Một Thời Tranh Đấu - Hồi ký lịch sử 1942-1954 Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc Khôi Nguyên Nguyễn Đình Thư (tự Nguyễn Đình Minh) https://sachhiem.net/LICHSU/N/NguyenDinhThu.php LTS: Vì nhu cầu tìm hiểu vài sự kiện tế nhị chính trị trong trong lịch sử, chúng tôi đã trích ra một số đoạn văn liên quan trong tập hồi lý lịch sử của tác giả Khôi nguyên Nguyễn Đình Thư, tự Nguyễn Đình Minh, một giáo dân giữ vị trí rất gần gũi Giám mục Lê Hữu Từ, linh mục Hoàng Quỳnh, và linh mục Trần Lục, tức Cụ Sáu, trong giai đoạn nước ta bị xâu xé bởi ngoại cường Pháp và cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Tập hồi ký đăng trên VNTQ ngày 14.05.2022. Nội dung này chỉ là một góc nhìn từ phía người Công giáo La mã, không phản ảnh quan điểm của trang nhà. Hồi ký này cho thấy giáo hội Công giáo không bao giờ chịu thần phục một thế quyền nào ngoài giáo hội của họ. Sự tham gia Mặt trận Việt Minh của các đoàn thể thuộc Công giáo chỉ là một chiến thuật hợp thức hóa để tiến đến mục đích riêng của họ mà thôi. Chúng tôi trích lại nguyên văn những Chương/đoạn liên quan đến chủ đề chọn lựa.. Toàn tập hồi ký đã được giới thiệu trong link dưới đây để bạn đọc tham khảo. Xin thành thật cám ơn quí trang chủ VNTQ. (SH) _____________________ Gồm có các mục: - Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. - Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc lập chiến khu. - Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc chống Pháp, chống Nhật. - Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và Mặt Trận Việt Minh sau Cách Mạng mùa Thu 1945. - Tổ chức và võ trang các đoàn thể công giáo cứu quốc. - Chiến tranh tuyên truyền giữa Công Giáo Cứu Quốc và Việt Minh. - Giám Mục Lê Hữu Từ - Cố vấn chính phủ. - Các đảng phái quốc gia tranh đấu sát cánh với Tổng bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm. - Những cuộc xô xát đẫm máu xẩy ra tại Phát Diệm. _____________________ Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. [trích Chương 2 trong tập sách Một Thời Tranh Đấu - Hồi ký lịch sử 1942-1954] ... Sau ngày căn cứ hải quân Hoa Kỳ Pearl Harbor bị không quân Nhật Hoàng tấn công ngày 7 tháng 12 năm 1941 và Hoa Kỳ khai chiến với Nhật Bản, quân đội Nhật Bản chiếm đóng hoàn toàn bán đảo Đông Dương và từ đó chiếm đóng khắp vùng Đông Nam Á Châu và Khối Thịnh Vượng Chung được Nhật Bản phát động. Đúng vào thời điểm này, bộ ba Minh, Ngân và Diễn (3 người bạn thân: Nguyễn Đình Minh tức tác giả Nguyễn Đình Thư, Trần Ngân tức Trần Bằng Phong và Nguyễn Duy Diễn) được tăng cường thêm cha Hoàng Quỳnh, tuyên úy của phong trào Công Giáo Tiến Hành địa phận Phát Diệm và "nhà tôi" Tuyết Minh nhập bọn, sau lễ kết hôn của chúng tôi ngày 22 tháng 1 năm 1942. Tình hình đối với Giáo Hội Công Giáo, nhất là sau vụ dân chúng ở Nghệ An và Đò Lương nổi dậy và bạo động chống thực dân Pháp, được nghiên cứu rất kỹ lưỡng, chúng tôi nhận thấy có một phong trào chống Công Giáo giống như Văn Thân ngày trước, bắt đầu được dấy lên tại Thanh Hóa, nhiều tin phao đồn được tung ra nói các bà mụ (nữ tu dòng Mến Thánh Giá) và người công giáo đi bỏ thuốc độc ở các giếng nước ở huyện Thạch Thành và Nông Cống, do đó dân được cử ra canh giữ và người công giáo ở vùng này bị nghi ngờ và bị theo rõi. Một nhận định được nêu ra là nếu Phát Diệm không có hoạt động thích hợp thì chắc chắn dân công giáo sẽ bị mang tiếng là không đóng góp gì trong công cuộc giải phóng quốc gia, do đó Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc được thành lập, tuy mang tên Cứu Quốc nhưng không có liên hệ gì trong giai đoạn đầu với phong trào Việt Nam Đồng Minh Hội tức Việt Minh mới được thành lập ở Thái Nguyên cuối năm 1941. Một điểm khác cũng được nhận định thêm là đường lối tốt nhất để gây được ảnh hưởng đi sâu vào quần chúng là làm việc xã hội và việc thành lập Truyền Bá Quốc Ngữ được nhận định là phương tiện tốt nhất để nâng cao dân trí của dân nghèo mù chữ. Được cử lên Hà Nội để xúc tiến thực hiện các lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ ở Phát Diệm, tôi và anh Trần Ngân đã tiếp xúc với cụ Nguyễn Văn Tố ở trường của phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ và anh Nguyễn Hữu Đang là tổng thư ký. Được biết phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ được chính quyền thực dân Pháp dưới thời toàn quyền Đông Dương Đô đốc Jean Decoux chính thức cho phép thành lập năm 1940, gọi là để bù đắp vào những lỗ hổng của quá khứ với chính sách ngu dân của chế độ thực dân và mở đường cho việc nâng cao chương trình Việt Ngữ ở các trường tiểu học ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam. 10 lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ được tổ chức tại Phát Diệm với 25 học viên mỗi lớp, chương trình này được kéo dài cho tới ngày Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc cướp chính quyền vào tháng 8 năm 1945. [SH - Có sự nhầm lẫn ở đây chăng (?) vì sự thật là Mặt trận Việt Minh cướp chính quyền của Nhật.] Những lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ là cơ sở tốt nhất để truyền bá tinh thần yêu nước bằng những bài học lịch sử nói tới những công cuộc khởi nghĩa đánh quân Tầu của cha ông chúng ta ngày xưa, nhằm cổ võ tinh thần quật khởi của con dân đất Việt nổi lên chống thực dân Pháp, đồng thời hầu hết giáo viên các lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ đều được học hỏi về chính trị để trở thành những cán bộ rất đắc lực của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc sau này. Song song với việc tổ chức các lớp Truyền Bá Quốc Ngữ để hoạt động mạnh trong giới nông dân mù chữ. Mặt trận Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm cũng sửa soạn sẵn sàng cho giai đoạn sắp tới là quân đội Đồng Minh có thể đổ bộ lên bờ biển Việt Nam để tiêu diệt quân Nhật, Nên một cuộc hội thảo đã được tổ chức tại nhà các sư huynh La San trong khuôn viên nhà thờ Phát Diệm với một số tham dự viên rất hạn chế. Ngoài cha Hoàng Quỳnh, sư huynh Jourdain và mấy anh em đầu não của Mặt Trận như tôi, Trần Ngân và Nguyễn Duy Diễn, còn có một số bạn trẻ cùng lứa tuổi, trong số đó có các anh Đinh Văn Khanh, Trần Huấn, Nguyễn Duy Liên, Lê Bá Kông, Vũ Ngọc Ánh. Tình hình thế giới đã được đem ra phân tích, chú trọng tới tình hình chiến sự giữa quân lực Đồng Minh và Nhật Bản ở vùng Đông Á Châu và Thái Binh Dương và nhiều kế hoạch hoạt động. Trong đó có việc mở những lớp học Anh Ngữ do anh Kông phụ trách, vì Anh ngữ được xử dụng trong trường hợp quân lực Đồng Minh đổ bộ vào Bắc Việt, chắc chắn phải qua cửa biển Kim Đài, nơi sông Đáy đổ ra biển Nam Hải, chỉ cách Phát Diệm có 7 cây số. Các tham dự viên cuộc hội thảo đều được yêu cầu giữ kín những kế hoạch được thảo luận vì sợ cả mật thám Pháp, lẫn cơ quan tình báo Kempetai của Nhật Bản gây khó dễ hay bắt giữ. Nhưng hỡi ôi! Chỉ ngày hôm sau cuộc họp, nhiều tin đã lọt ra ngoài khốn khó hơn nữa là người anh rể của một tham dự viên lại làm cho cơ quan tình báo Kempetai của quân đội Nhật Bản, nên sau đó ít lâu, tôi và Trần Ngân đã phải chạy một chuyến chối chết mới thoát khỏi tay bọn hung thần Kempetai nổi tiếng với những loại tra tấn kiểu tầu bay (treo người), tầu ngầm (ngâm nước) và xin âm dương (đánh chết lên chết xuống). Nhờ phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ mà chúng tôi quen thân với anh Nguyễn Hữu Đang và cũng do đó chung tôi biết rất rõ về mặt trận Việt Minh là chữ tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Vì biết rõ Mặt trận Việt Minh được lãnh đạo bởi đảng Cộng Sản Đông Dương, một chi thể của Đệ Tam Quốc tế chủ trương vô thần, nên Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc không thể hợp tác với Cộng Sản vô thần được. Vì theo luật lệ của Giáo Hội Công Giáo, những người hợp tác với Cộng sản có thể bị rút phép thông công; nên trên danh sách chính thức của các đảng phái và đoàn thể trong Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh không có Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc mà chỉ có ghi tổ chức Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc do một đảng viên đảng Cộng sản tên Nguyễn Công Chính lãnh đạo. Ngày 9/3/1945, Nhật Bản đảo chính Pháp, nền đô hộ của thực dân Pháp xây dựng trên 80 năm bị xụp đổ, tư lệnh quân đội Nhật Bản tuyên bố: ‘Người Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam để cùng nhau xây dựng Khối Đại Đông Á’. Vua Bảo Đại tuyên bố ngày 11/3/1945 hủy bỏ tất cả những hiệp ước ký với Pháp từ xưa và nền độc lập của nước Việt Nam bắt đầu từ đây. Các đảng phái thân Nhật công khai xuất hiện: Việt Nam Phục Quốc, Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, Thanh Niên Ái Quốc Đoàn v.v.. Tiềm lực giải phóng quốc gia của con dân đất Việt liên tục chuyển mình và trong tinh thần ấy thanh niên Phát Diệm bắt đầu tham gia vào công cuộc làm lại lịch sử một cách hăng say hơn nữa. ... Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc lập chiến khu [trích Chương 4] Năm 1940 tại Liễu Châu ở miền Nam Trung Hoa, các chính đảng Cách mạng Việt Nam gồm có: -Đồng Minh Hội (Nguyễn Hải Thần) Họp hội nghị thống nhất hành động và thành lập Mặt Trận Thống Nhất Cách Mạng Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của cụ Nguyễn Hải Thần chủ trương hợp tác với Đồng Minh và Hoa Kỳ chống quân phiệt Nhật và thực dân Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam; Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh và Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh được cụ Nguyễn Hải Thần chấp nhận cho tham gia vào Mặt Trận và được phái về nước xây dựng cơ sở đấu tranh. Ngày 19-5-1941, tại Hà Giang, Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh triệu tập một hội nghị gồm các tổ chức cách mạng hoạt động ở trong nước, trong đó có đảng Cộng sản Đông Dương cùng với một số thanh niên và trí thức, thành lập một Mặt Trận khác lấy tên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, cũng gọi tắt là Việt Minh, chủ trương bài phong, phản đế, diệt phát xít, giải phóng dân tộc Việt Nam và hợp tác với tổ chức Đệ Tam Quốc Tế của đảng Cộng sản Liên Xô. Giữ hai Mặt Trận Việt Minh ở trong nước và hải ngoại chỉ có một khác biệt về danh hiệu là 2 chữ Đồng Minh và Cách Mạng, nhưng hành động tráo trở nửa vời này được coi là một thủ đoạn thâm sâu của Hồ Chí Minh dành thế thượng phong cho đảng Cộng Sản trong công cuộc giải phóng đất nước. Trong khi thế tranh đấu cả ở hải ngoại lẫn trong nước, Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc tiến tới quyết định thành lập một chiến khu riêng tại Rịa ở triền núi cách con đường tỉnh lộ từ Chợ Gành đi Nho Quan, ở phía Bắc tỉnh Ninh Bình, độ 4 cây số, với quan niệm rằng chiến khu là một khu vực an toàn để huấn luyện các chiến hữu về phương diện quân sự và nhất là về kỹ thuật tổ chức và tuyên truyền để lôi cuốn được toàn dân tham gia vào công cuộc nổi dậy đánh đuổi thực dân Pháp và phát xít Nhật Bản dành độc lập cho tổ quốc. Chiến khu cũng được coi như một căn cứ bí mật, có thể bảo đảm an ninh cho những chiến hữu về ẩn náu một thời gian trước khi được phái đi công tác ở các nơi, vì bị lộ thành tích cách mạng, bị mật thám Pháp hay Kempetai Nhật Bản theo dõi và đe dọa bị bắt giữ. Tôi cùng với anh Trần Ngân tức Bằng Phong được Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc trao cho trách nhiệm tìm cách bắt liên lạc với các chiến khu của Việt Minh ở Thái Nguyên, Sơn La (Bắc Việt) và chiến khu Quỳnh Lưu ở gần Nho Quan để lập thế liên hoàn trong chiến lược chống Pháp, chống quân phiệt Nhật Bản. Nhưng việc liên lạc với chiến khu Thái Nguyên qua anh Nguyễn Hữu Đang, tổng thư ký phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ, một nhà cách mạng trí thức, lãnh đạo cuộc Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, đều không đem lại kết quả mong muốn, riêng đối với chiến khu Quỳnh Lưu, do Nguyễn Văn Mộc và Đặng Kim Giang lãnh đạo đã cử Nguyễn Văn Tài làm liên lạc viên với chiến khu Rịa. Chiến khu Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được thành lập ở làng Rịa trong ngay một đồn điền rộng hàng ngàn mẫu, dân cư ở làng này rất thưa thớt, số người sống ở khu vực dưới chân núi là người Kinh nhưng trên sườn núi hầu hết là người Mường, sống rải rác trên nhà sàn. Chủ nhân của đồn điền này, một người Việt sống ở Hà Nội, bạn thân của cha Hoàng Quỳnh, đồng ý cho Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được xử dụng tất cả mọi cơ sở của đồn điền, với danh nghĩa mang người miền biển lên canh tác, hòng che mắt thực dân Pháp và quân phiệt Nhật Bản. Ngoài việc canh tác gọi là trồng khoai, trồng sắn để che mắt thiên hạ, mọi nổ lực của các chiến hữu đều đổ dồn vào công tác học quân sự, học tập tổ chức và tuyên truyền như in truyền đơn bươm bướm v.v.. bằng những phương cách ấn loát theo kiểu quay ronéo, tuy hết sức thơ sơ nhưng hữu hiệu, vì giấy stencile rất hiếm trên thị trường, không thể tìm ra được. Nên giấy này được thay thế bằng giấy bản ở các quyển sách chữ nho loạt thật tốt và mịn, nhúng giấy này vào sáp nến nấu lỏng và dùng dao cạo, cạo cho sạch nến, rồi mới đưa lên đánh bằng máy chữ, nếu những chữ nào đánh không thủng, thì lại dùng kim châm cho thủng hẳn. Giấy bản thủng chữ này được dùng như tờ stencile, đặt trên mặt phẳng có sát mực in, sau đó đưa giấy trắng đặt lên dùng rouleau xoa nhẹ lên trên và kết quả tốt đẹp là hàng vạn tờ truyền đơn bươm bướm của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được ấn loát và được vận chuyển đi ‘tung’ ở khắp nơi và đặc biệt ở các nhà thờ, kêu gọi toàn dân đứng lên chống thực dân Pháp, diệt phát xít Nhật Bản dành lại chủ quyền đất nước Việt Nam. Tổ ấn loát ở chiến khu Rịa do anh Trần Huấn phụ trách cùng với 6 bạn trẻ khác, anh Huấn là một phó đoàn trưởng tiểu đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu, là giáo viên trường tiểu học Nhà Chung Phát Diệm, có một thời giữ chức chủ tịch Ủy ban Hành Chánh Kháng chiến phủ Kim Sơn và hiện nay anh đang sống tị nạn ở vùng Los Angeles tiểu bang California. Một giai thoại đáng ghi nhớ là cụ Giáo, thân mẫu của anh Huấn đã tới ‘bắt đền’ tôi, vì anh Huấn là con trai duy nhất mà lại cùng chúng tôi đi hoạt động cách mạng mà nhiều người cho rằng ‘làm hội kín’ không bị Pháp bắt thì cũng bị Nhật ‘thịt’ chết. Máy chữ loại có dấu tiếng Việt dùng vào việc đánh stencile giấy bản phải là loại thật tốt và rất hiếm trong thời chiến tranh. Có thể nói chiếc máy duy nhất loại này ở vùng Phát Diệm lại chính là của cô em gái của nội tướng của tôi là cô Lê Thị Bảo, trưởng ban Phụ nữ Công giáo xứ Hòa Lạc và do cha Nguyễn Gia Đệ, phó xứ Hòa Lạc đang xử dụng, Sau một cuộc" vận động" rất khéo léo cha Đệ đã trao máy chữ này lại cho tôi và coi đó như một sự đóng góp rất đáng kể cho công tác tuyên truyền của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Trong một cuộc báo động ở chiến khu Rịa, chiếc máy chữ này đã được di tản ra bìa rừng có 2 ngày đêm, mà đã bị mối đùn đất lên bọc kín, mất bao nhiêu công lau chùi sửa chữa mới dùng lại được. Mực in, thời đó là đồ quốc cấm, được cung cấp bởi một chiến hữu làm việc tại nhà in Ngô Từ Hạ ở phố Lamblot, sau này là phố Lý Quốc Sư ở Hà Nội. Mực in được anh Thứ chở bằng xe đạp suốt từ Hà Nội về tới chiến khu Rịa, đường dài gần 150 cây số. Sau khi phát xít Nhật Bản đảo chánh thực dân Pháp vào đêm ngày 9-3-1945, tổ ấn loát của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc được di chuyển từ chiến khu Rịa lên nhà Dòng Châu Sơn, cách phía bắc thị xã Nho Quan độ 3 cây số. Sở dĩ có sự di chuyển này là vì chiến khu Việt Minh ở Quỳnh Lưu dự định tiến quân đánh đại đội pháo binh Nhật Bản đóng quân ở khu chăn nuôi của nhà Dòng Châu Sơn mà bề trên của nhà dòng này là cha Anselmô, tên dòng của Đức Cha Lê Hữu Từ. Anh Nguyễn Văn Cơ, tức là anh em cháu cô cháu cậu với tôi, đồng thời là tu sĩ ở nhà Dòng Châu Sơn được cha Anselmô phái về liên lạc với tôi và nhắn tin cần liên lạc với nhà dòng gấp. Khi nhận được tin, tôi và anh Trần Ngân liền tới nhà dòng ngay, vì cha Anselmô đối với tôi là chỗ thân tình từ trước. Mỗi khi về Phát Diệm, gặp ngày thứ năm là ngày họp hàng tuần của liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu, bao giờ ngài cũng dành thì giờ tới họp cùng với chúng tôi ở nhà trường công lập Lưu Phương. Cha Hoàng Quỳnh là tuyên úy của liên đoàn và chúng tôi đều coi cha Anselmô như cha tuyên úy thứ hai của liên đoàn vậy. Sau khi hàn huyên, cha Anselmô đề nghị chúng tôi di chuyển một số cơ sở của chiến khu Rịa về nhà Dòng Châu Sơn, trong đó có tổ ấn loát. Chúng tôi vui mừng chấp nhận ngay và sau khi trở về Rịa, qua sự liên lạc của liên lạc viên Nguyễn Văn Tài, chiến khu Quỳnh Lưu của Việt Minh được thông báo về việc một phần khu Rịa được di chuyển về hoạt động ở khu vực nhà dòng Châu Sơn, nên việc dự định đánh phá Châu Sơn của Việt Minh ở chiến khu Quỳnh Lưu được hủy bỏ. Sau đây là 2 giai thoại rất hăng say hoạt động của cha Anselmô tức Đức Cha Lê Hữu Từ, trong công cuộc sửa soạn Tổng Khởi Nghĩa dành Độc Lập của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Sau khi một số cơ sở của chiến khu Rịa được di chuyển lên nhà dòng Châu Sơn, tôi thường ngủ ở phòng dành riêng cho các người đến tĩnh tâm ở nhà Dòng. Trong một đêm khuya lạnh lẽo của núi rừng, cha Anselmô đến đánh thức tôi dậy và dẫn tôi sang phòng khác khá kín đáo, sau khi đóng cửa, cha Anselmô liền nói: ‘Anh Minh ạ, tôi biết chắc chúng ta cần phải có nhiều khí giới đạn dược trong công cuộc giải phóng quê hương, vậy anh nghĩ thế nào? Nếu cần, tôi có thể mua được súng đạn kể cả súng đại bác nữa.’ Tôi liền vội vàng trả lời ngay: ‘Thưa Cha, trong công cuộc giải phóng quê hương, súng ống cũng cần như hơi thở vậy, xin cha cho con biết thêm chi tiết’. Cha Anselmô nói: ‘Vị sĩ quan Nhật Bản, đại đội trưởng đại đội pháo binh đóng quân ở khu chăn nuôi của nhà Dòng đề nghị với tôi là ông ta có thể bán đủ loại súng ống và đạn dược, nếu chúng ta có vàng’. Tôi rất vui vừng và vội vàng tháo luôn giây vàng nặng một lạng đang đeo ở cổ và cái nhẫn nạm ngọc thạch nặng 3 đồng cân, đặt trên bàn và nói: ‘Thưa Cha, giây và nhẫn vàng này, nhà con bắt con đeo để có thể bán đi lấy tiền mà xoay sở khi gặp hoạn nạn. Con xin cha đưa cho vị sĩ quan Nhật gọi là làm con tin, ngay ngày mai con về nhà, chắc chắn con sẽ có một số vàng đem lên để đổi lấy khí giới.’ Trở về phòng ngủ, lòng tôi xôn xao và vui mừng nên không thể nào nhắm mắt ngủ lại được, chờ tới 4 giờ sáng là giờ các thày dòng dậy đọc kinh ban mai, tôi vác xe đạp ra đi, nhưng chờ mãi tới khuya mới dám về nhà. Bàn thảo với nhà tôi là ủy viên tiếp tế của chiến khu Rịa và sau khi hiểu rõ mọi công việc, chúng tôi quyết định thu góp tất cả số vàng chúng tôi có sẵn, kể cả nhẫn cưới và nữ trang của hồi môn và còn lại đi vay mượn vàng ở các chỗ họ hàng. Riêng ông bà ngoại của cháu Minh HIền con gái của chúng tôi cũng đóng góp một số, nên chỉ sau 2 ngày, thu góp được một số vàng cũng khá. Tôi rời nhà ra đi trong đêm khuya, mang nặng bịch vàng trên xe đạp, được anh Thứ cùng đạp xe theo hộ vệ trở về Châu Sơn. Số vàng đã được trao cho cha Anselmô và trong số vàng trao cho vị đại úy pháo binh chỉ huy đơn vị đóng quân ở khu Dòng Châu Sơn, hinh như cũng có một số ít trong số vàng của một đại điền chủ ở xứ Đồng Chưa ở Gia Viễn gửi ở nhà Dòng. Sau khi nhận được vàng, một số súng trường và tiểu liên cùng súng liên thanh được quân Nhật Bản thoa dầu mỡ cẩn thận và ném xuống mấy khúc suối sâu nhất chảy qua khu nhà Dòng. Một số đạn dược được chôn trong những hố sâu ở sau nhà nuôi bò sữa, trong khu chăn nuôi của nhà Dòng, với lối giải thích là cần phải phế thải. Sỡ dĩ có câu chuyện gọi là phế thải súng đạn để đổi lấy vàng là vì trong thời gian này quân đội Thiên Hoàng đã bắt đầu thua trận trên khắp chiến trường Đông Nam Á Châu và không quân Hoa Kỳ bắt đầu ném bom khốc liệt ngay trên đất Nhật Bản, làm binh sĩ Nhật Bản mất tinh thần. Vì thế mới có câu chuyện sĩ quan chỉ huy Nhật bán súng đạn đổi lấy vàng để phòng thân sau này. Ngay sau khi cướp chính quyền hồi mùa thu tháng 8 năm 1945, cũng từ người sĩ quan chỉ huy này. chúng tôi mua thêm được mấy con ngựa tuyệt đẹp của đơn vị pháo binh Nhật Bản này. Khi cha Anselmô, bề trên Dòng khổ tu Châu Sơn được Tòa Thánh Vatican cử lên lãnh chức giám mục, cai quản địa phận Phát Diệm, ngài tâm sự với tôi tại nhà Dòng Châu Sơn: ‘Tôi là thày dòng khổ tu, chuyên sống trong Dòng, ít tiếp xúc với đời, nay được Tòa Thánh cử lên lãnh chức giám mục cai quản địa phận, tôi thấy khó khăn quá, không biết có làm nổi được việc hay không?’ Rồi ngài tủm tỉm cười và nói với tôi: ‘Trong mấy chục năm sống trong dòng khổ tu từ Phước Sơn (Quảng Trị) ra đến Châu Sơn (Nho Quan, Ninh Bình), tôi chỉ đi chân đất và sống như người nghèo khổ nhất trong xã hội Việt Nam, nếu lãnh chưc giám mục, tôi phải đi giầy, không biết làm sao tôi đi nổi đây, nên tôi sẽ cùng một thầy nữa đạp đi vào Huế để gặp Đức Cha Khâm Sứ Tòa Thánh để xin ngài tâu sang Tòa Thánh tha cho tôi đặc ân này’ Và ngài nói tiếp: ‘Vì đường xe lửa vào Huế bị cắt nhiều nơi do bom của máy bay Mỹ, nên tôi phải đi bằng xe đạp, dọc đường tôi tìm tới các xư đạo để tá túc qua đêm, anh sửa soạn cho tôi một số truyền đơn bươm bướm của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc, tôi sẽ phụ trách phân phối và tuyên truyền cho Mặt Trận và liên lạc cùng tổ chức khắp nơi tôi sắp đi qua.’ Ôi! Thật là cơ hội bằng vàng cho Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cức Quốc được bành trướng suốt từ Bắc vào miền Trung và từ đó vào miền Nam. Hỏi còn chiến hữu nào đủ uy tín tuyên truyền cho Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và công việc giải phóng đất nước bằng vị bề trên của Dòng Khổ Tu Châu Sơn sắp vinh thăng giám mục địa phận Phát Diệm. Xe đạp của ngài chở đầy truyền đơn cộng thêm mấy khúc cơm nắm, muối vừng, hai bộ áo lót và quyển sách nguyện. Sau hàng chục ngày ròng rã đạp xe trên đường quốc lộ từ Nho Quan vào tới Huế và khi trở về tới nhà Dòng, cha Bề Trên Anselmô tức Đức Giám Mục Lê Hữu Từ nói với tôi: ‘Cha đã thất bại, không chinh phục nổi Đức Khâm Sứ Tòa Thánh để xin được tha khỏi phải lên làm giám mục địa phận Phát Diệm, nhưng cha nói riêng với anh Minh rằng cha đã thành công trong việc tuyên truyền và tổ chức cho Mặt Trận Việt Nam Cứu Quốc của chúng ta tại một số giáo xứ trên dọc đường từ đây tới Huế.’ Cảm động và vui mừng vô xiết kể, tôi liền quỳ xuống hôn tay vị giám mục tương lai của địa phận Phát Diệm và vô cùng hân hoan được trở thành chiến hữu tranh đấu của một vị chủ chăn lừng danh yêu nước thường nòi và đã một thời làm Giám Mục Cố Vấn chính phủ cho Hồ Chí Minh, đồng thời là một chiến sĩ có thành tích chống Cộng Sản, chống thực dân Pháp một cách hào hùng và triệt để. Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc chống Pháp, chống Nhật. [trích Chương 5] Với tư cách tuyên úy của đoàn thể Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành địa phận Phát Diệm, cha Hoàng Quỳnh đã tổ chức tại các địa hạt khác nhau trong tỉnh Ninh Bình. Dĩ nhiên việc huấn luyện về Công Giáo Tiến Hành là đề tài chính, nhưng nhiều thanh niên được lựa chọn một cách hết sức cẩn thận và được kết nạp để trở thành anh em kết nghĩa cùng hoạt động trong Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc. Công cuộc kết nạp bạn kết nghĩa không những chỉ diễn ra trong phạm vi tỉnh Ninh Bình như với anh Phạm Quốc Trị sau này là lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng, anh Nguyễn Văn Xướng ở Đồng Chưa, Gia Viễn mà lại còn lan rộng ra khắp các tỉnh khác như anh Lưu Thế Lộ ở Bùi Chu; anh Nguyễn Quốc Quỳnh ở xứ Bính Trì, Phủ Lý, nguyên đại tá Giám đốc trường Chiến Tranh Chính Trị thời Việt Nam Cộng Hòa; anh Nguyễn Văn Quý ở Thường Tín, anh Nguyễn Văn Hiển ở Hà Nội, anh Nguyễn Văn Chương ở Hải Dương, linh mục Lê Quang Oánh ở Thái Bình và linh mục Dũng chính xứ nhà thờ tỉnh lỵ Phú Lý. Cha Anselmô, Bề trên dòng Khổ Tu Châu Sơn tức Đức Cha Lê Hưu Từ đã kết nạp và tổ chức một hệ thống liên lạc và hoạt động của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc tại các xứ đạo ở dọc quốc lộ số 1 và từ đó lan ra khắp vùng từ Thanh Hóa qua tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị tới Thừa Thiên, trong chuyến ngài đi Huế bằng xe đạp để yết kiến Đức Khâm Sứ Tòa Thánh để xin từ chối chức vụ giám mục địa phận Phát Diệm. Qua anh Lê Hữu HIển, em ruột của Đức cha Lê Hữu Từ, những hoạt động của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã lan tràn vào miền Nam Trung Bộ với anh Đoàn Văn KIểu và ở miền Nam Bộ với anh Nguyễn Hữu Lượng, đại diện Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành trong nhóm thành lập đoàn thể Thanh Niên Tiền Phong tại Sài Gòn ngày 21 tháng 4 năm 1945. Lớp huấn luyện đầu tiên cho 30 giáo viên các lớp Truyền Bá Quốc Ngữ hồi giữa năm 1942 cũng là lớp huấn luyện có bàn về tổ chức cho thành phần nòng cốt của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và ảnh hưởng về tinh thần cách mạng của Mặt Trận đã đi sâu vào quần chúng, qua các học viên của các khóa học 3 tháng, của 10 lớp và đây cũng là phương tiện tốt nhất để nâng cao dân trí và dân nghèo mù chữ. Ngoài việc tổ chức các trại huấn luyện cho Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành, cha Hoàng Quỳnh và chúng tôi thường đặc biệt chú y tới việc thăm viếng các đoàn thể Thanh Niên trong các xứ đạo ở vùng sơn cước điạ phận Phát Diệm, như xứ Khoan Dụ, Xứ Ngải, Vô Hốt, Trung Đồng và Đồng Chưa, với mục tiêu mở rộng khu chiến, bảo vệ cho chiến khu Rịa khi phải hợp tác với chiến khu Quỳnh Lưu của Việt Minh, hành quân chặn đánh quân phiệt Nhật Bản trên con đường chiến lược từ chợ Gành lên Nho Quan và Chi Nê là khu vực núi non hiểm trở mà quân đội Nhật Bản dùng làm hậu cứ tích trữ lúa gạo và khí giới đạn dược để tiếp vận cho mặt trận khi quân đội Đồng Minh đổ bộ chiếm đóng miền duyên hải Bắc Việt và Bắc Trung Việt. Công cuộc tổ chức quần chúng quan trọng nhất của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc là Trại Cứu Tế, nuôi sống 1.000 thanh niên thoát khỏi nạn đói năm Ất Dậu (1945) làm chết 2 triệu dân Việt. Trong 3 tháng rưỡi sống tập trung, những thanh niên này đã được tổ chức thành hàng ngũ và được huấn luyện rất kỹ càng về đường lối đấu tranh của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, họ cũng được huấn luyện về kỹ thuật tổ chức quần chúng, hướng dẫn nhân dân trong công cuộc đấu tranh dành độc lập và cũng được huấn luyện về cơ bản quân sự để sẵn sàng tham gia vào công cuộc tổng khởi nghĩa. Hồi tháng 5 năm 1945, đoàn Thanh Niên phủ Kim Sơn được thành lập và cuộc bầu cử chức vụ đoàn trưởng được tổ chức tại phủ lỵ Quy Hậu. Cuộc vận động tranh cử đã trở nên hết sức sôi nổi giữa ông Nguyễn Duy Chỷ là thúc phụ của anh Nguyễn Duy Diễn, một chiến hữu của Mặt Trận và ông Trần Ngọc Ban là anh cột chèo đối với tôi, ra tranh cử dưới danh nghĩa Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành. Anh em chúng tôi đã bị kẹt cứng trong vụ tranh cử này vì cả 2 ứng cử viên đều là người có liên hệ gia đình, nhưng vì ông Nguyễn Duy Chỷ nhận lời hợp tác chặt chẽ với chúng tôi trong những hoạt động của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc nên tới ngày bầu cử 1000 thanh niên của Trại Cứu Tế đã được điều động đi bỏ phiếu, một thủ lãnh trong phe đối lập là ông Giáo Phương đã lớn tiếng thỏa mạ những thanh niên trong trại Cứu Tế đi bỏ phiếu là vì ‘cơm áo’, nên ông này liền bị áp đảo một trận tơi bời. Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và Mặt Trận Việt Minh sau Cách Mạng mùa Thu 1945 [trích Chương 9] Sau khi thành lập chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh gặp nhiều sự đối kháng mãnh liệt của các đảng phái quốc gia, được sự yểm trợ của quân đội Trung Hoa tới Việt Nam, với nhiệm vụ tước khí giới quân đội Nhật Bản. Cụ Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ của phe quốc gia, đòi hỏi Hồ Chí Minh phải thi hành thỏa hiệp ký kết ở Liễu Châu bên Trung Hoa ngày 28 tháng 3 năm 1944 về việc thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội và chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia. Ngày 23 tháng 10 năm 1945, Hồ Chí Minh phải nhượng bộ phe quốc gia và ký với Nguyễn Hải Thần một thỏa hiệp hợp tác giữa Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Minh. Mặt khác quân đội Pháp núp bóng quân Anh, trở lại chiếm đóng Sài Gòn và việc làm cho Hồ Chí Minh đau lòng nhất là ngày 11 tháng 10 năm 1945, ngoại trưởng Bevin của chính phủ Anh Quốc tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, cho rằng cuộc cướp chính quyền của Việt Minh ngày 19 tháng 8 năm 1945, danh không chính ngôn không thuận, nên ngày 17 tháng 10 năm 1945, chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh quyết định tổ chức tổng tuyển cử vào ngày 23 tháng 12 năm 1945. Trong chiều hướng quy tụ toàn dân, nhất là đối với các đảng phái trong nước trong công cuộc đấu tranh dành độc lập, Hồ Chí Minh đặc biệt quay về phía người Công Giáo. Trong việc tranh đấu cho nền độc lập của Tổ Quốc Việt Nam, các giám mục Việt Nam gửi đến Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12, một bức thư xin Ngài ban phép lành và cầu nguyện cho nền độc lập của Việt Nam, ngoài ra các giám mục Việt Nam cũng tuyên bố: ‘Các người Công Giáo không có quyền lãnh đạm với nền độc lập nước nhà, các ngài nhắc nhở cho giáo hữu biết bổn phận của họ là phải tranh đấu như thế, họ sẽ trung thành với Chúa Kitô và với tổ quốc. Những lời tuyên bố này đã được đăng tải rộng rãi trên báo chí của Công Giáo Pháp đặc biệt là trên tờ Bulletin des Missions, với một bài xã luận đề tài Le Chrétien annamite et l’independence du Việt Nam (Người Công Giáo An Nam và nền độc lập của Việt Nam) Riêng về phần hoạt động của giáo dân Việt Nam, ngoài cuộc mít tinh ở Phát Diệm với 50 ngàn dân tham dự nhân ngày lễ Tuyên Ngôn Độc Lập mồng 2 tháng 9 năm 1945, giáo dân và giáo sĩ ở Hà Nội cũng tổ chức một cuộc mít tinh khổng lồ ngày 23-9-1945 để phát huy lòng ái quốc, và ở thành phố Vinh 30 ngàn giáo dân cũng tổ chức một cuộc biểu tình ngày 8-10-1945 như ở Hà Nội. Các hoạt động của hàng giáo phẩm cũng như của giáo dân trong công cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam, tỏ ra rất hăng say và có ảnh hưởng tới dư luận quốc tế, nên Hồ Chí Minh đã đặc biệt cử Phạm Văn Đồng, bộ trưởng bộ Tài Chánh trong chính phủ lâm thời về Phát Diệm gọi là để cùng với phái đoàn chính phủ tham dự lễ thụ phong Giám Mục của Đức Cha Lê Hữu Từ. Nhưng sự thực là Hồ Chí Minh cử Phạm Văn Đồng về Phát Diệm, ở lại tới 7 ngày, để tìm hiểu và quan sát các hoạt động của hàng giáo phẩm và giáo dân Công Giáo, và đặc biệt ở lại tham dự hội thống nhất Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm với Việt Nam Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc trong Mặt Trận Việt Minh. Cũng nên nhắc lại là Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm được thành lập ngay từ năm 1942 bởi bộ ba: Cha Hoàng Quỳnh, Trần Ngân tức Bằng Phong và tôi, thời đó thường được gọi là Nguyễn Đình Minh. Cũng vào thời này, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh được thành lập tại Thái Nguyên, và trong danh sách các đảng phái và các đoàn thể cứu quốc của Việt Minh thời đó chỉ có Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc không mà thôi và không có Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Mọi liên lạc của chúng tôi với Việt Minh ở Thái Nguyên, đều qua Nguyễn Hữu Đang, thời đó là tổng thư ký hội Truyền Bá Quốc Ngữ. Trong cuộc thảo luận về thành phần của ban Chấp Hành của tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được bầu lên trong Đại Hội ngày 30 tháng 10 năm 1945, một ngày sau ngày lễ thụ phong Giám Mục Phát Diệm của Đức Cha Lê Hữu Từ, Phạm Văn Đồng thường đề cập đến Nguyễn Văn Chính, chủ tịch của đoàn thể Việt Nam Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc, mà tôi đã có dịp gặp nhiều lần do sự giới thiệu của Trần Huy Liệu, và tôi biết rất rõ về Nguyễn Công Chính là một người công giáo tốt, một đoàn viên rất hăng say và cũng là phụ tá đắc lực của Nguyễn Mạnh Hà, thủ lãnh của đoàn Thanh Niên Lao Động Công Giáo, ở Hà Nội, và là một đảng viên đảng Cộng sản Đông Dương. Được biết Nguyễn Mạnh Hà, con rể của tổng bí Thư đảng Cộng Sản Pháp Quốc, bộ trưởng Kinh tế trong chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh, đã giới thiệu phụ tá của mình là Nguyễn Công Chính vào đảng Cộng sản, và vì Chính là đảng viên đảng Cộng Sản nên được cử ra làm chủ tịch Việt Nam Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc trong Mặt Trận Việt Minh, khác hẳn với Việt Minh. Nguyễn Công Chính đã bị tử thương trong một trận oanh tạc của máy bay Pháp tại Hà Đông, một tuần lễ sau khi khởi sự cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ngày 19-12-1946. Về trường hợp bầu ban Chấp Hành Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc chính thức, Phạm Văn Đồng cùng Cha Hoàng Qùynh và chúng tôi đồng ý phân công các chức vụ như sau để tùy đại hội bỏ phiếu chấp thuận. Ban thường vụ gồm 4 người: 2 người thuộc Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc, cùng 8 ủy viên các vùng và 1 cố vấn. Riêng chức vụ chủ tịch cùng tổng thư ký để dành cho phe Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc và chức vụ phó chủ tịch cùng giám sát dành cho phe Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Chức vụ giám sát kiêm luôn chức vụ Thanh Tra Công Giáo Vụ toàn quốc. Lý do chính của việc phân công này là hợp thức hóa và thống nhất hai đoàn thể công giáo cứu quốc cùng đứng trong mặt trận Việt Minh. Câu chuyện hợp thức hóa và thống nhất hai đoàn thể Công Giáo Cứu Quốc được cha Hoàng Quỳnh và tôi trình lên Đức Cha Lê Hữu Từ để xin Ngài thẩm định với lập luận rằng: 1- Phía mặt trận Việt Minh muốn lợi dụng việc thống nhất cùng hợp thức hai đoàn thể Công Giáo Cứu Quốc và sự ủng hộ của giới Công Giáo nói chung đối với Mặt Trận Việt Minh, để dùng làm hậu thuẫn trong việc thành lập chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia cùng với các đảng phái và nhất là để chứng tỏ cho thực dân Pháp, đang lăm le trở lại tái lập chế độ thuộc địa, thấy giáo dân Công Giáo Việt Nam nhiệt tình hợp tác cùng với chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh trong công cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam. 2- Phía Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc nhận định rằng trong công cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc, giáo dân Việt Nam nguyện sát cánh với Mặt Trận Việt Minh để chiến đấu chống lại mọi cuộc xâm lăng, vì Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được hợp thức hóa trong mặt trận Việt Minh nên được quyền thành lập và võ trang cho các đội Tự Vệ Võ Trang Cứu Quốc tại các xứ đạo để đóng góp vào việc bảo vệ quê hương cũng như bảo vệ cho nhà thờ và xứ đạo. Đức Cha Lê Hữu Từ đã đồng ý về đường lối chính trị của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc sẽ theo đuổi trong thời gian sắp tới do cha Quỳnh và chúng tôi đề nghị, và ngài nhận sẽ trình bầy rõ cho các Đức Giám Mục khác cùng các cha chính địa phận biết rõ. Cuộc vận động với các đại diện của các địa phận và giáo xứ tham dự cuộc đại hội đã diễn ra một cách tích cực để cuộc bầu phiếu ngày hôm sau có thể đem lại được những kết quả dự liệu. Sáng ngày 30 tháng 10 năm 1945, buổi Đại Hội lịch sử của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã diễn ra một cách hết sức long trọng và hứng khởi với bài diễn văn khai mạc của Đức Cha Lê Hữu Từ, linh hồn của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và của Phạm Văn Đồng, bộ trưởng bộ Tài Chánh đại diện chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh cùng Tổng Bộ Việt Minh. Đồng ký nhận hợp thức hóa tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và sau đó là cuộc bầu cử ban Chấp hành chính thức của tổ chức và kết quả như sau: Chủ tịch: Nguyễn Công Chính Phó chủ tịch: L.M. Hoàng Quỳnh Tổng thư ký: Nguyễn Văn Hiển Ủy viên giám sát: Nguyễn Đình Minh Các ủy vien: Bắc bộ: Nguyễn Văn Xướng (Ninh Bình) Bắc trung bộ: Lê Hữu Hiến (em Đ.C. Lê Hữu Từ) Nam trung bộ: Nguyễn Văn Kiều (Nha Trang) Nam bộ: Nguyễn Hữu Lượng (Sài Gòn) Tỉnh Nam Định: Lưu Thế Lộ (Hải Hậu) Tỉnh Ninh Bình: Phạm Quốc Trị (tỉnh lỵ) Tỉnh Hà Nam: Nguyễn Quốc Quỳnh (Phủ Lý) Cố Vấn: L.M. Lê Quang Oánh (Thái Bình) Trong suốt thời gian 7 ngày ở tại nhà chúng tôi, Phạm Văn Đồng đã hỏi tôi rất nhiều về Đức Cha Lê Hữu Từ từ việc tu hành cho tới thành tích cách mạng của ngài, và dĩ nhiên tôi nói cho Đồng biết tất cả những gì tôi biết về ngài, và Đồng tỏ ra rất khâm phục về đời sống của một khỏ tu dòng Châu Sơn phải sống như người nghèo nhất trong xã hội Việt Nam, nguyên nói tới việc đi chân không tứ mùa bát tiết trong suốt mấy chục năm trời, thêm vào đó lại còn phải ăn chay, hãm mình quanh năm ngày tháng. Riêng về thành tích cách mạng của Đức Cha Lê Hữu Từ, tôi cũng cho Phạm Văn Đồng biết rõ những hoạt động của ngài giúp Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc bành trướng rộng rãi, trên đường đạp xe từ Bắc vào tới Huế, xe đạp của ngài mang đầy truyền đơn bươm bướm, và ngài phân phát khắp nơi, kêu gọi toàn dân đứng lên chống Pháp, kháng Nhật, dành lại độc lập cho Tổ Quốc. Sau khi Phạm Văn Đồng về Hà Nội để kịp dự cuộc đại hội của đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày mồng 3 tới ngày 10 tháng 11 và đến ngày 11 tháng 11 năm 1945, đảng Cộng Sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, tôi tới gặp và yêu cầu Đồng thu xếp để một phái đoàn của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm tới gặp cụ Hồ để tỏ bầy lòng biết ơn của giáo dân Phát Diệm về việc cụ Hồ gửi phái đoàn về tham dự lễ thụ phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ. Lời yêu cầu này được chấp nhận ngay và chỉ 2 ngày sau một phái đoàn gồm có cha Hoàng Quỳnh, các anh Trần Ngân, Nguyễn Văn Xướng, Lưu Thế Lộ, và tôi tới Bắc Bộ Phủ và được Hồ Chí Minh tiếp đón một cách hết sức nồng hậu. Sau khi cha Hoàng Quỳnh, đại diện cho Đức Cha Lê Hữu Từ tỏ lời cám ơn Hồ Chí Minh và chính phủ lâm thời về việc phái đoán chính thức của chính phủ được cử về Phát Diệm tham dự lễ thụ phong giám mục. Cha Quỳnh cũng tỏ bầy thêm lời của toàn dân nói chung và giáo dân Công Giáo nói riêng, mong mỏi sớm được thấy một chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia được thành lập để toàn dân tin tưởng và hăng hái tham gia công cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc. Hồ Chí Minh đã trả lời một cách mềm dẻo và hưởng ứng lời đề nghị của cha Quỳnh về việc thành lập chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia và cho biết cuộc điều đình với các đảng phái đang diễn ra một cách tốt đẹp, và đoán chắc là chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia sắp được trình diện với quốc dân với quốc dân trong một ngày rất gần đây. Chúng tôi cũng báo cáo về việc thống nhất hai đoàn thể công giáo cứu quốc và yêu cầu việc họp thức hóa Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được chính thức công bố và phái đoàn cũng lưu ý chính phủ về việc công nhận quyền tư hữu tài sản của nhân dân và nhất là vấn đề tự do tín ngưỡng. Cuộc tiếp xúc với Hồ Chí Minh của phái đoàn Công Giáo Cứu Quốc của Phát Diệm đã diễn ra một cách thân mật và cởi mở, và đã được chấm dứt bằng một bức hình chụp chung. Sau cuộc họp, phái đoàn cũng tiếp xúc với Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu, riêng cuộc tiếp xúc với Cựu Hoàng Bảo Đại không thực hiện được. Được biết cả Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu cùng với Cựu Hoàng Bảo Đại đều có về tham dự lễ thụ phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ. Riêng đối với Phạm Văn Đồng, phái đoàn mời Đồng đi ăn kem Zephyr ở bờ Hồ Hoàn Kiếm vì biết Đồng sắp làm rể bà chủ nhà hàng kem này. Báo Cứu Quốc cơ quan chính thức của chính phủ và tổng bộ Việt Minh trong số ra ngày 10-11-1945 có đăng tải danh sách của ban Chấp Hành Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và liệt kê Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đứng hàng số 12 trong số các đảng và đoàn thể của Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh, báo Cứu Quốc cũng ca tụng tinh thần ái quốc của người Công Giáo Việt Nam. Chủ đích của các cuộc tiếp xúc với các nhân vật chính trong chính quyền đều nhằm vào việc hợp thức hóa Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc để chính thức được quyền võ trang các đoàn thể Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc tại các giáo xứ công giáo không phải chỉ riêng cho địa phận Phát Diệm mà thôi mà lại còn bao gồm các địa phận khác nữa. Để gọi là đóng góp vào công cuộc tranh đấu võ trang dành độc lập, đồng thời lại có súng ống để bảo vệ cho nhà thờ và giáo dân trong lúc thời thế lộn xộn đầy đe dọa này. Mặc dầu báo Cứu Quốc ca tụng lòng ái quốc của người công giáo, và phái đoàn Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được Hồ Chí Minh tiếp đón nồng hậu tại Bắc Bộ Phủ kể cả việc tiếp xúc với bộ trưởng bộ nội vụ lẫn bộ trưởng bộ thông tin tuyên truyền, nhưng chỉ vài tháng sau, một số những nhân vật trong phái đoàn hay của ban chấp hành của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã bị đàn áp một cách trắng trợn và đẫm máu của công an hay chính quyền Việt Minh. Điển hình là vụ Tổng Thư Ký Ban Chấp Hành Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được bầu lên tại đại hội ở Phát Diệm hồi tháng 10 năm 1945 thì chỉ tới tháng 6 năm 1946, nghĩa là chỉ 8 tháng sau, Nguyễn Văn Hiển đã bị Công an Việt Minh bắt cóc và có tin nói Hiển bị thủ tiêu. Cũng trong thời gian tháng 6 này, Nguyễn Văn Xướng, ủy ban Chấp Hành của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc bị công an tỉnh Ninh Bình bắt giữ trong gần 4 tháng, chỉ vì tội con điền chủ và tôi: Nguyễn Đình Minh tức Thư, Ủy Viên Giám sát kiêm Thanh tra toàn quốc Công Giáo Cứu Quốc cũng bị giam giữ trong xà lim của ty Công An Việt Minh tỉnh Ninh Bình vào cuối tháng 11 năm 1946 mãi tới ngày 20-12-46 mới được thả tự do, nhờ ở lá thư phút chót của Trần Huy Liệu viết cho trưởng ty Công an tỉnh Ninh Bình Đào Gia Lựu, trước khi Liệu ra bưng kháng chiến, và vợ tôi đã cầm lá thư của Trần Huy Liệu rời nhà ga Hà Nội bằng chuyến xe lửa cuối cùng trước khi quân đội thực dân Pháp và Tự vệ thành Hà Nội nổ súng khai mào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Mặc dầu tôi đã tiếp xúc nhiều lần với Hồ Chí Minh và rất thân với Phạm Văn Đồng, nhưng tôi vẫn bị một thằng công an cắc ké đến tận nhà xích tay giam giữ vào xà lim mà không hề cho biết là bị giam về tội gì! Sang được đến ngày nay tại đất Hoa Kỳ, ngồi viết những dòng chữ này, làm sao tôi quên được cảnh bạn già của tôi là Nguyễn Hữu Đang người đã giúp tôi liên lạc với Mặt Trận Việt Minh, nhớ lúc tôi cùng Đang và Trần Ngân tiến vào Bắc Bộ Phủ trong giai đoạn đầu của Cách Mạng mùa thu và nay được tin Nguyễn Hữu Đang bị Việt Minh giam tù 17 năm và bị đầy dọa ở quê nhà ở huyện Quỳnh Côi tỉnh Thái Bình chuyên ăn thịt cóc băm làm chất bồi dưỡng để sống qua ngày. Tổ chức và võ trang các đoàn thể công giáo cứu quốc [trích Chương 10] Đối với Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, vấn đề võ trang cho lực lượng Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc là ưu tiên số một trong suốt quá trình đấu tranh của mặt trận trong công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp, chống phát xít Nhật Bản dành độc lập cho Tổ Quốc, ngay từ khi bắt đầu thành lập chiến khu Rịa năm 1944, cũng như sau này khi Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc khởi sự các thánh chiến chống cộng sản vô thần tại Phát Diệm, Bùi Chu. Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc (MTVNCGCQ), quan niệm rằng mỗi khi các giáo xứ đều tổ chức một lực lượng tự vệ công giáo được võ trang một cách hợp pháp đối với chính quyền vì MTVNCGCQ nằm trong tổ chức của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh, điều này chứng tỏ người công giáo nhiệt thành đóng góp vào công cuộc chung chiến đấu thực sự dành độc lập cho Tổ Chức, đồng thời với lực lượng võ trang sẵn có, việc giữ gìn an ninh cho giáo xứ cũng như làng xóm, được bảo đảm trong thời kỳ loạn lạc và chiến tranh. Nên ngay sau khi đi Hà Nội để phản đối việc Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ với Pháp, trở về tới Phát Diệm, Đức Cha Lê Hữu Từ đã triệu tập ngay ủy ban lãnh đạo MTCGCQ gồm cha Hoàng Quỳnh, Trần Ngân và tôi Nguyễn Đình Minh, tới tòa Giám Mục để bàn thảo về tình hình chính trị chung của đất nước, và hoạch định đường lối của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc trong giai đoạn cực kỳ khó khăn gây ra bởi việc Hồ Chí Minh bán nước cho Pháp. [SH - vu chụp cho quyết định khôn ngoan của Cụ Hồ Chí Minh về Hiệp Định Sơ Bộ 6/3/1946] Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ ngày mồng 6 tháng 3 năm 1946, chấp nhận Việt Nam chỉ là một quốc gia tự do trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp và cho phép quân đội Pháp đóng quân tại nhiều địa điểm ở miền Bắc, từ vĩ tuyến thứ 16 trở lên, với thâm ý hòa hoãn với Pháp để đuổi quân đội Tầu về nước, hòng tiêu diệt đảng phái quốc gia. (SH - Đây là lý do cho Công giáo La Mã không chịu đuổi quân Tàu về nước???) Từ trước đến giờ, người ta thường nói tới mối liên hệ giữa các vị thừa sai người Pháp và người Công Giáo Việt Nam, nên chính sách của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã được hoạch định một cách thật minh bạch là cương quyết chiến đấu chống thực dân Pháp và kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam triệt để chống Pháp dành độc lập thực sự cho Tổ Quốc, và không chấp nhận quy chế một nước Việt Nam trong Liên Bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp như Hồ Chí Minh đã ký kết với Pháp trong Hiệp Định Sơ Bộ. Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc cũng chủ trương đứng ngoài chính quyền nhưng ủng hộ chính phủ liên hiệp kháng chiến và hoạt động đôc lập trong giới hạn của luật pháp quốc gia để kiện toàn việc tổ chức các đoàn Công Giáo Cứu Quốc cùng đặt vấn đề võ trang cho các đoàn tự vệ công giáo là ưu tiên số một. Dù đảng Cộng sản Đông Dương trong Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh tuyên bố tự giải tán ngày 11-11-1945, nhưng các đảng viên đảng Cộng sản vô thần vẫn còn tại vị, nên Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc khẳng định rằng lập trường của Mặt Trận VNCGCQ cương quyết chống đổi đến cùng chủ thuyết Cộng Sản Vô thần. Giáo Hội Công Giáo đã ban hành nhiều thông điệp phi bác chủ nghĩa vô thần, đặt biệt là Thông Điệp Divini Redemptoris ngày 19-3-1937, của Đức Giáo Hoàng Piô XI, và dựa vào thông điệp này Hội Đồng Giám Mục đã phổ biến một thư chung cấm người Công Giáo không được tham gia các tổ chức của người Cộng Sản vô thần. Theo như điều 2140 của sách bổn của Giáo Hội Công Giáo thì việc theo chủ thuyết vô thần được coi như bác bỏ hay chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa như vậy là một tội trọng, phạm vào điều răn thứ nhất, nguyên văn điều 2140 bằng tiếng Pháp như sau: ‘En tant qu’il rejette ou refuse l’existence de Dieu, l’atheisme est un péché contre le premier commandement’. Ngoài việc gia nhập đảng phái chủ trương chính sách vô thần là một tội trọng, việc người công giáo gia nhập vào các đảng hay các hội có âm mưu chống lại Giáo Hội Công Giáo đều bị cấm theo Giáo Luật hiện hành: Điều 1374 quy định: "Ai ghi tên vào một hội âm mưu chống lại Giáo Hội sẽ bị phạt xứng đáng. Ai phát động hay điều khiển hội ấy, sẽ bị phạt cấm chế’. Trong chiều hướng phụng sự Giáo Hội và Tổ Quốc, cùng cụ thể hóa chính sách của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, ngày 26 tháng 4 năm 1946, Đức Cha Lê Hữu Từ đã gửi thư luân lưu số 7 cho các linh mục trong địa phận Phát Diệm, thúc giục việc thành lập các đoàn Công Giáo Cứu Quốc, ngài viết: '...Nhân dịp, tôi cũng xin nhắc lại cho các cha một lần nữa là xin các cha nhắc nhở cho con chiên bổn đạo và nhất là các thanh niên đừng có ai vào phái đảng nào hết. Trong lúc này nhiều người lợi dụng danh nghĩa tôi mà đi tuyên truyền bậy bạ. Tôi chỉ xin các cha cổ động và thành lập cho mau chóng trong xứ các đoàn Công Giáo Cứu Quốc là cái mà chính phủ đã cho phép chúng ta được tổ chức để huấn luyện người Công Giáo cho biết phụng sự Giáo Hội và Tổ Quốc…’ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc chủ trương đứng ngoài chính quyền và hoạt động trong giới hạn của luật pháp quốc gia để tiến tới viêc võ trang cho các đoàn Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc, Đức Cha Lê Hữu Từ ra một thông tư đề ngày 8-2-1946, trong đó có vấn đề mua võ khí, Đức Cha Lê Hữu Từ nói: ‘…Các cha còn nhớ: ngày cụ Hồ Chủ Tịch về thăm chúng ta, tôi đã hứa sẽ tổ chức ngay các đoàn Công Giáo Cứu Quốc để huy động lực lượng toàn thể quôc dân ủng hộ chính phủ. Ủng hộ chính phủ đó là mục đích của ta, đó là con đường độc nhất của ta. Vậy nơi nào chưa lập xong (Đoàn Công Giáo Cứu Quốc) thì một lần cuối cùng nữa tôi xin các cha ở những nơi ấy thu xếp cho mau chóng. Tôi đã xin phép Chính phủ lập trường quân chính và xin phép mua mấy khẩu súng để cho các đoán luyện tập cho gọi là biết chút ít hòng một khi Tổ Quốc cần thì ta có người ta hưởng ứng ngay’. Trong tinh thần đứng ngoài chính quyền của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, ủy ban hành chính phủ Kim Sơn, một sản phẩm của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc sau cuộc ‘cướp chính quyền’ sau ngày 19 tháng 8 năm 1945, cũng được trao lại cho ông Nguyễn Duy Chỷ, một cảm tình viên của Mặt Trận VNCGCQ, đảm nhiệm chức vụ Chủ Tịch, sau một cuộc bầu cử và được Ủy Ban Hành Chính tỉnh Ninh Bình chấp nhận. Trong suốt thời gian nắm chính quyền ở phủ Kim Sơn, chúng tôi đã tổ chức xong những cuộc bầu cử ủy ban hành chánh các xã trong 7 tổng: Chất Thành, Hồi Thuần, Quy Hậu, Hướng Đạo, Tự Tân, Truy Lộc và Lai Thành. Thể theo tinh thần Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc cương quyết chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc, đại đội Vệ Quốc Đoàn phủ Kim Sơn, do chúng tôi thành lập sau ngày ‘cướp chính quyền’, cũng xung phong xin được vào Nam đánh giặc Pháp, và đại đội này được chuyển vào Nam tham gia mặt bao vây thành phố Nha Trang và đóng quân ở đèo Rù Ri. Sau khi quân đội Pháp, đổ quân từ Ban Mê Thuột theo đường quốc lộ 21, xuống Ninh Hòa, đánh bọc hậu, đại đội này đã phải rút quân theo đường núi ra Quy Nhơn để trấn giữ tỉnh lộ 19 từ Pleiku xuống và đóng quân ở Phú Phong, trong một trận đánh ở thị xã An Khê, trung đội của anh Tràng, người ở trại Ba Đê, Phát Diệm, đã phá vỡ cầu đúc An Khê và trong trận này, một số lính Pháp bị tử thương. Trong số các binh sĩ thuộc đại đội Vệ Quốc Đoàn Kim Sơn bị tử thương ở 2 mặt trận Rù Ri và An Khê, có một người bạn thân của tôi học cùng lớp nhất ở trường Nhà Chung Phát Diệm là Vũ Xuân Lan, con cụ Bảng Ro, ở làng Định Hưởng tổng Hồi Thuần. Anh Trân, một trung đội trưởng của Vệ Quốc Đoàn Kim Sơn, nghe nói sau này lên tới chức tướng của bộ đội Việt Minh. Việc võ trang cho lực lượng Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc trong công cuộc chống Pháp dành độc lập và chống cộng sản vô thần, đã được phát động một cách chính thức, vì có sự đồng ý của chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia, và nhiều vụ thu, mua, chế tạo võ khí đã được thực hiện khi công khai, khi bí mật, không những chỉ riêng ở trong nước mà thôi mà Phát Diệm còn tổ chức gửi phái đoàn sang điều đình mua súng đạn ở tận bên Tầu nữa. Một thanh niên công giáo tên Trần Điển, người xứ Trà Cổ ở Vạn Ninh thuộc Móng Cáy, sát biên giới với Trung Hoa, thường chở đĩa, bát về bán ở Phát Diệm, mà dân địa phương thường gọi là ‘thuyền bát’, hay thuyền Trà Cổ, cho biết tin có một sĩ quan quân đột Nhật Bản đóng ở Port Valluy gần Cẩm Phá trong vịnh Hạ Long muốn bán một số súng ống đạn dược đủ để trang bị cho một trung đoàn bộ binh. Khi được tin này tôi đã cùng anh Điển đi tới Port Valluy tiếp xúc với vị sĩ quan Nhật Bản này để xem thực hư thế nào và sau một cuộc điều đình khá gay go, sĩ quan Nhật Bản này đặt giá bán là 2 triệu đồng bạc. Số tiền đòi hỏi này được coi như rất lớn thời bấy giờ, nên khi trở về Phát Diệm, chúng tôi đặt kế hoạch là trình bầy cùng chính phủ, xin phép tổ chức một cuộc quyên tiền trong giới Công Giáo không mà thôi, và nếu mua được số súng đạn này chúng tôi sẽ tổ chức một trung đoàn bộ binh gồm các thanh niên công giáo xung phong và đánh giặc Pháp ở miền Nam. Sau khi được sự đồng ý của Đức Cha Lê Hữu Từ, một phái đoàn của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc gồm có cha Hoàng Quỳnh và cha Lê Quang Oánh ở Thái Bình cùng với tôi và các anh Trần Ngân, Lưu Thế Lộ, Nguyễn Văn Xướng, Phạm Quốc Trị, Nguyễn Quốc Quỳnh xin vào yết kiến Hồ Chí Minh để trình bầy nguyện vọng của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc muốn thành lập một trung đoàn thanh niên công giáo xung phong vào đánh giặc Pháp ở Nam Bộ với số súng đạn mua được của quân đội Nhật Bản với tiền quyên được ở trong giới Công Giáo. Ông Hồ tiếp phái đoàn một cách niềm nở và tỏ ý tán thành đề nghị của chúng tôi. Bỗng nhiên, một ủy viên tùy phái tới trình rằng: "Ông Giáp mời ông Hồ sang phòng bên thưa chuyện" Chỉ một lúc sau không lâu, ông Hồ trở lại tiếp chuyện chúng tôi và ông ta bắt đầu nói lên một giọng điệu khác hẳn với lúc trước. Ông ta nói: ‘Tôi rất tán thành ý nguyện của anh em Công Giáo Cứu Quốc xung phong vào đánh giặc Pháp ở Nam Bộ, nhưng việc xin phép mua súng và quyên tiền sẽ được đưa ra bàn ở trong phiên họp của hội đồng chính phủ sắp tới’ Và ông Hồ nói là bộ trưởng bộ Quốc Phòng Võ Nguyên Giáp sẽ liên lạc với chúng tôi sau. Dĩ nhiên việc này bị cho chìm luôn! Kế hoạch xin mua súng đạn một cách đại quy mô để đánh giặc Pháp ở Nam Bộ của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc không thành công là điều dễ hiểu vì chúng tôi biết Hồ Chí Minh đã âm mưu nói chuyện với đặc phái viên của thực dân Pháp là Jean Sainteny, để bán nước bằng việc ký Hiệp Định Sơ Bộ mồng 6 tháng 3, nhưng tôi cảm thấy ngạc nhiên khi Trần Huy Liệu, lúc này không còn là bộ trưởng tuyên bộ tuyên truyền nữa, đã liên lạc mời tôi tới gặp và đưa cho tôi một giấy phép của Tổng bộ Việt Minh cho phép Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc mua 50 khẩu súng các loại. Đây có thể là đáp ứng của một lời yêu cầu trước đây xin mua súng nhân danh chức vụ Thanh Tra Công Giáo Vụ Toàn Quốc, để võ trang cho các đơn vị Tự Vệ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và cũng có thể Hồ Chí Minh không chấp nhận đề nghị của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc muốn mua một số lượng lớn súng đạn đủ võ trang cho một trung đoàn, nên hạ lệnh cho Tổng Bộ Việt Minh cấp giấy mua 50 khẩu súng này không có giới hạn thời gian tính và không có việc kiểm soát số lượng súng mua được, nên với giấy phép này chúng tôi đã mua được nhiều súng ống và chuyển vận một cách hợp pháp về Phát Diệm. Công tác mua súng được ủy nhiện cho bà xã tôi: Tuyết Minh, ủy viên phụ trách tiếp tế của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc từ thời chiến khu Rịa, thực hiện cùng với hai phụ tá là anh Nguyễn Văn Thứ và anh Trần Văn Lai thường được gọi là Lai Cụt. Sỡ dĩ anh Lai được gọi là Lai Cụt vì một tai nạn xẩy ra khi anh bắn thử một lô 12 khẩu súng hai nòng hiệu Browning mua được của một Pháp kiều ở Hà Nội, khi anh bắn thử tới khẩu thứ 11 thì một viên đạn đã nổ tung trong lòng súng, làm cho anh Lai bị cụt 4 ngón tay và phải nằm cả tháng trong nhà thương, và anh Trần Văn Lai đã bị thiệt mạng trong vụ Việt Minh tấn công vào giáo xứ Phúc Nhật ngày 9 tháng 10 năm 1947. Việc mua súng không đến nỗi khó khăn lắm, vì mấy anh lính Tầu Phù cần bán súng để lấy tiền hút thuốc phiện, và mối mua súng của quân đội Nhật Bản cũng rất sẵn. Nhưng vấn đề chuyển vận súng là vấn đề khó khăn nhất, không phải vì Công An hay cảnh sát Việt Minh làm khó dễ, vì việc mua súng của VNCGCQ có giấy phép đàng hoàng, nhưng việc chuyển súng qua ga hàng Cỏ ở Hà Nội là khó khăn nhất vì quân cảnh của quân đội Trung Hoa kiểm soát khá chặt chẽ. Nhiều lần chúng tôi đã gặp khó khăn tại đây nhưng rất may là đều trôi chảy cả. Những loại súng chúng tôi thường mua được là súng mitraillette Sten, do hãng garage Avia bán xe Citroen ỏ Hà Nội sản xuất, sau nữa là các loại súng Thompson hay súng lục bắn liên thanh Pạc hoọc, súng Carbin và các loại súng lục hay rouleau cũng dễ mua và dễ tháo rời ra để chuyên chở. Mối mua súng mới và tối tân là đặt mua qua các Tầu Ô, đây là những tầu buôn loại khá lớn, chạy bằng buồm đến từ Bắc Hải hay Quảng Châu Loan ở bên Tầu, và những cuộc thương lượng mua súng và hàng hóa thường diễn ra ở cửa sông Càn và sông Mã ở Thanh Hóa gần đảo Núi Nẹ. Một lần nhạc phụ tôi là cụ Chánh Huyến, chánh trương xứ Hòa Lạc đích thân đi cùng với ông bạn là cụ Hào Bình ở Liên Quy, Tam Tổng thuộc tỉnh Thanh Hóa, đi thuyền ra biển giao tiếp với các chú nhân Tầu Ô gọi là làm quen sau nữa để xem các mặt hàng trong thuyền, phần nhiều là đồ xứ như bát đĩa, thuốc bắc và tơ lụa v.v… nhưng các cụ cũng ướm hỏi về việc đặt mua súng đạn cho Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc xứ Hòa Lạc. Vì ngôn ngữ bất đồng nên sự giao tiếp giữa hai bên thường diễn ra bằng bút đàm vì các cụ đều là những nhà nho thông thạo hán ngữ. Vừa bước chân lên bờ, hai cụ đã được du kích ở làng Liên Quy đón tiếp với giao găm và lựu đạn nội hóa, đưa các cụ về trụ sở của ủy ban hành chánh kháng chiến xã, sau một hồi tra khảo các cụ bị buộc vào tội làm gián điệp, liên lạc với người ngoại quốc. Thế là hai cụ bị đưa lên giam ở trại Lý Bá Sơ ở lao Thành Tín và cũng có tên khác là Đầm Đùn nổi tiếng nghiệt nhất ở tỉnh Thanh Hóa. Khi hay tin các cụ lâm nạn, chúng tôi liền vào Nhà Chung Phát Diệm xin Đức Cha Lê Hữu Từ là Cố vấn của chính phủ Hồ Chí Minh can thiệp. Sau khi kể hết tự sự và đặc biệt nhấn mạnh tới điểm nhạc phụ của chúng tôi là chánh trương xứ Hòa Lạc, nên Đức Cha nhận lời, ngài liền cho thảo một bức thư viết cho Đặng Thái Mai là chủ tịch ủy ban hành chánh kháng chiến tỉnh Thanh Hóa để xin tỉnh tha cho cả hai cụ, nhưng không có kết quả cấp tốc, nên Đức Cha Từ lại viết một thư khác xin Hồ Chí Minh đích thân can thiệp, và cuối cùng Đặng Thái Mai mới hạ lệnh thả tự do cho 2 cụ. Một gương sáng thể hiện tình gia tộc thấm thiết của con dân đất Việt là ông anh thúc bá của vợ tôi đã đón ông Cụ từ trại Lý Bá Sơ ở phía Bắc tỉnh Thanh Hóa về Hòa Lạc, Phát Diệm, bằng xe đạp, ông chú đạp xe, ông cháu chạy theo, đun xe cho ông chú đỡ mệt, trên một khoảng đường dài sơ sơ có gần 100 cây số thôi. Vì tình hình chính trị biến chuyển mạnh sau khi Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ và đặc biệt là các đảng phái quốc gia bắt đầu bị tan rã, lớp chạy theo quân đội Trung Hoa sang lánh nạn ở bên Tầu, lớp bị Việt Minh đàn áp và giam giữ, lớp rút lui về hoạt động bí mật, nhưng riêng đối với Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc thì thời gian này lại là thời cơ phát triển thuận lới nhất cho những hoạt động độc lập trong giới hạn của luật pháp quốc gia. Phát Diệm trở thành nơi nương tựa vững chắc cho các hoạt động chống cộng sản vô thần, nên các cơ sở của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được thiết lập lấy giáo xứ là đơn vị hạ tầng, phủ bộ, (nhiều giáo xứ gần nhau) là đơn vị trung tầng và tỗng bộ là cơ quan chỉ huy tối cao đặt tại Phát Diệm. Cha Hoàng Quỳnh được Đức Cha Lê Hữu Từ trao cho việc tổ chức các lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các thầy giảng và các thanh niên của các giáo xứ. Trung tâm huấn luyện của Công Giáo Cứu Quốc được đặt tại Trường Thử ở Trì Chính, đây là một cơ sở rất rộng lớn có đủ chỗ huấn luyện cho 300 thanh niên mỗi khóa. Vì nhiều địa phận có đông giáo dân như Bùi Chu, Thái Bình, Hà Nội và Nghệ An, và ngay những giáo xứ ở miền Bắc địa phận Phát Diệm, nằm trong vùng kiểm soát của Việt Minh, nên việc thành lập các đoàn Công Giáo Cứu Quốc khó có thể thực hiện được, chớ đừng nói tới việc võ trang cho các đơn vị tự vệ Công Giáo Cứu Quốc. Tuy nhiên nhiều thanh niên quả cảm ở các giáo xứ vẫn đổ về Phát Diệm tham dự các khóa huấn luyện chính trị và quân sự để trở về hoạt động bí mật ở các địa phương. Để hướng dẫn và nâng đỡ các cơ sở hoạt động của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc ở các giáo xứ trên toàn quốc, trụ sở của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc ở số 9 phố Lamblot tức phố Lý Quốc Sư ở Hà Nội vẫn hoạt động đều đặn với anh Nguyễn Công Chính, chủ tịch của Ủy Ban Chấp Hành VNCGCQ là người có thể đi sát được với Tổng Bộ Việt Minh, nên phần nào nhiều giáo xứ hoạt động công giáo cứu quốc vẫn tiếp tục đều đặn được.
Việt Minh chủ trương Giáo Hội Việt Nam tự trị [trích Chương 11] Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc biến thể thành Tổng Bộ Công Giáo Cứu Quốc chỉ một thời gian rất ngắn sau khi Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm 1946, bán nước Việt Nam cho thực dân Pháp và sau đó là tin quân đội Pháp sẽ tới Bắc Việt, thay thế quân đội Trung Hoa Quốc Gia của Tưởng Giới Thạch để tước khí giới quân đội Nhật Bản, theo lệnh của Tổng Tư Lệnh Đồng Minh. Tại trụ sợ của Công Giáo Cứu Quốc ở số 9 phố Lamblot cũ tức phố Lý Quốc Sư ở Hà Nội, bỗng xuất hiện 2 nhân vật người Tầu mà Nguyễn Công Chính, chủ tịch ban Chấp hành Công Giáo Cứu Quốc giới thiệu là cán bộ Công Giáo Vận của Cộng Sản Trung Hoa đến từ Diên An, chiến khu của Mao Trạch Đông ở bên Tầu. Theo như Chính cho biết thì 2 cán bộ người Tầu được Mặt Trận Việt Minh cử tới làm cố vấn cho Nguyễn Công Chính, trong vấn đề tranh đấu cho Giáo Hội Việt Nam được tự trị. Sau cuộc đàm luận với 2 cán bộ Công Giáo Vận người Trung Hoa, cha Hoàng Quỳnh và chúng tôi, cùng toàn thể các ủy viên trong ban chấp hành của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, ngoại trừ Nguyễn Công Chính, khẳng định là Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh chủ trương tranh đấu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị tách rời của Việt Minh theo chính sách vô thần của đảng Cộng Sản Đông Dương chủ trương chia mà trị để loại bỏ tôn giáo và Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc (Phát Diệm) quyết chống đối đến cùng. Để đối phó với chủ trương tranh đấu cho Giáo Hội Việt Nam Tự Trị nghĩa là tách rời khỏi Tòa Thánh Vatican của Việt Minh, Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc (Phát Diệm) vận động xin Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Drapier ở Huế tâu về Tòa Thánh Vatican xin cứ các giám mục Việt Nam thay thế các giám mục người Pháp hay Tây Ban Nha. Được biết thời này ở cả Việt Nam, chỉ có 3 giáo phận được cai quản bởi giám mục Việt Nam là các giáo phận Phát Diệm với Đức Cha Lê Hữu Từ, giáo phận Bùi Chu với Đức Cha Ngô Đình Thục, kỳ dư 13 giáo phận khác đều do các giám mục người Pháp hoặc Tây Ban Nha cai quản. Việc thiêt lập hàng Giáo Phẩm hoàn toàn Việt Nam được Giáo Hội chuẩn bị thiết lập ngay từ khi Đức Cha Nguyễn Bá Tòng lên ngôi giám mục Tiên khởi Việt Nam vào năm 1933 và từ năm 1934 đến 1960, Giáo Hội Việt Nam vẫn tiếp tục tiến triển, nhưng gặp phải biết bao trở ngại bên ngoài bên ngoài cũng như bên trong, nhưng Giáo Hội đã đập tan hết mọi trở ngại để đi đến ngày vinh quang: Giáo Hội chính thức thành lập phẩm trật tại Việt Nam. Toàn cõi Việt Nam được chia ra làm ba giáo tỉnh: Giáo tỉnh Hà Nội, Giáo tỉnh Huế và Giáo tỉnh Sài Gòn. Một Giáo tỉnh đều do Một Đức Tổng Giám Mục cai quản và mỗi giáo phận do một Đức Giám Mục (xem Việt Nam Giáo Sứ quyển II trang 200) và hiện nay tất cả các tổng giám mục và giám mục Công Giáo đều là người Việt Nam, và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vẫn thông công với Giáo Hội Mẹ ở La Mã, và như vậy là Cộng Sản Việt Nam đã hoàn toàn thất bại trong âm mưu thành lập Giáo Hội Cộng Giáo Việt Nam Tự Trị hay loại Giáo Hội Quốc Doanh. Tuy bị Cộng Sản Việt Nam bách hại dữ dội, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã giữ vững được sự trung thành với Giáo Hội Mẹ ở La Mã: ngược lại, Giáo Hội Công Giáo Trung Hoa đã bị Cộng Sản bách hại, lâm vào tình trạng chia rẽ rất nặng nề. Nhiều giám mục, linh mục và giáo dân bị Cộng Sản cầm tù vì trung thành với La Mã, tuy nhiên một số giáo phẩm và giáo dân, một phần nào vẫn giữ vững đức tin, sinh hoạt bí mật trong Giáo Hội Thầm Lặng. Trong khi đó Giáo Hội Công Trung Hoa Quốc Doanh, hiện chiếm cứ hầu hết các nhà thờ trên toàn quốc, và tuyên bố tách rời khỏi Giáo Hội Công Giáo Mẹ ở La Mã, và tình trạng quốc doanh này vẫn còn kéo dài, dù Tòa Thánh đang hết sức cố gắng vận động kéo đoàn chiên lạc Trung Hoa trở về với Chủ Chăn là Đức Giáo Hoàng đại diện Chúa Kitô ở trần gian. Hiện nay chính sách tổ chức Công Giáo quốc doanh của Cộng sản Việt Nam không thành công, nhờ vào ý chí tranh đấu quyết liệt của Giáo Hội Việt Nam. Tuy nhiên trong năm 1946, vấn đề gọi là tranh đấu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị đã làm cho dư luận của các tầng lớp giáo dân Hà Nội trở nên rất sôi nổi, vì một cuộc bút chiến dữ dội đã xẩy ra giữa tuần báo ‘Sống’ cơ quan của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, do anh ruột tôi là Nguyễn Đình Thịnh, làm chủ bút và tờ tuần báo ‘Hồn Công Giáo’ có khuynh hưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng, người chủ trương là anh Mai Ngọc Liệu, một huynh trưởng Hướng đạo rất thân với tôi. Cuộc bút chiến xẩy ra một cách hết sức gay go, đến nỗi có nhiều khi suýt xẩy ra những cuộc xô xát giữa những người anh em tình nguyện phân phát của 2 tờ báo, trước của nhà thờ Chính Tòa Hà Nội sau các thánh lễ Chủ Nhật. Chúng tôi công nhận rằng lập trường đả kích vấn đề Việt Minh chủ trương tranh đấu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị, tách rời khỏi Vatican của tuần báo ‘Hồn Công Giáo’ là đúng, nhưng chúng tôi vẫn để cuộc bút chiến tiếp diễn, vì một lý do chính trị rất khó nói ra công khai thời bấy giờ. Là Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc (Phát Diệm) chủ trương hòa hoãn với Việt Minh trong giai đoạn Mặt Trận đang bành trướng việc tổ chức các đoàn thể Công Giáo Cứu Quốc và mua võ khí để võ trang cho các đơn vị Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc tại tất cả các giáo xứ trên toàn quốc. Nên lập luận của Mặt Trận VNCGCQ trong cuộc bút chiến này là Giáo Hội Việt Nam cần phải được tự trị, nghĩa là các giáo phận không thuộc quyền cai quản của các giám mục ngoại quốc nữa và vận động xin Tòa Thánh cử giám mục Việt Nam thay thế. Ngoài cuộc bút chiến về vấn đề Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị, tờ Hồn Công Giáo cũng đả kích rất mạnh chính phủ Hồ Chí Minh và vạch trần ra rằng chính phủ này là chính phủ của Cộng Sản, và trong các bài viết Hồn Công Giáo luôn luôn đề cao vai trò của Liên Đoàn Công Giáo và đả phá Công Giáo Cứu Quốc, nhưng chỉ sau đó ít lâu, nhờ ở tình huynh đệ Hướng Đạo, vấn đề ‘hiểu lầm’ giữa nhóm chủ trương báo ‘Hồn Công Giáo’ và báo ‘Sống’ đã được giải tỏa một cách êm đẹp. Ngoài vấn đề bút chiến với tuần báo ‘Hồn Công Giáo’ về chủ trương tranh đấu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị như vừa trình bày ở trên, tuần báo ‘Sống’ lại còn gây một cuộc bút chiến khác với báo ‘Sự Thật’ là cơ quan truyền thông chính thức của đảng Cộng Sản Đông Dương về vấn đề vô thần và hữu thần. Cuộc bút chiến này được coi như là một cái ‘ngông’ của tuổi trẻ. Vì tiên liệu tình hình chính trị của Việt Nam trong giai đoạn này có nhiều thay đổi từ việc Việt Minh thỏa hiệp với Pháp qua hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm 1945 tới việc quân đội Trung Hoa bị triệu hồi về nước để quân đội Pháp thay thế tước khí giới quân đội Nhật Bản và các đảng phái cùng các đoàn thể có tinh thần quốc gia bắt đầu bị Việt Minh đàn áp và chính phủ liên hiệp kháng chiến giữa Việt Minh và các đảng phái quốc gia sắp bước vào giai đoạn chót của liên hiệp. Nên sau một thời gian mở rộng những hoạt động của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc tại địa phận Hà Nội và Hải Phòng, Đức Cha Lê Hữu Từ gọi cha Hoàng Quỳnh về hoạt động ở địa phận nhà, chú trọng tới việc củng cố các tổ chức Công Giáo Cứu Quốc của địa phận và mở rộng hoạt động sang địa phận Bùi Chu. Đứng trước những âm mưu của Việt Minh tiếp tục chính sách phá tôn giáo của Cộng Sản bằng tiếng gọi là tranh đấu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Tự trị tách rời ra khỏi Giáo Hội Hoàn Vũ ở Vatican, Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc dần dần biến thể thành Tổng Bộ Công Giáo Cứu Quốc, trụ sở đặt tại Phát Diệm, nhưng vẫn hoạt động sát cánh với Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, trụ sở ở Hà Nội, với Nguyễn Công Chính là chủ tịch Ủy Ban Chấp Hành, để giữ tính cách hợp pháp của Tổng bộ CGCQ đối với Việt Minh. Một trong những mục tiêu chính của Tổng bộ Công Giáo Cứu Quốc là tổ chức những lớp huấn luyện thường xuyên về chính trị và quân sự một cách hợp pháp tại Trường Thử ở Trì Chính cho các thày giảng và các thanh niên công giáo trong địa phận Phát Diệm hay từ các địa phận khác gửi tới. Ngoài những lớp huấn luyện tại Trường Thử, sau này Tổng Bộ Công Giáo Cứu Quốc thiết lập 3 trung tâm huấn luyện. 1- Trung Tâm Phát Diệm dành cho các xứ bộ thuộc phủ bộ Kim Sơn, khu bộ miền duyên hải. Huyện bộ Yên Mô và trở thành trung tâm huấn luyện thường xuyên cho tới năm 1951. 2- Trung Tâm Phúc Nhạc cho các phủ bộ Yên Khánh và Gia Khánh (giới hạn tỉnh lỵ Ninh Bình) 3- Trung Tâm Mưỡu Giáp- Lãng Vân dành cho các xứ bộ trong các phủ bộ Gia Viễn, Nho Quan, và một phần phía bắc Gia Khánh. Chương trình huấn luyện gồm: - Chính trị Công Giáo, học thuyết xã hội Công giáo - Chính trị phổ thông - Quân sự động tác cơ bản và bắn súng - Võ thuật: quyền cước, gươm đao, mã tấu, côn, gây - Trinh sát: cách thông tin và nghệ lượm tin tức Ca kịch, lửa vui, ca nhạc (trích Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, của Đoàn Độc Thư và Xuân Huy) Tại địa phận Bùi Chu, hồi tháng 10 năm 1946, trại thủ lãnh thanh niên mang tên Hồ Ngọc Cẩn đã được tổ chức tại Hải Hậu, thu hút các thành phần từ ưu tú công giáo chịu đào luyện để một mai chống chọi với làn sóng đỏ bắt đầu lan tràn. Chính phủ cộng sản tỏ vẻ hoài nghi, mà quả nhiên một năm sau, lớp thanh niên ấy đã nổi dậy như vũ bão để bảo vệ quyền lợi tôn giáo một cách đắc lực, trước thì trong mặt trận Công Giáo Cứu Quốc (1946-1948) sau thì trong phong trào Tự Vệ (1949-1951 (Xem Việt Nam Giáo Sử của Phan Phát Huồn CssR trang 273) và cuối năm 1946, thể theo lời yêu cầu của Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn, Giám Mục địa phận Bùi Chu, cha Hoàng Quỳnh được phái sang Bùi Chu giúp việc thiết lập Tổng Bộ Công Giáo Cứu Quốc Bùi Chu. Trong khi đó vì đường lối quyết liệt chống thực dân Pháp và cộng sản vô thần của Đức Cha Lê Hữu Từ và vì ảnh hưởng của cuộc bút chiến giữa báo ‘Hồn Công Giáo’ và báo ‘Sống’ của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, Phát Diệm đã bị các giám mục người Pháp và Tây Ban Nha ‘hiểu lầm’ nên Đức Cha Lê Hữu Từ và cha Đoàn Độc Thư đã phải làm 1 cuộc ‘xuất ngoại’ để ‘giải độc’ dư luận. Cuộc giải độc này bắt đầu bằng cuộc viếng thăm tòa Giám Mục Hà Nội ngày 14-10-1946, Đức Cha Chaize (Thịnh) và các cố tây cho rằng Đức Cha Lê và Phát Diệm theo Việt Minh Cộng sản đánh lại người Pháp… Những luận điệu chống đối này đã được Đức Cha Lê và cha Đoàn Độc Thư giải đáp và trình bày cặn kẽ từ lập trường dành độc lập và chống chủ nghĩa Cộng Sản vô thần, đến những hành độ phải có trong chiến thuật ‘gậy ông đập lưng ông’ vì Phát Diệm rõ hơn ai hết Việt Minh là cộng sản. Cuộc giải độc đã thành công, Đức Cha Thịnh và các cố Tây thay đổi thái độ, tiếp đón phái đoàn Phát Diệm một cách hết sức nồng hậu khác hẳn thái độ lạnh nhạt khi mới tới, và sau Hà Nội phái đoàn Phát Diệm lại còn tiếp xúc với các giám mục người Tây Ban Nha của các địa phận Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, và Đức Cha De Cooman, giám mục địa phận Thanh Hóa và Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn ở Bùi Chu cùng cha Tổng quản Trần Hữu Đức ở địa phận Vinh. Kết quả cuộc giải độc này lại còn thành công hơn nữa là vào năm 1947, Đức Cha Gomez, giám mục địa phận Hải Phòng, người Tây Ban Nha đã cho Đức Cha Lê Hữu Từ mượn một số tiền lớn là 1,000.000 đồng (tiền Đông Dương) mua súng đạn ở Trà Cổ để võ trang cho lực lượng Công Giáo Cứu Quốc. Số tiền ấy, sau này năm 1951, Đức Cha Gomez đã không đòi lại mà tặng luôn cho Đức Cha Lê và Phát Diệm.
Chiến tranh tuyên truyền giữa Công Giáo Cứu Quốc và Việt Minh [trích Chương 12] Sau khi cuộc hội nghị giữa Pháp và Việt Nam tan vỡ ở Fontainebleau, Hồ Chí Minh đã lẻn tới nhà riêng của tổng trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Marius Moutet, ở Paris thủ đô Pháp Quốc, đêm ngày 14 tháng 9 năm 1946 để xin ký một thỏa ước tạm thời Modus Vivendi, thỏa ước này cũng không hơn gì bản hiệp định sơ bộ, theo đó Việt chỉ được công nhận là một quốc gia tự do trong Liên Bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp, và ngày 19 tháng 9 năm 1946 Hồ Chí Minh trở về Việt Nam trên chiến hạm Dumont d’Urville của hải quân Pháp, và ngày 24 tháng 10 năm 1946, Hồ Chí Minh tiếp Đức Cha Lê Hữu Từ và phái đoàn gồm cha Đoàn Độc Thư và tác giả tại Bắc Bộ Phủ ở Hà Nội. Ngay khi giáp mặt Hồ Chí Minh, Đức Cha Từ tấn công ngay, bằng những lời lẽ hết sức bộc trực, nhưng đầy lòng yêu nước, thương nòi: ‘Thưa Cụ, nỗi uất hận của tôi về hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 chưa nguôi, thì nay cụ lại ký thêm thỏa ước Modus Vivendi, mà nội dung của nó cũng không hơn gì hiệp định sơ bộ, tôi cho đây là một hành bán nước nữa, nên tôi ước gì tầu Dumont d’Urville đắm ở dọc đường, để Cụ đứng về đến đất nước này nữa, hơn nữa tôi nhận thấy nhân dân trong nước cũng uất hận rất nhiều, họ chỉ muốn kéo ùa ra biển nhận chìm chiếc tầu chở Cụ và phái đoàn về nước, nếu chính phủ còn tái lầm lỗi, chính tôi sẽ huy động dân chúng đứng lên phản đối… Hồ Chí Minh nhắc lại hai lần viếng thăm trước của Đức Cha Lê Hữu Từ, sau khi ông ấy ký hiệp định sơ bộ và nói: ‘Thưa Cụ, như tôi đã nói với Cụ lần trước rằng cái thế của mình phải quỳ mà đi tới độc lập, nay cái thế ấy bắt buộc ta phải bò mà đi tới độc lập. Xin Cụ cứ tin ở tôi một lần nữa. ‘ Đức Cha Từ trả lới: ‘Tôi có thể tin Cụ một lần nữa, nhưng việc các đoàn thể và đảng phái quốc gia đang bị chính phủ tiêu diệt thì Cụ nghĩ sao?’ Hồ Chí Minh nói: ‘Tôi vừa mới ở Pháp về nên chưa được rõ các việc ấy, xin Cụ an tâm, tôi sẽ thu xếp.’ Tuy Hồ Chí Minh nói với Đức Cha Lê rằng sẽ thu xếp, nhưng chỉ 4 ngày sau khi tiếp phái đoàn Phát Diệm, Việt Minh bắt đầu việc loại trừ các phần tử quốc gia trong chính phủ bằng một cuộc cải tổ Quốc Hội và Chính Phủ. Ngày 28 tháng 10 năm 1946, Quốc Hội Việt Minh họp tại nhà Hát Lớn Hà Nội khoảng 50 nghị sĩ thuộc phe đối lập tức thuộc các đảng phái quốc gia vắng mặt không tới họp. Các ông bộ trưởng thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Hội như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Trương Đình Tri cũng tự ý thoát lui, nên Hồ Chí Minh đã cải tổ chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia ngày 13 tháng 11 năm 1946, gồm một số bộ trưởng gốc cộng sản như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Tạo, Hoàng Minh Giám v.v… và một số bộ trưởng khác có khuynh hướng độc lập và chuyên viên. Tuy nhiên những lãnh tụ Cộng sản cốt cán như Hoàng Quốc Việt tức Hà Bá Cang, Nguyễn Lương Bằng, Trưởng Chinh tức Đặng Xuân Khu, Trần Huy Liệu vẫn còn nắm những vai trò then chốt trong hậu trường chính trị. Trong thời gian này, Việt Minh đã tăng cường chính sách khủng bố, thi hành dưới bàn tay đồ tể của vô vàn cán bộ xu thời, mù quáng và độc ác. Những hành động quá khích, kết quả thì ít, tai hại thì nhiều. Phương châm Đoàn Kết, Đại Đoàn Kết của Hồ Chí Minh tự nó đã biến thành một kế hoạch loại trừ và phản đoàn kết đại quy mô là tiêu diệt các đảng phái cùng những người có tinh thần quốc gia, ngoài ra, những ban trinh sát, ám sát của Việt Minh mọc lên như nấm, thi hành những chỉ thị bí mật, đẫm máu, gây hoảng hốt trong tâm can người dân lành chất phác. Nguyên tại địa phận Phát Diệm từ cuối năm 1946 đến đầu năm 1947 ước lượng đã có tới khoảng 5.000 người vừa công giáo và không công giáo đã bị chính quyền Cộng sản bắt giữ, trong số này có những người bị bắt vì có liên quan tới các đảng phái quốc gia, còn hầu hết đều là những người có giữ trách vụ trong các giáo xứ như trùm trưởng, nhân viên hội đồng giáo xứ, cán bộ lãnh đạo các tổ chức công giáo tiến hành và công giáo cứu quốc, hoặc liên đoàn công giáo, và chính tác giả: Nguyễn Đình Minh tức Nguyễn Đình Thư, Thanh Tra Công Giáo Vụ toàn quốc, đại diện ban chấp hành trung ương của Công Giáo Cứu Quốc trong Mặt trận Việt Minh, cũng bị an ninh quân đội Việt Cộng bắt giữ đem gửi ty Công An tỉnh Ninh Bình rốt trong sà lim hơn 3 tuần lễ, sau chính Trần Huy Liệu, một tay tổ trong tổng bộ Việt Minh can thiệp mới được thả tự do, mà không hề được cho biết bị bắt vì lý do gì! Trước hành động Việt Minh đàn áp, bắt bớ nhân dân, nhất là đối với người công giáo, Đức Cha Lê Hữu Từ liền gửi thư cho Hồ Chí Minh, để phản kháng một cách hết sức mạnh mẽ và đòi chính quyền phải trả tự do cho những người bị bắt và bị giam cầm, mà không có lý do chính đáng hoặc không được đưa ra tòa án xét xử. Trong thư phản kháng Đức Cha Lê vạch ra rằng: ‘Những hành động khủng bố, bắt giữ người dân lương thiện chỉ vì một lý do rất nhỏ mọn của cơ quan chính quyền đã làm cho dân chúng xao xuyến, hại đến tình đoàn kết dân tộc trong giai đoạn nghiêm trọng này. Những hành động ấy được coi như là đàn áp và gây chia rẽ tôn giáo, khiêu khích người công giáo…’ Biết rõ tính cương trực của Đức Cha Lê: nói là làm, Hồ Chí Minh vội vã và gửi ngay một phái đoàn đại diện chính phủ do Bộ trưởng bộ Lao Động Ngyễn Văn Tạo cầm đầu, tới Phát Diệm ngày mồng 3 tháng 2 năm 1947, rồi hầu như chưa yên tâm, Hồ Chí Minh lại gửi thêm bí thư riêng của mình là Vũ Đình Huỳnh và Đỗ Bá, nhân viên bộ Quốc Phòng về tới Phát Diệm ngày mồng 5 tháng 2 năm 1947, để chuyển lời xin lỗi của chính phủ tới Đức Cha Cố Vấn Lê Hữu Từ, đồng thời còn đem theo lệnh thả tự do ngay cho một số người bị bắt mà Đức Cha Lê đã can thiệp nhất là những giáo dân liên hệ tới vụ xung đột đẫm máu giữa Công An Việt Minh và Thanh Niên Công Giáo Cứu Quốc giáo xứ Văn Hải. Tuy 2 phái đoàn đã tới Phát Diệm chỉ cách nhau có 2 ngày, nhưng Hồ Chí Minh vẫn chưa yên tâm, nên cử thêm linh mục Nguyễn Bá Trực, nhân viên thường trực Quốc Hội, cầm thư riêng của họ Hồ về Phát Diệm ngày mồng 7 tháng 2 năm 1947 nghĩ rằng một linh mục như cha Trực có thể dễ thông cảm hơn khi nói chuyện với một giám mục như Đức Cha Lê Hữu Từ. Khi được tin báo Nguyễn Văn Tạo, bộ trưởng bộ Lao động chính phủ Hồ Chí Minh, cầm đầu một phái đoàn chính phủ về Phát Diệm, sau khi Hồ Chí Minh nhận được văn thư phản kháng của Đức Cha Lê về việc Việt Minh khủng bố và đàn áp nhân dân, tôi được Đức Cha Lê gọi vào tòa giám mục để trình bày cho ngài biết về Nguyễn Văn Tạo. Trong gần một giờ đồng hồ thảo luận tôi có đề nghị một số kế hoạch từ việc tổ chức tiếp đón để phô trương lực lượng của tổ chức tự vệ Công Giáo Cứu Quốc hòng áp đảo tinh thần của phái đoàn chính phủ đến việc Đức Cha Lê tiếp kiến riêng Nguyễn Văn Tạo, không có phái đoàn tùy tùng, để nói lên tinh thần đoàn kết của toàn dân trong công cuộc chống Pháp dành Độc Lập. Và đặc biệt về chủ trương đại đoàn kết giữa người công giáo và không công giáo của Phát Diệm để cảnh tỉnh bọn người có dã tâm đi tuyên truyền gây chia rẽ và để ngăn chặn những vụ ‘hạ cấp làm liều’ và ‘giáo hóa chưa phổ cập’ của các cấp trong chính quyền. Ngoài ra đây cũng là dịp để trả lời lá thư của Hồ Chí Minh viết cho Đức Cha Lê ngày 23 tháng 1 năm 1947, về lời phê bình của chủ tịch Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến khu III rằng Phát Diệm thiếu tinh thần kháng chiến. Sau khi gặp 3 phái đoàn của chính phủ Hồ Chí Minh trong vòng 5 ngày, Đức Cha Lê có cho tôi biết là kết quả của những cuộc gặp gỡ tỏ ra rất tốt đẹp, không do những lời lẽ bóng bẩy đầy tính cách chính trị mà do ở những lời nói chân tình của một thầy dòng khổ tu thực lòng yêu Tổ Quốc, đã chinh phục được hoàn toàn tất cả các thành viên 3 phái đoàn, và trong một thông tư đề ngày 15 tháng 2 năm 1947, gửi cho các linh mục và giáo dân toàn địa phận Phát Diệm, Đức Cha Lê có gửi kèm theo phóng ảnh của 2 bức thư của Hồ Chí Minh gửi cho Đức Cha và ngài nhắc lại 3 điều: 1) Chúng ta, hơn ai hết, phải có tinh thần ái quốc, cao thượng mà tham gia việc kháng chiến. Lúc giặc chưa đến, phải hết sức chuẩn bị trong bình tĩnh, kỷ luật, tăng gia sản xuất để tiếp tế cho tiền tuyến, khi giặc đến gần phải sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh chính phủ để tác chiến. 2) Chính trị của chính phủ đối với tôn giáo, riêng với Công Giáo rất rõ ràng. Nên ta phải dè dặt đối với các tin phao đồn. Nếu đâu có những hành động trái ngược với thượng lệnh của chính phủ, xin cho tôi biết ngay để tôi can thiệp, chớ vội vàng để xẩy ra những việc đáng tiếc. 3) Đối với anh em bên lương, ngày nay ta càng tỏ tình đoàn kết để ngoại địch thấy rõ, trước nguy vong của Tổ Quốc, toàn thể đồng bào chỉ là một khối. Để sửa soạn cho công cuộc kháng chiến chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc, đồng thời để chứng tỏ Phát Diệm có tinh thần kháng chiến cao độ, ngoài việc ra thông tư vừa trình bày trên đây để nói rõ lập trường dứt khoát của giáo phận Phát Diệm đối với vấn đề kháng chiến chống Pháp, Đức Cha Lê lại ra chỉ thị các giáo xứ mở rộng những lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho Thanh Niên Công Giáo Cứu Quốc (TNCGCQ), tổ chức những cuộc họp bạn liên giáo xứ TNCGCQ, và lễ tuyên thệ cho cán bộ Công Giáo Cứu Quốc và nhất là xúc tiến mạnh hơn nữa việc mua võ khí để võ trang cho các tổ chức Tự Vệ CGCQ. Vì số dân tản cư về vùng Phát Diệm một ngày một đông và họ hết sức nóng lòng theo dõi tin tức chiến sự ở các tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định v.v… để xem có hy vọng nào hồi hương hay không? Nên phủ bộ Việt Minh phủ Kim Sơn liền mở một phòng thông tin ngay ở nhà Cô Am ở giữa phố Thượng Kiệm, và mỗi thứ bảy vào buổi chiều phủ bộ Việt Minh lại mở một buổi tuyên truyền từ lầu gác hiệu Đông Thịnh gần cầu Phú Vinh giáp Phát Diệm. Trong những buổi tuyên truyền chiều thứ bẩy Việt Minh thường đưa ra những luận điệu vu khống và xuyên tạc các hoạt động của Đức Cha Lê Hữu Từ và của người Công Giáo Phát Diệm, nên ngày 20 tháng 2 năm 1947, Đức Cha Lê ủy nhiệm cha Hoàng Quỳnh và cha Đoàn Độc Thư cùng một số thanh niên Phát Diệm đứng ra tổ chức phòng Thông tin Tuyên Truyền Công Giáo, trụ sở đặt tại nhà Cụ Trùm Nhật ở ngay giữa phố Phát Diệm. Phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo được coi như chính thức hợp thức hóa mồng 8 tháng 3 năm 1947 bằng một lễ khánh thành thật long trọng dưới sự chủ tọa của Đức Cha Cố Vấn chính phủ với sự có mặt của đại diện cơ quan chính quyền, và đại biểu của các đoàn thể công cũng như tư cả đạo lẫn đời. Mấy ngàn dân chúng đứng chật khắp đường phố và trên thuyền đậu ở sông Phát Diệm, phòng thông tin được mở cửa hàng ngày cho dân chúng vào xem bịch báo, tranh ảnh và những bản tin chiến sự nhận qua radio mỗi ngày. Mỗi chiều chủ nhật từ 5 giờ đến 7 giờ có chương trình phát thanh và tuyên truyền của phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo, đặc biệt câu chuyện hàng tuần của cha Đoàn Độc Thư tỏ ra hết sức hấp dẫn đối với quần chúng, trước hết nhờ tài hùng biện nổi tiếng của ngài, sau nữa những câu chuyện thật rí rỏm vạch trần những mưu mô tuyên truyền ngày hôm trước trên lầu gác hiệu Đông Thịnh cách xa phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo khoảng độ 300 thước. Để hiểu về cuộc ‘chiến tranh’ tuyên truyền giữa Việt Minh và Công Giáo Cứu Quốc, xin trích ra sau đây những lời Đức Cha Lê đã viết về phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo trong quyển hồi ký của ngài. Nhờ danh nghĩa cứu quốc, mà Phát Diệm đã lập được các ngành như chính phủ Việt Nam; mọi nhân viên cũng hầu hết là người công giáo đưa ra, đừng kể Tự Vệ là ngành đã hoạt động đắc lực nhất, thì ngành tuyên truyền cũng rất ảnh hưởng, lúc ấy cha Đoàn Độc Thư đứng đầu ban tuyên truyền, ngài đã khéo tổ chức để liên lạc với các xứ các xã để có lập trường và hành động thống nhất. Riêng tại Kim Sơn, Phát Diệm, có phòng thông tin, phát thanh các ngày chủ nhật ban chiều, Hễ có việc gì hoặc Việt Minh tuyên tryền gì có hại ích chung, lập tức có tiếng của công giáo phản tuyên truyền lại phá tan hết mọi mưu mô của Việt Minh. Dân chúng cả giáo cả lương nhờ đó mà biết rõ sự thật, nên họ hưởng ứng với một lòng tín nhiệm khó tả hết; phòng thông tin Công Giáo vừa bắt đầu nói thì dân chúng đến đến kín mít chật đường phố, không còn lối đi: vì các xứ xa gần đều cố gắng tới nghe tin tức chắc thật để về truyền lại. Trong giờ truyền thanh những tiếng vỗ tay, những lời hoan hô vang động cả một góc trời… Các buổi phát thanh Công Giáo thường là để vạch lối rõ cho dân khỏi lầm, hoặc cải chính lại những điều Việt Minh tuyên truyền sai bậy về Công Giáo, hoặc vẽ cách cho dân biết lối chất vấn cán bộ Việt Minh hay là thưa lại cho chắc lý…’ Trong sách Giám Mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm xuất bản tại Sài Gòn năm 1973, linh mục Đoàn Độc Thư, Giám đốc phòng Thông Tin và Tuyên Truyền Công Giáo đã viết như sau: ‘Cái cảnh chen chúc nhau, giành giựt chỗ đứng đã nói lên sự tín nhiệm và tâm trạng người dân lúc nào cũng muốn tìm về sự thật bất chấp mọi cản trở, đe dọa của những người nắm quyền thế. Đặc biệt hơn nữa, dân chúng từ những nơi xa Phát Diệm như Nam Định, Bùi Chu, thị xã Ninh Bình, Thanh Hóa… đã cơm đùm, cơm nắm đổ xô về Phát Diệm ngay từ chiều thứ bẩy để thăm trụ sở, lấy tin tức và mua báo Tiếng Kêu. Điều này làm cho chính quyền Cộng Sản bực tức không ít, nhất là sau mỗi buổi phát thanh, ngàn người như một, đồng loạt hô những khẫu hiệu: ‘Việt Nam Độc Lập Muôn Năm’, ‘Tự Do Tín Ngưỡng’, ‘Đả Đảo Cộng Sản’. Mặc dầu chính quyền Cộng Sản cố tìm cách phá nhưng không phá nổi vì phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo này là của Công Giáo Cứu Quốc, một tổ chức ở trong Mặt Trận Việt Minh đã được hợp phép hóa ngày 29 tháng 10 năm 1945. Trong cuộc ‘chiến tranh’ tuyên truyền, Đức Cha Lê Hữu Từ ủy nhiệm vụ cho cha Đoàn Độc Thư phát hành tờ tuần báo ‘Tiếng Kêu’ để phổ biến sâu rộng đường lối vừa Kháng Chiến vừa Chống Cộng của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, và tờ ‘Tiếng Kêu’ được Đức Cha Lê hữu Từ xác nhận là tiếng nói chính thức của ngài giúp vào việc củng cố nền Độc Lập Tổ Quốc và thêm vinh quang cho Giáo Hội Việt Nam. Cha Đoàn Độc Thư với danh nghĩa Công Giáo Cứu Quốc, thừa ủy nhiệm của Đức Cha Cố Vấn Chính phủ, xin phép chính quyền xuất bản tuần báo ‘Tiếng Kêu’, bất đắc dĩ Việt Minh phải cấp giấy phép, nhưng với điều kiện tờ tuần báo Tiếng Kêu phải được kiểm duyệt trước khi phát hành, theo như luật lệ hiện hành. Việt Minh đã tìm đủ cách để phá tờ Tiếng Kêu bằng việc kiểm duyệt, nhưng ‘vỏ quýt dầy có móng tay nhọn’, cha Thư đã qua mặt việc kiểm duyệt rồi mới được phát hành bằng cách in ở cuối trang 4 như sau: ‘Đã Gửi Kiểm Duyệt’ thay vì chữ ‘Đã Kiểm Duyệt’, cuộc giằng co về vấn đề kiểm duyệt kéo dài một thời gian sau đó Đức Cha Lê đòi chính quyền trao quyền kiểm duyệt cho văn phòng Cố Vấn. Việt Minh đòi thu hồi giấy phép cho xuất bản tờ Tiếng Kêu cùng tịch thu nhiều ngàn tờ báo nhưng khi Tiếng Kêu càng khan hiếm thì dân chúng lại cố tìm bằng được để đọc và truyền tay cho nhau và việc rỉ tai tuyên truyền lại tỏ ra tai hại hơn nữa đối với Việt Minh. Ảnh hưởng của cuộc ‘chiến tranh’ tuyên truyền nói lên lập trường chính trị của Đức Cha Lê Hữu Từ là vừa Kháng Chiến vừa Chống Cộng theo tôn chỉ Phụng Sự Thiên Chúa và Tổ Quốc làm cho Hồ Chí Minh phải gửi thư cho Đức Cha Lê đề ngày mồng 2 tháng 3 năm 1947, trong đó Hồ Chí Minh có nói là chính sách và mục đích của chính phủ chỉ có 3 điều: (1) Làm cho dân khỏi đói, khỏi rét, khỏi dốt. (2) Làm cho đồng bào tự do, tự do tín ngưỡng, tự do làm ăn. (3) Làm cho tổ quốc độc lập. Sau gần nửa thế kỷ cầm chính quyền, Việt Minh đã thực hiện được những gì? ...
Giám Mục Lê Hữu Từ - Cố vấn chính phủ [trích Chương 14] Ngay sau khi phái đoàn Việt Nam Công Giáo Quốc do linh mục Hoàng Quỳnh lãnh đạo vào gặp ông Hồ Chí Minh ở Bắc Bộ Phủ, tôi liền từ Hà Nội về Phát Diệm để phúc trình lên Đức Cha Lê Hưu Từ về cuộc gặp gỡ này, đặc biệt là vụ Đảng Cộng Sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và biến thành Hội Nghiên Cứu Mác Xít. Cũng như việc ký thỏa hiệp cộng tác giữa Việt Minh và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Việt Cách) do ông Hồ Chí Minh ký với cụ Nguyễn Hải Thần.Và việc ông Vũ Hồng Khanh cùng một số quân Việt Nam Quốc Dân Đảng từ Trung Hoa kéo về Hà Nội và nhất là việc báo của các đảng phái Quốc Gia đả kích rất mạnh Mặt Trận Việt Minh ở Hà Nội. Việc đô đốc D’Argenlieu, Cao Ủy của Pháp tời Sài Gòn với đoàn tùy tùng và nhân viên, cùng việc quân đội Pháp tiến chiếm các thành phồ ở miền Nam Việt Nam. Và việc một phong trào chia rẽ Nam Bắc được phát động ở Sài Gòn, đòi tách rồi Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, đã được phân tách rất kỹ càng. Một điều gây nhiều chú ý là Đô Đốc D’Argenlieu, mới từ Pháp sang Sài Gòn nhậm chức Cao Ủy Pháp cũng là một thầy dòng khổ tu (Trappist) như Đức Cha Lê Hữu Từ. Được biết ngày 24 tháng 3 năm 1946 Hồ Chí Minh ra Vịnh Hạ Long gặp D’Argenlieu và đến ngày 19 tháng 5 năm 1946, D’Argenlieu tới Hà Nội thăm Hồ Chí Minh, Việt Minh ra lệnh treo cờ, gọi là mừng ngày sinh nhật Hồ Chí Minh, nhưng sự thật là treo cờ để tiếp đón D’Argenlieu Cao Ủy Pháp ở Việt Nam. Ngày 5 tháng 3 năm 1947, đô đốc D’Argenlieu giải ngũ, và trở về Pháp sống đời thầy dòng khổ tu như trước. Đức Cha Lê Hữu Từ tỏ ý muốn lên Hà Nội gặp ông Hồ Chí Minh, trước hết để đích thân cám ơn ông ấy đã cử phái đoàn chính phủ về dự lễ tấn phong giám mục của ngài và sau nữa để thảo luận về tình hình đất nước và ngài cử tôi lên Hà Nội ngay để gặp Phạm Văn Đồng, yêu cầu Đồng dàn xếp một cuộc tiếp kiến của ngài với ông Hồ Chí Minh. Ngày mồng 6 tháng 11 năm 1945, Đức Cha Lê Hữu Từ cùng với cha Nguyễn Gia Đệ (hiện nay ở Montreal bên Canada) đã tới Bắc Bộ Phủ, và Hồ Chí Minh đã tiếp phái đoàn hết sức nồng hậu và có vẻ chân thành. Sỡ dĩ tôi nói tới thái độ chân thành của họ Hồ đối với phái đoàn, không biết là thật hay giả dối, vì trong câu chuyện nói với Hồ Chí Minh, Đức Cha Từ đã tỏ ra sự chân thành của một thầy dòng khổ tu, nói thẳng và nói thật điều ngài nghĩ, và nhất là tỏ ra lòng hăng say của ngài đối với công cuộc chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam. Ngài cũng không ngần ngại kể luôn cả câu chuyện đô đốc D’Argenlieu, Cao Ủy Pháp cùng là một thày dòng khổ tu ở bên Pháp cùng một chi dòng với ngài. Sự tiếp đón nồng hậu của họ Hồ đối với phái đoàn, có thế do việc Phạm Văn Đồng phúc trình đầy đủ về thân thế, sự nghiệp của Đức Cha Lê Hữu Từ và lòng hăng say của Công Giáo Phát Diệm nói riêng và Công Giáo Việt Nam nói chung đối với công cuộc chống Pháp dành độc lập cho đất nước. Đây là những điều mà Phạm Văn Đồng đã nhận xét thấy và được nghe biết trong chuyến Đồng về Phát Diệm trong 6 ngày nhân dịp lễ tấn phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ và Đại Hội của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Trong cuộc tiếp kiến này, Hồ Chí Minh đã nhân danh chính phủ mời Đức Cha Lê Hữu Từ vào Hội Đồng Cố Vấn của Chính phủ sau Cựu Hoàng Bảo Đại, và hứa sẽ đáp lễ bằng một cuộc về viếng thăm Phát Diệm. Đức Cha Lê đã nhận lời mời của Hồ Chí Minh vào Hội Đồng Cố Vấn và ngài tỏ ra vẻ hân hoan được đón tiếp ông Hồ tại Phát Diệm. Cuộc vi hành của Hồ Chí Minh về Phát Diệm thăm Đức Cha Từ và phủ dụ đồng bào ở Phát Diệm đã diễn ra một cách hết sức đột ngột , và ngay đến Ủy Ban Hành Chánh địa phương do Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc lãnh đạo cũng không được thông báo gì hết. Khi ông Hồ về thăm Phát Diệm, tôi đang bận công tác tại Hà Nội, nên xin trích sau đây bài tường thuật của cuộc viếng thăm ấy, được ghi ở trang 86 trong quyển sách ‘Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm 1945 - 1954’, tác giả là Linh mục Đoàn Độc Thư và Xuân Huy, xuất bản năm 1973 tại Sài Gòn và hiện nay quyển sách này đã được tái bản ở Hoa Kỳ và có bầy bán ở các tiệm sách Việt Nam trên khắp các tiểu bang. ..... ‘…Thấy tình hình căng thẳng giữa Công Giáo Phát Diệm và chính quyền (địa phương) có thể nguy hại đến chính sách của Việt Minh, nên Hồ Chí Minh, vẫn theo đuổi chính sách mềm dẻo đối với Công Giáo, đã thân về Phát Diệm thăm Đức Cha Lê và phủ dụ đồng bào. Ngày 25-01-1946 trời lạnh gió rét, cũng là ngày sau cùng của tuần tĩnh tâm hàng năm của các linh mục Phát Diệm. Ông bô Kế giữ cửa nhà chung Phát Diệm chạy vào trình Đức Cha: ‘Bẩm Đức Cha, có ông nào muốn vào hầu Đức Cha có việc gì, ông đội mũ, chống gậy, mặc áo bốn túi… Ông đã vào tới đây’. Đức Cha quay ra hô lên: ‘A! Cụ Hồ đã cho tin giãn không về mà…’ (vì sau bức điện tín Ô. Hồ báo tin về thăm Phát Diệm, một điện tín khác nói: không biết có về được không?) Đức Cha đưa Hồ Chí Minh lên phòng riêng đàm luận. Trong khi đó các linh mục tụ hội tại nhà Công Đường (phòng khách của Đức Cha) Dân chúng Phát Diệm được huy động đến chào mừng. Sau chừng 1 tiếng đồng hồ đàm luận. Đức Cha dẫn Hồ Chí Minh xuống Công đường để các linh mục chào. Hồ Chí Minh nói lời cám ơn rồi hô to ba lần: ‘Đức Chúa muôn năm’. Tiếp sau đó, dân chúng rước Đức Cha và ông Hồ ra nhà Hát Lớn để chào mừng. Đại diện các đoàn thể và dân chúng đọc lời chúc thọ. Các chúng sinh thuộc đại chủng viện và các thày giảng, đồng ca bài ‘Em không nghe mùa thu…’ (4 bè) mừng Hồ Chí Minh. Trước đó cha Nguyễn Gia Đệ độc ca bài ‘Hồ Chí Minh muôn năm’ bài ca do Vũ Đình Huỳnh, bí thư của ông Hồ mang từ Hà Nội về. Đáp từ, Hồ Chí Minh đứng lên dõng dạc nói: ‘Thưa Cụ Giám Mục và tất cả anh chị em đồng bào các giới. Mặc dầu buổi sơ khai, chính phủ bận rộn rất nhiều, tôi cũng dành thời giờ ưu tiên đích thân về thăm Cụ Tân Giám Mục khá kính và viếng cảnh Phát Diệm, nơi đã được mệnh danh là Địa Linh Nhân Kiệt.. Tôi rất mừng vì thấy anh chị em đồng bào ở đây đoàn kết và yêu nước… Tôi rất mừng vì thấy anh chị em không thể mỗi ngày tiếp xúc với anh chị em được nên tôi (để tay lên vai Đức Cha Lê) đặt cụ Giám Mục Từ làm cố vấn chính phủ của tôi. Có việc gì anh chị em cứ trực tiếp với Cụ Giám Mục Cố Vấn, cụ sẽ cho tôi hay và cùng giải quyết…’ Hồ Chí Minh, với lối ăn mặc đơn sơ, giọng nói dõng dạc và cử chi tỏ ra thân mật nên đã cảm hóa được quần chúng đối diện, Chính tác giả đã nhìn thấy 2 cụ già rớt nước mắt vì cảm động khi ông Hồ bước đến cầm lấy tay và hỏi han sức khỏe. Thế là từ đó, Đức Cha Lê Hữu Từ chính thức là cố vấn chính phủ và được mọi người xưng hô là Đức Cố Vấn…’ .... Lý do của cuộc thăm viếng Phát Diệm của ông Hồ Chí Minh cùng việc chính thức tuyên bố Đức Cha Lê Hữu Từ giữ chức cố vấn chính phủ và thái độ mềm mỏng cùng mị dân của họ Hồ là để làm dịu đi lòng căm phẫn của dân chúng Phát Diệm đối với cơ quan hành chánh tỉnh Ninh Bình trong vụ tuyên bố kết quả gian dối của cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 6 tháng giêng năm 1946. Trong cuộc bầu cử này tỉnh Ninh Bình là một đơn vị bầu cử theo liên danh. Liên danh của Công Giáo đưa ra gồm 4 ứng cử viên: linh mục Phạm Ngọc Chi, sau này là giám mục địa phận Bùi Chu và Đà Nẵng; linh mục Lê Nguyên Kỷ, mới chết cách đây mấy năm ở xứ Sao Mai, Chí Hòa Sài Gòn; cụ Ngô Tử Hạ, một nhân sĩ Công Giáo, sau này giữ chức Thứ Trưởng bộ Thương Binh; và ông Trần Văn Triêm, thầy giáo lớp Moyen II, của người viết, hiện nay đang tị nạn Cộng sản ở California, trong khi đó Mặt Trận Việt Minh cũng đưa ra một danh sách gồm 4 ứng cử viên: các ông Cầu, Cống, Đống, Vợi. Cuộc vận động bầu cử đã diễn ra rất sôi nổi và đúng ngày bầu cử Đức Cha Lê Hữu Từ cùng các linh mục và giáo dân nô nức đi bỏ phiếu. Theo kết quả sơ khởi thì liên danh của Công Giáo dẫn đầu số phiếu ở các huyện trong tỉnh, nhưng đến khi có quan hành chính tỉnh Ninh Bình tuyên bố kết quả thì liên danh của Việt Minh là các ông Cầu, Cống, Đống, Vợi trúng cử nhưng lại thêm 1 ứng cử viên của liên danh công giáo là cụ Ngô Tử Hạ. Cảm thấy có sự gian lận trong cuộc bầu cử, vì đây là cuộc bầu cử theo liên danh trúng, không lý do gì một mình cụ Ngô Tử Hạ trúng cử, trong khi 3 ứng cử viên khác lại không, nên Đức Cha Lê Hữu Từ cho đánh điện tín lên phản đối chính phủ, mặc khác ngài ra lệnh sửa soạn một cuộc biểu tình ‘đả đảo bầu cử gian lận’. Hồ Chí Minh liền đánh điện tín trả lời và thông báo địa phương đã có sự lầm lẫn trong việc cộng phiếu và linh mục Phạm Ngọc Chi được trúng cử, nhưng Đức Cha Lê đã đồng ý để cho linh mục Phạm Ngọc Chi từ khước sự trúng cử ấy. Tại Hà Nội, Hồ Chí Minh đắc cử với 98% số phiếu, Võ Nguyên Giáp trúng cử ở Nghệ An với 97% số phiếu, cựu hoàng Bảo Đại trúng cử ở Thanh Hóa. Đây là một cuộc bầu cứ một chiều, chỉ những lãnh tụ và người thân Việt Minh mới trúng cử, thái độ của hai đảng phái quốc gia là không phản đối và không tham gia cuộc bầu cử. Và Việt Minh đặc biệt dành 70 ghế dân biểu cho phe đối lập tham dự Quốc Hội không cần bầu cử. Việt Nam Quốc Dân Đảng nhận 50 ghế và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội nhận 20 ghế. Chính phủ Liên Hiệp Kháng chiến, Quân sự ủy viện Hội, ban Cố Vấn, ban Thường Trực Quốc Hội và Ủy ban đặc biệt Pháp Viện được trình diện trước phiên họp Quốc Hội đầu tiên vào ngày mồng 2 tháng 3 năm 1946. Cụ Ngô Tử Hạ ngồi ghế Chủ Tịch Quốc Hội, Hồ Chí Minh vẫn giữ chức chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch, 4 bộ dành cho Việt Minh 4 bộ dành cho 2 đảng Việt Cách và Việt Quốc. Bộ Quốc Phòng và Nội Vụ trao cho nhân vật trung lập là Huỳnh Thúc Kháng và Phan Anh, riêng Quân Sự Ủy Viên Hội do Võ Nguyên Giáp giữ chức chủ tịch và phó chủ tịch là Vũ Hồng Khanh. Cựu Hoàng Bảo Đại giữ chức cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh. Việc bầu cử quốc hội và thành lập chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia là một bước tiến cần thiết để họp thức hóa chính quyền Việt Nam đối với cả Trung Hoa lẫn Pháp quốc. Pháp lúc này đã chiếm được rất nhiều tỉnh ở Nam Bộ và miền Nam Trung bộ cùng vùng Cao nguyên và lăm le ra chiếm Bắc Việt với cuộc điều đình ngoại giao với Trung Hoa Dân Quốc để Pháp ra thay thế quân đội Trung Hoa tước khí giới quân đội Nhật Bản. Trong khi kêu gọi nhân dân đoàn kết chống Pháp dành độc lập, Hồ Chí Minh thường tiếp xúc bí mật với một thiếu tá người Pháp tên Sainteny, đã đến Hà Nội ngay sau ngày Việt Nam cướp chính quyền, Họ Hồ tỏ ra thân thiện với người Pháp vì tin tưởng rằng đảng Cộng sản Pháp trong thời gian đã có ảnh hưởng rất mạnh ở chính trường Pháp Quốc và ngày 16 tháng 2 năm 1946, Hồ Chí Minh tiếp Sainteny và tuyên bố bằng lòng đàm phán với Pháp trên nguyên tắc Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp. Việc Hồ Chí Minh nhận định với Pháp trên nguyên tắc Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp là một nền độc lập khó hiểu và được dân chúng coi như là một hình thức Hồ Chí Minh ‘bán nước’ cho Pháp. Ngay đến Tổng Bộ Việt Minh cũng bất đồng ý kiến với lập trường này và các đảng phái quốc gia phân đối dữ dội gọi Hồ Chí Minh là phản quốc, cõng rắn cắn gà nhà. Việc thuyết phục Tổng Bộ Việt Minh chấp nhận lập trường Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp là điều không khó khăn lắm đối với Hồ Chí Minh. Riêng đối với các phái quốc gia, nguyên việc lập chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến giữa Việt Nam và các đảng phái quốc gia, nhất là việc Vũ Hồng Khanh, lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng nhận chức phó cho Võ Nguyên Giáp, chủ tịch Quân Sự Ủy Viên Hội trong đó có 9 ủy viên hỗn hợp để chuẩn bị về quân sự, đã làm giảm đi rất nhiều sự chồng đối và có thể nói là mọi sự bất mãn của phe quốc gia đã được dẹp bỏ. Nên Hồ Chí Minh có thể công khai tuyên bố sự thỏa hiệp với thực dân Pháp mà lúc này Việt Minh tuyên truyền là thỏa hiệp với người Pháp mới. Đây là một điều hết sức trớ trêu và đau lòng làm cho nhiều người đặt câu hỏi tại các đảng phái quốc gia đang từ chủ trương chống đối mọi thỏa hiệp với thực dân Pháp, bỗng nhiên các đảng Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng ‘chui đầu’ vào chia nửa phần trách nhiệm với Việt Minh trong việc ký kết ngày mồng 6 tháng 3 năm 1946, cái hiệp định sơ bộ ‘bán nước’ của Hồ Chí Minh cho thực dân Pháp. Trước đây Hồ Chí Minh chủ trương điều đình trên nguyên tắc ‘Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp’ nhưng đến khi hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 được ký thì Việt Nam chỉ được Pháp công nhận là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, quân đội riêng, tài chánh riêng trong Liên Bang Trung Ấn và trong Liên Hiệp Pháp. Rồi thêm một điều đau lòng nữa là về phía Việt Nam, chính phủ Cộng Hòa phải sẵn sàng thân mật tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế cho quân đội Trung Hoa theo như hiệp ước quốc tế… và Pháp được đóng quân tại các địa điểm: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cay, Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên Phủ, Huế, Tourane (Đà Nẵng). Trong thời gian Việt Minh, với sự đồng ý của hai đảng Việt Cách và Việt Quốc, điều đình với Pháp, thì tôi và anh Trần Ngọc Ngoạn (Cựu tu sĩ dòng Châu Sơn, một đảng viên Việt Quốc) được Đức Cha Lê Hữu Từ ủy lên Hà Nội liên lạc và tiếp xúc với cụ Nguyễn Hải Thần và các lãnh tụ đảng phái quốc gia, để đại diện ngài đặt thành vấn đề việc các đảng phái quốc gia hợp tác với Việt Minh trong công cuộc chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc. Chúng tôi đã thất vọng hoàn toàn vì sự chia rẽ, giành giật nhau, thiếu hẳn sự nhất trí của các lãnh tụ đảng phái quốc gia, trong kế hoạch đương đầu với Việt Minh cũng như trong chủ trương chống thực dân Pháp. Khi được tin Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm 1946, tôi lại được hân hạnh tháp tùng Đức Giám Mục Lê Hữu Từ, Cố Vấn Chính Phủ tới Bắc Bộ Phủ để phản đối ông Hồ và chính phủ. Gặp ông Hồ, Đức Cha Từ đã nói một cách hết sức thẳng thắn: ‘Cụ tranh đấu cho độc lập gì mà lại nhận nước Việt Nam tự do trong Liên Hiệp Pháp tức ‘au sein de l’Union Francaise’. Au sein theo tôi hiểu là trong lòng của Pháp, là bú sữa người Pháp. Các đảng phái quốc gia cùng toàn thể quốc dân đang lớn tiếng quy trách chính phủ đã phạm một tội tầy đình đối với lịch sử, với dân tộc, khi cụ ký Tạm Ước 6-3-46 rước Pháp vào Bắc Bộ. Họ châm biến tinh thần nội dung bản Tạm Ước, bới móc và mỉa mai lời thề của bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Cụ đọc ngày 02-9-45 tại vườn hoa Ba Đình trước hàng vạn đồng bào với lời thề: thề không chỉ đường cho Pháp Bây giờ, hỏi ai đã công khai rước Pháp?’ Trước những lời tấn công như vũ bão của Đức Cha Từ, họ Hồ mặt đỏ gay nhưng ông ta bình tĩnh trả lời: ‘Thưa Cụ, cái thế của mình bây giờ phải quỳ mà đi tới Độc Lập, xin Cụ cứ tin tôi đi.’ Và Đức Cha Từ đáp lại: ‘Được, tôi tin Cụ lần này.’ Trên đường về Phát Diệm, Đức Cha Từ nói với tôi: ‘Anh Minh ạ, Hồ Chí Minh đang bán nước, cái bán nước của Hồ Chí Minh là hòa hoãn với Pháp để tiêu diệt đảng phái quốc gia. Bởi vậy chúng ta phải làm thế nào để giúp đỡ họ’. Từ đây Phát Diệm đã vạch ra một con đường cùng các tôn giáo, đảng phái và toàn dân quyết chống đối Việt Minh, đồng thời tích cực chống thực dân Pháp dành độc lập cho tổ quốc Việt Nam.
Các đảng phái quốc gia tranh đấu sát cánh với Tổng bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm Sau khi cải tổ chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia ngày 13 tháng 11 năm 1946, Việt Minh đã thẳng tay khủng bố các đảng phái quốc gia, một số khác phải rút về hoạt động trong bí mật, và Phát Diệm không những được coi như nơi nương tựa an toàn nhất trong thời gian bị khủng bố mà Phát Diệm lại còn là nơi các đảng phái quốc gia chân chính có thể ‘bung’ ra nhiều hoạt động chống cộng sản ở các tỉnh kế cận như Nam Định, Bùi Chu, Thái Bình, Phủ Lý, Thanh Hóa, Vinh và Hà Nội. Trong số các đảng phái quốc gia hoạt động một cách rất đắc lực ở Phát Diệm phải kể tới đảng Đại Việt Duy Dân và Việt Nam Quốc Dân Đảng, tuy nhiên cũng có đảng đã mang lại cho Phát Diệm một số phiền nhiễu như đảng Dân Tộc, vì quá hăng say và chủ trương quá khích. Hơn nữa vì đảng viên đảng Dân Tộc được thâu nhận một cách bừa bãi, bị đối phương xâm nhập dễ dàng, nên đảng Dân Tộc là đầu mối cho Việt Minh tung ra nhiều vụ đàn áp như vụ Phúc Nhạc, Văn Hài. Ngoài ra chúng tôi cảm thấy không thể không nói tới đảng Xã Hội, vì chính đảng này đã để cho một số đảng viên phá vỡ chính sách chính trị rất khôn khéo của Đưc Cha Lê Hữu Từ là triệt để chống Cộng Sản, nhưng đồng thời hợp tác với Việt Minh chống thực dân Pháp để dành độc lập cho Tổ Quốc. Nhóm đảng viên Xã Hội này đã qua mặt Đức Cha Lê Hữu Từ, tìm cách bắt liên lạc với thực dân Pháp về chiếm đóng Phát Diệm như đầu cầu trong âm mưu gọi là ‘giải phóng’ tỉnh Nghệ An nhất là Xã Đoài, quê hương của nhóm những người này. Riêng đối với đảng Đại Việt Duy Dân, đảng này đã hoạt động rất mạnh ở Phát Diệm ngay từ khi bắt đầu tổ chức Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc năm 1946. Viết đến đây chúng tôi băn khoăn, và tự hỏi rằng không biết có nên đưa ra công khai một số hoại động của anh em Z (tên gọi tắt của đảng viên Duy Dân), đã diễn ra cách đây gần nửa thế kỷ ở Phát Diệm hay không? Vì từ xưa đến nay Duy Dân vẫn chủ trương ‘trùm chăn’, chưa chịu tham chính, tuy nhiên, tin tưởng rằng anh em Z, trên khắp đất nước Việt Nam, từ ngoài Bắc đến trong Nam cũng như ở hải ngoại, vẫn tiếp tục hoạt động một cách rất hăng say, kín đáo và hữu hiệu. Và chúng tôi thấy rằng trên chính trường Việt Nam ‘Sờ’ vào đâu cũng cảm thấy màu sắc Duy Dân, nên khi viết những câu chuyện của một thời tranh đấu cách đây gần nửa thế kỷ, chúng tôi chỉ xin được nói tới hai đảng viên Z đã quá cố mà chúng tôi rất kính phục. Hai vị này đã đóng góp rất nhiều vào việc phát triển đảng Duy Dân ở Bùi Chu và Phát Diệm và đặc biệt hai vị này đã giúp vào việc đảng Duy Dân tài trợ một ngân khoản rất lớn cho Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Phát Diệm trong kế hoạch mua võ khí ở Trung Hoa, và trong công tác di chuyển món tiền lớn này từ Bùi Chu về Phát Diệm. Một trong hai vị đã bị Công an Việt Minh sát hại, mà trong cuộc lễ an táng của vị này, một cuộc xô xát đẫm máu đã xẩy ra ở Phát Diệm hồi tháng 9 năm 1947, giữa Việt Minh và nhân dân Phát Diệm. Ngày từ khi thành lập chiến khu Rịa thuộc Mât Trận Công Giáo Cứu Quốc, xứ Hòa Lạc và họ Vinh Trung ở xứ Phát Diệm được coi là như hai chiến khu vững chắc mà Việt Minh Cộng sản không kiểm soát nổi, vì Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Hòa Lạc và Vinh Trung được thành lập sớm nhất và võ trang khá đầy đủ. Nên ngay sau khi Việt Minh bắt đầu đàn áp các đảng phái quốc gia, và sau cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ ngày 19 tháng 3 năm 1946, Hòa Lạc được chọn là nơi một số lãnh tụ Duy Dân về ẩn náu một thời gian. Cũng từ đây các hoạt động của đảng Duy Dân ‘bung’ ra rất mạnh ở các tỉnh miền đồng bằng Bắc Việt và Bắc Trung Việt. Trong số những anh em Z tản cư về Hòa Lạc và Vinh Trung, người mà tôi kính phục nhất là ông Trần Thanh Đình, bí danh là ông Chùa, con cụ Cử Bồng Tiên, một vị khoa bảng danh tiếng ở tỉnh Thái Bình. Ông Đình đã đậu bằng cử nhân Luật Khoa thời Pháp thuộc, với bằng cấp này ông có thể gia nhập vào hàng ngũ quan lại thời thực dân Pháp. Nhưng ngược lại, ông chỉ thích ‘hoạt động cách mạng’ mà thôi, nên cả đời ông đã dấn thân phục vụ cho Tổ Quốc và Dân Tộc cho tới khi ông bị Cộng sản bắt giam và mang ra xử bắn ở Thủ Đức hồi năm 1976 về tội là lãnh tụ của đảng Đại Việt Duy Dân. Trong gần 30 năm hoạt động cách mạng sát cánh với ông Trần Thanh Đinh, ở ngoài Bắc cũng như ở trong Nam, tôi đã học hỏi được biết bao kinh nghiệm tranh đấu hào hùng của một đồng chí Duy Dân đáng mến và đáng kính phục này. Trong một cuộc họp của anh em Z ở Vinh Trung năm 1947, tôi có đưa ra vấn đề cần phải võ trang thêm cho các đơn vị Tự vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm trong công cuộc không những chỉ chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc, mà lại còn chống cả đảng Cộng Sản nữa. Vì tinh thần chống Pháp dành độc lập, nên Pháp Diệm quyết định không chấp nhận bất cứ một viên trợ võ khí nào của thực dân Pháp, thay vào số súng đạn do Pháp đề nghị viện trơ, tôi trình bầy cho anh em biết kế hoạch đã được sự đồng ý của Đức Cha Lê Hữu Từ là mua súng đạn ở Pak khoi, tức Bắc Hải. Đây là một tô giới của Pháp trước đây ở bên Trung Hoa, qua sự môi giới của một số thanh niên Công Giáo ở Trà Cổ, thuộc tỉnh Móng Cáy sát với biên giới Trung Hoa, thường đi lại buôn bán với Phát Diệm bằng thuyền buồm, vẫn được quen gọi là thuyền bát Trà Cổ. Một số Tầu Ô của người Trung Hoa đã được anh em thanh niên Trà Cổ móc nối và họ đã nhận lời cung cấp đủ mọi loại võ khí khá tối tân, nhưng điều kiện thanh toán thì chánh là phải trả bằng giấy bạc Đông Dương là loại giấy bạc do Ngân Hàng Đông Dương của Pháp phát hành và vẫn được lưu hành tại cựu tô giới Bắc Hải. Được biết trong thời này giấy bạc do Việt Minh phát hành đều được lưu hành song song với giấy bạc Đông Dương. Vấn đề được đặt ra là tìm đâu ra một số lớn bạc Đông Dương để mua súng đạn ở bên Tầu? Sau một hồi thảo luận ông Trần Thanh Đình và ông Tổng Văn Dung cho biết: ‘Chi bộ Duy Dân ở Bùi Chu có đủ quỹ để tài trợ 3 triệu đồng bạc Đông Dương cho việc mua võ khí cho Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm. Liền sau đó ông Dung và ông Lê Văn Chính ở Hòa Lạc được trao phó nhiệm vụ di chuyển số tiền 3 triệu đồng bạc Đông Dương này từ Quận Phương ở Bùi Chu về Phát Diệm để trao cho tòa Giám Mục Phát Diệm lo việc đưa ra ngoại quốc mua súng đạn. Hối xuất chính thức của một đồng bạc Đông Dương ăn 10 quan (cũ) của Pháp, như vậy 30 triệu quan (Franc) Pháp là một số tiền rất lớn thời bấy giờ. Việc đảng Duy Dân nhận tài trợ 3 triệu đồng bạc Đông Dương cho Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm đã được trình lên Đức Cha Lê Hữu Từ và ngài tỏ ra rất hài lòng về sự đóng góp này của đảng Duy Dân. Chiều ngày mồng 5 tháng 9 năm 1947, ông Tổng Văn Dung và ông Lê Văn Chính mang một bị chứa 3 triệu đồng bạc Đông Dương từ Hòa Lạc xuống Phát Diệm, khi qua đồn công an ở Trì Chính ngay gần cầu Kiến Thái, ông Chính mang bị tiền đi trước, ông Dung đội một mũ mầu trắng đi sau, công an Việt Minh liền nhẩy ra hô to: ‘Anh đội mũ trắng hãy đứng lại, nếu không tôi bắn’, nghe thấy vậy, ông Chính bước thật nhanh và mang bị tiền đi thoát được sang phố Thượng Kiệm. Ông Dung đã bị công an Việt Minh bắt giữ ngay. Ông Chính đã mang bị tiền vào ngay nhà chúng tôi ở phố Thượng Kiệm gần chân cầu Tri Chính, ông thở hổn hển cho tôi biết tin ông Dung bị công an bắt giữ. Đúng lúc ấy tôi đang bị cơn rốt rét ngã nước của chiến khu Rịa hành, nhưng trong trường hợp rất khẩn cấp như vậy, tôi vội vàng cùng ông Chính tới ngay tòa giám mục gặp Đức Cha Lê Hữu Từ báo tin cho ngài biết sự việc. Đức Cha liền viết văn thư cho liên lạc viên hỏa tốc cầm sang ty công an, yêu cầu trưởng ty tới gặp Đức Cha Cố Vấn Chính phủ, cùng thả tự do cho ông Tổng Văn Dung. Trong văn thư Đức Cha Lê xác nhận ông Dung là cán bộ của Công Giáo Cứu Quốc do Cố Vấn chính phủ cử đi công tác ở Bùi Chu. Ty công an trả lời Đức Cha nói rằng trưởng ty Nguyễn Kiên Đạt đi vắng, và cho biết lý do ‘Tên Dung (mang giấy tờ tên Lê Văn Cương) hiện bị bắt giữ vì có báo cáo nói y là đảng viên đảng Duy Dân hoại động chống chính phủ tại xã Hòa Lạc.’ Toàn thể các đơn vị chiến đấu của Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc được lệnh báo động và sẵn sàng trong tư thế chiến đấu để giải thoát ông Tống Văn Dung. Hai trung đội tự vệ Công Giáo Cứu Quốc của Vinh Trung và Hòa Lạc được lệnh chuẩn bị đánh úp ty Công An ngay trong đêm, nhưng đến khuya, tòa giám mục nhận được một lá thư của trưởng ty Công An Nguyễn Kiên Đạt hứa sẽ thả tự do cho ông Dung sáng sớm hôm sau. Do đó việc đánh úp ty công an để giải thoát cho ông Dung được hoãn lại. Một giả thuyết được đặt ra là nếu Công An áp giải ông Dung đi Ninh Bình thì một là đi bằng canô theo sông Vạc từ bến ở Thượng Kiệm đi Ninh Bình và giờ canô khởi hành là 8 giờ sáng; hai là bằng đường bộ đi theo tỉnh lộ số 10. Kế hoạch được đặt ra là anh Trần Văn Xuân, sau này mang tên Nguyễn Văn Bình, cựu tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện thời đệ nhất Cộng Hòa, chỉ huy một trung đội tự vệ Vinh Trung lên phục kích ở đường cái quan Hồng Đức, chặn bắt giữ canô và giải thoát ông Dung. Trung đội thứ hai của Hòa Lạc dưới quyền chỉ huy của ông Lê Văn Phượng phục kích trên đường số 10 ở quãng cánh đồng trống ở giữa Tôn Đạo và Phúc Nhạc. Nhưng một điều bất ngờ đã xẩy ra là công an đã áp giải ông Dung lên Ninh Bình bằng cách canô chạy trên sông Vạc tới đường cái quan Hồng Đức tức bến đò Lá cách Phát Diệm 10 cây số, thì đúng lúc đó trung đội tự vệ Vĩnh Trung cũng vừa tới nơi chưa kịp phục kích để nổ súng ra lệnh canô phải ghé vào bờ. Anh Xuân sau đó báo cáo cho tôi biết là trông thấy ông Dung bị đẩy xuống sông, và công an bắn nhiều loạt súng hô hoán: ‘Tên Việt Nam nhẩy xuống sông’. Trung đội tự vệ Vinh Trung dàn ra dọc bên sông, hy vọng ông Dung bơi được vào bờ, đồng thời hai công an Việt Minh cũng bắt canô ghé vào Đò Lá, lấy một thuyền mủng bơi dọc bờ sông cố tình bắt lại ông Dung, nhưng kết cuộc 2 công an viên này bị trung đội tự vệ Vinh Trung bắt giữ. Cuộc tìm kiếm được chấm dứt vào buổi tối, vì tên công an bị bắt khai rằng: ‘Khi ông Dung nhẩy xuống sông, hai tay ông ấy bị còng ra đằng sau lưng, nên anh em cho rằng một khi tay bị còng ra sau lưng thì ông Dung khó lòng bơi nối được vào bờ’ Tuy nhiên một số Tự Vệ Vinh Trung vẫn tiếp tục cuộc tìm kiếm dọc bên sông Vạc. Cho tới chiều ngày 7 tháng 9 năm 1947, khi chiếc canô do ông Tài Duyên lái từ Ninh Bình về Phát Diệm đến đầu xã Trì Chính, cảm thấy vật gì nặng vướng ở chân vịt, bác Tài Duyên liền kêu lên: ‘Anh Dung, nếu đích là oan hồn anh luẩn khuất đâu đây thì anh nổi lên, tôi vớt đem về Tổng Bộ an táng’. Khi bác Tài Duyên cho ngừng máy canô lại, xác ông Dung nổi lên vướng vào bên hông canô và được loan truyền rất nhanh trong khối dân chúng Phát Diệm và mọi người đều tỏ ra phẫn uất về hành động dã man của Công An Việt Minh. Bác Tài Duyên là người hoạt động rất hăng say trong Tổng Bộ Tự Công Giáo Cứu Quốc ở đơn vị gần đập Phú Vinh năm 1954 di cư vào Sài Gòn và năm 1975, bác Tài Duyên được di tản sang tới đảo Guam, rồi lại trở về Sài Gòn bằng tầu Việt Nam Thương Tín và bác đã đón cả gia đình vượt biển sang Mã Lai và được định cư tại Hoa Kỳ, thuộc cộng đoàn Tam Biên ở Orange County, California, bác đã qua đời tại đây cách đây hơn mười mấy năm. Xác ông Dung đã được vớt lên tạm quàn ngay tại đầu cầu Trì Chính và được vị y sĩ thuộc bệnh viện Trì Chính khám nghiệm với sự hiện diện của đại diện ty Công An, các đại diện phủ hộ Việt Minh và Ủy Ban Hành Chánh phủ Kim Sơn, cùng ông thứ trưởng Bộ Thương Binh Ngô Tử Hạ và linh mục Trần Cao Đàm, giám đốc phòng chính trị Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc. Xác ông Dung được tẩm liệm và quàn tại điếm canh Phu Vinh để làm lễ quốc táng. Ngay buổi tối sau khi vớt được xác ông Dung, một cuộc họp rất quan trọng đã được triệu tập tại tòa giám mục Phát Diệm dưới quyền chủ tọa của cha Phạm Quang Hàm, bí thư của Đức Cha Lê Hữu Từ, để thảo luận về việc tổ chức lễ quốc táng ông Dung, một đảng viên đảng Đại Việt Duy Dân đồng thời là cán bộ của Công Giáo Cứu Quốc. Nơi mai táng ông Dung đã được bàn cãi rất kỹ lưỡng, trước hết có đề nghị rằng sau các nghi lễ an táng chính thức do Đức Cha Lê Hữu Từ chủ tọa trước sự hiện diện của các cơ quan chính quyền Việt Minh và nhân dân Phát Diệm, quan tài sẽ được di chuyển về Hòa Lạc là quê quán của bà Dung để mai táng. Chính sách của Đức Cha Lê Hữu Từ trong vụ ông Tổng Văn Dung bị công an tàn sát là cố giữ hóa khí đối với chính quyền Việt Minh, nhưng cương quyết chống đối chính sách đàn áp của Cộng Sản, và cố tránh không để cho thực dân Pháp lợi dụng gây rối. Nên nhân danh là người được ủy nhiệm bảo vệ sự an toàn cho Đức Cha Cố Vấn, cùng phái đoàn chính phủ, tôi đã phản đối đề nghị di chuyển quan tài ông Dung về chôn ở nghĩa trang Hòa Lạc. Tôi viện lẽ rằng nếu đưa xác ông Dung về chôn ở Hòa Lạc, đám tang sẽ phải đi qua ty Công An ở đầu cầu Kiến Thái, là nơi ông Dung đã bị giam giữ và bị tra tấn tối hôm trước, chắc chắn dân chúng sẽ căm phẫn, nổi lên xông vào đập phá ty Công An, diệt trừ những tên công an tàn ác, nhất là tên trưởng ty công an Nguyễn Kiên Đạt là người đầu tiên không thể tránh được ‘búa tạ’ của nhân dân Phát Diệm về tội giết chết và hứa ‘cuội’ về việc thả tự do cho ông Tống Van Dung. Như vậy việc duy trì trật tự và giữ hòa khí đối với bọn Việt Minh sát nhân khó có thể thực hiện được. Sau hết, cha Hàm đề nghị chôn ông Dung ở đất thánh ‘Nhà Chung’ là nghĩa trang dành riêng cho các linh mục và tu sĩ của địa phận Phát Diệm, và đề nghị này đã được hội đồng chấp thuận. Tổng bộ tự vệ Công Giáo Cứu Quốc được trao trách nhiệm vận dụng quần chúng mọi nơi về tham dự lễ án táng và cho đây là một dịp để tỏ lòng căm phẫn của toàn dân phản đối chính sách tàn ác của Viêt Minh Cộng Sản. Đội Thanh NiênTiền Phong Phát Diệm phụ trách việc làm biểu ngữ với các khẩu hiệu khích động tinh thần quần chúng như: ‘Trưởng ty Công An Nguyễn Kiên Đạt phải đền mạng’ ‘Công An tàn ác và dã man đã giết cán bộ Công Giáo Tống Văn Dung’, ‘Đả đảo Cộng sản vô thần’, ‘Đả đảo tên công an Đạt giết dân lành’, ‘Vạn tuế Đức Cha Cố Vấn.’ Các phố cùng các đường trong thị xã Phát Diệm đều đầy nghẹt người, không khí hết sức ngột ngạt, vì mọi người chỉ muốn ‘ăn thây uống máu bọn công an Việt Minh’ đã giết chết cán bộ công giáo Tống Văn Dung. Trong khí thế ‘dầu sôi lửa bỏng’ này, một nhân vật cao cấp của chính phủ Việt Minh là ông Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Hồ Chí Minh, lại bị kẹt vào giữa đám đông dân biểu tình ở phố Thượng Kiệm. Một em bé trinh sát thuộc trung đội tự vệ Hòa Lạc khám phá ra rằng ông Huỳnh có đeo khẩu súng lục trong người, nên lệnh báo động được loan ra, đúng lúc anh em Tự Vệ bao vây bắt trói ông Huỳnh mà tôi đã quen biết trong mấy lần lên Bắc Bộ Phủ gặp ông Hồ Chí Minh. Tôi liền ra lệnh cởi trói và dìu ông Huỳnh vào trong nhà 4 tầng lầu của cụ Ngô Tử Hạ, ở ngay giữa phố Thượng Kiệm. Sau khi giải thích cho ông Huỳnh biết về những hành động tàn bạo của ty Công An địa phương đã giết một cán bộ của Công Giáo Cứu Quốc và khi ông Huỳnh cho tôi biết là khẩu súng lục của ông bị tự vệ tước khẩu súng về, và chỉ 5 phút sau tôi đã trao trả khẩu súng cho ông Huỳnh, và mời ông lên lầu nhà cụ Ngô để quan sát cuộc lễ an táng do Đưc Cha Cố Vấn Chính phủ Lê Hữu Từ chủ tọa. Đúng 3 giờ chiều, Đức Cha Cố Vấn cùng đoàn tùy tùng gồm các linh mục, các ‘ông già’ tràng Lý Đoán Thượng Kiệm và các đoàn thể đã tới địa điểm hành lễ an táng. Về phía chính quyền có mặt cụ Ngô Tử Hạ, một nhân sĩ của Phát Diệm, thứ trưởng bộ Thương Binh, đại diện ông Hồ Chí Minh; Nguyễn Ngọc Ái, phủ bộ Việt Minh đại diện chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Ninh Bình; Nguyễn Văn Hoàn, trung đội trưởng Vệ Quốc Quân, và ông Nguyễn Cao Đàm phó chủ tịch Ủy Ban Hành Kháng Kim Sơn. Trong khi Đức Cha, mặc phẩm phục hành lễ, ngồi đợi dân chúng diễn hành trước linh cữu của ông Tống Văn Dung, một liên lạc viên chạy về báo tin cho tôi biết có cuộc xô sát giữa Công an và đoàn biểu tình ở trước ty Công An ở đầu cầu Kiến Thái, tôi liền quay sang báo cáo tin này với Đức Cha Lê và ngài bảo tôi đi xem sự việc ra sao. Tôi bảo anh Quý, có hỗn danh là Quý Chột, đưa cho tôi khẩu súng máy Thompson và khi đi qua trụ sở của phủ bộ Việt Minh, nhà cô Am ở phố Thượng Kiệm, tôi thấy lố nhố ở trên lầu trụ sở này mấy tên Việt Minh cầm lựu đạn trong tay, sẵn sàng thẩy xuống đám đông, dân chúng đứng đầy nghẹt dưới đường. Tôi liền bắn lên cửa sổ trên lầu trụ sở này một tràng súng máy, bắt đóng cửa sổ lại và ra lệnh dân chúng biểu tình bao vậy thật chặt. Tiếp tục tiến lên tới cầu Trì Chính, đeo súng lên vai để tỏ thiện chí hòa bình, khi tới giữa cầu tôi hô to lời yêu cầu muốn nói chuyện với đại đội trưởng Vệ Quốc Quân và tuyên bố: ‘Tự Vệ Công Giáo không đánh nhau với Vệ Quốc Quân, yêu cầu Vệ Quốc Quân hợp tác với nhân dân trừng trị bọn Công An sát hại dân lành’. Viên đại đội trưởng yêu cầu tôi ra lệnh giải tán dân chúng biểu tình lúc này đứng đầy khu vực quanh đồn Vệ Quốc Quân, trông thấy cảnh hết sức nguy hiểm cho dân biểu tình là nếu vệ quốc quân ném lựu đạn từ các lỗ châu mai trên lầu xuống thì một số lớn dân chúng sẽ bị thiệt mạng, tôi ra lệnh dân chúng vẫn tiếp tục bao vây nhưng rút xa ra ngoài ở phía Chợ Cói. Tiến lên tới cổng bệnh viện Trì Chính, tôi được báo cáo là cuộc đụng chạm ở ty Công An đã chấm dứt vì các Công An viên Việt Minh đã bỏ trốn hết trước uy lực như vũ bão của dân biểu tình, nhưng sau đó tôi biết sự thực là anh em Tự vệ ở Tự Tân do ông Quản Toản cầm đầu cùng với đoàn biểu tình đã tấn công vào trụ sở ty Công An trước, nhưng vì các công an Việt Minh đã rút lui, nên tình thế mới trở lại yên lành. Quay trở về khu vực hành lễ, tới đầu cầu Trì Chính, nhìn xuống tôi trông thấy cảnh hỗn độn, tan hoang đang diễn ra ở giữa phố Thượng Kiệm, thì ra dân chúng biểu tình đã tấn công đập phá tan tành trụ sở của phủ bộ Việt Minh, trên lầu và dưới nhà cùng ở sân sau 8 anh cán bộ bị dân chúng đả thương nằm dài trong vũng máu. Trên khắp các phố, một số thanh niên tay dao, tay lựu đạn cùng với dân biểu tình đang xông xáo đi tìm các cán bộ Cộng Sản để thanh toán. Dưới gầm một nhà sàn ở đầu phố Phú Vinh thấy lôi ra xác của một anh cán bộ cộng sản. Trước tình thế hỗn loạn này, tôi ra lệnh cho anh em tự vệ xử bắn tại chỗ những kẻ gây rối loạn hay cướp bóc, một mặt tôi ra lệnh cho dân biểu tình lánh mặt vào trong các nhà của dân chúng hay trong các đường hẻm, và các đường phố trong thị xã đều được đặt trong tình trạng thiết quân luật và một lệnh đặc biệt được loan truyền khắp nơi là khi thấy Vệ quốc quân xuống phố giữ trật tự thì mọi người đều hô to khẩu hiệu ‘Hoan Hô Vệ Quốc Quân’,‘Đả Đảo Công An'. Mặt khác tôi lại xung phong lên gặp lại đại đội trưởng Vệ Quốc Quân và yêu cầu cho Vệ Quốc Quân xuống phố tái lập trật tự. Viên đại đội trưởng nhận lời yêu cầu của tôi và cho quân xuống phố giữ trật tự. Sau khi biết chắc Vệ Quốc Quân sẽ xuống phố để văn hồi trật tự, tôi liền vọt ngay về nhà cụ Ngô Tử Hạ, và nói cho Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Hồ Chí Minh, biết về các sự việc xẩy ra, đúng lúc này cụ bà Ngô Tử Hạ mời chúng tôi ra ngoài bao lơn xem dân chúng Phát Diệm hoan hô Vệ Quốc Quân và đả đảo Công An. Vũ Đình Huỳnh tỏ ra rất xúc động và hứa với tôi rằng: ‘Ngay sáng sớm mai tôi rời khỏi Phát Diệm và tôi sẽ báo cáo lên ông Hồ Chí Minh biết rõ về những câu chuyện xẩy ra ở Phát Diệm’. Kết quả trông thấy là tên Nguyễn Kiên Đạt, trưởng ty Công An bị hạ tầng công tác và một bức điện văn của Hồ Chí Minh đánh về cho cơ quan hành chánh kháng chiến tỉnh Ninh Bình, đã lọt vào tay chúng tôi, qua một giáp điệp nhị trùng, Hồ Chí Minh nói rằng: ‘Dù một số cán bộ của chính quyền bị thiệt mạng, nhưng tuyệt đối không được ‘đụng’ tới Phát Diệm’, và tới tấp hết phái đoàn nọ đến phái kia được Hồ Chí Minh cử về trấn an Đức Cha Lê và nhân dân Phát Diệm, và khu an toàn Phát Diệm đã được công nhận. Trở lại vấn đề Vệ Quốc Quân xuống phố vãn hồi trật tự, đi đến đâu được dân chúng hoan hô đến đó nên họ chỉ còn có một việc phải làm là tản thương mấy anh cán bộ Việt Minh bị dân chúng ‘đập’ cho chết hoặc chết đi sống lại. Trở về nơi hành lễ an táng, linh cữu ông Dung vẫn còn nằm đó do anh em Tự Vệ Vinh Trung canh gác và tôi được báo cáo về các sự việc xẩy ra. Nguyên do là sau khi tôi được Đức Cha Lê bảo lên giải quyết vụ xô xát xẩy ra ở ty Công an, thì cha Đoàn Độc Thư vừa bước lên diễn đài để đọc bài điếu văn, ngài chưa kịp khai khẩu, thì một phát súng ‘bí mật’ phát ra, viên đạn ghim vào tường gạch rồi rơi xuống ngay gần chân Đức Cha Lê. Tin Đức Cha Cố vẫn bị mưu sát được loan ra, dân chúng bắt đầu náo động, cuộc lễ an táng được ngưng lại và tiểu đội hộ vệ được lệnh bảo vệ Đức Cha, cụ Ngô Tử Hạ, ông Nguyễn Ngọc Ái và trung đội trưởng Vệ Quốc Quân Nguyễn Văn Hoàn trở về tòa giám mục. Trên đường đi về tòa Giám Mục, Đức Cha Lê đi giữa khoác tay cụ Ngô Tử Hạ, bên trái là trung đội trưởng Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Ngọc Ái khoác tay cụ Ngô Tử Hạ, khi đi qua trụ sở Ủy ban Hành Kháng Kim Sơn ở nhà cụ Bố Chiểu, tên Ái định vùng chạy vào trụ sở này, nhưng bị dân chúng cản lại, nên chạy theo bám lấy cụ Ngô Tử Hạ. Bốn người đi thành hàng ngang, nhưng muốn vào khu an toàn phải đi qua cổng rào làng kháng chiến ở trước nhà cụ Hội Ngọc. Vì cổng này chỉ rộng đủ cho 3 người đi lọt, nên Nguyễn văn Ái bị lọt lại, liền bị cụ trùm Nhật lôi cổ quật nhào xuống đường, dân chúng nhào tới đánh đòn ‘hội chợ’ và cuối cùng bị thanh toán bằng một phát đạn súng lục. Khi trở về tòa giám mục để báo cáo tình hình, Đức Cha Lê hỏi tôi về trường hợp tên Ái bị đả thương đến chết và tôi được ủy nhiệm để giải quyết vấn đề này cho êm đẹp. Ngay khi được tin báo cáo là xác tên Ái bị vùi ở đống tro ở nhà Gạo, nơi đặt kho lẫm thóc lúa của nhà chung, tôi liền tới và thấy xác tên Ái bị nhiều vết thương và thấy chỉ còn lại có chiếc quần lót thiếu quần dài. Lý do là khi kéo xác tên Ái từ cổng rào vào tới nhà Gạo, đường dài trên nửa cây số, chiếc quần dài đã bị vướng mắc, mất trên đường. Tôi ra lệnh phải tìm bằng được chiếc quần này, và xác tên Ái đã được chuyển sang nhà thương các bà Dòng Đức Bà Truyền Ciáo, xác được tắm rửa và thuốc đỏ được bôi trên các vết thương và băng bó cẩn thận. Sáng hôm sau một văn thư được Tổng Bộ Tự Vệ gửi sang phủ bộ Việt Minh báo tin: ‘Ông Nguyễn Ngọc Ái bị dân chúng đả thương nặng, được đưa vào nhà thương Phú Vinh cứu chữa, nhưng ông đã tắt nghỉ ngay lúc tối’ và yêu cầu phủ bộ cho người tới lãnh xác. Tới sáng hôm sau tòa giám mục công bố một bản báo cáo về vụ xô sát xẩy ra chiều ngày mồng 8 tháng 9 năm 1947, với chữ ký của Đức Cha Lê, Cố Vấn Chính Phủ, cụ Ngô Tử Hạ, thứ trưởng bộ Thuơng Binh và Nguyễn Văn Hoàn, trung đội trưởng Vệ Quốc Quân, bản báo cáo chính thức đó được viết như sau: Chúng tôi, Giám Mục Lê Hữu Từ, Cố Vấn Chính phủ, Ngô Từ Hạ, đại biểu Quốc Hội, thứ trưởng bộ Thương binh, Nguyễn Văn Hoàn, trung đội trưởng Cảnh vệ Kim Sơn, tường thuật vụ xô xát xẩy ra tại Phát Diệm, chiều ngày 8 tháng 9 năm 1947 đúng như chúng tôi thấy. Nhân đồng bào Lê Văn Cương tức Dung bị Công an Kim Sơn bắt giải đi Ninh Bình, rồi 2 hôm sau thấy xác trôi trên sông Vạt, đồng bào địa phương xin làm lễ an táng, nên lúc 2 giờ rưỡi chiều 8-9-47, cùng cụ Ngô Tử Hạ, thứ trưởng Thương Binh, ông Nguyễn Nguyễn Ngọc Ái, chủ tịch phủ bộ Việt Minh Kim Sơn và ông Nguyễn Cao Đàm, phó chủ tịch Ủy ban Hành -Kháng Kim Sơn, chúng tôi đi ra chợ Phú Vinh, nơi để xác ông Cương. Vì các đoàn thể từ hai mạn Đông Tây về rất đông nên phải đi lại xếp chỗ cho tiện. Trong khi chờ đợi, chúng tôi ở gần xác ông Cương, trước điểm sở Phú Vinh. Khi buổi lễ sửa soạn bắt đầu thì đột nhiên nghe súng nổ, dân chúng đang đi, liền ầm ầm chạy. Rồi lại tiếp tiếng súng và một viên đạn rơi ngay gần chân tôi. Chúng tôi vội đứng lên tạm trú vào điếm sở. Vì thấy tình thế càng nguy và dân chúng sôi nổi quá, sự nguy hiểm cho cụ thứ trưởng Ngô Tử Hạ, ông Ái chủ tịch, và ông trung đội Hoàn, nên linh mục Đoàn Độc Thư, thừa ý tôi, ra lệnh cho tự vệ phải bảo vệ tính mệnh cho các vị ấy. Hai ông Phan Văn Kim và Trần Văn Tuyển chỉ huy tự vệ, liền hô to với dân chúng: ‘Thừa lệnh Đức Giám Mục, anh em tự vệ và dân chúng phải bảo toàn tính mệnh cho cụ thứ trưởng, ông Ái, chủ tịch và ông Hoàn, trung đội trưởng’ Thế rồi chúng tôi đi về mạn nhà chung, tôi đi trước, cụ Ngô Tử Hạ khoác tay hai ông Ái và Hoàn đi sau. Chúng tôi đi rất vội vàng. Nhưng được một quãng, ông Ái vùng vằng giằng tay ra lùi lại gần trụ sở Ủy Ban Kháng Chiến Kim Sơn. Vì tình thế quá nguy, nên chúng tôi mạnh ai nấy bước, về được đến nhà chung bằng yên. Đến khi chúng tôi tìm ông Ái thì mới biết trong khi ông lùi lại, ông bị dân chúng quá phẫn uất về việc định ám hại tôi, nên xông vào đánh ông bị thương. Vì vết thương quá nặng, nên ông đã tắt nghỉ tại nhà thương Phú Vinh ngay lúc tối. Nhờ bộ đội cảnh vệ giữ được trật tự, nên tình thế trở lại yên ổn rất mau. Cụ Ngô Tử Hạ được người nhà chung bảo vệ trở về nhà, còn trung đội Hoàn, nghỉ lại trong nhà chung một đêm, rồi sáng hôm sau trở về trại. Trong khi chờ mở cuộc điều tra, chúng tôi mong rằng thượng cấp hết sức khôn khéo để nhân tâm trở lại yên tĩnh và không có gì làm cho dân tình thêm phẫn uất. Làm tại Phát Diệm ngày 9-9-1947 Ký tên: Giám Mục Lê Hữu Từ, Ngô Tử Hạ, thứ trưởng Thương Binh, Nguyễn Văn Hoàn, trung đội trưởng Trong bức thư luân lưu số 21 đề ngày 12-9-1947 của Đức Cha Lê Hữu Từ gửi cho các cha và các giáo hữu trên toàn địa phận Phát Diệm, ngài có ghi đầy đủ bản báo cáo nêu trên vì ngài e ngại rằng có nhiều tin đồn được loan truyền trong dân chúng không đúng sự thật và ngài viết thêm: ‘Như anh em đã thấy trong vụ xô xát này, tôi lâm vào tình thế rất hiểm nghèo, nhưng Chúa và Đức Mẹ đã đoái thương gìn giữ tôi an toàn tính mệnh. Vì thế tôi xin anh em cùng với tôi hết lòng cám ơn Chúa và Đức Mẹ…’ và kết thúc bức thư luân lưu ngài xin những hội các bà, các trẻ con phải ra sức kêu xin Chúa cất các sự cheo leo đang đe dọa Giáo Hội Việt Nam. Ngay sáng hôm sau mồng 9 tháng 9, năm 1947, Việt Minh cử một số đoàn viên của nghiệp đoàn xe kéo dưới quyền anh Ninh (Rỗ) tới nhà thương Phú Vinh lãnh xác tên Nguyễn Ngọc Ái và đưa lên huyện lỵ Yên Mô để chôn cất. Được biết lễ an táng được tổ chức trọng thể và dĩ nhiên Việt Minh cũng vận động nhiều dân chúng Yên Mô tham dự và đưa ra khẩu hiệu: ‘Trả thù cho đồng chí Nguyễn Ngọc Ái’ và nhiều người cho chúng tôi biết thêm là hầu như trên mộ chí của Ái, Việt Minh có cho khắc tên của 3 người mà chúng cho là thủ phạm gây ra vụ Ái bị dân chúng Phát Diệm đập chết. Tin tình báo của Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc cho biết Việt Minh đã điều động sư đoàn 304 về bao vây Phát Diệm nên lệnh báo động được ban hành, không những chỉ cho các đơn vị Tự Vệ Công Giáo tại Phát Diệm không mà thôi, mà lệnh này còn đặt tất cả mọi đơn vị Tự Vệ Công Giáo ở các giáo xứ trong vùng, trong tình trạng báo động sẵn sàng chuẩn bị nghênh chiến. Riêng trong khu vực chúng tôi chịu trách nhiệm bảo vệ như Vinh Trung, Vinh Ngoại, Vinh Chợ và Thượng Kiệm, và các khu vực khác cũng vậy, tất cả các đầu đường giong đều được rào kín lại hết, nhiều lũy tre và cây cối được hạ nằm xuống đầy đường như chướng ngại vật và mọi sự di chuyển của dân chúng trong khu xóm đều theo một hệ thống đường gọi là ‘Chiến khu’, được thiết lập nối liền từ vườn nhà nọ sang vườn nhà kia và các nhà ở khu phố đều đục tường thông sang nhà bên cạnh, không một người lạ mặt nào có thể lọt vào được trong các khu xóm. Ngoài những tự vệ được võ trang đều hăng hái xung phong vào các công tác bảo vệ tòa giám mục chống lại mọi sự xâm nhập của bộ đội Việt Minh, tình hình Phát Diệm trở nên hết sức ngột ngạt và căng thẳng, nhưng chúng tôi rất yên tâm tin rằng tuy sư đoàn 304 của Việt Minh bao vây Phát Diệm một cách rất chặt chẽ nhưng chúng không dám tấn công vào Phát Diệm. Lý do vì một tay gián điệp nhị trùng tên Trần Điển gốc người Trà Cổ ở Móng Cáy, tế tử của Phát Diệm, đã cung cấp cho chúng tôi một bản sao của một công điện Hồ Chí Minh gửi cho Trần Lâm, chủ tịch Ủy ban Hành Chánh & Kháng chiến tỉnh Ninh Bình, ra lệnh ‘Tuyệt đối không được ‘đụng’ tới Phát Diệm’, bức công điện này được sao gửi cho một số cơ quan công quyền của Việt Minh. Sở dĩ Hồ Chí Minh gửi công điện cấm bộ đội Việt Minh không được ‘đụng’ tới Phát Diệm, có thể vì họ Hồ đã được Vũ Đình Huỳnh báo cáo cho biết rõ những sự việc liên quan đến việc xô sát xẩy ra ở Phát Diệm. Đúng vào thời gian này tình hình chính trị ở Việt Nam có nhiều biến chuyển rất quan trọng, nên lý do chính trong việc Hồ Chí Minh không dám cho bộ đội ‘đụng’ tới Phát Diệm là vì Cựu Hoàng Bảo Đại sau một thời gian ẩn mình, im lặng ở Hồng Kông lại đột nhiên tuyên bố, ngày 5 tháng 9 năm 1947, rằng ông sẵn lòng theo ý nguyện của nhân dân Việt Nam đứng ra lãnh đạo quốc gia một lần nữa. Đến ngày 10 tháng 9 năm 1947, Cao ủy Pháp ở Đông Dương thời bấy giờ là Bollaert tuyên bố tại Hà Đông rằng Pháp ưng thuận về nguyên tắc cho Việt Nam độc lập, và Cựu Hoàng có chiều hướng nhận lời đứng ra điều đình với Pháp nên Hồ Chí Minh vội vàng ủy cho Trần Lâm chủ tịch ủy ban hành chánh kháng chiến tỉnh Ninh Bình cùng một phái đoàn hùng hậu về Phát Diệm ngày 15 tháng 9, 1947 để trấn an Đức Cha Lê Hữu Từ. Trong cuộc yết kiến, ông Chánh án Tường đã trình với Đức Cha Từ; ‘Biến cố ngày 8-9-47 chỉ là hậu quả của chế độ dân chủ trong buổi phôi thai. Cán bộ chính phủ kém mềm dẻo, hành động cách máy móc; dân chúng thì nông nổi chưa ý thức đủ bổn phận người dân trong một quốc gia mới dành độc lập, nên xin Đức Cha Cố Vấn truyền thả tự do cho các cán bộ bị bắt giam và giải tỏa tình trạng báo động. Phần chính phủ đã cho hạ tầng công tác ông trưởng ty Công an Kim Sơn Nguyễn Kim Đạt (người chịu trách nhiệm về việc thảm sát cán bộ công giáo Tống Văn Dung) và đã thuyên chuyển Đạt đi nơi khác. Một ngày gần đây Hồ Chí Minh sẽ gửi phái đoàn cao cấp về trình với Đức Cha Cố vấn một giải pháp có ích lợi cho cả đôi bên. ‘ Sỡ dĩ ông chánh án Tường được cử ra trình bầy với Đức Cha Lê là vì ông ta là người công giáo quê ở xứ Bích Tri tỉnh Hà Nam. Với việc Cựu Hoàng Bảo Đại tuyên bố với quốc dân ngày 18-9-1947 rằng đã từ ngôi báu vì hạnh phúc của dân; nay nếu dân muốn vời ra giúp việc điều đình với Pháp, thì cũng sẵn lòng đòi hỏi Độc Lập và Thống Nhất cho hợp với nguyện vọng chung; cộng thêm việc phái đoàn chính phủ Việt Minh về yết kiến Đức Cha Lê Cố Vấn với những lời lẽ khoan dịu sau vụ chủ tịch phủ Việt Minh Nguyễn Ngọc Ái bị nhân dân dập chết. Nên dân tình nói chung và dân Phát Diệm nói riêng đang chịu những áp lực của việc bị bao vây bởi sư đoàn 304, tỏ ra rất xôn xao và có nhiều tin đồn thổi bất lợi cho đường lối chính trị của Phát Diệm. Vì thế Đức Cha Lê đã cho lập nhiều phái đoàn đi tới các giáo xứ của địa phận để minh định lập trường của người Công Giáo trước thời cuộc đang biến chuyển mạnh với việc Cựu Hoàng Bảo Đại trở lại chấp chính. Theo đó người Công Giáo nên: -Bình tĩnh và sáng suốt để nhận định thời cuộc. -Sáng suốt nhận định các âm mưu của bọn phản động chia rẽ sự đoàn kết giữa lương và giáo. -Tôn trọng kỷ luật, khôn ngoan trong hành động đừng để Công Giáo mang tội với Tổ Quốc. Ngoài việc lập các phái đoàn đến giáo xứ để giải thích Đức Cha Lê Hữu Từ còn minh định rõ lập trường của ngài đối với chính phủ Hồ Chí Minh trong bức thư luân lưu số 22 đề ngày 25-9-1947. ‘Cụ Hồ Chí Minh đã thấu hiểu mưu mô của bọn phản động. Cũng như tôi, Cụ đã đau lòng và lo ngại trước những việc đáng tiếc xẩy ra có hại cho sự đoàn kết giữa Công Giáo với Chính phủ. Để hàn gắn và làm êm dịu ngay những vết thương chia rẽ ấy, vừa đây, Cụ đã đặc phái ủy viên thân tín là cha Phạm Bá Trực, phó chủ tịch ban Thường vụ Quốc hội về thảo luận với tôi.’ Đáp lại mối thịnh tình trước sau của Cụ đối với Công Giáo và riêng tôi, xin các cha truyền cho bổn đạo phải trọng kính và tùng phục chính phủ nơi các viên chức địa phương, phải hết lòng hợp tác trong những công việc có lợi cho Tổ Quốc, đừng hành động gì, đừng có thái độ khiêu khích bất cứ trong ngôn ngữ, cử chỉ, hành vi kẻo rồi ‘cái sẩy nẩy cái ung’ hàn gắn không kịp’. ‘Nói tóm lại, tình thế hiện nay thật rất mực nghiêm trọng, nếu người Công Giáo không biết tôn trọng kỷ luật, không khôn ngoan trong hành động, có thể nên cớ cho Công giáo mang tiếng, mang tội với Tổ Quốc là điều tôi hết sức khuyên can và trừng phạt’. Được biết cha Phạm Bá Trực đã tiết lộ cho Đức Cha Lê Hữu Từ biết rằng: ‘Khi xẩy ra biến cố ngày 9-9-1847 mà Nguyễn Ngọc Ái bị chết, đa số nhân viên chính phủ muốn đem quân về làm cỏ Phát Diệm, nhưng Hồ Chí Minh đã cản lại, nói rằng: ‘Bây giờ ta đang xây nhà thì dĩ nhiên những đống gạch vụn bừa bãi phải có, khi xây xong thì hốt đi có khó khăn gì’. Trong bức thư luân lưu, Đức Cha Lê Hữu Từ cũng yêu cầu các cha nhắn nhủ anh em giáo hữu mệnh lệnh của ngài đã ban bố ngày 8 tháng 2 năm 1947: Cấm bổn đạo gia nhập đảng phái chính trị. Sở dĩ có lệnh cấm này vì ngày 20 tháng 1 năm 1947, bốn thanh niên công giáo người làng Văn Hải và như Tân là Hạnh, Mão, Long, Quỳnh đã gia nhập đảng cộng sản và về làng Văn Hải quấy rối theo lệnh của Việt Minh, nên bị dân chúng uất ức đập chết cả 4 tên. Sau đó 60 người dân Văn Hải bị Việt Minh bắt giữ và tra tấn, nhờ có Đức Cha Lê can thiệp với Hồ Chí Minh nên mới được thả tự do. Trong những năm tranh đấu hào hùng nhất của Phát Diệm chống thực dân Pháp và Cộng Sản dưới quyền lãnh đạo của Đức Cha Lê Hữu Từ, các đoàn viên của hai đoàn thể cách mạng quốc gia Đại Việt Duy Dân Đảng và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã hoạt động một cách rất đắc lực, hoàn toàn dưới danh nghĩa Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm. Tuy nhiên cũng có một số đảng viên của đảng khác như đảng Dân Tộc lại hoạt động một cách quá hăng say, hơn nữa lại còn chủ trương bạo động quá khích ở một số xứ đạo. Hơn nữa đảng Dân Tộc lại còn bị cán bộ Việt Minh xâm nhập, xúi làm bậy và là đầu mối cho Cộng Sản tung ra nhiều vụ đàn áp tại Bình Sa và Phúc Nhạc. Đức Cha Lê Hữu Từ cho là những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”, gây ra những hoàn cảnh khó khăn. Trong thư luân lưu số 23 ngày 15 tháng 10 năm 1947, ngài viết như sau: ‘Từ ít lâu nay, sự an ninh trong địa phận, nhất là trong vùng Kim Sơn bị đe dọa và hầu như mất hẳn, làm cho các Cha và anh em sống những giây phút hồi hộp lo sợ, mà tôi rất đỗi đau lòng.’ Trước hết ta phải nhận lỗi chúng ta. Vì trong giáo hữu cũng như nhà Đức Chúa Lời (tu sĩ) ít kẻ sống đúng tinh thần Phúc Âm, ít ăn năn đền tội mình và đền tội cho kẻ khác. Một cớ nữa do kinh nghiệm rút được ở những cuộc vây bắt Bình Sa (từ ngày 4-10-1947) và Phúc Nhạc (từ ngày 7 tới 14 tháng 10-1947). Số là bọn người dùng danh nghĩa đảng phái lẩn lút vào dân lương thiện đã có những hành động quá khích như cướp của giết người… Chính phủ đã nhiều lần yêu cầu tôi cộng tác để tiêu trừ bọn côn đồ. Dầu tôi chẳng muốn đem con bỏ chợ, nhưng vì là một công ích cho sự an ninh toàn dân, tôi không thể làm khác hơn là thinh lặng một đôi lần. Tôi đau đớn vô cùng khi thấy đồng bào bị chồng chất tai ương: nào là phải hy sinh để trường kỳ kháng chiến, nào là bọn côn đồ bóc lột quấy nhiễu, rồi tiếp đến những ngày hoang mang sợ hãi khi công an bộ đội đến vây bắt côn đồ, sợ rằng ‘giặc chẳng bắt, bắt thầy tu’ lại còn thêm cái nạn tư thù thừa cơ báo oán…! Vì vậy xin các cha và anh em giáo hữu, đừng để bọn đó lẩn lút trong xứ trong dân, kẻo mai ngày sinh cớ xẩy ra những vụ khác to lớn hơn. Bọn chúng sẽ là những kẻ cõng rắn cắn gà nhà…’ Việt Minh Cộng sản thường cho cán bộ xâm nhập các xứ đạo dưới danh nghĩa đảng phái để hoạt động và xúi làm bậy rồi báo cáo về. Bởi vậy khi tới lúc phải triệt hạ thì Việt Minh đã có đủ dữ kiện và nếu Đức Cha Cố Vấn Lê Hữu Từ có hạch hỏi thì bằng cớ sẽ được tung ra. Vụ Phúc Nhạc với Cao Thắng là điển hình nhất mà chúng viện lý do là ‘bắt côn đồ’. Danh từ Côn Đồ, Viêt Gian và Phản Động thường được Việt Minh dùng để bắt giữ những người chúng muốn bắt: linh mục, tu sĩ Công Giáo hay các thượng tọa, đại đức, tu sĩ Phật Giáo, vẫn có thể trở thành côn đồ, việt gian, phản động dưới con mắt của Việt Minh. Tinh thần chống Cộng sản của dân chúng Phát Diệm, mỗi ngày một gia tăng có thể đưa tới sự kiện: nhiều sự xô sát có thể xẩy ra do tinh trạng báo động ở các xứ đạo mà Pháp có thể lợi dụng để tung quân về chiếm đóng Phát Diệm với lá bài Cựu Hoàng Bảo Đại trở lại chấp chính, và đặt Phát Diệm vào một tình thế rất khó xử, nên Hồ Chí Minh đã cử linh mục Phạm Bá Trực, quốc vụ khanh, lãnh đạo phái đoàn chính phủ , về yết kiến Đức Cha Lê Hữu Từ, cố vấn chính phủ, đệ trình một văn thư đưa ra giải pháp ‘gọi là có lợi cho cả đôi bên’. Theo đó Việt Minh đề nghị: Vì tôn trọng và cảm mến tài đức của Cố Vấn, Hồ chủ tịch muốn được san sẻ một phần trách bằng cách nhường hẳn quyền cai trị toàn phủ Kim Sơn gồm 40 xã ấp, có 32 giáo xứ thuộc các tổng Như Sơn, Hồi Thuần, Hướng Đạo, Tự Tân và Truy Lộc với khoảng 150 ngàn dân số. Các cơ quan hành chính, quân sự… của chính quyền rút đi hết, để Đức Cha Lê Cố Vấn toàn quyền tổ chức; ủy cho linh mục quốc vụ khanh toàn quyền đại diện Chủ tịch Chính phủ, tham khảo ý kiến Cố vấn và báo cáo về để Chính phủ quyết định…. Đức Cha Lê Hữu Từ đã nhã nhặn từ chối đề nghị của chính phủ Việt Minh và cám ơn lòng tốt của ông Hồ Chí Minh, lý do viện ra để từ chối là vì ngài là Giám Mục của Giáo Hội Công Giáo, trên cương vị Cố Vấn chính phủ, ngài tranh đấu không phải là mục đích tham quyền cố vị, nhưng vì trước hết là phục vụ Giáo Hội và Tổ Quốc, sau nữa là để bảo vệ cho quyền lợi của dân chúng bị áp bức. Tuy nhiên, để khỏi phụ lòng ‘tri kỷ tình thâm của Hồ Chí Minh’ Đức Cha Lê bằng lòng nhận một khu vực rất nhỏ, một nửa xã Phát Diệm từ đường số 10 trở lên bề ngang rộng một cây số và dài 3 cây số, bao trùm họ Phát Trung và Phát thượng. Ba mặt được bao bọc bởi ba sông đào ngăn cách các họ đạo: Phát Ngoại, Lưu Phương, Vinh Trung, và Vinh Chợ. Tòa Giám Mục là trung tâm điểm và được đặt tên là Khu An Toàn Phát Diệm. Khu An Toàn Phát Diệm được hợp thức hóa trong một hội nghị triệu tập trụ sở của Ủy Ban Hành chánh, Kháng chiến Kim Sơn do linh mục quốc vụ khanh chủ tọa với đông đủ các cơ quan chính quyền địa phương cùng phủ hộ Việt Mnh và các thân hào nhân sĩ trong số đó có đại đức Trí Dũng, chùa Phổ Quang Đồng Đắc và linh mục Phạm Ngọc Chi (sau này là giám mục). Trong Khu An Toàn Phát Diệm, Đức Cha Lê, Cố vấn chính phủ, có toàn quyền tổ chức những cơ sở cần thiết và nhân viên và cán bộ của chính quyền không được xâm nhập nếu không có phép của tòa Giám Mục. Nhờ ở Khu An Toàn này biết bao nhân vật trong các đoàn thể cách mạng quốc gia đã tránh được bàn tay độc tài, tàn ác của Cộng sản và cũng từ đây nhiều chiến dịch chống cộng sản đã được phát động lan tràn tới Miền Trung và vùng đồng bằng Bắc Việt.
Những cuộc xô xát đẫm máu xẩy ra tại Phát Diệm Sau khi cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ đêm ngày 19-12-1946 Việt Minh thấy rằng cần phải đoàn kết toàn dân trong công việc kháng chiến chống thực dân Pháp thì mới có thể dành được độc lập và Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm cũng chủ trương rằng công giáo không thể không cùng đứng chung một chiến tuyến với toàn dân trong công cuộc chiến đầu dành Độc Lập cho Tổ Quốc Nhưng khốn nỗi công cuộc kháng chiến dành độc lập đó không còn giữ được tính chất liên hiệp quốc gia như trước nữa mà đảng Cộng Sản hầu như giữ độc quyền lãnh đạo chính phủ Việt Minh. Nên lập trường chính trị của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc là người công giáo hợp tác cùng toàn dân trong công cuộc chống thực dân Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc nhưng triệt để chống cộng sản vô thần theo tôn chỉ Phụng sự Thiên Chúa và Tổ Quốc. Ngay trong thời kỳ kháng chiến, Việt Minh vẫn đề cao chủ thuyết Các Mác và Lêninít, báo Sự Thật, cơ quan tuyên truyền chủ nghĩa Mác viết: ‘Chúng ta cần phải nói ngay rằng: ‘Cộng sản là vô thần, và vô thần là thế nào? Là không tin có trời cũng như không tin có một vị toàn năng, toàn thiện, tạo dựng nên và sai khiến vạn vật và loài người… vật chất là nguồn gốc của những cảm giác và ý niệm và tư tưởng là sản phẩm của vật chất…’ Từ học thuyết Duy Vật của Các Mác suy diễn ra lý tưởng vô thần, vô tôn giáo của Cộng Sản, mà Lênin tổ sư của Cộng sản Việt Nam đã tuyên bố: ‘Tôn giáo là thuốc phiện mê dân, tư tưởng đó là viên đá góc tường của chủ thuyết Mác Xít’, nên trong một bức thư gửi cho Đức Cha Lê Hữu Từ đề ngày 2-3-1947, Hồ Chí Minh viết: ‘Lý tưởng Duy Thần và học thuyết Duy Vật không hợp nhau là lẽ tất nhiên…’ một khi lý tưởng Duy Thần của Công Giáo không thể hợp tác với lý tưởng Vô Thần, nên Cộng sản coi sự hợp tác giữa Công Giáo và Cộng sản trong công cuộc kháng chiến chống Pháp dành Độc Lập cho Tổ Quốc, chỉ là giai đoạn. Trong khi Hồ Chí Minh đóng trò mềm mỏng thì cán bộ Cộng sản khắp nơi dở trò đàn áp Công Giáo. Một số nhân vật đầu não của tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, trong đó có chúng tôi đã bị Việt Minh bắt giữ một thời gian rồi thả ra mà không hề nói lý do tại sao lại có những cuộc bắt bớ ấy. Ngoài ra nguyên tại giáo phận Phát Diệm, từ năm 1946 đến những tháng đầu của năm 1947, khoảng 5,000 người vừa công giáo vừa không công giáo đã bị Cộng sản bắt giữ, đây chỉ tính trên những đơn xin can thiệp của thân nhân những người bị bắt giữ, gửi tới văn phòng Đức Cha Cố Vấn chính phủ ở Phát Diệm. Khi nhận được thư phản kháng quyết liệt của Đức Cha Lê Hữu Từ về việc chính quyền Việt Minh đàn áp nhân dân, Hồ Chí Minh cấp tốc gởi 3 phái đoàn về Phát Diệm trong 5 ngày, và mang lệnh thả tự do cho một số người bị bắt, sở dĩ Hồ Chí Minh có những hành động mau lẹ và nhượng bộ như vậy là vì tình hình chính trị của đất nước có chiều hướng thay đổi. Chính là việc Cựu Hoàng Bảo Đại nhận lời yêu cầu của nhân dân sửa soạn đứng ra nói chuyện với Pháp và hơn nữa dân chúng Phát Diệm cương quyết chống lại mọi việc đàn áp của Công sản bằng võ lực, do đó nhiều cuộc xô sát đẫm máu đã xẩy ra tại nhiều nơi ở giáo phận Phát Diệm. Trước vụ ông Tống Văn Dung, một cán bộ Công Giáo Cứu Quốc bị Việt Minh hạ sát, gây ra vụ dân chúng Phát Diệm đả thương đến trí mạng chủ tịch phủ bộ Việt Minh Nguyễn Ngọc Ái và một số cán bộ. Ngoài ra một cuộc nổi dậy của dân chúng Văn Hải ở miền duyên hải Phát Diệm chống lại sự xâm nhập của Việt Minh đã làm cho 4 cán bộ cộng sản bị thiệt mạng. Xã Văn Hải đông dân và trù phú vào bậc nhất miền duyên hải Kim Sơn và thanh niên Công Giáo xứ Văn Hải rất hăng hái trong công cuộc chung, ông Chánh Bích giữ chức chủ tịch khu bộ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc miền duyên hải với linh mục Vũ Hữu Văn là cố vấn chỉ đạo. Cha chính xứ Văn Hải là linh mục Nguyễn Thiên Khuyến, Ủy ban hành chính kháng chiến xã Văn Hải là ông chánh Văn và tất cả các ủy viên trong ủy ban đều là người công giáo cả. Xã Văn Hải có 4 ấp thì 3 ấp toàn tòng công giáo, ấp thứ 4 có ít người nhất thường gọi là ấp lương vì không có ai là công giáo cả. Ấp này nằm sát với xã Truy Lộc, một xã hoàn toàn theo Việt Minh, nên xã bộ Việt Minh Truy Lộc được trao trách nhiệm phải triệt hạ bằng được các tổ chức Công Giáo Cứu Quốc miền duyên hải trong 4 giáo xứ Văn Hải, Tân Khẩu, Tân Mỹ và Cồn Thoi. Du kích Việt Minh của mấy xã lân cận thường tổ chức những buổi thao dượt ở xã Vân Hải gọi là để cho du kích học tập sẵn sàng đối phó với trường hợp thực dân Pháp đổ bộ chiếm đóng Văn Hải, đây chỉ là một lý do để du kích sửa soạn xâm nhập. Việc này làm cho tinh thần giáo dân Văn Hải rất căng thẳng nên họ quyết chiến đấu bảo vệ xóm làng và nhất là bảo vệ giáo xứ và thánh đường. Và chúng tôi được ông Chánh Bích báo cáo đầy đủ về những hoạt động của du kích Việt Minh và để đề phòng mọi bất trắc, các đại đội Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc ở các xứ bộ miền duyên hải đều được đặt trong tình trạng báo động, và việc du kích quấy rầy dân chúng được thông báo cho Ủy ban Hành chánh Kháng chiến nhưng tỉnh không hề can thiệp. Khi được tin mật báo là du kích Việt Minh có chương trình mở cuộc ruồng bắt các linh mục chính xứ ở miền duyên hải và bắt giữ một số viên chức xã, vào dịp Tết Đinh Hợi (1947), và Văn Hải sẽ là thí điểm đầu tiên; ông Quản Mỹ, ủy viên xã đồng thời là chỉ huy đơn vị tự vệ công giáo cứu quốc Văn Hải, liền ra tay tấn công trước, bằng việc kéo nhau sang ấp lương phóng hỏa đốt cháy trụ sở xã bộ Việt Minh. Nên tối 5 giờ chiều ngày hôm sau thứ bẩy 20 tháng giêng năm 1947, du kích Việt Minh kéo nhau tới bao vây bắt ông Quản Mỹ trong nhà xứ Văn Hải. Trong khi du kích dẫn giải ông Mỹ ra khỏi nhà xứ, có linh mục Vũ Hữu Văn đi theo thì đúng lúc Hướng Đạo sinh, cắm trại ở khuôn viên bên cạnh nhà thờ, tưởng rằng du kích Việt Minh bắt giữ cha Văn, liền kéo chuông nhà thờ báo động dân chúng đến tiếp cứu và xông ra ném đá gạch vào bọn du kích. Ông thủ Tường múa song kiếm xông ra đấu với tên cán bộ Quýnh, ông bị chém đứt một tai, nhưng liền đó tên Quýnh, bị anh Mai hạ thủ bằng đòn sóc đánh vào hạ bộ, nằm chết dẫy đành đạch. Không ai bảo ai giáo dân ùa ra loạn đả bọn du kích đập chết 3 tên cán bộ khác là Hạnh, Mão và Long, một điều khá trớ trêu là phía du kích Việt Minh không thấy nói tên nào bị thương cả nhưng 4 người bị đả thương đến chết đều là người công giáo được dân chúng Văn Hải gọi là giáo gian, còn về phía dân chúng 9 người bị thương. Đến 12 giờ đêm, Việt Minh cho người tới thương lượng với linh mục Vũ Hữu Văn để một đại đội du kích tới thu lượm 4 xác chết. Sau khi giáo dân xung đột với du kích Việt Minh, người ta thấy cửa kính nhà thờ bị đập vỡ, một cánh cửa ra vào bị gẫy và 3 nơi đường Thánh giá bị bể rớt, nhiều người cho rằng Ninh Bình biết, nhưng hầu như tỉnh bộ Việt Minh cố ý lờ đi và những thiệt hại vật chất ấy do du kích Viêt Minh gây ra, nhưng có người khác cho rằng chính thanh niên Văn Hải đã gây ra mấy vụ đổ vỡ này để có chứng cớ buộc tội du kích Việt Minh đập phá nhà thờ. Giáo dân xứ Văn Hải sống một đêm hãi hùng lo sợ, nam phụ lão ấu hầu như thức trắng đêm đề phòng một cuộc trả thù của Việt Minh, 4 đại đội tự vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Tân Khẩn, Tân Mỹ, Như Tân và Cồn Thoi tới trợ lực cho anh em ở Văn Hải và chúng tôi ở trên Phát Diệm cũng đặt các đơn vị chiến đấu trong tư thế báo động sẵn sàng can thiệp nếu cuộc xung đột lan rộng. Trong khi đó Việt Minh cũng điều động quân tới bao vây kín xã Văn Hải, tới 9 giờ sáng, một phái đoàn của chính quyền tới xứ đường để thảo luận với linh mục Vũ Hữu Văn, cố vấn chỉ đạo Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc miền duyên hải. Trong khi cuộc thảo luận đang diễn ra ở xứ đường thì công an đổ người đi ruồng xét bắt giữ 40 thanh niên Công Giáo và ra lệnh phóng hỏa đốt cháy trụ sở xã Văn Hải. Nhưng công an chưa kịp ra tay nổi lửa thì lệnh báo động được ban ra dân Văn Hải đổ ra đầy đường ngõ, quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ xóm làng và giải thoát cho những người bị bắt, làm cho mấy cán bộ chính quyền cùng công an phải bỏ chạy thục mạng. Tuy nhiên khi kiểm điểm lại thì vẫn còn 13 giáo dân bị công an Việt Minh dẫn giải đi mất. Ngay trước cuộc xung đột xẩy ra Đức Cha Lê Hữu Từ cố vấn chính phủ đã được báo cáo rất đầy đủ về những hoạt động gây rối của du kích Việt Minh làm giáo dân Văn Hải phẫn uất đến cực độ, nên những việc đáng tiếc đã xẩy ra không ai kịp ngăn cản. Đức Cha Lê đã can thiệp thẳng với Hồ Chí Minh để xin tha cho những người bị bắt, đến ngày mồng 4 tháng giêng Đinh Hợi, Việt Minh thả tự do cho 3 người và dần dần thả hết tất cả 13 người, tuy Việt Minh không kiểm soát được xã Văn Hải, nhưng có tin cho biết gần 60 người dân bị Việt Minh bắt tỉa từng người một, khi có việc đi ra khỏi xã Văn Hải. Để trấn an các giáo dân đang hoang mang lo sợ, Đức Cha Lê, cố vấn chính phủ về Chánh đường Văn Hải dâng thánh lễ ngày chúa nhật 19 tháng 3 năm 1947, tháp tùng Đức Cha Lê có một phái đoàn của chính quyền Việt Minh gồm có Nguyễn Công Truyền, chủ tịch Ủy ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Ninh Bình, Đào Gia Lựu, trưởng ty Công an tỉnh và các viên chức của phủ bộ Kim Sơn. Nhiều ngàn giáo dân các giáo xứ miền duyên hải cũng kéo về Văn Hải tham dự cùng với các chủng sinh trường lý đoán Thượng Kiệm và trường thử Trì Chính. Trong bài giảng thuyết tại nhà thờ, Đứa Cha Lê nói với giáo dân Văn Hải: ‘…Trong biến cố vừa qua, chúng con đã vì lầm mà sát hại mấy người của chính phủ, đối với Chúa đó là tội phạm vào giới răn thứ 5, ‘Chớ giết người’. Chúng con hãy ăn năn và đi xưng tội Chúa sẽ tha thứ…’ Sau thánh lễ, một cuộc ‘mít tinh’ đã được tổ chức để nhân dân miền duyên hải chào mừng Đức Cha Lê Cố vấn và phái đoàn của chính phủ, trước mặt nhiều ngàn giáo dân chúng, Đức Cha Lê đã lên diễn đài, hướng về phía phái đoàn chính phủ, chỉ vào mặt ông Nguyễn Công Truyền mà nói: ‘…Nguyên nhân gây ra vụ biến động Văn Hải là do các ông gây ra, chính những hạ cấp của các ông đã làm những việc thất nhân tâm nên bị nhân dân quá phẫn nộ, đã tự động vùng dậy. May mà mấy cán bộ hạ cấp của các ông đã chịu thay cho các ông, nếu không chính các ông là người phải chịu hình phạt ấy của nhân dân…’ Rút kinh nghiệm đau thương ở vụ biến động Văn Hải và vụ ông Tống Văn Dung ở Phát Diệm, Việt Minh đã bị thất bại nặng nề vì nhiều cán bộ bị dân chúng nổi lên đả thương đến trí mạng, nên cuộc Việt Minh đàn áp Phúc Nhạc đã diễn ra theo chiều hướng có kế hoạch đàng hoàng. Tuy nhiên trong cuộc xung đột này cả 2 bên quần chúng và Việt Minh đều bị thiệt hại nặng nề về nhân mạng vì cuộc đàn áp của Việt Minh có liên hệ tới những tổ chức của đảng Dân Tộc và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đảng Dân Tộc dưới quyền lãnh đạo của Cao Thăng và Cai Khoan hoạt động rất mạnh tại Phúc Nhạc, đặc biệt cả 2 người này đều là bạn học cùng lớp với tôi trong mấy năm ở trường các Sư Huynh Thiện Giáo ở Phát Diệm, Cao Thăng là bí danh của anh Trần Văn Lý sinh quán ở Phát Diệm. Khoan là người Phúc Nhạc, sở dĩ gọi là Cai Khoan vì Khoan là cai trong cơ ngũ Khố Xanh của Pháp thời trước. Trong thời gian Cao Thăng hoạt động ở Phúc Nhạc vẫn liên lạc thường xuyên với tôi trong công cuộc tranh đấu chung nên nhiều người lầm lẫn nói rằng đảng Dân Tộc và Duy Dân cũng là một. Chi bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Phúc Nhạc dưới quyền lãnh đạo của ông Tào sau này là quận trưởng quận Yên Khánh nên thường gọi là ông Quận Tào hoạt động rất đắc lực ở quận Yên Khánh trong đó có Phúc Nhạc, cũng như Cao Thăng và Cai Khoan, ông quận Tào cùng với anh Vi đều cùng phối hợp những hoạt động chống Cộng Sản với chúng tôi ở Phát Diệm. Trong thời gian sau này trong trận chiến Yên Cự Hạ nơi con trai tướng Pháp De Lattre de Tassigny chết, ông Quận Tào rất nổi tiếng với những trận du kích đánh vào hậu cần của sư đoàn 304 và 308 của Việt Minh và khi di cư vào Nam năm 1954 ông quận Tào định cư ở tỉnh Bến Tre và bị xe lôi đụng chết. Trở lại câu chuyện Phúc Nhạc bị bao vây trong gần 2 tuần lễ trước khi bị Việt Minh triệt hạ, nguyên là ngày mồng 6 tháng 10 năm 1947, tân chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Khánh Chiến tỉnh Ninh Bình là Trần Lâm cùng với trưởng ty Công an Đào Gia Lựu, tiểu đoàn trưởng Vệ Quốc Quân Trần Văn Khung đột nhiên xin tới thăm Đức Cha Lê Hữu Từ, cố vấn chính phủ vào khoảng 8 giờ tối, gọi là để Trần Lâm ra mắt Đức Cố vấn Chính phủ. Đồng thời để trình bầy về việc Phúc Nhạc bị hai đảng Dân Tộc và Việt Nam Quốc Dân Đảng lũng đoạn, gây ra nhiều rắc rối đối với chính quyền; phái đoàn cũng trình lên Cố vấn những tài liệu đã thâu thập được, chứng minh những hành động phi pháp của các phần tử gọi là ‘Côn Đồ’ ẩn náu trong khu bộ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc Phúc Nhạc. Trước những lời trình bầy buộc tội các ’Côn Đồ’ của phải đoàn tỉnh bộ Ninh Bình, Đức Cha Lê hiểu ngay rằng đây chỉ là những chứng cớ nại ra để triệt hạ Công Giáo, nên ngài trả lời: ‘Nếu quả thật có những hành động không tốt đẹp ấy thì tôi cũng không dung thứ, những các ông phải thận trọng, tránh việc làm thiệt hại tới tài sản và tính mạnh của dân lành’ Ngay sáng sớm ngày hôm sau, một liên lạc viên của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã được cấp tốc phái đi báo tin cho khu bộ Phúc Nhạc biết mà đề phòng, nhưng phải mất tới gần 2 ngày liên lạc viên mới lọt được màng lưới dầy đặc bộ đội Việt Cộng bao vây Phúc Nhạc, chỉ cách Phát Diệm có 11 cây số. Khi nhận được tin, ông Tào và các anh em Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương tìm nơi ẩn náu, cho rằng ‘tránh voi không xấu mặt’, nhưng ngược lại cánh ông Cao Thắng và Cai Khoan và đảng viên đảng Dân Tộc nhất quyết cùng với khu bộ VNCGCQ tổ chức bố phòng, chiến đấu đến cùng. Hồi 4 giờ sáng ngày thứ bẩy mồng 9 tháng 10, bộ đội Việt Minh mở cuộc tấn công vây kín và bắt đầu xâm nhập vào khắp nơi cùng một lúc. Dân chúng được báo động ùn ùn kéo ra ứng chiến. Đến 6 giờ sáng, súng bắt đầu nổ, cuộc giao tranh diễn ra ác liệt kéo dài suốt cả ngày. Đến chập tối, sau khi đạn dược đã cạn và dân chúng bắt đầu mệt mỏi vì quân số quá ít không địch lại được với bộ đội, tuy nhiên cũng đã hạ được 20 tên vừa bộ đội vừa công an, dân quân rút về cố thủ ở khu thánh đường và tiểu chủng viện Phúc Nhạc, bộ đội Việt Minh đã làm chủ tình hình và dân quân bao vây kín hai địa điểm này. Cuộc bao vây kéo dài, mọi sinh hoạt trong xã Phúc Nhạc đều bị ngưng trệ: chợ cấm họp, các tiệm buôn đều đóng cả, nhà xử và tiêu chủng viện phải xuất gần hết lúa gạo trong kho lẫm để nuôi ăn hơn 1000 người bị kẹt trong vòng vây. Sau 11 ngày bao vây và 3 ngày lục soát, Việt Minh bắt dẫn đi 596 người và nhờ ở sự can thiệp tức thời của Đức Cha Lê, Việt Minh thả tự do hầu hết những người bị bắt và chỉ giữ lại 20 người, rồi sau đó thả thêm 7 người nữa. Còn 13 người thuộc thành phần lãnh đạo đảng Dân Tộc trong đó có Cai Thắng và Cai Khoan đã bị Cộng sản kết án tử hình và đem ra xử bắn tại Núi Cánh Diều ở Ninh Bình.... Khôi Nguyên Nguyễn Đình Thư Nguồn: "Một Thời Tranh Đấu - Hồi ký lịch sử 1942-1954" https://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?&m=904789&mpage=1
(bấm vào link này để xem toàn mục lục và phần giới thiệu.) Trang Thời Sự |