|
30 tháng 4, 2011
|
Why is the Vatican rushing the beatification of a pope who oversaw its worst scandal in centuries?
Tại sao Vatican lại nhanh chóng phong thánh cho một giáo hoàng chịu trách nhiệm về vụ xì-căng-đan tồi tệ nhất
trong nhiều thế kỷ nay ?
Pope John Paul II, 1978 Ảnh Elliott Erwitt/Magnum |
Khi giáo hoàng Gioan Phaolồ II được phong thánh vào ngày 1 tháng 5 sắp tới trước hàng trăm ngàn người tại quảng trường St Peter, thì biến cố nầy sẽ đánh dấu một kỷ lục về cuộc chạy đua phong thánh, phá kỷ lục nhanh hơn Mẹ Theresa 15 ngày. Vài người phản đối sự gấp gáp nầy, nhất là khi đang có những thắc mắc về phương cách mà Gioan Phaolồ xử lí cuộc khủng hoảng tình dục trong Hội thánh Công giáo. (Ta có câu) sinh con rồi mới sinh cha, thì đây rõ ràng là trường hợp của giáo hoàng trở thành cha đẻ của chính vị thánh được phong hôm nay.
Gioan Phaolồ đã nổi tiếng là chủ trì một định chế mà người ta gọi đùa là “xưởng sản xuất thánh” (saint-making factory) trong gần 27 năm làm thủ lãnh Giáo hội Công giáo. Ông ta đã sản xuất nhiều thánh (1338 thánh chân phúc và 482 thánh) hơn tổng số tất cả các thánh cộng lại mà 263 giáo hoàng trước đó của Giáo hội Công giáo đã phong cho.
Đống hào quang trên đầu các thánh là kết quả bài bản của một chính sách. Từ năm 1983, Gioan Phaolồ đã xem xét lại toàn bộ quy trình phong thánh sao cho nhanh hơn, rẽ hơn và bớt gây tranh cãi bằng cách dẹp bỏ văn phòng phản biện (“Devil’s advocate” office) và hạ thấp số lượng phép lạ cần phải có của ứng viên. Mục đích của Giáo hoàng là nâng cao vai trò nhân vật thánh thiện kiểu mẫu cho một thế giới thế tục chán ngán để chứng tỏ rằng sự thiêng liêng thì vẫn còn tồn tại đó đây.
Khá nhiều vị thánh do Gioan Phaolồ chọn lựa thì sống trong thế kỷ thứ 20, từ cha Pio cho đến mẹ Theresa cho đến ông Jose Escriva, sáng lập viên tổ chức Opus Dei. Trong cách nhìn đó, việc phong thánh theo đường tắt (fast-track beatification) của Gioan Phaolồ là một phó sản tự nhiên của chính sách của ông ta mà thôi, chính sánh nầy đã được duy trì gần như toàn bộ bởi người kế vị và kẻ phụ tá ngày xưa là Giáo hoàng Benedict XVI hiện nay.
Tuy nhiên, chính sách nầy của Giao Phaolồ là một nhắc nhở, ít nhất cho một số người, rằng tại sao (thời gian phong thánh) nên đợi thêm một chút thì vẫn tốt hơn.
Trên lý thuyết, quy trình phong thánh phải có tính dân chủ, bắt đầu bằng một tình cảm của quần chúng tín đồ rằng một khuôn mặt nào đó là một vị thánh. Sáu năm trước đây, bằng chứng về một tình cảm như thế đối với Karol Wojtyla, tên đời của Giáo hoàng Gioan Phaolồ II, thì gần như quá hiển nhiên.
Tại vì rõ ràng đó là vị giáo hoàng đã hạ bệ Cộng Sản, đã được nhiều người thấy dung nhan nhất trong lịch sử loài người, đã làm hồi sinh Công giáo sau một thời gian hoài nghi và rối rắm (doubt and confusion), và đã xây dựng một thế hệ linh mục và giám mục trẻ “Gioan Phaolồ”, sẵn sàng mang thông điệp của giáo hội xuống đường.
Ngay trong tang lễ của Gioan Phaolồ 2 đã có nhiều đám đông hô hào “Santo subito!” – “Phong thánh ngay” - Những vị Hồng y tập họp lại để bầu vị giáo hoàng kế tiếp đã ký một thỉnh nguyện thư yêu cầu dù ai có là tân giáo hoàng thì cũng nên miễn khoảng thời gian 5 năm chờ đợi trước khi bắt đầu thủ tục phong thánh, và yêu cầu nầy đã được tân giáo hoàng Benedict 16 nhanh chóng thi hành. Hiện tượng xưng tụng quá trớn của truyền thông (adulatory coverage) quốc tế biến sự cố nầy thành một loại phong thánh thế tục (sort of secular canonization), khiến quy trình chính thức của giáo hội như bị xẹp xuống.
Tuy nhiên, hiện nay, sự nồng nhiệt đó đã bị giảm đi vì những phát hiện về vai trò của vị cố giáo hoàng và những phụ tá của ông ta trong cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục mà nhìn từ góc độ nào, cũng thấy đó là xì-căng-đan hủy hoại nhất của Công giáo trong nhiều thế kỷ qua, một xì-căng-đan bị chỉ trích là di căn (metastasized) từ dưới triều đại Gioan Phaolồ.
Trường hợp điển hình nhất là trường hợp linh mục Mễ Tây Cơ Marcial Maciel Degollado, sáng lập viên của dòng tu Legionaries of Christ thủ cựu từng gây nhiều tranh cãi. Giáo hoàng Gioan Phaolồ 2 là người đỡ đầu cho linh mục Maciel, vì khâm phục sự trung thành không thắc mắc giáo lý Công giáo của dòng tu nầy, trung kiên với La Mã và quyền lực của Giáo hoàng, và thành công trong việc phát động lòng tin trong giới trẻ Công giáo.
Thế nhưng vào giữa thập niên 1990’, người ta bắt đầu thấy xuất hiện những tố cáo rằng khuôn mặt công của linh mục Maciel thật ra lại che dấu một cuộc sống riêng tư chẳng thánh thiện chút nào cả. Một đơn tố cáo được gửi về La Mã, đến văn phòng của nguyên Hồng y Joseph Ratzinger, mà hiện nay là Giáo hoàng Benedict 16, tố cáo rằng linh mục Maciel đã lạm dụng tình dục một số cựu thành viên của dòng tu. Hồ sơ đó đã bị trì hoãn cho vào ngăn kéo (tabled) cho đến năm 2001, và không có một biện pháp phản ứng nào cho đến sau khi Gioan Phaolồ mất đi (2005).
Ngay cả khi nhân viên của Hồng y Ratzinger bắt đầu được thuyết phục rằng có lửa sau màn khói, những nhân vật cao cấp dưới triều Gioan Phaolồ cũng vẫn giúp đỡ và an ủi linh mục Maciel nầy. Thật vậy, linh mục Maciel đã được tháp tùng Gioan Phaolồ 2 trong nhiều chuyến công du nước ngoài và được các giới chức cao cấp của giáo hội tán dương như một tấm gương kiểu mẫu về các hoạt động của linh mục trong giới trẻ. Đã có lần bộ nhiều quyền lực nhất của Vatican là Bộ Ngoại giao Tòa thánh đã phủ nhận rằng linh mục Maciel không bị điều tra gì cả dù vào đúng thời điểm đó, văn phòng của Hồng y Ratzinger đã kết luận rằng Maciel thật sự đã có tội rồi.
Dưới triều Giáo hoàng mới, con đê (che dấu sự thật nầy) bị vỡ. Vào tháng 5 năm 2006, Giáo hoàng Benedict 16 ra lệnh cho linh mục Maciel phải lui về sống một cuộc đời “cầu nguyện và hối lỗi”, và phải xác nhận chịu trách nhiệm về một loạt những lạm dụng và hành động sai trái, kể cả chuyện đã làm cha những đứa trẻ với ít nhất hai người đàn bà không hôn thú.
Dưới mắt những người chỉ trích, “trường hợp Maciel” minh họa một mô thức chối bỏ và cản trở công lý về tội lạm dụng tình dục dưới triều Gioan Phaolồ 2 (pattern of denial and obstruction of justice on sex abuse during the John Paul years). Có những trường hợp mà vị Tổng giám mục địa phương cố gắng trục xuất kẻ lạm dụng ra khỏi tập thể linh mục trong một quy trình gọi là “thế tục hóa” (laicization - tách rời khỏi giáo hội) thì La Mã thường khuyến cáo là phải cẩn thận. Cho đến gần đây, giáo quyền Vatican vẫn nhắm mắt không thi hành chính sách “phải báo cáo” (“Mandatory reporter”) đòi hỏi các Giám mục phải báo cáo những tội ác nầy cho cảnh sát và công tố viên.
Mô thức (chối bỏ và cản trở công lý) nầy được giáo hoàng Benedict 16 cải tổ đến đâu thì còn phải xét lại, nhưng mô thức đó đã được xảy ra dưới triều giáo hoàng Gioan Phaolồ 2 thì nay đã thành chứng tích của biên bản (matter of record).
Những người muốn binh vực Giáo hoàng Gioan Phaolồ lý luận rằng giáo hội lúc bấy giờ đang trong quá trình học hỏi (learning curve), do đó lên án giáo hoàng bằng những chuẩn mực hôm nay là không công bằng. Ngoài ra, họ còn cho rằng cho đến lúc xì-căng-đan (lạm dụng tình dục) nổ bùng tại Mỹ và tội lỗi của linh mục Marciel được xác định rõ ràng, thì Giáo hoàng Gioan Phaolồ đã đi vào buổi hoàng hôn của cuộc đời rồi (already well into his twilight). Họ cũng lý luận rằng đóng góp chính của Giáo hoàng Gioan Phaolồ chống lại tai họa (lạm dụng tình dục của hàng giáo phẩm) đã gợi hứng cho một thế hệ mới những linh mục tận tụy và thánh thiện, những người thi hành nhiệm vụ “nhân danh Giêsu” một cách nghiêm chỉnh, và do đó sẽ ít cơ may làm nhục lời thề của họ.
Dù nghĩ thế nào về các luận cứ nầy thì Vatican vẫn phủ nhận rằng chuyện phong thánh cho Gioan Phaolồ thì (hàm ý) phê chuẩn luôn tất cả chọn lựa về chính sách dưới triều đại của ngài. Chẳng hạn như khi giáo hoàng Pius IX ở thế kỷ thứ 19 được phong thánh vào năm 2000, giới chức Vatican đã phải mất nhiều công sức xác nhận rằng cuộc phong thánh nầy không phải là hành động tán thành chính sách của Pius IX đối với dân Do Thái, gồm hành động nổi tiếng đuổi dân Do Thái tại La Mã vào sống trong các khu ổ chuột (ghetto) và không chịu trao trả một em bé Do Thái, Edgardo Mortara, về lại cho cha mẹ của em chỉ vì em đã được bí mật rửa tội.
(Xem Los Angeles Times: Jews Disturbed by Beatification of Pope Pius IX, và chuyện The Vatican kidnapped a Jewish boy in 1858. Why are we still talking about it?)
Những giới chức Vatican nầy nói rằng khi phong thánh cho một giáo hoàng, điều đó có nghĩa là dù có những viễn kiến và quyết định sai lầm làm hại đến triều đại của một giáo hoàng (marred a pope’s reign), cá nhân vị đó dù sao cũng là một người thánh thiện. Và chắc là có rất ít người thắc mắc về đời sống đầy cầu nguyện của Gioan Phaolồ 2, tính chất kỳ bí mạnh mẽ và niềm tín ngưỡng sâu sắc của ông ta.
Dĩ nhiên, nỗ lực thanh minh thanh nga của Vatican thì không còn có trọng lượng như ngày xưa nữa, và trong nhiều giới, người ta vẫn chỉ trích rằng vụ phong thánh nầy là một nỗ lực để minh oan (whitewash) cho chứng tích của Gioan Phaolồ trong cuộc khủng hoảng (lạm dụng tình dục). Một kiểm chứng xem Vatican có quan tâm đến những chỉ trích hay không là liệu quy trình phong thánh Gioan Phaolồ 2 có đi đường tắt, kết luận phong thánh trong một thời gian kỷ lục, hay được tiến hành với sự thận trọng.
Những người hành hương và tín đồ Công giáo sẽ tụ tập tại quảng trường St Peter vào ngày 1 tháng 5 chắc sẽ ghi ơn được có cơ hội bắt lại được điều kỳ diệu cũ của Gioan Phaolồ. Tuy nhiên, lại có những người khác sẽ tự hỏi liệu đây có phải là một trường hợp mà thà theo khuynh hướng suy nghĩ cổ xưa trong hàng thế kỷ trước của Vatican thì lại tốt hơn.
John Allen là thông tín viên của Tạp chí National Catholic Reporter và là tác giả của cuốn sách The
Future Church: How Ten Trends Are Revolutionizing the Catholic Church