
Cái mà các tín đồ Ca-Tô tin là “hội Thánh”,
nguyên nghĩa là “giáo hội Ca-Tô thánh thiện” (the holy Catholic church),
thật ra chẳng phải là hội Thánh. Vì hội Thánh nào mà lại có thể gây ra 7
núi tội lỗi mà Giáo hoàng và “tòa Thánh” đã phải xưng tội và xin được tha
thứ cùng thế giới ngày 12 tháng 3 năm 2000? Hội Thánh nào mà lại gây ra 9
cuộc “thánh chiến”với kết quả là bao nhiêu triệu người vô tội bị tàn sát,
đưa cả Âu Châu vào vòng tăm tối và man rợ trí thức trong suốt 1000 năm của
thời đại đen tối (the dark ages), lập ra những tòa hình án để dùng cực hình
tra khảo, thiêu sống, cướp tài sản của số nạn nhân lên tới 11 triệu người,
làm tiên phong hoặc đồng hành với các thế lực thực dân Âu Mỹ đi xâm chiếm
đất đai, cướp tài sản, cưỡng bách cải đạo để truyền bá cái đạo “cao quý”, vu
cho người Do Thái cái tội “giết Chúa” để có cớ bách hại người Do Thái suốt
2000 năm nay v..v.. Một cái hội có những thành tích kinh hoàng như vậy có
thể gọi là “hội thánh” được hay không? Nhất định là không thể được, ít ra
là đối với những người ngoại đạo. Còn đối với các tín đồ thì họ muốn tin ra
sao, đó là quyền của họ. Nhưng họ không có quyền bắt hoặc hi vọng những
người khác cũng phải tin như họ. Và, những người ngoại đạo, khi biết đến
lịch sử tàn bạo của giáo hội Ca-Tô, thì đương nhiên có quyền khinh khi cái
gọi là “hội thánh” này.
Nếu đã chẳng làm gì có cái gọi là “hội
Thánh” thì cũng chẳng làm gì có cái gọi là “các thánh thông công.” Các tín
đồ Ca-Tô tin rằng sau khi chịu lễ rửa tội từ khi còn khóc oe oe, chưa biết
gì, là mình đã chính thức gia nhập “hội thánh” và đương nhiên là thánh rồi.
Chẳng vậy mà ông Nguyễn Kim Khanh, một tín đồ Ca-Tô với bút hiệu là Phan
Thiết, viết trong cuốn Đất Việt.., trang 358:
..những ai giữ nghĩa cùng Chúa cho đến
hơi thở cuối cùng (bất kể là trong đời bê bối đến đâu, độc ác đến đâu, ăn
gian nói dối đến đâu v..v.. TCN) đều có quyền chia động từ “là thánh”: tôi
là thánh, anh là thánh, chúng ta là thánh..
Thánh của ông Phan Thiết thật rẻ như bèo,
đáng bao nhiêu đồng tiền? Không có tôn giáo nào nhiều thánh như Ca-Tô giáo
Rô-Ma. Nhưng thực ra, đâu có phải cứ được “tòa thánh” phong thánh hay gọi
là thánh mà là thánh. Trong Thánh Kinh cũng đầy thánh, có nhiều thánh chẳng
ai biết gốc tích ra sao, ví dụ như các thánh viết bốn phúc âm Matthew, Mark,
Luke và John. Ở ngoài đời thì cứ làm giáo hoàng là tự động thành “đức thánh
cha”, chưa kể nhiều tội đồ của nhiều dân tộc khác cũng trở thành thánh Ca-Tô
qua cái xưởng sản xuất thánh: Vatican (Hồng y Silvio Oddi: Vatican has
become a saint factory). Để độc giả có một ý niệm về thế nào là thánh trong
Ca-Tô giáo, trước hết tôi xin kể sơ lược về vài thánh trong thánh kinh.
Abraham, thánh tổ phụ của các đạo Chúa, lấy
em ruột làm vợ rồi dâng vợ cho các vua Ai Cập Pharaoh và Abimelech để đổi
lấy trâu bò đồng ruộng, rồi lại ra tay định giết đứa con ruột của mình là
Issac (Sáng Thế 20, 21); thánh Lot, dâng hai đứa con gái còn trinh cho bọn
cướp muốn làm gì thì làm (bọn cướp từ chối), sau lại ngủ với cả hai đứa con
gái ruột của mình làm cho cả hai đều mang thai (Sáng Thế 19); thánh Moses,
sản phẩm của một cuộc loạn luân (Exodus 6: bố của Moses lấy cô ruột sinh ra
Moses và Aaron), nghe lệnh Chúa Cha, giết người không gớm tay, cùng ra lệnh
cho quân dưới trướng phải giết sạch đàn ông, đàn bà và con nít trong một thị
trấn, chỉ để lại gái trinh và dâng cho Chúa một phần là 32 trinh nữ (Numbers
31); thánh David đã có nhiều vợ nhưng còn cướp vợ của Uriah là Bethsheba
bằng cách gửi Uriah ra tiền tuyến kèm theo mật lệnh cho vị chỉ huy tiền
tuyến là Joab phải làm sao để Uriah không được sống sót (2 Samuel 11:
24,26,27); và ngay cả Chúa Giê-su, chúa của các thánh, cũng là người hỗn
hào với cha mẹ, xấc láo gọi người đàn bà không phải dân Do Thái là chó, tàn
nhẫn ác độc bắt 2000 con heo vô tội đâm đầu xuống sông chết đuối, nguyền rủa
cây sung cho nó chết héo chỉ vì nó không ra quả khi trái mùa v..v.. như đã
trình bày với nhiều chi tiết trong một phần trên. Đó là tên một số thánh
quen thuộc, còn biết bao thánh khác trong thánh kinh lòng dạ độc ác, hành
động phi cầm phi thú, đếm thật không xuể.
Còn các thánh ở ngoài đời thì sao? Tín đồ
Ca-Tô Việt Nam gọi giáo hoàng của họ là “đức thánh cha”, tin rằng giáo hoàng
đương nhiên phải là bậc thánh, vì giáo hội dạy rằng, giáo hoàng được chọn là
do kết quả hướng dẫn của thánh linh cho các hồng y, những người có quyền
chọn lựa, quyết định ai là giáo hoàng. Không có một sự lừa dối nào trắng
trợn hơn là luận điệu này. Các tín đồ tin là vì họ không biết gì về lịch sử
các giáo hoàng trong giáo hội của họ. Để mở mang đầu óc của họ, sau đây tôi
xin trích dẫn một đoạn trong cuốn Những Dối Trá và Huyền Thoại Của Thánh
Kinh của Lloyd M. Graham:
Chúng tôi thừa nhận rằng điều mà chúng
tôi trình bày ở đây là chủ ý đưa ra hình ảnh một mặt, mặt đen tối và ô
nhục. Lý do để đưa ra mặt này là vì hàng triệu linh hồn bị lạc dẫn đang sơn
phết mặt kia và đưa cao nó lên như là mặt duy nhất cho thế giới những kẻ nhẹ
dạ, cả tin. Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải biết cả hai mặt, không
chỉ vì lợi ích của sự thật mà còn là cho những người đang sống trong sự nô
lệ tâm linh cho một quyền lực lừa đảo. Đối với những người này, một ngàn
năm tội ác và đồi bại được làm nhẹ đi qua lời giải thích hời hợt là “chỉ có
vài giáo hoàng xấu”. Nếu những người giải thích như vậy mà lương thiện, họ
phải thừa nhận rằng thật ra chỉ có vài giáo hoàng tốt.
Chúng tôi đã nói về sự bất lương của học
thuật Ca-Tô. Không ở đâu rõ ràng bằng luận điệu bào chữa, che đậy cho các
giáo hoàng đồi trụy.
Những tội ác của các giáo hoàng là do
những người khác làm và “không thể tránh được”, sự thiêu sống những kẻ dị
giáo là một “điều cần thiết của thời đại”, những sự trụy lạc của giáo hoàng
chỉ là “yêu thích sự vui vẻ lành mạnh”. Những hồ sơ ghi chép sự việc đương
thời đã hoàn toàn phủ bác những luận điệu trên, và những điều ghi chép này
không phải là do những kẻ thù của giáo hội viết, mà phần lớn là do những sử
gia của chính giáo hội gồm có những giáo hoàng và hồng y: giáo hoàng Victor
II, Pius II, hồng y Baronius, giám mục Liutprand, linh mục Salvianus, và các
sử gia như Milman, Gerbert, Burchard, Guicciardini, Vacandard, Draper, và
nhiều người khác. Đây chính là những người có đầy đủ thẩm quyền đưa ra cái
mặt đen tối và ô nhục của giáo hội. Những gì mà chúng tôi trình bày ở đây
chỉ là lượm lặt trong thời gian 1500 năm, nhưng chúng tôi nghĩ rằng cũng đủ
để bác bỏ mọi điều tự nhận của giáo hội, cho rằng giáo hội đã được thánh
linh tuyển chọn và hướng dẫn..
Trong thời đại đen tối (the dark ages)
những giáo hoàng được thánh linh hướng dẫn này đã giết nhau với nhịp độ 10
giáo hoàng bị giết trong vòng 12 năm (891-903) và 40 trong vòng hơn 100
năm. Sergius III là một kẻ giết nhiều người; theo hồng y Baronius và
Vulgarius, ông ta đã giết hai vị giáo hoàng tiền nhiệm. Năm 708, Toto, một
nhà quý tộc đứng đầu một đám thuộc hạ ô hợp, đã vận động để cho anh hắn được
bầu làm giáo hoàng. Đó là giáo hoàng Constantine II, người sau đó bị
Christopher, thủ tướng của ông ta, móc mắt ra. Rồi Christopher cùng con của
hắn âm mưu chống giáo hoàng Gregory và cũng cho người móc mắt Gregory. Hai
đứa cháu của giáo hoàng Leo III là Pascal và Campulus đều là linh mục.
Chúng toa rập với nhau mưu đồ thay thế Leo III, thuê một đám giết mướn để
giết Leo III khi ông ta đi dạo phố. Việc không thành, chúng đích thân ra
tay, kéo Leo III vào một tu viện và giết ông ta tại đó. Chắc độc giả cho
rằng đó là chuyện thuần túy giả tưởng, chỉ để phỉ báng. Nhưng không phải
vậy, đó là dựa theo những hồ sơ ghi lại sự việc của nhà viết tiểu sử các
giáo hoàng.
Đó chỉ là chuyện thường của thời đại.
Giáo hoàng Leo V bị một người cũng tên là Christopher hạ bệ, rồi đến lượt
tên này cũng bị hạ bệ và cái tên sát nhân giết mấy giáo hoàng tiền nhiệm đã
nói ở trên, Sergius III, lên thay. Trong thời đại này, không phải là Thánh
Ma tuyển chọn giáo hoàng mà là, theo Hồng y Baronius, những cô gái điếm
(scortas). Đó là “luật lệ của những cô gái điếm hạng sang” (rule of the
courtesans), đôi khi còn được gọi là “chế độ điếm trị” (Pornocracy), hay là
triều đại của các cô gái điếm (reign of the whores). Trong số điếm này có
một người mà Baronius gọi là “con điếm vô liêm sỉ”, Theodora, và đứa con gái
vô liêm sỉ không kém là Marozia. Cả hai mẹ con đều có con với giáo hoàng
Sergius III, và cả hai đều đưa những đứa con hoang của mình lên ngai giáo
hoàng - John XI và John XII. John XI bị cầm tù và John XII đã “biến dinh
Lateran (nơi giáo hoàng ở, trong Vatican. TCN) thành một ổ điếm”. Không có
một tội ác nào mà John XII không làm - giết người, khai gian, thông dâm,
loạn luân với hai em, đâm chém và thiến kẻ thù v..v.. Hắn ta chết trong tay
của một người chồng bị xúc phạm (vì bị bắt quả tang đang thông dâm với vợ
người này.)
Theo sử liệu, hồng y Francone cho người
thắt cổ giáo hoàng Benedict VI, sau đó lên làm giáo hoàng Boniface VII, “một
con quỷ khủng khiếp vượt mọi con người về tội ác”, theo sử gia Gerbert. Hắn
ta cũng chẳng tệ hơn gì giáo hoàng Boniface VIII.. Thật vậy! Để chiếm được
cái mũ tiara (mũ ba tầng của giáo hoàng. TCN) hắn đã thủ tiêu giáo hoàng dở
hơi Celestine V. Nhưng hắn cũng chẳng hưởng được sự chiến thắng lâu dài vì
ngay sau đó hắn bị những người La Mã truất phế. Trong triều đại của một
giáo hoàng kế vị, Clement V, sau khi chết hắn còn bị mang ra xét xử và được
xem là phạm mọi tội ác, kể cả tội hành dâm với đồng nam (pederasty) và giết
người. Và khi Clement chết thì người kế vị hắn, John XXII, phanh phui ra
rằng Clement đã quá nhân từ (Tác giả chơi chữ: “Clement had been so very
clement” vì clement có nghĩa là nhân từ) nên đã cho người cháu một số tiền
tương đương với 5 triệu dô-la, tiền của giáo hoàng. Vào thời gian này,
triều đình của giáo hoàng được chuyển đến Avignon, và thánh Phê-rô nay cùng
lúc có hai người kế thừa, một người ở Avignon và một người ở Rô-Ma. Nhưng
vậy mà cũng chưa đủ vì có khi có tới ba giáo hoàng cùng một lúc - Gregory
XII, Alexander V, và John XXIII. Về sau John XXIII bị từ khước, tên thánh
bị hủy bỏ, và gần đây tên này (John XXIII) được giáo hoàng kế vị Pius XII
lấy lại.
Sự đồi bại của John XXIII lên đến độ mà
Sigmund ở Hung Gia Lợi phải triệu tập một hội đồng điều tra hắn ta. Kết quả
của cuộc điều ta là đưa ra năm mươi bốn (54) khoản mô tả John XXIII là “độc
ác, không tôn trọng những điều thiêng liêng, không trong trắng, nói láo,
không tuân theo luật lệ và đầy những thói xấu.” Khi còn là hồng y, John
XXIII đã là người “vô nhân đạo, bất công và tàn bạo.” Khi lên làm giáo
hoàng, ông ta là “kẻ đàn áp người nghèo, khủng bố công lý; là cột trụ của
tội ác, hình tượng của những kẻ buôn bán chức tước và thánh tích; ham mê trò
quỷ thuật, cặn bã của thói xấu, đắm mình trong nhục dục; là tấm gương của sự
ô nhục, một kẻ phát minh ra những tội ác.” Hắn giữ chắc ngôi vị giáo hoàng
bằng “bạo lực và gian lận và bán phép giải tội, chức vụ, bí tích và những đồ
ăn cướp được.” Hắn “xúc phạm thánh thần, thông dâm, giết ngưòi, hiếp dâm và
ăn cắp.”.. Một vài những giáo hoàng như vậy vô đạo đức, tục tĩu đến độ phải
đi đày. Ít nhất là có hai giáo hoàng bị móc mắt và cắt lưỡi, rồi buộc vào
đuôi lừa kéo lê ngoài đường phố. Một số khác bị khinh ghét đến độ người ta
quật xác chúng lên và ném xuống sông Tiber. Sau một ngàn bốn trăm năm dưới
quyền lực của Ki Tô Giáo, đạo đức xuống thấp đến độ giáo hoàng Pius II than
rằng “hiếm mà có một ông hoàng ở Ý không phải là đứa con hoang.” Lời tuyên
bố này cũng áp dụng cho những ông hoàng của giáo hội (nghĩa là những giáo
hoàng, hồng y, giám mục v..v..) như là của chính quyền dân sự.
Tệ hại như vậy nhưng sự tệ hại hơn còn
chưa tới - với giòng họ Borgias, đặc biệt là Rodrigo. Trong những giáo
hoàng xấu xa độc ác thì hắn xứng đáng đứng đầu. Bằng cách hối lộ 15 hồng y
với số tiền tương đương với 3 triệu đô-la, hắn chiếm được sự tuyển lựa một
con người tệ hại nhất trong lịch sử - chính hắn, lên làm giáo hoàng với tên
Alexander VI. Sử gia Guicciardini mô tả hắn như sau: “..có những thói quen
cực kỳ tục tĩu, vô liêm sỉ và không có một ý thức nào về sự thật, nuốt lời,
không có tình cảm tôn giáo, tham lam vô độ, nhiệt tình tham vọng, độc ác quá
sự độc ác của những giống người man rợ, tham muốn đưa con lên địa vị cao
bằng mọi thủ đoạn: hắn có nhiều con, và một trong những đứa này - cũng đáng
ghê tởm như cha của nó.” Đó là con người nổi tiếng, Cesare Borgia, người
đã giết người anh rể là John, và hai hồng y khác để chiếm được cái áo hồng
y..
Khi còn là hồng y, cái kẻ chơi bời phóng
đãng và sát nhân này đã biến chỗ ở của mình trong Vatican thành một ổ điếm.
Theo sử gia đương thời là Burchard, hắn đắm mình trong những cuộc hoan lạc
trong những phòng của hắn, ngay trên phòng của giáo hoàng, và những cô gái
điếm hạng sang “nhảy múa trần chuồng trước những tôi tớ của Chúa và vị đại
diện của Chúa (nghĩa là giáo hoàng. TCN).”.. Đó là sự hoan lạc được giải
thích như là “lòng yêu thích sự vui vẻ lành mạnh.”
Đó là những ông hoàng của giáo hội trong
những ngày đó. Trong thời Trung Cổ, tập thể các hồng y cũng đồi bại như là
một tập thể mà người ta có thể kiếm được trong suốt giòng lịch sử. Chiếm
được một ngôi vị hồng y chỉ là vấn đề có tiền và ảnh hưởng quen thuộc. Đức
tính, sự hiểu biết, và khả năng không dự phần nào trong đó. Thật vậy, những
đứa trẻ mười bốn mười lăm tuổi đôi khi cũng được đưa lên ngôi vị hồng y.
Giáo hoàng Paul III cho hai đứa cháu (gọi Paul III bằng ông) làm hồng y..
Paul IV cũng cho một đứa cháu gọi Paul IV bằng bác lên làm hồng tuy chính
ông ta nói “cánh tay của nó ngập máu đến tận khuỷu tay.”
Vậy mà đó là những người, với sự trợ
giúp của Thánh Ma, tuyển chọn giáo hoàng..
Tại sao cái lịch sử ô nhục này không
được tín đồ biết đến như là lịch sử các giáo hoàng mà họ cho là tốt? Tại
sao các tín đồ Ca-Tô không được dạy rằng chính những con người như trên đã
đưa đến sự cải cách chứ không phải là do “con quỷ Luther đó.”? Giáo phái
Tin Lành nổi giậy không chỉ vì Luther mà vì sự phản đối tôi ác và sự đồi bại
của giáo hội Ca-Tô trong nhiều thế kỷ. Tên Sa-Tăng Phê-rô đã xúc phạm đến
toàn thể Âu Châu.. 28
Trên đây chỉ là sơ lược về những sự đồi bại
cùng cực của một số không nhỏ “đức thánh cha”, những người được Thánh Linh
hướng dẫn tập đoàn hồng y trong sự tuyển chọn, trong lịch sử Ca-Tô Giáo
Rô-Ma. Tôi chưa hề nói đến những hoạt động lừa đảo, gian dối, thế tục, thực
dân của “hội thánh” liên hệ đến những vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế, văn
hóa v..v.. trên khắp thế giới. Những vấn đề này cần riêng một cuốn sách mới
có thể tạm gọi là đầy đủ. Riêng về các chuyện “thâm cung bí sử” của Ca-Tô
Giáo Rô-Ma, quý độc giả nào muốn biết thêm chi tiết có thể đọc cuốn Những
Đại Diện Của Ki-Tô: Cái mặt Đen Tối Của Giáo Hoàng Triều (Vicars of
Christ: The Dark Side of the Papacy) của Tổng Giám Mục Peter de Rosa, trong
đó có một chương nói về Triều Đại Giáo Hoàng Do Điếm Trị (Papal
Pornocracy) mà Hoàng Thiên đã dịch với đầu đề không được sát nghĩa cho lắm:
Triều Đại Dâm Loạn Của Các Giáo Hoàng, và đăng trong Tuyển Tập I: Tại Sao
Không Theo Đạo Chúa, do ban nghiên cứu đạo giáo ở Texas xuất bản và phát
hành năm 1994. Độc giả cũng có thể đọc những cuốn sau đây: Những Giáo
Hoàng Đồi Bại (The Bad Popes) của E. R. Chamberlin; Vạch Trần Những
Sự Thực về Các Giáo Hoàng: Một Nghiên Cứu Thẳng Thắn về Vấn Đề Nhục Dục và
Đồi Bại trong cung đình Vatican (Unzipped: The Popes Bare All, A Frank
Study of Sex and Corruption in the Vatican) của Arthur Frederick Ide;
Những Chuyện Tình Ái của Vatican hay Những Tình Nhân Yêu Chuộng của Các Giáo
Hoàng (The Love Affairs of the Vatican or The Favorites of the Popes)
của Tiến sĩ Angelo S. Rappoport.
Có thể có những tín đồ Ca-Tô, tin theo lời
chống đỡ của giáo hội, cho rằng đây chỉ là những chuyện dính líu đến một số
giáo hoàng, hồng y xấu xa trong quá khứ và đó là những chuyện đã qua. Không
hẳn vậy, những chuyện đồi bại, ác độc không chỉ giới hạn trong giới giáo
hoàng hay hồng y mà còn lan tràn trong mọi giới lãnh đạo Ca-Tô gồm cả các
Tổng Giám Mục, Giám Mục và Linh mục, và kéo dài cho đến tận ngày nay. Độc
giả có thể đọc những chuyện này trong nhiều tác phẩm đã xuất bản, đặc biệt
là chương I trong cuốn The Love Affairs of the Vatican của Dr. Angelo
S. Rappoport.
Tôi không muốn đi sâu vào những vấn đề
này. Những tài liệu nêu trên chỉ có mục đích là chứng minh rằng: không có
cách nào chúng ta có thể coi Ca-Tô giáo như là một “hội thánh” vì giáo hội
Ca-Tô đã phạm quá nhiều tội ác đối với nhân loại, và vì nhiều bậc lãnh đạo
trong Ca-Tô giáo, kể cả một số người được phong làm Thánh Ca-Tô, xưa cũng
như nay, không đủ tiêu chuẩn đạo đức và trí tuệ để theo kịp những người dân
bình thường lành thiện, khoan nói đến những bậc thánh nhân theo sự hiểu và
định nghĩa của những người Á Đông về thánh nhân..
Có lẽ vì vậy mà Giám mục Spong đã nhận định
về những từ “hội thánh” và “các thánh thông công” trong Kinh Tin Kính như
sau:
Kinh Tin Kính kết bằng một đoạn hiến
dâng cho Thánh Linh, cái mà người ta nói rằng đã tạo nên giáo hội trong ngày
hạ trần của ông ta (được quy định vào ngày chủ nhật thứ bảy sau ngày chủ
nhật Phục Sinh. TCN), và được cho là vẫn tiếp tục chứa đầy giáo hội với “sự
hiện diện của Thần Ki-Tô”. Thứ nhất, chúng ta cần ghi nhận rằng, tất cả
những biểu tượng về ngày hạ trần của Thánh Linh đều bắt nguồn từ cùng một
quan niệm về ba tầng trời (theo thánh kinh: thiên đường ở trên các tầng mây,
mặt đất phẳng dẹt, đứng yên và là trung tâm của vũ trụ, và hỏa ngục ở dưới
mặt đất. TCN) trong đó người ta nói rằng Giê-su đã bay lên trời (thiên
đường). Giả định đằng sau câu chuyện gửi Thánh Linh hạ trần là cho rằng
trái đất là trung tâm của vũ trụ và Thần Ki Tô sống ở trên trời có thể đổ
xuống những ân sủng. Thứ nhì, Kinh Kinh Tín khẳng định là cái thánh linh
này sẽ được phân phát trong các thánh thông công, liên tục tiếp sinh khí cho
“giáo hội Ca-Tô thánh thiện.” Giáo hội, trong suốt giòng lịch sử, thật ra
cũng có những thời trông giống như các thánh sống cùng nhau (tác giả muốn
nói đến các thời trước thế kỷ thứ tư, trước khi Constantine nhận Ki-Tô giáo
làm quốc giáo. TCN). Nhiều đời sống cá nhân đã biến đổi, trở nên phong phú
hơn khi kết hợp với cộng đồng và sự thờ phụng Ki-Tô. Nhưng trong lịch sử
giáo hội, giáo hội cũng có những giai đoạn khủng khiếp đánh dấu bởi những
cái gọi là “thánh chiến”, “chiến tranh thiêng liêng của các thập tự quân”,
những tòa hình án xử dị giáo, chính sách vô nhân đạo chống Do-Thái, và sự
công khai giết những người khác giống, kỳ thị phái nữ và chống những người
có khuynh hướng đồng giống tình dục. Trong những giai đoạn này, bạo
lực quá mức đã được những người tự gọi mình là tín đồ Ki-Tô dùng thả giàn
trên cả những dân của Thần cũng như những tạo vật của Thần. Những sự khủng
khiếp như vậy đã giáng xuống đầu nhân loại nhân danh một vị Thần của tình
yêu thương. Trong những giai đoạn này thì các thánh thông công ở đâu?
Chúng ta tính sao với những sự kiện lịch sử này mỗi khi chúng ta đọc câu
trên trong Kinh Tin Kính? 29
Chúng ta thấy rằng, những tín đồ Ca-Tô quả
là đáng thương hại. Đầu óc họ bị nhào nặn từ khi mới sinh ra đời nên họ
hàng ngày cứ đọc lên những lời vô nghĩa, không biết rằng mình đã bị lừa dối
bởi những lời nói láo vĩ đại. Chẳng trách là họ không thể tin được những gì
không phù hợp với đức tin của họ, bất kể là những điều này đúng với sự thật
như thế nào. Sau đây chúng ta hãy xét đến câu sau cùng trong bản Kinh Tin
Kính:
..Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài
người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Tôi sẽ luận bàn về phép tha tội trong
chương sau, khi tôi xét đến các “bí tích” trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma.
Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng,
giáo hoàng John Paul II phán, trang 76: “Thiên Chúa quá thương yêu thế
gian đến nỗi ban con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không
bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.”
Vì vậy, các tín đồ Ca-Tô tin rằng khi
Giê-su trở lại trong ngày phán xét cuối cùng để phán xét kẻ sống người chết
thì, vì họ là những người tin theo Giê-su, nên Giê-su hóa phép cho xác chết
họ sống lại và bay lên trời như Giê-su khi xưa, sống vĩnh viễn trên cái nhà
ở trên trời (thiên đường). Nhưng điều khẳng định thần học trên ngày nay đã
không còn chỗ đứng trong một thế giới đã văn minh tiến bộ hơn thế giới cách
đây 2000 năm nhiều. Vì, như tôi đã trích vài đoạn trong Thánh Kinh và chứng
minh rằng Giê-su đã hứa hão với các môn đồ là sẽ trở lại phán xét thế gian
ngay trong thế hệ của Giê-su nhưng rồi đã biệt tăm suốt 2000 năm nay. Mặt
khác, theo tiêu chuẩn luân lý đạo đức ngày nay thì hành động giết con của
Thiên Chúa không thể chấp nhận được. Phải chăng vì vậy mà Giám mục Spong đã
viết:
Một người cha đóng đinh con mình lên cây
thập giá với bất cứ mục đích nào cũng phải bị bắt giữ về tội hành hạ trẻ
con. Vậy mà người ta vẫn cứ tiếp tục nói Thần Ki Tô như vậy, làm như chuyện
đó làm cho Thần thánh thiện hơn và xứng đáng để được thờ phụng hơn.
Tôi chọn thái độ ghê tởm thay vì đi thờ
phụng một vị thần đòi hỏi sự hy sinh của con mình.
30
Có điều tôi thật tình không hiểu là khi các
tín đồ Ca-Tô tin rằng xác chết sống lại thì họ muốn nói đến xác chết dưới
hình dạng như thế nào. Xác chết còn nguyên hay đã rũa nát hết thịt, chỉ còn
trơ lại bộ xương? Đội mồ mà lên hay được các thánh trong Ca-Tô Giáo đào
lên? Còn những tín đồ ra trận bị bom đạn làm cho xương tan, thịt nát v..v..
thì sống lại như thế nào. Lại còn những người sinh ra và chết đi trước khi
Giê-su sinh ra đời. Hiển nhiên, những người này không hề biết đến Giê-su để
mà tin, vậy họ có bị luận phạt hay không? Đối với dân tộc Việt Nam và nhiều
dân tộc khác ở Á Châu, không ai biết đến Giê-su trước thế kỷ 16, trong số
này có cả tổ tiên, cha mẹ những kẻ tân tòng Ca-Tô, vậy họ cũng bị luận phạt
hay sao? Tín đồ Ca-Tô có bao giờ nghĩ đến những vấn nạn này hay chỉ cần ăn
cái bánh vẽ “xác chết sống lại” và “sống đời đời” , thỏa mãn lòng ích kỷ
riêng của cá nhân mình?
Giả thử Giê-su trở lại ngày hôm nay để luận phạt kẻ
sống người chết, ông ta sẽ luận phạt cặp trẻ sinh đôi dính liền vào nhau
(Siamese twins: hình ảnh có trên TV) nhưng chỉ có một trái tim như thế nào,
dựa trên căn bản nào. Còn bao nhiêu đứa trẻ khác, vừa sinh ra đã bị đủ mọi
khuyết tật, chúng sẽ bị luận phạt ra sao? Ngoài ra, không kể những người đã
chết, và những người sẽ tiếp tục chết cho tới khi Giê-su trở lại, rất có thể
là 5, 7 tỷ năm nữa, khi đó trái đất không còn, hiện nay số người sống trên
trái đất là trên 6 tỷ người.
Cho rằng Giê-su là một siêu nhân (superman),
có thể luận sự thưởng phạt con người với một tốc độ kỷ lục, chỉ cần 1 phút
là xét xong hồ sơ lý lịch thiện ác, tin hay không tin v..v.. của một người
để đưa ra quyết định là cho họ lên thiên đường (mù) hay đày họ xuống hỏa
ngục (tưởng tượng), thì ông ta cũng phải cần đến một thời gian là trên mười
ngàn năm (10000) mới phán xét xong. Trong 10 ngàn năm này, dân số thế giới
lại tăng lên không biết đến bao nhiêu. Theo Thánh Kinh thì bắt đầu bắng con
số 2 (Adam và Eve) cách đây 6000 năm, khi Thần Ki Tô “sáng tạo” ra vũ trụ và
thế giới loài người, nay con số đó đã tăng lên trên 6 tỷ. Vậy bắt đầu bằng
con số 6 tỷ, trong 10000 năm nữa, với cùng một nhịp độ gia tăng dù “tòa
thánh” đã bỏ vốn làm thuốc ngừa thai và cùng lúc cấm tín đồ dùng thuốc ngừa
thai, số người trên thế gian này có thể lên tới trên 20 tỷ tỷ (20 billion
billion).
Tôi xin tình nguyện xếp hàng ở chót để cho Giê-su phán xét, tuy
rằng tôi tin Giê-su chẳng có quyền phán xét ai, vì đó chỉ là những luận điệu
thần học hoang đường của con người bày đặt ra. Cứ mỗi khi có người mới sinh
ra tôi lại hoan hỉ nhường chỗ cho họ xếp hàng trước để được Giê-su mau phán
xét, vậy bao giờ mới tới lượt tôi? Một bài toán không có đáp số, hay nói
đúng hơn, đáp số là một con số ngoài sức tưởng tượng của con người. Nhưng
mà, vấn đề then chốt là, ai cho Giê-su cái quyền phán xét những người không
tin theo Giê-su, không chịu phép rửa tội hoang đường (như sẽ được trình bày
trong chương sau), những người coi chuyện “phán xét kẻ sống người chết” là
chuyện hoang đường nhất trong những chuyện hoang đường. Ai muốn tin sao là
quyền của họ, nhưng họ cũng phải hiểu rằng, “không tin” là quyền của tôi, và
quyền này là quyền bất khả xâm phạm.
Kết luận? Cái luận điệu thần học “ai tin
vào Giê-su sẽ không bị luận phạt và được sống đời đời” chẳng qua chỉ là một
cái bánh vẽ đưa ra để chiêu dụ đám tín đồ đầu óc thấp kém, không có khả năng
suy nghĩ, không có một ý niệm gì về lô-gic, và không hiểu gì về nguồn gốc,
lịch sử của Ca-Tô Giáo Rô-Ma. Luận điệu thần học này đã buộc chặt đầu óc tín
đồ bằng một loại xiềng xích vô hình khiến cho tín đồ không còn có thể vùng
vẫy thoát ra được trừ khi họ đã mở mang đầu óc, dùng lý trí để suy luận và
nhận ra tính chất hoang đường, phi lý, phi lô-gic, phi thực tế, phi đạo đức
và phản khoa học của một tín điều chỉ có thể hợp với đầu óc của dân Do Thái
trong thời bán khai.
Điều đáng nói là, không những giáo hội buộc chặt
đầu óc tín đồ trong Kinh Tin Kính mà còn mê hoặc đầu óc họ trong những lễ
tiết đượm nhiều mê tín mà giáo hội đặt ra và gọi đó là những “bí tích”,
nghĩa là những thứ tín đồ trông thấy hiển nhiên nhưng lại tiềm ẩn những sự
huyền nhiệm mà tín đồ chỉ cần tin, không cần hiểu, những huyền nhiệm chưa
bao giờ, chưa có ai, chưa có cách nào có thể kiểm chứng được đó là những sự
thực có thể xảy ra. “Bí Tích” chính là chủ đề khảo luận của tôi trong
chương tới.
Ghi chú của sachhiem.net: mời xem các bài kinh Công
giáo ở
http://www.tinmung.net/KINHHANGHNGAY/KinhhangngayINDEX.htm
Các bài về tôn giáo cùng tác giả