(tiếp theo bài trước)
Kết luận
Một trong những thử thách lớn nhất đối với nền văn minh của thế kỷ hai mươi mốt
là để cho nhân loại học hỏi được cách bày tỏ những quan tâm cá nhân sâu kín nhất
của mình - về luân lý, kinh nghiệm tâm linh và những đau khổ không tránh khỏi
được của con người – trong những phương cách không tỏa ra mùi vị phi lý. Chúng
ta rất cần đến một cuộc bàn luận công khai để khuyến khích những suy tưởng phê
phán và lương thiện trí thức. Không có gì ngăn cản dự án này hơn là lòng kính
trọng mà chúng ta đang dành cho đức tin tôn giáo.
Chắc tôi là người đầu tiên thú nhận rằng các triển vọng nhằm tiệt trừ tôn giáo
trong thời đại của chúng ta không được tốt đẹp lắm. Thế nhưng, một thú nhận
tương tự như thế có thể đã từng xảy đến trong nỗ lực tiêu diệt tệ nạn nô lệ vào
cuối thế kỷ mười tám. Ai hằng phát biểu tự tin về cuộc diệt trừ nô lệ ở Mỹ vào
năm 1775 chắc chắn tưởng là mình phí thì giờ và phí thì giờ một cách nguy hiểm.
So sánh tương đồng ấy không được hoàn hảo lắm nhưng có tính gợi ý. Nếu như chúng
ta có từng vưọt qua được niềm hoang mang về tôn giáo của chúng ta, chúng ta có
thể sẽ nhìn lại giai đoạn này trong lịch sử nhân loại với nỗi kinh hoàng và hết
sức sửng sốt. Làm sao mà con người ta có thể từng tin những điều như thế ở thế
kỷ hai mươi mốt này. Làm sao người ta có thể để cho xã hội của họ trở nên vỡ nát
một cách hiểm nghèo bởi những khái niệm trống rỗng về Thiên chúa và Thiên đàng?
Sự thật là, một số niềm tin mà chúng ta hằng ấp ủ nhất đã đáng xấu hổ như con
tàu chở nô lệ cuối cùng đến Mỹ trễ đến tận cuối năm 1859 (cùng vào niên đại mà
Darwin xuất bản Nguồn gốc của Sinh vật).
Rõ ràng, đến lúc chúng ta phải học cách thoả mãn những nhu cầu xúc cảm của mình
mà không phải ôm lấy sự lố bịch. Chúng ta phải tìm cách nào để mỗi khi cầu xin
đến sức mạnh của các nghi thức tế lễ và ghi dấu các chuyển hoá của đời sống
thường nhật vốn đòi hỏi đến chiều sâu – như các việc sinh sản, hôn nhân, tử biệt
– mà không phải tự dối mình về chức năng tự nhiên của đời sống. Chỉ khi nào việc
nuôi dạy con trẻ để khiến chúng tin mình là người Ki-tô giáo, người Hồi giáo hay
người Do Thái giáo sẽ bị xem như một sự xuẩn ngốc lố bịch như chính bản thân sự
việc ấy. Chỉ khi ấy chúng ta mới có được cơ hội hàn gắn những rạn vỡ quá sâu và
nguy hiểm trên thế giới của chúng ta.
Tôi không hề nghi ngờ rằng sự chấp nhận chúa Ki-tô của bạn trùng hợp với những
thay đổi tốt đẹp trong đòi sống của bạn. Có thể là bạn hiện đang yêu kẻ khác
trong một phương cách mà bạn chưa hề từng nghĩ rằng bạn có thể yêu thương như
vậy. Có thể bạn còn chứng nghiệm được cảm giác hạnh phúc khi bạn cầu nguyện. Tôi
không hề có ý dèm pha bất cứ chứng nghiệm nào như thế của bạn. Tuy nhiên, tôi
chỉ muốn vạch ra rằng, hàng tỉ con người khác của cả nhân loại đang có cùng
những chứng nghiệm tương tự - nhưng họ có chứng nghiệm ấy khi suy tưởng về
Khrisna, hoặc Allah, hoặc Phật thích ca, khi sáng tạo nghệ thuật, âm nhạc, hay
khi suy tưởng về vẻ đẹp của thiên nhiên. Không có nghi ngờ gì về năng lực chứng
nghiệm những chuyển biến sâu sắc của con người. Và không có nghi hoặc gì về khả
năng diễn đạt sai những chứng nghiệm ấy, và đi xa hơn nữa trong sự tự lừa dối
mình vể bản chất của thực tại. Dĩ nhiên, bạn có lý khi tin rằng cuộc đời còn có
những điều quan trọng hơn là việc chỉ am hiểu cơ cấu và nội dung của vũ trụ.
Nhưng điều này không hề khiến những khẳng định phi lý và không thể biện giải
đưọc về cấu trúc và nội dung của vũ trụ trở nên đứng đắn hơn.
Thật là quan trọng để ý thức được rằng khác biệt giữa khoa học và tôn giáo không
phải là vấn đề ở sự việc loại trừ trực giác luân lý và chứng nghiệm tâm linh của
chúng ta ra khỏi cuộc bàn luận về thế giới; mà vấn đề là ở sự chân thật của
chúng ta về những gì chúng ta có thể kết luận hợp lý được từ căn bản của chúng.
Có những lý lẽ đúng để tin rằng những đấng như Jesus và Phật thích Ca không hề
nói điều vô nghĩa khi phát biểu về năng lực con người của chúng ta để chuyển hóa
đời sống chúng ta bằng những phương cách đẹp đẽ và hiếm có. Nhưng bất cứ khám
phá chân thực nào của luân lý hay suy tưởng cuộc sống đòi hỏi các tiêu chuẩn
giống nhau về tính hợp lý và tự phê phán để làm sinh động tất cả các bàn luận
trí thức.
Như một hiện tượng sinh học, tôn giáo là sản phẩm của tiến trình nhận thức vốn
có gốc rễ sâu trong quá khứ tiến hoá của chúng ta. Một số nhà khảo cứu đã nghiên
cứu rằng có lẽ bản thân tôn giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc khiến
cho các nhóm lớn các con người tiền sử gắn bó xã hội với nhau. Nếu điều này là
đúng, chúng ta có thể nói rằng tôn giáo đã cống hiến một mục đích quan yếu. Tuy
vậy, điều này không có nghĩa là tôn giáo đang cống hiến một mục tiêu quan yếu
cho ngày hôm nay. Cuối cùng, không có gì tự nhiên hơn sự hãm hiếp. Nhưng
không ai có thể biện luận rằng hãm hiếp là tốt, hoặc hãm hiếp là thích ứng với
một xã hội dân sự, bởi vì hãm hiếp có thể có thể đã từng là một lợi thế tiến hoá
cho tổ tiên của chúng ta. Một tôn giáo từng phục vụ cho một số chức năng cần yếu
cho chúng ta trong quá khứ không thể ngăn ngừa khả năng là tôn giáo ấy đang là
bước cản lớn nhất cho việc xây dựng một nền văn minh toàn cầu của chúng ta.
LÁ THƯ này là một sản phẩm của một sự thất bại. Thất bại của những cuộc tấn công
đầy tài năng vào tôn giáo từng đến trước đây, thất bại của nhà trường chúng ta
trong việc làm thế nào để đả thông được cái chết của Thiên chúa đến từng thế hệ,
thất bại của truyền thông trong sự phê phán các khẳng định tôn giáo thấp hèn của
những con người thuộc công chúng của chúng ta - thất bại lớn, hoặc nhỏ đã giữ
cho mọi xã hội trên địa cầu này cứ luẩn quẩn lúng túng về Thiên chúa và khinh
miệt những ai luẩn quẩn lung túng bằng cách khác.
Những người không tin vào tôn giáo như cá nhân tôi đứng cạnh bạn, lặng người đi
bên lũ Hồi giáo đang cầu tử thần đến trên cả đất nước của bao người còn đang
sống. Nhưng chúng tôi cũng lặng người đi vì bạn nữa – vì sự từ chối cái
thực tế hiển nhiên của bạn, vì sự khổ đau mà bạn đang tạo ra trong sự phục vụ
cho những bí hiểm tôn giáo của bạn, và bởi vì những dính líu của bạn với một
Thiên chúa tuởng tượng. Lá thư này là là diễn đạt của những sửng sốt ấy – và, có
lẽ của cả một niềm
hy vọng nhỏ nhoi.
1.
Nếu bạn có thể tin được : Vatican đang chống lại việc xử dụng bao cao su
để ngăn ngừa bệnh HIV ngay cả giữa những người có cưới hỏi với nhau. Có tin đồn
cho rằng Giáo Hoàng đang xem xét lại chính sách này. Hồng Y Javier Lazano
Barragan, lãnh đạo Uỷ ban Y tế của tòa thánh , đã thông báo trên đài phát thanh
Vatican rằng văn phòng của người đang “ thực hiện một nghiên cứu sâu sắc rất kỹ
thuật, khoa học, và đạo đức” về vấn đề này. Thật không cần phải nói, nếu học
thuyết Nhà thờ thay đổi do kết quả của những cân nhắc đạo đức giả này, sẽ là một
chỉ dấu cho thấy rằng không phải đức tin ấy thâm thúy mà là đức tin của giáo
điều ấy đã phát triển không thể cứu chữa được nữa.
2.
Hitler đã nói trong bài diễn văn đọc ngày 12 tháng 4 năm 1922. (Norman H.
Bayes, ed. The Speeches of Adolf Hitler, April 1922- August 1939. Vol. 1
of 2, pp. 19-20. Oxford University Press, 1942”:
Nhận thức
Ki-tô giáo của tôi đã dẫn tôi đến với Thiên Chúa và bậc cứu rỗi mình như một
chiến sĩ (…) Trong tình yêu không bờ bến của một người Ki-tô hữu và của một con
người, tôi đã đọc được những dòng ẩn ngữ dạy chúng ta biết cuối cùng đức Chúa đã
dương cao sự vĩ đại của người, nắm giữ lấy tai ương để quét sạch lũ rắn độc khỏi
Ðiện thờ. Cuộc chiến đấu cho thế giới chống lại nọc độc Do Thái của người lớn
lao biết dường nào …là người Ki-tô giáo tôi còn có trách nhiệm với riêng dân tộc
của mình.
3.
“phỉ báng huyết thống” (với chủ ý nhằm đến người DoThái) gồm các cáo buộc
sai lầm rằng người Do Thái đã giết hại những người không phải Do Thái để lấy máu
của họ dùng vào những nghi thức tế lễ . Sự kết án này vẫn còn được tin là thật ở
nhiều nơi trong các nước Hồi giáo.
4.
Sự thật cần được nói, hiện nay tôi nhận được các điện thư phản kháng từ
những người khẳng định với tất cả chân thành rõ rệt, rằng họ tin Thuỷ thần
(Poisedon) và các thần linh khác của thần thoại Hy lạp là có thật.
5.
Thí dụ như nhà vật lý học Stephen Hawking hình dung không-thời gian như
một hiện hữu đa dạng kín, bốn chiều, không có đầu, không có cuối (giống như bề
mặt của một quả cầu)
6.
Ðể chữa trị chứng sanh nghẹt thai, chỉ cần đến một giải phẫu đơn giản-chứ
không cần phải cầu nguyện. Dù nhiều người có đức tin vẫn cứ tin rằng cầu nguyện
có thể chữa lành nhiều căn bệnh (bất kể là các chúng bệnh đã được các khảo cứu
khoa học tốt nhất tìm ra) Chuyện cầu nguyện này cũng kỳ cục ở chỗ là người ta
chỉ cầu nguyện trong những trường hợp bệnh tật hoặc thương tích có giới hạn
thôi. Chẳng hạn như không ai tin rằng lời cầu nguyện có thể khiến cụt tay chân
có thể mọc ra lại. Sao không nhỉ? Giống kỳ nhông có thể làm được việc này, đoán
chừng là không phải cầu xin gì. Nếu Thiên chúa từng đáp lại lời cầu xin, sao
Người không đôi lúc chữa lành một trường hợp cụt tay chân Và sao người có đức
tin không trông mong vào cầu nguyện trong những trường hợp ấy?
7.
Phụ nữ, khi dám chối từ các hôn nhân cưỡng ép, đòi ly dị, phạm tôi ngoại
tình hoặc ngay cả khi bị cưỡng hiếp, là nạn nhân của các sách nhiễu tình dục
thường bị xem là đã “làm mất danh dự” của gia đình mình. Các phụ nữ trong tình
huống này thường bị sát hại bởi chính người cha đẻ, anh em trai của họ hoặc có
khi từ sự hợp tác của những phụ nữ khác. Giết người vì danh dự, có lẽ, quan niệm
đúng nhất là một hiện tượng văn hóa (hơn là thuần túy tôn giáo), và nó không chỉ
xảy ra riêng trong thế giới Hồi giáo. Tuy nhiên, hành vi này, đã có hậu thuẫn
đáng kể từ Hồi giáo, khi tôn giáo này rõ ràng coi người phụ nữ như tài sản của
người đàn ông và xem ngoại tình như một trọng tội. Trong khắp thế giới Hồi giáo,
người đàn bà nào dám thưa mình bị cưỡng hiếp sẽ phải nhận lãnh sự nguy hiểm của
việc bị giết hại như “kẻ ngoại tình” bởi lẽ, cuối cùng người đàn bà ấy cũng phải
nhận tội đã có quan hệ thân xác với kẻ không phải chồng mình.
Có một trang
WEB rất phi thường đang dốc lòng khám phá bí hiểm này:
www.whydoes godhatesamputees.com