|
đăng ngày 06 tháng
9, 2007
|
Toàn tập: 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Phần
II
Mục 5:
PHẬT GIÁO VÀ VŨ TRỤ HỌC
Trong
thời đại khoa học, khi mà những tiến bộ khoa học đã làm lui đi phần nào
quan niệm thần thánh và những mớ huyền thoại, mê tín dị đoan của con
người, thì càng ngày Phật Giáo càng chứng tỏ là một tôn giáo, từ cấu
trúc, tư tưởng trong các Kinh điển cho tới phương pháp hành trì, rất là
tương hợp với khoa học. Ngày nay, Phật giáo đã đi vào thế giới Tây
phương một cách nhẹ nhàng, cởi mở và hòa đồng. Cho nên thế giới Tây
phương càng ngày càng hâm mộ Phật Giáo về những sắc thái tiến bộ của
Phật giáo, và những khoa học gia thượng thặng ngày nay cũng đã nhận ra
rằng tư tưởng Phật Giáo đã giúp họ rất nhiều trong việc giải thích những
hiện tượng khoa học và đã dẫn họ đến những tư tưởng mới và khám phá mới
trong khoa học. Muốn hiểu được hiện tượng kỳ lạ trên, chúng ta cần
duyệt sơ lại lịch sử khoa học Tây phương cũng như tìm hiểu những sắc
thái đặc biệt của Phật giáo đối với khoa học.
Theo
quan niệm của một số khá đông, nhất là ở Tây phương, thì có vẻ như
khoa-học và tôn giáo khó có thể tương hợp. Thật vậy, tôn giáo Tây
phương đặt căn bản trên niềm tin ở 1 đấng siêu nhiên vạn năng, tác giả
của mọi vật trên thế gian và có toàn quyền quyết định số phận con người
trong đời sau, dù rằng cho tới nay không có cách nào con người có thể
kiểm chứng được sự hiện hữu của một đấng toàn năng, hoặc những ai đã
được thưởng hay bị phạt, và thưởng phạt như thế nào. Trái lại, khoa học
đặt căn bản trên thực nghiệm, trực tiếp liên hệ tới những vấn đề xã hội
ngay trong đời này, và không chấp nhận những sự việc có tính cách mơ hồ,
viển vông, không phù hợp với đầu óc ngày càng tiến bộ của con người.
Trong
mấy thế kỷ gần đây, khoa-học phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ ở Tây
phương, do đó Tây phương rất tự hào về nền văn minh thường được biết là
"nền văn minh Thiên Chúa Giáo Tây Phương" (Western Christian
Civilization), vì tôn giáo chính ở Tây phương là Thiên Chúa Giáo, và vì
những phát triển, tiến bộ ngoạn mục nhất của khoa học và nhiều bộ môn
khác cũng ở Tây phương. Nhưng ít người để ý đến sự nhập nhằng kết hợp
tôn giáo và khoa học làm một nền văn minh chung. Ít người để ý đến sự
kiện là khoa học tiến bộ và phát triển ở Tây phương không phải vì niềm
tin trong tôn giáo của các khoa học gia Tây phương, mà chính là vì các
khoa học gia đã phủ nhận niềm tin này, hay ít ra cũng là lãnh đạm với
niềm tin này. Thật vậy, lịch sử khoa học cho thấy tôn giáo Tây phương,
thường tự cho là văn minh tiến bộ, là khai phóng, đã luôn luôn làm đủ
mọi cách, trong phạm vi quyền lực thế gian, để ngăn chặn những khả năng
tự tại quý báu nhất của con người, thí dụ như óc sáng tạo, tự do suy tư
v...v..., những thành tố tất yếu của sự phát triển khoa-học nói riêng,
kiến thức con người nói chung. Trong khi đó, Phật Giáo, thường bị xuyên
tạc là một tôn giáo yếm thế, chậm tiến, lại có rất nhiều điểm tương đồng
với khoa học, luôn luôn hòa hợp, cổ võ, và hỗ trợ những tiến bộ của khoa
học, và ngày càng giữ một vị thế thoải mái trong thời đại khoa học.
Điều này không có gì là lạ, vì căn bản tu tập trong Phật giáo cũng dựa
trên thực nghiệm giống như khoa học, và nếu ta để tâm tìm hiểu thì ta sẽ
thấy trong nhiều bộ môn, Phật Giáo đã tiến trước khoa học khá xa về tư
tưởng và phương pháp hành trì chứng nghiệm trực tiếp.
Hẳn
nhiên trong một bài viết ngắn ngủi tôi không có cách nào trình bày toàn
vẹn tinh thần khoa học trong Phật Giáo cũng như không thể đi vào tất cả
các bộ môn mà tư tưởng Phật Giáo có thể coi như là tiền phong cho những
khám phá khoa học sau này. Cho nên sau đây tôi chỉ đưa ra vài sự kiện
so sánh giữa những khám phá của Phật Giáo hơn 2500 năm trước và những
khám phá mới đây của khoa học chính xác, và tôi sẽ tự hạn trong đề tài
"Vũ Trụ Luận" trong Phật Giáo. Tôi sẽ chứng tỏ để bạn đọc thấy nhiều
khi Phật Giáo còn chính xác hơn và đầy đủ hơn khoa học, và rằng một số
tư tưởng Phật Giáo và phương pháp trình bày các tư tưởng này đã đi trước
khoa học nhiều thế kỷ.
Quan
niệm của Phật Giáo về vũ trụ như sau: thế giới chúng ta đang sống không
phải là duy nhất và cũng không phải là trung tâm vũ trụ. Ngoài thế giới
chúng ta đang sống còn có rất nhiều thế giới khác, và Phật giáo phân
loại các thế giới thành 3 loại: Tiểu Thiên Thế Giới, Trung Thiên Thế
Giới, và Đại Thiên Thế Giới. Danh từ thế giới trong Phật -giáo chỉ một
thiên thể (thí dụ như trái đất) hoặc một tập hợp các thiên thể được coi
như thuộc một nhóm (thí dụ như thái-duơng-hệ mà trái đất là một hành
tinh trong đó). Vậy, một ngàn thế giới họp thành một Tiểu Thiên Thế
Giới, một ngàn Tiểu Thiên Thế Giới họp thành một Trung Thiên Thế Giới,
và một ngàn Trung Thiên Thế Giới họp thành một Đại Thiên Thế Giới. Vậy,
lấy đơn vị là một hệ thống tương tự như hệ thống Thái Dương Hệ và gọi là
thế giới thì Tiểu Thiên Thế Giới gồm có khoảng một ngàn thế giới, Trung
Thiên Thế Giới gồm khoảng một triệu thế giới , Đại Thiên Thế Giới gồm
khoảng một tỷ thế giới v..v.. Đó là quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo từ
hơn 2500 năm về trước. Nhưng sau đó 22 thế kỷ, vào thế kỷ thế 17, Tây
phương vẫn còn chưa thoát khỏi quan niệm tối tăm về trời tròn đất vuông,
trái đất được coi là trung tâm vũ trụ, và rằng mặt trời quay xung quanh
trái đất như đã viết trong Thánh Kinh. Những khám phá mới, xác thực về
vũ trụ của các khoa học gia như Copernicus (các hành tinh quay xung
quanh mặt trời) và Galileo (trái đất quay xung quanh mặt trời), vì không
phù hợp với thánh kinh, nên đều bị quyền lực tôn giáo đương thời lên
án.
Trở
lại quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo, chúng ta thấy rằng quan niệm này
hầu như tương hợp hoàn toàn với những kiến thức ngày nay của những nhà
thiên văn (astronomers) hay những nhà vật-lý-học về thiên thể
(astrophysicists), và đã đi trước khoa-học nhiều thế kỷ. Một Tiểu Thiên
Thế Giới có thể so sánh với quan niệm hiện đại về một thiên hà (galaxy)
gồm có cả triệu ngôi sao và những hành tinh có thể có sinh vật trên đó.
Thí dụ như giải ngân hà (Milky Way) hay M31, hay chòm sao
(constellation) Andromeda. Một Trung Thiên Thế Giới có thể so sánh với
một chùm thiên hà (galactic cluster) thí dụ như chùm Coma Berenices, và
một Đại Thiên Thế Giới có thể so sánh với cái mà Hannes Alfven gọi là
siêu thiên hà (metagalaxy) ở trong Đại Vũng
(Big Dipper) của Tiểu
Ursa (Minor Ursa) trong đó có ít ra là cả triệu thiên hà. Cho tới nay,
vì những giới hạn tự tại của những dụng cụ quan sát cho nên các khoa học
gia chưa thể đi xa hơn trong việc khảo sát vũ trụ. Nhưng không phải vì
những giới hạn kỹ thuật này mà vũ trụ cũng bị giới hạn theo, và nay
chúng ta đã hiểu tại sao Đức Phật lại "bỏ ngỏ" quan niệm về vũ trụ hữu
hạn hay vô hạn. Điều này chứng tỏ Đức Phật đã thấy rõ khả năng vô tận
của con người, và rằng Phật Pháp không phải là những giáo điều cứng nhắc
không bao giờ thay đổi. Và đây cũng chính là tinh thần khoa học hiện
đại, không có gì có thể coi như là vĩnh cửu, bất biến.
Nói
đến quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo thì chúng ta không thể bỏ qua Kinh
Hoa-Nghiêm, phẩm Thế Giới Thành Tựu. Trong phẩm này, Bồ Tát Phổ Hiền
tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế giới: nhân duyên khởi, chỗ trụ
nương, hình trạng, thể tánh, trang nghiêm tánh, thanh tịnh tánh, Phật
xuất hiện, kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai biệt, và môn vô sai biệt. Để
cho vấn đề tương hợp với khoa học được rõ ràng, sau đây tôi xin luận về
hai điểm : hình trạng và kiếp trụ các thế giới. Chúng ta hãy xét đoạn
kinh văn sau đây:
Lúc đó
Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Thế giới hải có
nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn....hoặc hình như nước xoáy....hoặc
hình như hoa ... có vi trần số hình sai khác như vậy."
Rồi
trong phẩm tiếp theo, phẩm Hoa Tạng Thế Giới, Phổ Hiền Bồ Tát lại tuyên
thuyết: "Chư Phật tử! Tất cả thế giới chủng đó hình trạng đều khác
nhau: hoặc hình núi Tu Di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc
hình nước xoáy, hoặc hình trục xe...hoặc hình hoa sen...có vi trần số
hình trạng như vậy." ("Kinh Hoa-Nghiêm", Thích Trí Tịnh, Phật Học
Viện Quốc Tế xuất bản)
So
sánh với những hình trạng của các chòm sao, giải thiên hà, ngân hà khám
phá bởi khoa học ngày nay chúng ta thấy Phật giáo đã mô tả hình trạng
của chúng một cách vô cùng chính xác. Thí dụ như các hình như bánh xe,
nước xoáy chúng ta có thể quan sát được trong các chòm sao như Cetus,
Pegasus và Hercules, hình sông là giải ngân hà (Milky Way) và nhiều
thiên hà khác, hình dạng như hoa là những khối tinh vân trong khoảng
không gian liên-thiên-hà (intergalactic clouds of gas) có chứa hàng tỷ
ngôi sao v...v... Thật tôi không thể tưởng tượng được ở một thời chưa hề
có kính thiên văn, dù thô sơ nhất, mà Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã có
những hiểu biết chính xác về vũ trụ như trên. Nếu không phải vì đã giác
ngộ hoàn toàn, nắm vững cơ cấu huyền bí của vũ trụ, thì làm sao có thể
biết được những điều như trên. Và chúng ta cũng nên nhớ là những điều
đức Phật và các Bồ Tát chọn để tuyên thuyết cho người đời chẳng qua cũng
chỉ là một nắm lá trong tay so với số lá cây trong rừng.
Tiếp
theo, về kiếp trụ của các thế giới, Kinh văn viết rằng:
"Lúc
đó Phổ Hiền Bồ-Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Nên biết thế
giới hải có thế giới hải vi trần số kiếp trụ, hoặc có a-tăng-kỳ kiếp
trụ, hoặc có vô-lượng kiếp trụ, hoặc có vô biên kiếp trụ, hoặc có
vô đẳng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-sổ kiếp trụ, hoặc có bất khả xưng kiếp
trụ, hoặc có bất khả tư kiếp trụ, hoặc có bất khả lượng kiếp trụ, hoặc
có bất khả thuyết kiếp trụ, ..có vi trần số kiếp trụ như vậy."
Rồi
trong bài kệ để tuyên lại nghĩa này Bồ Tát Phổ Hiền có giải thích bằng
một câu: "Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số, Bởi những tâm nguyện đều
chẳng đồng." Chỉ một câu "bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng"
cũng đã giải quyết vấn đề "thiên sai vạn biệt" trong vũ trụ. Thật là
đầy đủ, thật là rốt ráo, thật là chính xác. Nếu chúng ta đi sâu vào một
chút trong đoạn kinh văn trên, chúng ta sẽ thấy Phật Giáo đã đi trước
khoa học như thế nào.
Phật
giáo phân biệt: Tiểu Kiếp có 16 triệu 8 trăm ngàn năm, Trung Kiếp có 336
triệu năm, và Đại Kiếp có 1 tỷ 344 triệu năm. Theo khoa học hiện nay
thì một ngôi sao (coi như là một thế giới) mà chất lượng (mass) càng
nặng thì đời sống của ngôi sao càng ngắn. Do đó có những ngôi sao chỉ
"sống" được từ 1 tới vài tỷ năm và người ta đã tính được rằng một ngôi
sao có chất lượng nhẹ hơn những ngôi sao trên khoảng 90 phần trăm thì
ngôi sao này có thể sống tới hàng ngàn tỷ năm. Điều này rất phù hợp với
câu kệ trên của Phổ Hiền Bồ Tát, có thế giới chỉ tồn tại một kiếp, có
thế giới tồn tại vô số kiếp v...v....
Thứ
đến, những danh từ như a-tăng-kỳ, vô lượng, vô biên,...bất khả thuyết có
vẻ như mơ hồ và không rõ ràng như những con số trong thời đại khoa học.
Thật ra không phải vậy, vì trong phẩm A-Tăng-Kỳ, Kinh Hoa Nghiêm ta đọc
được như sau, tôi xin đánh số cho nó rõ ràng hơn:
Phật
nói: Này thiện nam tử!
1.
Một trăm Lạc Xoa làm một Câu Chi.
2.
Câu Chi lần Câu Chi làm một A-Giu-Đa
3.
A-giu-Đa lần A-Giu-Đa làm một Na-Do-Tha
4.
Na-Do-Tha lần Na-Do-Tha làm một Tần-Bà-La
và
tiếp tục như vậy tất cả là 123 lần, trong đó số 104 là A-Tăng-Kỳ, số 106
là Vô Lượng, số 108 là Vô Biên, số 110 là Vô Đẳng, số 112 là
Bất-Khả-Sổ, số 114 là Bất-Khả-Xưng, số 116 là Bất-Khả-Tư, số 118 là
Bất-Khả-Lượng, và số 120 là Bất-Khả-Thuyết.
Chúng
ta biết rằng khoa học ngày nay dùng ký hiệu lũy thừa để viết những con
số lớn. Thí dụ như 1 triệu là con số 1 với 6 con số 0 đằng sau, 1 000
000, theo ký hiệu điện toán được viết như sau: (10^6) hay 106
và đọc là 10 lũy thừa 6; 1 tỷ gồm có 9 số 0 và được viết là 109
(billion), lớn hơn nữa là 1012 (1 ngàn tỷ hay trillion), 1015
(1 triệu tỷ hay zillion) và khoa học chưa có những danh từ riêng để chỉ
những con số lớn hơn. Tiếng Việt thì chỉ tới số tỷ là cao nhất.
Theo
Kinh Phật thì 1 Lạc Xoa là 100 ngàn, nghĩa là 105. Như vậy 1
Câu Chi là 10 triệu, nghĩa là 107; 1 A-Giu-Đa là 100 ngàn tỷ,
nghĩa là 1014; 1 Na-Do-Tha là 10 tỷ tỷ tỷ, nghĩa là 1028.
Tiếp tục tính ra ta sẽ thấy 1 A-Tăng-Kỳ là khoảng, nếu chỉ lấy 9 số lẻ,
10(8 x 10^31), nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi hơn 7000 tỷ tỷ
tỷ con số 0 ở đằng sau, một con số vô cùng lớn nhưng vẫn có một tên
riêng. Chúng ta có thể suy ra:
Vô Lượng
~= 10^(3 x 10^32), Vô Biên ~= 10^(1.13 x 10^33),...và Bất-Khả-Thuyết ~=
10^(4.6 x 10^36) nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi khoảng hơn 4 tỷ tỷ tỷ
tỷ con số 0 đứng đằng sau.
Những
con số khoa học hiện đại dùng tới có lẽ chỉ vào khoảng 10^40 nghĩa là
chỉ có 40 con số 0 đứng sau. Chúng ta thấy ngay rằng, ngay cả về phương
diện toán số, Phật giáo đã đi trước khoa học khá xa về sự biểu thị chính
xác những con số và đã có quan niệm về những con số vô cùng lớn, lớn
ngoài mức tưởng tượng của các khoa học gia hiện đại.
Trên
đây tôi đã trình bày sơ lược, sơ lược vì còn rất nhiều chi tiết tôi chưa
nói tới, những sự tương đồng giữa Phật Giáo và khoa học hiện đại trong
một số quan niệm về vũ trụ, và chứng tỏ rằng những tư tưởng Phật Giáo đã
đi trước khoa học nhiều thế kỷ, và rằng Phật giáo cũng vô cùng chính xác
trong một số nhận định. Nhưng Phật Giáo không phải chỉ có những tương
đồng với khoa học trong bộ môn thiên văn như vừa trình bày ở trên, hay
với môn Vật lý các hạt nhỏ (particle physics) như đã trình bày trong
cuốn The Tao of Physics của Fritjoff Capra, mà còn nhiều tương đồng khác
trong các bộ môn như sinh học (bioscience), vật lý hạt nhân (nuclear
physics), triết lý khoa học (philosophy of science), tâm lý học
(psychology), phân tâm học hay tâm lý trị liệu (psychotherapy), di
truyền học (genetics) v...v..., và nếu khảo sát kỹ thì trong bộ môn nào,
tư tưởng Phật Giáo cũng đi trước khoa học khá xa. Cũng vì vậy mà những
bộ óc khai phóng, tiến bộ nhất của nhân loại hiện nay càng ngày càng
phải tìm về những chất liệu trong Phật Giáo với hi vọng giải quyết những
bí tắc trong việc mở mang kiến thức loài người. Ngoài ra, cái tinh thần
từ bi hỉ xả và bản chất khoan dung của Phật giáo cũng lần lần đi vào đầu
óc của những con người tiến bộ trong thời đại khoa học.
Để kết
luận, tôi xin mượn lời của luận gia Gerald Du Pré như sau:
"Trong thế kỷ này, đã có nhiều công cuộc hòa hợp tôn giáo trên thế giới,
với mục đích đáng tán thưởng là tìm ra những điểm chung giữa các tôn
giáo, và cổ súy tinh thần khoan dung giữa các tôn giáo. Tuy nhiên, điều
này không làm cho tôn giáo sống lại, vì những thứ mà hầu hết những tôn
giáo cùng có là lòng tin, giáo điều, thánh kinh và các thần tính, tất cả
những thứ này làm cho các tôn giáo đó không tương hợp với khoa học.
Phật giáo (cùng với Lão giáo) là một biệt lệ, vì Phật giáo không phải là
một tín giáo, không có giáo điều cứng nhắc, không có thần quyền và không
chấp nhận hiệu lực cứu rỗi của bất cứ ai khác.
Tôi
không tin rằng chúng ta nên tìm cách hợp nhất Phật giáo với các tôn giáo
khác. Điều này chỉ dẫn đến sự lẫn lộn. Chúng ta hãy cố gắng tranh đấu
để hợp nhất Phật giáo và khoa học, để tạo nên một tôn giáo khoa học cho
thế giới hiện đại. Khoa học Phật giáo sẽ làm tan biến sự hoang mang,
bối rối bằng cách làm sáng tỏ và hợp nhất lý thuyết và phương pháp hành
trì Phật Giáo để làm một căn bản giác ngộ vững chắc, hữu hiệu cho người
Tây phương."
(During this century, a great deal of
work has been done for uniting the religions of the world, with the
praiseworthy object of discovering what they have in common, and for
promoting tolerance among them. However, this has not lead to a revival
of religion, because what most religions have in common is faith, dogma,
divine scriptures and deities, all of which make them incompatible with
science. Buddhism (along with Taoism) is the great exception to this,
for it is not a faith, has no dogma or divine authority of its own and
does not accept the validity of anyone else's.
I
don't believe that we should be trying to unite Buddhism with other
religions. This only leads to confusion. Instead, we should be
striving to unite Buddhism and science, so as to produce a religion of
science for our modern world. Scientific Buddhism will dispel confusion
by clarifying and unifying Buddhist practice and theory and making it an
effective stepping-stone to enlightenment for Westerners." ("Scientific
Buddhism" by Gerald Du Pré, in "Buddhism and Science", Edited by
Buddhadasa P. Kirthisinghe, New Delhi, India, 1984)
Trang khoa học