PHONG “THÁNH” NGUYỄN VĂN THUẬN

Mr. Tam

Gửi bài này cho bạn bè 15 tháng 11, 2007

 

Toàn tập:   1   2   3

 


LTS: Đây không chỉ là một bài cảm tưởng trước một vấn đề thời sự, mà là một kết hợp những bức xúc liên lỉ của người dân trong một nước nhược tiểu dưới phong ba của thế lực ngoại xâm. Tuy bài viết được hoàn thành một cách vội vã (chưa được duyệt đọc, sắp xếp thứ tự các dữ kiện,...), tác giả đã qui tụ được rất nhiều tài liệu, hình ảnh từ nhiều nguồn tài liệu, đề cập đến nhiều vấn đề qua bao thế kỷ (SH)


 

Đây là bài viết với ý tưởng mới lạ & nhạy cảm. Độc giả nên cân nhắc kỹ trước khi xem bài này. (lời tác giả, Mr. Tam)

 

PHẦN I

 

Phẩn nộ khi đọc báo điện tử online thấy quốc giáo Vatican do “đức thánh cha”; Giáo hoàng quốc xã Đức, tù phạm chiến tranh thế chiến 2 “Nazi Cardinal Joseph Ratzinger, now Pope Benedict XVI inaugurated on the Anniversary of the Birth of Adolph Hitler” (1a). “Questo PAPA , e' il peggio nazista che potevan mettere a capo del Vaticano” (1b) Nazi Joseph Ratzinger (1c) rục rịch thò lò “chơi trò chính trị” phong thánh đám tay sai của mình:

ÐGH khởi sự tiến trình phong thánh cho Hồng y Nguyễn Văn Thuận” (1d)“

“Giáo hoàng Benedict XVI vừa bày tỏ sự ủng hộ của Ngài cho tiến trình chuẩn bị phong chân phước cho đức Hồng y người Việt Francois Xavier Nguyễn Văn Thuận” (1e)

Thật là:

Người xưng “đức cố”, kẻ xưng cha,

Gián điệp tay sai hại nước nhà,

Mãi quốc cầu vinh, phường phản tặc,

Thương luân bại lý, bọn gian tà.

Tội đồ dân tộc tôn vinh "thánh".

Ác bá dâm tà: "đức thánh cha".

Tà đạo thực dân chung một Chúa.

Nhân nào quả ấy chẳng còn xa.

Lương Nhân

 

“Giáo hội gian ác” (1f) với “CHỦ NGHĨA GIÁO HỘI” (1g)  [dịp khác tôi sẽ viết bài giải thích tường tận về “chủ nghĩa giáo hội” này trên Giao Điểm Online (1). Muốn tìm hiểu kỹ hơn về Giáo Hội Hoàn Vũ này mời các bạn đọc: “Quyền lực của những Quân Vương” (2a) Hay là “lịch sử các giáo hoàng” (2b) Các bạn có thể xem sự thật trong cuốn Mật mã Da Vinci (2c) Và trọn bộ MMDV đã đăng trong Việt Nam thư quán (2d)”] ôm mộng bá chủ thế giới do Constantine (2e) “phục sinh” nó ra từ đầu thế kỷ thứ 4. Cái “quái thai nghịch tử” này quay lại “đâm cha – giết chúa” dân tộc Do Thái (gieo nhân nào thì gặt quả ấy ! Có phải là “nghiệp báo” cho dân tộc Do Thái vì đã trót đã sinh ra Jesus ?) (2f). Và gây ra thảm hoạ cho nhân loại suốt chiều dài 2000 năm lịch sử tồn tại của nó.

 

A. MAFIA GIA TÔ MƯU ĐỒ XÂM LƯỢT NGÀN NĂM:

Qui luật “Chu Dịch” cho ta thấy { xem thêm Kinh Dịch là của người VN (2g) } ; đạo Gia Tô bành trướng từ thế kỷ thứ 1 kéo dài tới thế kỷ thứ 6 đến hồi cực thịnh (thái cực), cuối thế kỷ thứ 6 thì Giáo chủ Muhammad ra đời, giữa thế kỷ thứ 7 thì đạo Hồi truyền đạo bỡi chiến tranh; lan nhanh ra khỏi vùng Trung Đông, chặn đứng sự  bành trướng của đạo Gia Tô (Lưỡng Nghi): Đúng theo qui luật của tự nhiên “đấu tranh sinh tồn” đã cân bằng được âm dương; nếu không thì Gia Tô giáo sẽ cho “lên giàn hỏa” - The Inquisition (2h)  hết thảy thiên hạ trên trái đất này.

Để dành lại những vùng đất đã mất, Giáo Hội Hoàn Vũ tiến hành hàng chục cuộc thập tự chinh lớn nhỏ; bại nhiều thắng ít. “Tiến thoái lưỡng nan”, Đế quốc Công giáo lại chuyển hướng sang xâm lượt các nước chậm phát triển, không đủ sức tự vệ khác. Kể từ lúc Popes For Slavery Nicolas V (2k) ra sắc chỉ Romanus Pontifex ngày 8.1.1454 cho phép vua Bồ-đào-nha khai chiến với các dân tộc Phi châu để cướp tài sản của họ và bắt họ làm tôi mọi (2m); tiếp theo là sắc chỉ Inter Cactéra ngày 3.5.1494 của Giáo hoàng Alexandre VI, cho phép Tòa thánh sử dụng quyền Chúa ban; để mở mang nước Chúa:

 

Năm 1492 CG xâm chiếm Châu Mỹ: Côlombô đã đưa  Gia tô giáo đến làm cỏ & cướp vàng Tân Thế Giới. Thời kỳ này Giáo Hội bắt đầu nỗ lực thống trị toàn cầu một cách mãnh liệt sang đến tận Châu Phi, Châu Á và Châu Ðại Dương (2n). Người Châu Phi là nạn nhân của “chế độ giáo hoàng” đẻ ra chế độ nô lệ: “1 tội ác lớn nhất, khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại chống lại loài người” : “Kiếp người nô lệ khổ đau, bị cưỡng ép lao động như trâu bò kéo cày, bị đánh đập, hành hạ, nếu chống lại chủ thì bị xiềng xích, đóng gông. Người bỏ tiền mua nô lệ dùng thỏi thép nung đỏ, đóng dấu trên lưng để nhận dạng nô lệ nếu bỏ trốn”. Biết rõ thảm trạng như thế: Nhưng vì đây là một hình thức làm ăn buôn bán mới và sở hữu vô nhân đạo mang lại nhiều lợi nhuận lớn không kém gì so với ma tuý, cho nên Giáo Hội Hoàn Vũ vẫn nhắm mắt làm ngơ cho “thương thuyền Âu Châu chở vũ khí, máy móc, rượu, hàng hoá biến chế rẻ tiền bán cho Phi Châu, và ngược lại mua "người" từ Phi Châu bán cho Mỹ”. Hậu quả sau 500 năm tàn phá Châu Phi do Giáo Hội Hoàn Vũ đã làm cho chúng ta thấy như ngày hôm nay: Người Mỹ thì giàu, người Phi thì chết đói.

Giáo hội CG (công giáo) tự cho là mình có Quyền bảo trợ (Padroado) trong công cuộc chinh phục và truyền giáo cưỡng bức cải đạo đẫm máu các dân tộc khác (2p), và bênh vực cho chủ nghĩa thực dân  (2q)

Giáo hoàng La Mã phái những tên lính biệt kích đến những xứ sở “man di mọi rợ” xa xôi; các lính thừa sai Dòng Tên lén lút đột nhập vào các nước Đông Phương (dù bị cấm cửa trục xuất, đuổi cổ ra nhiều lần) làm nhiệm vụ lập ra các đoàn quân “đặc nhiệm” “gián điệp nằm vùng” chờ thời “bán nước cho Tây”:

“Bằng tôn giáo (CG) và bằng vũ khí. Các nhà tu hành (giáo sĩ thừa sai) của chúng tôi mở đường bằng cách “qui đạo” cho các dân tộc. Sau đó bắt họ thần phục nước Tây Ban Nha chỉ còn là 1 trò chơi đối với chúng tôi”. (Người Pháp & Người Annam; bạn hay thù ? Phillippe Devillers).

Thừa thắng ở châu Phi và châu Mỹ, năm 1533 người linh mục gián điệp Tây đầu tiên tên là Inekhu đi đường bể lén lút xâm nhập vào làng Ninh Cường, làng Quần Anh thuộc huyện Nam Châu (tức Nam Trực) và ở làng Trà Lũ huyện Giao Thủy (2r)

Sau đó, ngày 15 tháng 1 năm 1627  tên gián điệp biệt kích dòng tên  Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đã cập bến Cửa Bạng (Thanh Hóa). Trong vòng 20 năm, hắn ta bị trục xuất đến sáu lần. Nhưng hắn ta vẫn tìm cách lén lút xâm nhập trở lại Việt Nam. “Năm 1645, A. de Rhodes đến Roma báo cáo với Giáo hoàng. Đến năm 1858, với áp lực và nhiệt tình của Giáo hội Pháp, Giáo hoàng Alexandre VII đồng ý cử các Thế diện Tông toà Pháp là Pallu, Lambert và Cotolendi sang Viễn Đông đảm nhiệm công cuộc truyền giáo. Và chỉ mấy năm sau (1663), một tổ chức truyền giáo lấy tên là Hội truyền giáo nước ngoài Paris (Société des missions étrangères de Paris), người Công giáo Việt Nam gọi là Hội Thừa sai Paris, được thành lập ở Pháp nhằm đào tạo các giáo sĩ thừa sai Pháp đi truyền giáo ở Viễn Đông. Căn cứ vào bản trần tình của các vị bề trên của Hội với Nhà nước Pháp năm 1790, thì Hội này vừa có nhiệm vụ truyền giáo vừa có nhiệm vụ phát huy thế lực của Nhà nước Pháp ra vùng đất ngoại.

 Vai trò kép này của Hội Thừa sai Paris cũng đã được nhiều sử gia người Pháp khẳng định: "Đó là một thứ hội lớn có tính chất quốc gia... Nước Pháp sang á Châu, mang theo đạo Thiên Chúa cũng giống như người Tây Ban Nha hay người Bồ Đào Nha trước đây"; điều  đó  có  nghĩa  là  nước  Pháp cũng áp dụng phương thức thông qua việc truyền giáo để phát hiện và xâm chiếm thuộc địa giống như hai nước nói trên đã và đang làm ở Nam  Mỹ. (2)

Trong lệnh truyền (sắc chỉ) năm 1659 Giáo Hoàng Alexandre VII đã ấn định nhiệm vụ của Hội Thừa Saiđào tạo và thiết lập một tầng lớp giáo sĩ địa phương, (có) hoạt động chính trị, chú ý (tiêu diệt) văn hóa cổ truyền địa phương (1); và mọi quyết định đều phải được thông qua La Mã. Từ thế kỷ mười bẩy cho đến nay Hội Thừa Sai đã gới khoảng bốn ngàn năm trăm giáo sĩ đến châu Á, nhất là các nước Xiêm La, Việt Nam, Cam bốt, Trung Hoa, Ấn Độ, Đại Hàn, Nhật, Mã Lai.... 

Năm 1771 ông được Giáo Hoàng Clément XIV tấn phong Giám mục Adran và được bổ nhiệm làm Giám mục Tông tòa phụ tá Giám Mục Guillaume Piguel. Nhưng cũng trong năm ấy Giám Mục Piguel qua đời ngày 21 tháng sáu, Bá Đa Lộc thay thế Piguel rồi được tấn phong tại Madras ngày 24 tháng hai năm 1774 (Madras được đổi tên là Chennai năm 1996, là một hải cảng nằm trên bờ biển Đông Nam Ấn Độ tại vịnh Bengale), và ông lên đường trở lại Đông Dương ngày 12 tháng ba 1775 với chức vị Giám mục Đại diện Tông tòa Đàng Trong.

Thời ấy các linh mục giả trang làm đủ thứ nghề: thợ mộc, thợ nề, thợ đóng cối xay, thầy lang, bán thuốc thậm chí gánh nước thuê, người đi câu, lái buôn... để truyền đạo, và được sự trợ giúp tích cực của các thương nhân, thậm chí có lúc các giáo sĩ đào tạo chủng sinh trên các thương thuyền. Các chủng viện thời đó là nhà tranh vách đất thiếu thốn mọi thứ, thường bị di chuyển nơi này qua nơi khác, chủng sinh học đạo bằng tiếng La tinh, luân lý hay giáo sử, địa lý, toán pháp căn bản, và thiên văn học (2s)

Pigneau de Béhaine bán nước Việt Nam cho Giặc Pháp

Pigneau de Béhaine đến Đàng Trong năm 1767 lãnh chức giám đốc nhà dòng Hà Tiên, được thụ phong chức giám mục năm 1774. Lúc này, khi Nguyễn Ánh, người nối dõi vương triều Nguyễn đang bị quân Tây Sơn truy bắt, phải trốn tránh, đã được Pigneau de Béhaine ra tay cứu mạng với ý định giúp ông ta trở lại ngôi vua, nhân đó có thể cải giáo rồi biến Đàng Trong thành một quốc gia Thiên Chúa giáo thuộc Pháp. Cuối năm 1784, khi quân Nguyễn ánh bị đánh tan tác, đang ở bước đường cùng Pigneau de Béhaine đã thuyết phục ông này cầu viện sự cứu trợ của Pháp. Pigneau de Béhaine được giao trách nhiệm thay mặt Nguyễn ánh đi cầu viện vua Pháp mang theo con trai trưởng của Nguyễn ánh là hoàng tử Cảnh lúc ấy mới 6 tuổi, để làm tin”. (2)

Pigneau de Béhaine đến Pháp tháng 2 năm 1787. Qua nhiều tháng tiến hành các cuộc tiếp xúc và tường trình. Ngày 28/11/1787, tại cung điện Versailles (Pháp) một hiệp ước gọi là “Hiệp ước Liên minh tấn công và phòng thủ” được ký kết giữa đại diện của Nguyễn Ánh là Bá Đa Lộc và đại diện của vua Pháp Louis XVI là bá tước De Mont Morin:

 “Nội dung chính của hiệp ước Versailles là Pháp cam đoan sẽ gửi quân đội và vũ khí sang trợ giúp Nguyễn Ánh; đổi lại Pháp được quyền sở hữu hoàn toàn cảng Hội An và đảo Côn Lôn cùng với việc mở cửa buôn bán độc quyền thương mại dành riêng cho Pháp.

Hiệp ước Versailles 1787 là một cơ sở pháp lý mà sau này các giáo sĩ thừa sai Pháp có thể dựa vào đó tạo ra cớ đánh Việt Nam “. (2t)

“Điều ước đó không được thi hành vì chỉ hai năm sau Cách mạng Tư sản Pháp bùng nổ, điều ước đã bị lãng quên.

 Tuy nhiên, khi trở lại Đàng Trong vào năm 1790, Pigneau de Béhaine, bằng nỗ lực cá nhân, đã chiêu mộ được nhiều chuyên viên quân sự, mua sắm được khá nhiều vũ khí giúp Nguyễn ánh tăng cường lực lượng quân sự để chống lại quân Tây Sơn. Cá nhân Pigneau de Béhaine trở thành cố vấn đắc lực cho Nguyễn ánh cho đến khi bị bệnh mất năm 1799.

 Mưu toan chính trị lớn của Pigneau de Béhaine không thành, song những hoạt động của giáo sĩ này đã để lại dấu ấn sâu đậm đối với thời cuộc ở Việt Nam lúc bấy giờ. Nhiều sử gia Pháp đã đánh giá rất cao những hoạt động này của Pigneau de Béhaine, thậm chí có người đã coi "Pigneau de Béhaine là nhà tiên khu (précurseur) của công cuộc thực dân của người Pháp ở Đông Dương".

 Giáo sĩ thừa sai Pháp tạo cớ cho cuộc xâm lược vũ trang Việt Nam

Bước sang đầu thế kỉ XIX, chính quyền của giai cấp tư sản Pháp được củng cố vững mạnh, tiếp tục triển khai mở rộng thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Đây là lúc có sự phối hợp khá chặt chẽ giữa các giáo sĩ thừa sai đang hoạt động ở Việt Nam với hạm đội của Pháp ở Đông Hải. Mỗi khi chính sách cấm đạo của nhà nước phong kiến Nguyễn gây khó khăn cho việc truyền đạo, các giáo sĩ Pháp lại thông báo cho chỉ huy hải quân Pháp và ngay sau đó tàu chiến xuất hiện ở cửa biển Đà Nẵng đưa yêu sách đòi thả các giáo sĩ đang bị giam giữ và đòi cho được tự do truyền bá đạo Thiên Chúa, cùng lúc là những hành động gây rối, khiêu khích.

Giáo hội Công giáo hỗ trợ tích cực cho cuộc xâm lược vũ trang của thực dân Pháp

Từ sau khi nổ súng xâm lược cho đến suốt quá trình chiếm đóng và bình định nước ta, Giáo hội Thiên Chúa giáo ở Việt Nam vẫn tiếp tục dành cho quân đội Pháp một sự hỗ trợ nhiệt tình và hiệu quả.

  

Công lao của Puginier, cũng có nghĩa là của Giáo hội Thiên Chúa giáo, được thực dân Pháp đánh giá rất cao. Trong bức điện chia buồn của Khâm sứ Briere khi Puginier mất (25-4-1892) có đoạn viết:

 "Sự quá cố của Đức Cha Puginier không chỉ là một tổn thất lớn lao cho Giáo hội mà còn là một tổn thất cho nước Pháp và cho xứ Bắc Kỳ mà Đức Giám mục đáng kính đã khôn khéo góp phần làm cho nó trở thành một thuộc địa của Pháp". (2)

  Ngồi trên ngai vàng ở tận “tử cấm thành” Roma, Giáo hoàng La mã tự ý chia cắt lãnh thổ tại Việt Nam cho những tên tay sai làm lãnh chúa cai trị trên lưng của người VN nghèo đói (2u) Ai cũng biết Giáo hội Hoàn vũ là 1 Đại đế quốc đã vơ vét tài sản toàn cầu bất chấp thủ đoạn, nên đã tích trử 1 lượng tài sản khổng lồ không thể kiểm toán hết được:

“Kết quả là bản đồ Vương quốc Anh thế kỷ XII và cả XIII cho thấy lãnh địa của những gia đình đại quý tộc đều nằm rải rác ở những vùng khác nhau, còn nhà vua trở thành địa chủ lớn nhất trong nước. Ông làm chủ đến 1420 trang viên và nhiều nông trại. Cùng với những người thân gần gũi nhất, William kiểm soát khoảng 1/4 lợi tức quốc gia (khoảng 85.000 sterling), tương đương với thu nhập của Giáo hội (bằng 1/4 lợi tức quốc gia) ; còn 170 quý tộc lớn nhỏ chia nhau 2/5 lợi tức.” (3a)

Ruộng đất, của cải gom tụ về cho giới tăng lữ (đẳng cấp thứ nhất) và cho giới quí tộc (đẳng cấp thứ 2). Hai đẳng cấp này được hưởng nhiều quyền ưu đãi, giữ địa vị thống trị và rất giàu có, được coi là đẳng cấp có đặc quyền. Trí thức, nông dân, thị dân, thợ thủ công và những người dân nghèo nhất trong xã hội: Họ là đẳng cấp thứ 3 không có đặc quyền, chịu sự bóc lột và áp bức của hai đẳng cấp trên “ngồi mát ăn bát vàng”. Dĩ nhiên là tư tưởng “hữu sản” luôn luôn nằm trong đầu họ; họ muốn phân chia tài sản lại cho đồng đều (mang ý tưởng cộng sản nguyên thủy không cần ai dạy dỗ, chỉ bảo). Thế là:


B.  VATICAN XEM NGƯỜI NGHÈO VÔ SẢN LÀ KẺ THÙ KHÔNG ĐỘI TRỜI CHUNG

 

Cách mạng Pháp nổ ra từ năm 1789, làm chấn động cả Châu Âu và cả thế giới, đã lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế: Chặt đầu Louis 16, phá ngục Bastille, phá tan cả cái nhà tù vĩ đại đã giam cầm triệu triệu con người hơn 1500 năm của “chủ nghĩa giáo hội” tối tăm bẩn thỉu. Và phá tan cả “chủ nghĩa giáo quyền” ngự trị toàn Châu Âu; truy sát cả giới chủ chăn Công giáo Rôma tại Pháp (sở hữu nhiều đất đai nhất trên toàn quốc)…Luật ban hành năm 1790 bãi bỏ quyền đánh thuế 10% trên vụ mùa (còn được gọi là "dîme") của Giáo hội trên nông dân nghèo khổ, xóa bỏ những đặc quyền của giới giáo sỹ, và sung công tài sản của giáo hội. Tuyên bố xoá bỏ chế độ đẳng cấp và ra bản "Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền".

“Quốc Hội Lập Hiến của nước Pháp thời đó trong việc cải cách, đã va chạm với nhà thờ Catholic. Việc tịch thu tài sản khiến cho các tu viện, các trường học, các đất đai của Nhà Thờ đều thuộc về "quốc gia" (nation). Vào thời đó chưa có ý niệm phân cách giữa Nhà Thờ và Quốc Gia (separation of church and state) nên các nhà cách mạng Pháp thuở ban đầu đã coi Nhà Thờ là một loại công quyền (public authority), cộng tác với vương quyền (sovereign power).

     Tịch thu các cơ sở của Nhà Thờ. Các giáo sĩ từ nay không được theo lệnh của Giáo Hoàng và không được phép hoạt động nếu không có phép của chính quyền mới. Mọi giáo sĩ được hưởng lương bổng của quốc gia và một chương trình tổ chức giáo phẩm được hoạch định trong bản "Hiến Pháp Dân Sự của giới Tu Sĩ" (the Civil Constitution of the Clergy) năm 1790.

     Giáo Hoàng khi đó đã lên án cuộc cách mạng Pháp khiến cho Quốc Hội Pháp đã bắt các giáo sĩ phải thề trung thành với Hiến Pháp, kể cả Hiến Pháp Dân Sự của giới Tu Sĩ. Một nửa số giáo sĩ đã tuyên thệ, họ tự coi là những người ái quốc, bảo vệ các quyền lợi của Con Người và được tự do khỏi Giáo Hội La Mã, nửa kia không theo, họ đã nhận tài trợ từ các nước ngoài, theo đường lối của Giáo Hoàng và trở nên phe chống đối Cách Mạng, trong số này có cả Vua Louis XVI vì nhà Vua tin rằng nếu không sẽ bị mất đi thứ linh hồn vĩnh cửu.” (3b)

Qui luật “đấu tranh sinh tồn” muôn đời luôn xảy ra: Trong cách mạng Pháp; giới “vô sản vô thần” làm cách mạng, giới “hữu sản hữu thần” làm “phản cách mạng”, nên xảy ra “bạo lực cách mạng” và lẽ đương nhiên là phải tắm máu. Mất của ở Châu Âu, “giáo hội hoàn vũ” bành trướng sang các nước Á Châu không đối kháng được sự xâm thực núp sau quyển “bịp thánh kinh”, thò hàng trăm vòi “đỉa hút máu mủ” các dân tộc thuộc địa ốm đói, vơ vét của cải thế gian để lại đầy “túi tham của chúa”. Trong công cuộc đấu tranh dành chủ quyền của dân tộc Việt nam; độc lập dân tộc là 1 quyền tối thượng “không có gì quí hơn độc lập tự do”. Những cuộc khởi nghĩa vũ trang của giới Văn Thân, của Việt Minh là lấy lại tất cả đất đai, tài sản mà giặc Pháp, Nhà Chung, giới “cơ hội hạ cấp lên làm quí tộc” bán nước cầu vinh; đã cướp sạch của Tổ Quốc Việt Nam & của người Việt Nam.

Cách mạng Việt Nam Tháng Tám năm 1945 & chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa câu” đã giáng 1 đòn chí mạng dứt điểm “chủ nghĩa giáo hội” chặt đứt đi “những cái vòi bạch tuột khổng lồ” vươn ra trên toàn thế giới (mọc ra những vòi khác ngay):

“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.” (3c)

80 năm Pháp đô hộ, đất đai của người Việt Nam bị trưng thu cướp đoạt, một số các quan chức cọng tác với giặc, bồi Tây, nhà chung, giáo xứ thu gom làm tài sản đất đai. Nhân dân ta đại đa số làm nghề nông, không có ruộng đất lấy gì mà sinh sống; lớp thì bị giặc Pháp bắt đi lao công, lớp bị Nhà Chung bóc lột; chết đói đầy đường. Lòng căm thù ngút trời từ Nam ra Bắc; nên ta phải lấy lại đất đai, của cải mà bọn chúng đã chiếm hữu:

«chủ trương tiến hành "đấu tranh giai cấp" và phát động cải cách ruộng đất trong những vùng kháng chiến kiểm soát (ở những nơi có nhiều giáo dân)

1956 được đánh dấu bằng cuộc khủng hoảng Cải cách ruộng đất liên quan tới tài sản của nhà thờ, và việc giải quyết toàn bộ cơ sở tài chính của hoạt động Công giáo tại Việt Nam đã làm rúng động và suy yếu nghiêm trọng  những cơ cấu chưa vững mạnh gì cho lắm của chế độ. (...) Ở khắp nơi, cuộc cải cách ruộng đất đã được tiến hành một cách thô bạo và thiếu hiểu biết, làm cho làn sóng bất mãn lan tràn cả nước, có nơi đã biến thành nổi dậy”:

Ngày 12 và 13 tháng 11, hàng trăm người Công giáo đã tụ tập nổi dậy ở Quỳnh Lưu, thuộc tỉnh Nghệ An, quê quán Hồ Chí Minh, có nguy cơ lan truyền sang các vùng chung quanh.  đòi quyền di cư vào Nam, hô khẩu hiệu “Đả đảo cải cách ruộng đất!”, “Đả đảo Cộng sản, đả đảo Trung Cộng!”, “Đả đảo Nga Sô!”, “Đức Mẹ muôn năm!”. Vẫn theo báo cáo này, đã xảy ra đụng độ với bộ đội, kết quả là mỗi bên có 5 người chết và nhiều người bị thương. Vài ngày sau, Hồ Chí Minh công bố quyết định sửa sai (cuộc sửa sai sẽ kéo dài đến cuối năm 1957) và thừa nhận đã có nhiều sai phạm trong cuộc cải cách ruộng đất.» (3d)

Xem tài liệu giải mật của Giáo hội Công giáo Ba Lan ở trên; mới thấy rõ sự chống đối quyết liệt chủ trương “cải cách ruộng đất” của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) chỉ có ở giới “địa chủ nhà thờ” (xuất thân từ “giặc linh mục” và “giáo gian”). Nhưng được toàn giới “nông nô vô sản” khố rách áo ôm hưởng ứng nhiệt liệt; kẻ nào dám chống lại bước tiến của toàn dân tộc chắc chắn kẻ đó phải bị tiêu diệt. Đó là lý giải tại sao có hàng ngàn địa chủ bị đem ra “đấu tố” bằng máu ! (So với 2 triệu dân nghèo VN bị bọn chúng bỏ cho chết đói năm 1945 thì có thấm vào đâu).

Sau chiến tranh Mexico, đầu hàng Đức và thế chiến thứ 2 chấm dứt thì nước Pháp cũng bị “suy kiệt hết máu”, dĩ nhiên “giới nhà thờ Pháp” cũng “đói meo”. Vàng bạc, của cải không cánh mà bay; tẩu tán theo đám bại tướng ngoan đạo Hitler (nhà thờ che dấu). Châu Âu thì tan tành thành đống gạch vụn, Hitler thì tự sát, “nước tòa thánh” không còn Đức – Ý cung phụng nữa, nên quay sang bám váy lót “trưởng nữ” Pháp. Vì nước Pháp còn những “con bò sữa thuộc địa” đang bị vắt kiệt để vỗ béo lại thân xác gầy còm mẫu quốc và đám “đế quốc tinh thần” Roma: Algerie thì có dầu lửa, Việt Nam thì có than đá, lúa gạo, tiền rừng bạc biển – giàu đẹp (ngôn từ sáng tác của các thừa sai để vận động đánh chiếm Annam). Tài sản, đất đai của nhà thờ (kể cả của mẫu quốc Pháp ở những nơi này; thì sau rốt cũng vào túi Roma – vàng bạc nào rồi cũng đến La Mã thôi) thì bao la ở các xứ thuộc địa này; tội gì buông bỏ trả lại cho dân bản xứ (trả lại thì đói nhăn răng ra à ?). Ta (nhà thờ + đế quốc) tha hồ vơ vét mạnh tay hơn; mặc cho dân chúng bản xứ có chết đói hàng triệu – hàng triệu cũng không làm mủi lòng “đức thánh cha Hitler = Pio 12 = Pius 12 = Hitler’s Pope đã cho thiêu sống 6 triệu “anh em Jesus”; lương tâm đâu có cắn rứt vì đã xưng tội và được chúa tha tội rồi. Phải kể thêm ra đây món lời kết sù, béo bở trời cho ở xứ nhiệt đới này là Thuốc Phiện nữa (vì nó nên mới có chiến tranh Nha Phiến 1840 – 1860; ta phải tham gia chia phần chứ): (Vàng Pao và Chiến tranh bí mật ở Đông Dương 3e)

 

 

“Trưởng Nữ Pháp – Mẹ Việt Nam” tính toán rất chi li trước cả hàng mấy trăm năm, các chủ chăn cứ theo bài bản đó mà thực hiện. Ngay từ năm 1922 Bảo Đại được “cha” nuôi là Jean François Eugène Charles (Khâm sứ Trung kỳ) mang sang Pháp đào tạo thành tay sai. Năm 1932 bị bắt buộc phải về nước làm con rối cho Pháp giựt dây:

Hết thảy mọi người đều ép Nhà vua trở về nước nắm quyền bính. Tất cả, như ông Chatel, như Bộ trưởng Thuộc địa hay Bộ trưởng Ngoại giao cho đến cả Tổng thống Pháp cũng cho biết niềm vui mừng được thấy Nhà vua trở về. Xem ra khó mà từ chối kế hoạch mà ông Chatel đã dày công chuẩn bị. Không còn có chuyện lần lữa, tìm một cái cớ hay điều bất trắc cuối cùng để từ chối lên đường. Chiều hôm đó, Bảo Đại đã chấp nhận. Được, ông ta sẽ trở về mảnh đất tổ tiên. Nhưng trước khi rời Paris mà ông hằng yêu mến, ông nói rõ ông có ý định sẽ quay trở lại Pháp. Và sẽ trở lại luôn hoặc lâu lâu mới trở lại. Ông đòi hỏi điều này và được chấp nhận.

Việc trở về An Nam của Hoàng đế là một hành động có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị. Đã có sớm một giải pháp mà hai mươi năm sau người ta gọi là "giải pháp Bảo Đại". (3f)

Thế chiến 2 khởi đầu từ Hitler’s Pope muốn tiêu diệt Vô Sản Vô Thần (Nga Xô), sau khi “holocaust” hết gần 100 triệu người, nhưng bị đánh bại bắt phải đầu hàng nhục nhã. Tam cường nhóm họp Hội nghị Posdam (17-7 đến 2-8 năm 1945) chia Việt Nam làm 2; từ vĩ tuyến 16 trở ra giao cho Tàu Tưởng Giới Thạch, còn lại phía Nam giao cho Thực dân Anh (sự thực là cho Thực dân Pháp) chiếm đóng làm thuộc địa trên danh nghĩa là giải giới quân Nhật đầu hàng. (làm như tài sản của ông cố nội chúng để lại; muốn chia cho ai thì chia ???)

Nhưng chính phủ VNDCCH ra tay trước: HCM tuyên bố VN độc lập trước thế giới ngày 2-9 rồi.  Chỉ 4 ngày sau khi HCM đọc Tuyên ngôn Độc lập, phái bộ quân sự Anh đã có mặt ở Sài Gòn. Theo gót quân Anh kéo vào Sài Gòn là một đại đội biệt kích Pháp mặc quân phục Anh, khi tới Sài Gòn chúng lập tức được điều đi chiếm một số vị trí quan trọng của quân Nhật đã chiếm đóng trước đó... (3g) Ngày 23 tháng 9 năm 1945, Pháp đã nổ súng gây chiến ở Sài Gòn rồi mở rộng đánh chiếm Nam Bộ.

Ở phía Bắc, 20 vạn quân Tàu Tưởng tràn vào với danh nghĩa giải giáp quân Nhật, nhưng mang theo kế hoạch “Hoa quân nhập Việt, diệt Cộng cầm Hồ”. (Biên giới Việt-Hoa đang vỡ tung từng đoạn từ Mông Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lao Kai và Lai Châu): Tại miền Bắc các đảng phái quốc gia; tay sai Tàu Tưởng; Việt Nam Quốc dân đảng của Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam và Việt Nam Cách mạng đồng chí hội (Việt Cách) của Nguyễn Hải Thần theo chân tướng Lư Hán tiến vào đồng bằng sông Nhị, đi tới đâu củng cố chiến khu của mình đến đấy. Đội quân ô hợp này đốt phá cướp bóc nhân dân VN hết sức tàn tệ. (Cách Mạng Đồng Minh Hội có hai lãnh tụ là Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần, cả hai đều đã ở Trung Quốc từ bốn mươi năm nay. Trương Bội Công đóng quan năm, làm việc trong quân đội Quốc Dân Đảng. Trước kia Trương tránh liên lạc với những người đồng hương và không tham gia một phong trào cách mạng nào. Nguyễn Hải Thần gần bảy mươi tuổi, đã quên hết tiếng Việt Nam. Nguyễn Hải Thần sang Trung Quốc năm 1905 với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan đã rời bỏ Nguyễn Hải Thần từ những ngày đầu. Từ đấy Nguyễn Hải Thần làm nghề xem số tử vi để kiếm ăn và nuôi vợ con. Nhờ nghề này, Nguyễn Hải Thần quen biết nhiều quan lại Trung Quốc. Cũng như Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần không hoạt động gì. Nhưng sau khi cụ Phan mất, Nguyễn Hải Thần tự nhận là người thừa kế của cụ. Trương và Nguyễn tranh nhau làm lãnh tụ). Quân của Lư Hán cùng với hai đảng này chống Việt Minh một cách điên cuồng.

Tất cả Anh, Pháp và nhóm Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch đều muốn tiêu diệt chính phủ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ủng hộ sự trở lại của chế độ thực dân tại Đông Dương:

Lư Hán đã hành động như một tên quân phiệt trên mảnh đất không người. Hắn huyên hoang tuyên bố: "Quân đội Trung Hoa sẽ chiếm đóng lâu dài, vô hạn định toàn vùng đất Bắc Ðông Dương."

 “người lính Quốc dân đảng Trung Hoa nổi tiếng tham lam tàn ác, đến nỗi người Trung Hoa thường nói: "Sắt tốt thì không dùng làm đinh, và người tốt thì không thể là lính". Một số lớn quân đội của các sứ quân dưới quyền của Tưởng Giới Thạch vừa thiếu kỷ luật vừa nghiện hút bạc nhược, không có tinh thần chiến đấu, tham sống sợ chết, chỉ mong hưởng thụ cầu an. Nhiều đạo quân trong quân đội Quốc dân đảng được gọi là những “đạo quân hai súng", có nghĩa là họ đeo một khẩu súng thiệt, và một khẩu súng thứ hai là tẩu hút thuốc phiện. Các binh sĩ này mang theo bàn đèn thuốc phiện trong ba lô, và mỗi ngày phải ngả bàn đèn ít nhất là hai cữ. Tại Bắc Việt năm 1945, khi "quân đội chiến thắng" của Trung Hoa do tướng Lư Hán chỉ huy, sang tước khí giới của quân Nhật bại trận, chúng ta cũng đã có dịp kinh ngạc khi được chứng kiến một "quân đội chiến thắng" mà lại có thể ô hợp, thiếu tác phong đến như thế.” (Vạn Lý Trường Chinh – Nguyễn Vạn Lý)

Thực tế lịch sử của tháng 9.1945 đã chỉ rõ ràng: Ðông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng, đang bị vây hãm bỡi đế quốc Anh-Pháp và bọn quân phiệt Trung Hoa (Quốc Dân đảng Tưởng Giới Thạch). Và biên giới Việt-Hoa đã trở thành một cương giới hữu danh vô thực, vì dân tộc Việt Nam không được quyền làm chủ như một quốc gia độc lập, mà nó bị xáo trộn bởi sự đập phá và dời cột mốc biên giới vào sâu trong lãnh thổ của Việt Nam bởi quân đội QDÐ Trung Hoa, sau mỗi lần tràn qua biên giới (Theo lời kể của các bô lão vùng biên giới từ Lạng Sơn đến Lai Châu). Như vậy, đường biên giới Việt-Hoa theo Hiệp Ước Thiên Tân (1887) đã ký kết giữa Pháp và Trung Hoa, ngang nhiên bị quân QDÐ Trung Hoa vi phạm, và pháp lý quốc tế về đường biên giới Việt-Hoa đã không còn được tôn trọng sau chỉ có 58 năm (1887-1945):

Trong tình huống “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch hồ Chí Minh (CT.HCM) đã tỏ rõ bản lĩnh “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của mình. Thực tài tình và bất ngờ khi người mời thủ lĩnh Việt Cách (Việt Nam Cách mạng đồng minh) Nguyễn Hải Thần chuyên nghề xem bói bốc thuốc bên Vân Nam vào ghế Phó Chủ tịch Chính phủ liên hiệp Lâm thời ngày 1-1-1946.

Để “danh chính ngôn thuận” khẳng định chủ quyền độc lập, trong muôn vàn khó khăn, lần đầu tiên nước ta tổ chức tổng tuyển cử vào ngày 6-1-1946. Thực hiện sách lược “Tạm hòa với Tưởng” Hồ Chủ Tịch đề nghị Quốc hội dành cho tổ chức Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân đảng) và Việt Cách 70 ghế, chấp nhận 2 ghế quan trọng giao cho người không phải đảng phái - Bộ Nội vụ do Cụ Huỳnh Thúc Kháng giữ chức bộ trưởng (Bác đã tính trước, mời cụ từ Quảng Ngãi ra Hà Nội). Bộ Quốc phòng do ông Phan Anh giữ chức. Cựu hoàng Bảo Đại được mời giữ chức cố vấn tối cao. Mặc dù sau đó, một số thành viên trong chính phủ đã tự đào thải mình, chạy theo quân Tưởng về nước như “Phó chủ tịch” Nguyễn Hải Thần, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam…

 

Ngày 28 tháng 2 năm 1946, Hiệp ước Hoa–Pháp được ký kết, với 2 điểm chính:

1- Pháp bàn với Tưởng và ký thỏa ước cho Pháp thay thế quân Tưởng ở Bắc vĩ tuyến 16

2- Pháp phải trả lại cho Tưởng các tô giới Pháp ở Trung Quốc và đường xe lửa Vân Nam-Việt Nam.

Đó là sự mua bán giữa Pháp, Anh, Mỹ, Tưởng trên bàn cờ thế sự. Như vậy CT. HCM đã xác định được kẻ thù chính là Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh cho đúng, đã chủ trương "hòa để tiến" tranh thủ thời gian củng cố mọi mặt để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến tất yếu sẽ xảy ra. Lúc này không thể do dự giữa việc chiến đấu một lúc với nhiều kẻ thù xâm lược hoặc là tạm hòa hoãn để đàm phán với Pháp, nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi, với điều kiện là Pháp phải công nhận độc lập và chủ quyền của ta. CT HCM đã đi được một nước cờ cao, đưa địch vào thế:

"Lạc nước hai xe đành bỏ phí;

Gặp thời một tốt cũng thành công" (HCM)

 

Ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt được ký kết giữa Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp, và Hồ Chí Minh cùng Vũ Hồng Khanh, đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội dung của Hiệp định bao gồm các điểm chính sau đây:

  • Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng
  • Chính phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế cho 200.000 quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật
  • Hai bên thực hiện ngưng bắn ngay tại Nam Bộ.

Chủ tịch hồ Chí Minh đã mượn tay Pháp (6-1946) để gạt phăng 200 ngàn quân thù (trang bị vũ khí hiện đại của Mỹ) nguy hiểm ở sát nách ra khỏi đất nước ta, nay chỉ lo đối phó với một số quân Pháp (15 ngàn). CT.HCM đã giữ được chính quyền non trẻ, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị gấp rút mọi mặt trước khi bước vào kháng chiến lâu dài và nhất định thắng. Trong khi những lãnh tụ “Quốc Gia” khác như Nguyễn Hải Thần (Việt Cách), Nguyễn Tường Tam (VNQDĐ) “mất tích” thì CT.HCM đã ‘’tả xung hữu đột”: "Hòa để tiến" là một quyết sách sáng suốt, quân và dân Nam Bộ rất hoan nghênh. Một con Người “cực kỳ khôn ngoan, quyền biến trên trận tuyến ngoại giao. Sự quyền biến hay, linh động và cụ thể này chứng tỏ HCM đã biết tận dụng “luật của kẻ yếu” để sinh tồn và tạo sự chính thống cho chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (Vũ Ngự Chiêu-HCM nhà ngoại giao). Lúc này CT.HCM đã khẳng định: "Tôi thà chết chứ không bao giờ là người bán nước". Tất nhiên vẫn còn một vài ý kiến trái ngược nhau:

 

"… Lỡ bước đành cam thua nửa ngựa

Còn hơn miệng thế nói mười voi

Mấy lời nhắn nhủ ông ghi nhớ

Nước ngược buông câu khéo mất mồi"

(Nguyễn Hải Thần)

 

"… Trách kẻ đem thân vào miệng cọp

Tôi đành ghé đít cưỡi đầu voi

Tàn cờ mới biết tay cao thấp

Há phải như ai cá thấy mồi".

(Hồ Chí Minh) (3h)

 

Ngày 26 tháng 3 năm 1946, Pháp đã lập ra một chính phủ "bù nhìn" "Nam Kỳ quốc"; chia đôi đất nước, tách hẳn khu vực này ra khỏi Việt Nam.  Lừa bịp mọi người không ổn, Liên minh Pháp Vatican còn ác ôn tàn độc hơn; lại chia VN ra thành Liên Bang Đông Dương (để anh em trong nhà bôi mặt sát hại lẫn nhau). Lấy Đà Lạt làm thủ đô, tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính… Ngày 7 tháng 5 năm 1946, với chiêu bài "Nam Kỳ tự trị" Pháp lập ra 1 nước mới là; Nam kỳ Cộng hòa quốc ("Nam Kỳ quốc"; một “quái thai lịch sử”  (3i) chỉ tồn tại trong thời gian ngắn rồi tự giải thể).

Những ngày kế tiếp, Linh mục/Cao ủy d'Argenlieu, với sự tiếp tay của Tướng Valluy, Hội truyền giáo Pháp và các thành phần kiều dân Pháp bảo thủ, tìm cách khiêu khích đẩy HCM vào thế phải rút khỏi Hà Nội ra bưng. (3k)

 

Thằng oắt con lai Tây nay nuôi đã lớn (quan Toàn quyền Pierre Pasquier là cha thật sự của Bảo Đại) (3); con rối “vô dụng, bạc nhược, ba lần phản bội” (3m) là Bảo Đại  được Charles de Gaulle (Công giáo) tung ra với chiêu bài: “giải pháp Bảo Đại” (thực ra “giải pháp Bảo Đại” chỉ là 1 giải pháp dự bị vì “giải pháp Vĩnh San đã tan thành mây khói như trong 1 giấc mơ”). De Gaulle bổ nhiệm Linh mục/Đô đốc Georges Thierry d’Argenlieu làm tân Cao Ủy Đông Dương … cầm đầu cuộc “cuộc thánh chiến chống Cộng”, tái xâm lăng Việt Nam, với sự ban phép lành của Tòa thánh Vatican cùng Tổng Giám mục Antonin Drapier (Tại Mỹ, chúng ta chưa quên bài diễn văn “bức màn sắt” của Thủ tướng Anh Winston Churchill năm 1946, hay phong trào “Sợ Đỏ” và “Tố Cộng Mc Carthyism” vào đầu thập niên 1950). (3n)

Vatican và Pháp mới hối hả đồng thuận biến chính phủ “Cộng Hòa Nam Kỳ”   thành “chính phủ quốc gia” với toàn bộ nội các gồm toàn những người hoặc là mang quốc tịch Pháp, hoặc là mang quốc tịch Vatican, hoặc là trong giới quan lại trong thời “Trăm năm nô lệ giặc Tây” (như các ông Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Phan Văn Giáo, Nghiêm Xuân Thiện, Nguyễn Hữu Trí, Đặng Văn Trí, v.v… ) và  cho ra mắt vào ngày 5/6/1948 (4). Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập Quốc gia Việt Nam (Liên bang Đông Dương) thuộc khối Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng bù nhìn Bảo Đại ăn chơi khét tiếng; hữu danh vô thực vì quân sự, tài chính và ngoại giao đều nằm trong tay Cao Ủy Pháp.

Thế là “cuộc xâm lăng của Đế Quốc Vatican – Pháp” được giới “giáo quyền” lươn lẹo tuyên truyền biến thành “cuộc chiến chống cộng”. Dù cho bị gạt gẫm trắng trợn như thế, nhưng tất cả các con chiên CG đều rần rần đi theo giặc Tây chống lại Tổ Quốc mình (phúc cho những ai không thấy mà tin).

Hoàn cảnh lịch sử tương đồng rất kỳ lạ giữa 2 dân tộc Á Châu là Việt Nam & Trung Hoa trong thế kỷ 19. Nên phải nói thêm về Gia Tô ở Trung Quốc: Giáo Hoàng Diệt Chủng Hitler’s Pope rất sợ Vô Sản Trung Hoa cản trở ý đồ “Gia Tô hóa Trung Quôc”: With help from Germany (Sino-German cooperation) nên cử tướng Hans von Seeckt sang Trung Hoa giúp Tưởng Giới Thạch, Nga Xô  cũng cử 1 người Ðức khác là tướng Otto Braun (Lý Ðức) sang giúp Mao trong cuộc “Vạn Lý Trường Chinh”  (4a).

“Các nhà truyền giáo Methodist vẫn thèm khát cái "thị trường tôn giáo" đông đảo của Trung Hoa, nơi họ ước ao sẽ gặt hái được hàng triệu linh hồn đi theo họ. Họ quyết định cho Tống Charlie (Charles Jone Song Tống Giáo Nhân) theo học trường truyền giáo để được huấn luyện thành một nhà truyền giáo, và sau đó sẽ được đưa về hoạt động tại Trung Hoa”: Gầy dựng ra gia tộc họ Tống; “Vương triều không vương miện”; một trong bốn đại gia đình tội ác nhất Trung Hoa.

Quyển thánh kinh đi trước;

Quân cướp nước theo sau.

Tôn Dật Tiên theo học trường trung học Iolani, được sự bảo trợ của Hội truyền giáo Anh quốc theo đạo Thiên Chúa: Tiếp thu một mớ hiểu biết “duy lý” chưa đến nơi đến chốn, lỏng lẻo có tính cách lý thuyết suông: "học tuyết Tôn Văn" với tư tưởng triết học: "Tri nan hành dị" biết thì khó, làm thì dễ (?).

 Là một người ảo tưởng ngây thơ, với những tư tưởng không tưởng, thiếu thực tế. Là một mẫu anh hùng cách mạng thất bại. (Vladimir Ilyich Lenin)

Khi về đến Quê Nhà, Tôn Dật Tiên báng bổ thần làng: biểu thị tín ngưỡng mới của mình bằng cách đập phá các pho tượng trong một ngôi đền trong làng, do đó Tôn Dật Tiên bị người làng tức giận, trục xuất ra khỏi làng  (!!!)

 

(xem tiếp phần 2)

 



Chú thích:

 

Trong bài viết này tôi có sử dụng một số trích dẫn từ nguồn tiếng Việt có trên WikiPedia (vì ở Việt Nam ít người đọc được tiếng Anh). Nhưng theo nhận xét của tôi; thì trong phiên bản WikiPedia tiếng Việt bị lượt bỏ rất nhiều, không đầy đủ bằng phiên bản tiếng Anh hoặc tiếng Pháp v.v… Có lẽ do nhóm người quản lý tiếng Việt trang này: http://vi.wikipedia.org/wiki/Wikipedia:Ng%C6%B0%E1%BB%9Di_qu%E1%BA%A3n_l%C3%BD vì vài lý do nào đó (quan điểm lịch sử không trung thực, tôn giáo không lương thiện) đã cố tình dấu diếm. Nếu bạn muốn đọc được nhiều thông tin hơn nữa; thì xin mời bạn vào cột “ngôn ngữ khác” ở bên trái; bạn có thể bấm chọn được ngôn ngữ mà mình đọc được. Các bạn có thể kiểm chứng:

Tôn Dật Tiên, Tôn Trung Sơn (Sun Yat-sen (孫中山) or "Sun Yixian"):

Trang tiếng Việtt http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n_D%E1%BA%ADt_Ti%C3%AAn
Trang tiếng Anh http://en.wikipedia.org/wiki/Sun_Yat-sen ”His conversion to Christianity was related to his revolutionary ideals and push for advancement. As a result, his baptismal name, Rixin (日新), literally means "daily renewal" http://en.wikipedia.org/wiki/Christianity  

Lịch sử Trung Hoa Dân Quốc (History of the Republic of China):

Trang tiếng Việt không dịch đoạn Hitler trợ giúp Tưởng:

http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Trung_Hoa_D%C3%A2n_Qu%E1%BB%91c

Trang tiếng Anh http://en.wikipedia.org/wiki/History_of_the_Republic_of_China có chú thích With help from Germany  (Sino-German cooperation) http://en.wikipedia.org/wiki/Sino-German_cooperation

 

(1a)  http://toraor.net/index.php?itemid=354

(1b) http://italy.indymedia.org/news/2005/04/777206_comment.php#1132687

(1c) http://www.rense.com/general64/ach.htm

(1d) http://voanews.com/vietnamese/2007-09-18-voa1.cfm

(1e)
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/09/070917_nguyenvanthuan.shtml

(1f) http://sachhiem.net/CN_CGTBVT/Gianac.php

(1g)
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4ntntnqn31n343tq83a3q3m3237nvn0n

 

 (1) Theo bản đánh máy vi tính giải thích về “Chủ Nghĩa Giáo Hội” của Mr. TAM:

 HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐỒNG HÓA:

 Bonard cho tiền xây dựng 3 trường học CG rất lớn ở SG: Trường Chủng viện của hội Truyền giáo, Tu viện Saint-Enfance, College d’Adran.

Gm Puginier nói: "Muốn bình định xứ sở này, trước hết phải tiêu diệt các đảng Văn Thân, tức là những trí thức lãnh đạo tinh thần của Việt Nam. Mà muốn làm việc đó thì phải xóa bỏ đi chữ Hán. Sau đó thay thế dạy chữ Hán bằng cách dạy chữ quốc ngữ, rồi dần dần dạy cho người dân biết chữ Pháp".

 Grandiere chủ trương đồng hóa người Annam: “đánh 1 đòn chí tử” vào hệ thống giáo dục cũ của Annam là dùng chữ Quốc ngữ thay thế hoàn toàn chữ Hán và tiến tới việc day học bắt buộc tiếng Pháp cho toàn thể nhân dân thuộc địa: “phải giải phóng hoàn toàn và vĩnh viễn những thần dân mới của nước Pháp ra khỏi ảnh hưởng của những nhà Nho và của nền văn minh Trung Hoa”

 Năm 1873 thống đốc Dupre nói: Annam có khoảng 100 trường  với khoảng 3-4000 HS, phải trả tiền cho phụ huynh để  cho con em họ đến trường. Trong khóa giảng về nền cai trị Annam năm 1873 ở trường Tham biện (College des Stagiares), Luro đã nhận xét nghiêm khắc:

 “để thay thế các vị giáo sư và thầy giáo chữ Hán cũ. Chúng ta đã dùng ““những đứa trẻ con”” (con của tay sai - giáo gian), được đào tạo trong những năm đầu chiếm đóng, chỉ biết đọc và viết ngôn ngữ thông thường và làm được 4 phép tính. Rồi chúng ta áp đặt mỗi làng phải gởi bao nhiêu học sinh đến trường do các vị ““giáo sư kỳ lạ này”” dạy lại. Kết quả là làng mạc phải tuyển mộ hs đến học trong các trường quốc ngữ của chúng ta, như tuyển mộ binh lính, bằng cách phải chi tiền cho các gia đình (HS). Và như thế, việc giáo dục bắt buộc của chúng ta đã trở thành 1 thứ thuế thêm nữa cho dân chúng… Còn về kết quả, các học sinh học trong các trường của chúng ta 1 hay 2 năm, được học một thứ ngôn ngữ thông thường bằng con chữ La tinh, dưới sự chỉ dẫn của những thằng nhóc gần bằng tuổi  của chúng. Học đọc và viết theo âm Latinh là 1 trò chơi. Khi HS biết đọc và viết xong, cũng chẳng biết thêm điều gì nữa cả. Người ta (hs) ở trong trạng thái của 1 con vẹt biết viết…

 Biết đọc và viết theo cách Nho học, có nghĩa là đã trải qua vài năm ở tuổi thanh niên trên những sách đạo lý, lịch sử, đã nghiên cứu và hiểu sách đó. Nói cho đúng hơn, họ đã nhận được học vấn và sự giáo dục đúng đắng, vì các thây Nho không coi thường mục đích cao cả này. Còn với hệ thống giáo dục của chúng ta, đứa trẻ học đọc và viết trong vài cuốn sách ngụ ngôn mà những “”ông giáo trẻ”” rất lúng túng không hiểu gì hết. Khi ra trường, những đứa trẻ chẳng có 1 chút học thức về đạo lý hay giáo dục nào. Về nhà, đứa trẻ làm cho gia đình rất kinh ngạc về sự dốt nát của chúng, họ vứt ngay vào sọt rát cái hành trang vô ích mà nó đã được đào tạọ. Và rồi nó lại trở lại học chữ Hán (nếu còn nhỏ tuổi). Nói thật, chúng ta đã tiêu phí mất 1 thời gian quí báu cho việc học hành như thế, nhưng kết quả lại gần như không có gì cả”.

 “Nguyên nhân của tất cả những sai lầm này là ở chỗ người ta (các giáo sĩ CG) tưởng tượng rằng có thể dạy cho 1 dân tộc quên đi ngôn ngữ và phong tục của họ chỉ bằng cách không đếm xỉa đến những thứ ấy trong nhiều năm. Người ta bảo vệ ý kiến này là bắt buộc 2 triệu dân chúng trẻ học tiếng Pháp còn đơn giản hơn là đòi hỏi 50 quan cai trị phải học tiếng Annam. Ngời ta không ngờ rằng, bằng các quan điểm hẹp hòi đó, người ta đã xa rời các kỳ hào và các con em trong các gia đình Annam”.

 Người ta có thể thấy, qua những viên chức trẻ của chúng ta hiện nay, những người đã được chúng ta đào tạo từ trước đến giờ đã tồi tệ như thế nào: vì chẳng có gì ngăn giữ được tham lam của họ, mà sự tham lam này cũng ngang tầm với sự dốt nát của họ. Có thể rút ra được gì ở 1 con vẹt ? Cái ông huyện này là người như thế nào, mà nói thì như lột da tiếng Pháp ? Lại không biết tí gì về đạo lý, triết lý, lịch sử, luật pháp, các phong tục, cũng chẳng được những người bà con thân thuộc của ông ta coi như 1 người có học nữa ? Người Annam nhận định và thấy rất nhanh; ông ta chỉ là 1 viên thông ngôn rất tồi, nghĩa là 1 người chẳng biết nghĩ ngợi cũng như phán xét gì cả. Một người thông ngôn dốt nát như 1 chiếc cồng không tự mình phát ra tiếng. Một người thông ngôn như thế đã là được đào tạo trong ““trường học văn minh”” của chúng ta ! ”

 Những giáo sĩ xin gởi hàng trăm người Annam đến trường dòng đức bà La Seyne và ở Pháp để học cao học. Nhưng năm 1873 thì trong số 42 người từ Pháp trở về chỉ có dưới 10 người là có khả năng làm được việc.

 Năm 1864, đô đốc La Grandiere cho thành lập tờ Gia đinh báo (Jounale de GĐ), phát hành năm 1865 mỗi tháng 1 kỳ. Năm 1874 mỗi tháng 2 kỳ: báo không chỉ đăng thông tin chính thức của chính quyền thuộc địa, các sắc lệnh, quyết định mà còn đủ thứ khác trên thế giới… Dĩ nhiên là người ta nhấn mạnh vào sự cần thiết là người Annam phải hợp tác với chính quyền Pháp. Người ta phải làm nổi bậc (thổi phồng quá đáng) lên những người Annam bản xứ đắc lực trong vai trò làm “tay sai xuất sắc cho Pháp” là 2 “nhà ngôn ngữ học chính của người Annam” Petrus Ký và Paulus Của có tham gia trong tờ báo này.  (Người Pháp và người Annam: Bạn hay thù ? - Philippe Devillers)

(2) http://www.vae.org.vn/News_print.asp?id=1016

(2a) Quyền lực của những Quân Vương; http://giaodiemonline.com/2007/04/quanvuong.htm

(2b) http://www.sachhiem.net/TCNtg/Nlichsugiaohoang.php.

(2c)  http://embraced.blogsome.com/2006/08/26/

(2d)
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nqn3nqn4n31n343tq83a3q3m3237nvn

(2e) http://en.wikipedia.org/wiki/Constantine_I 

(2f) http://thanhkinhthanhoc.net/tkth/?q=node/11

(2g)
http://www.thuvienkhoahoc.com/tusach/Kinh_D%E1%BB%8Bch_-_di_s%E1%BA%A3n_s%C3%A1ng_t%E1%BA%A1o_c%E1%BB%A7a_Vi%E1%BB%87t_Nam%3F

(2h)  (bấm vào The Inquisition để xem hình ảnh ghê rợn dã man này)

(2k) http://www.romancatholicism.org/popes-slavery.htm

(2m) http://en.wikipedia.org/wiki/Slave_trade

(2n) http://www.cuuthe.com/bao/s162lsgh.html

(2p) http://www.dunglac.net/bai2/vdc-padroado.htm

(2q) http://en.wikipedia.org/wiki/Colonialism

(2r)
http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_gi%C3%A1o_t%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_Nam
 

(2s) http://vietsciences.free.fr/biographie/nhanvatdacbiet/badaloc.htm

(2t) http://huynhducthien.blog.com/

(2u)
http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ph%E1%BA%ADn_C%C3%B4ng_gi%C3%A1o_t%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_Nam

 (3) Theo bản đánh máy vi tính giải thích về “Chủ Nghĩa Giáo Hội” của Mr. TAM:

 Dở bài tráo trở “đánh lận con đen”: đưa 1 thằng oắt con lai Tây Bảo Đại 13 tuổi làm vua dân Việt (ai ai cúng đều biết Khải Định tuyệt tự không con http://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BA%A3i_%C4%90%E1%BB%8Bnh , quan Toàn quyền Pierre Pasquier là cha thật sự của Bảo Đại; xem thêm Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của vương quốc Annam của Daniel Grandclement
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4n3n1n3n31n343tq83a3q3m3237ntn) “Gài độ” cho “nữ chiên Công giáo ngoan hiền” Nguyễn Hữu Thị Lan làm hoàng hậu phương Nam một nước Khổng-Lão-Phật. Với hoàng tử Bảo Long “đầu Chúa” kế vị ngai vàng, hòng biến Dân nước Nam  toàn tòng Công giáo “trung thành với mẫu quốc Lang sa” … Nhưng “Thiên bất dung gian”, mưu đồ của bọn giáo gian bị tan tành mây khói bỡi cách mạng 1945. "
Trẩm thà làm công dân một nước độc lập tự do, còn hơn làm vua một nước nô lệ". Nhưng lại phản bội Nhân Dân, can tâm muối mặt lòn cúi vì bã vinh hoa cho riêng mình, làm tên bù nhìn cho Cao Ủy Pháp với “giải pháp Bảo Đại”. Rước quân xâm lượt về dày mả tổ như Thế tổ Cao Hoàng Đế đã từng làm trước kia. Cho phép quân Lê dương Công giáo quay lại tàn sát đô hộ, bắt dân mình làm trâu cày ngựa cỡi cho chúng thêm hàng chục năm nữa. Hợp pháp hóa việc “công giáo hóa Việt Nam” bằng Đạo Dụ số 10 (Tự Đức gọi bọn CG này là “quân man rợ Tây Phương”).

 [xem truyền đơn lên án Bảo Đại của Việt Minh: http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4n3n1n3n31n343tq83a3q3m3237n1nqn ]

(3a) SỰ RA ĐỜI CỦA CHẾ ĐỘ ĐẠI NGHỊ Ở ANH - Lê Phụng Hoàng:  http://72.14.235.104/search?q=cache:fzGPNu6-ylMJ:lib.hcmup.edu.vn/detai/Giaotrinh/Lich%2520su%2520cac%2520nuoc%2520Tay%2520au%2520va%2520Hoa%2520ky.pdf+%22L%C3%8A+PH%E1%BB%A4NG+HO%C3%80NG+%22&hl=en&ct=clnk&cd=1

(3b) http://vietsciences.free.fr/lichsu/lichsucacnuoc/cachmangphap.htm

(3c) http://www.kyoto-svvn.org/modules.php?name=News&file=article&sid=568

(3d) http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai4/200504_TTLien.htm

(3e) Vàng Pao và Chiến tranh bí mật ở Đông Dương
http://giaodiemonline.com/2007/07/vangpao.htm

(3f)
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4n3n1n3n31n343tq83a3q3m3237n1n

(3g) http://www.chuyenluan.net/200602/0602_01.htm

(3h) Tàn cờ mới biết tay cao thấp
http://www.qdnd.vn/qdnd/baongay.vanhoa.doisongvanhoa.21969.qdnd

(3k) HCM nhà ngoại giao  http://www.chuyenluan.net/200410/0410_25.htm

(3ka) http://www.voanews.com/vietnamese/2007-10-15-voa35.cfm

(3kb) Kịch bản Tây Nguyên http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?TopicID=113

(3kc)  http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2004-05/a-2004-05-06-22-1.cfm

http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2004-11/a-2004-11-09-2-1.cfm

Bạo loạn lật đổ ở Tây Nguyên http://vietnamnet.vn/chinhtri/doinoi/2004/05/136467/

(3m)
http://vnthuquan.net/truyen/truyentext.aspx?tid=2qtqv3m3237n4n3n1n3n31n343tq83a3q3m3237n1nvn

(3n) http://www.nguoivietweb.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=2308&z=12

 

(4) GIẢI PHÁP BAO ĐẠI & LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ
http://giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_nmq_V-policyII.htm

(4a)
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nnn3nmn1n31n343tq83a3q3m3237nvn&cochu=

(4aa) http://www.vae.org.vn/news_detail.asp?id=1439

(4b) http://www.mofa.gov.vn/quocte/42,02/banamduongnvcd42,02.htm

 (4c) 3 chị em nhà họ Tống
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvnmntn4n31n343tq83a3q3m3237nvn

(4ca) Kể từ thời tổng thống Washington tới tổng thống George W. Bush ngày nay. Ở Hoa Kỳ có 6 hội kín đang hoạt động: Hội Tam Điểm. hội Majestic12, hội Bilderberg, Hội Đồng Ngoại Giao CFR (“Phu nhân cựu đại sứ Mỹ ở Iraq là điệp viên CIA” của nhà báo Robert D. Novak. Ngay sau đó cựu Đại sứ Mỹ ở Iraq, Joseph C. Wilson, chỉ trích Nhà Trắng cố ý tiết lộ vụ này để trả thù việc ông trước đó phê phán Tổng thống Bush sử dụng tin tình báo giả “Iraq có ý đồ mua uranium của Niger năm 2003”. Ông Wilson cũng khởi kiện Nhà Trắng theo luật bảo vệ nhân viên tình báo.
http://www.sggp.org.vn/SGGP12h/2007/10/127055), tập đoàn Illuminati, hội Đầu Lâu Xương Ống (ở Đại Học Yale: Cả Bush và Kerry đều hội viên của Skull and Bones Society. Hội này hoạt động bí mật đến nỗi các thành viên không được phép tiết lộ về hội. Đức là nguyên quán của hội kín Illuminati - thành lập năm 1832). Những hội này gồm những nhân vật chính trị ngoại giao tên tuổi như Henry Kissinger, những nhà tài phiệt như gia đình Rockefeller, những giáo sư đại học danh tiếng, nhất là những người thuộc giới truyền thông. Mục tiêu của những hội này là  đặt toàn thể thế giới dưới ách độc tài của một thiểu số ưu tú.

 (4d) http://www.honviet.com.vn/?s=&act=psychology&c=60&id=112

Nho giáo và Ki Tô giáo http://members.cox.net/vientrietdao/bao/nhogiao.html

(4e)
http://www.avsnonline.net/forum/viewtopic.php?p=93445&sid=f464a31df577c20735e7ce9af455ecc2; http://www.giaodiem.com/doithoai/hhnk_vhhoabinh.htm 

Khi cách mạng dân quốc của Trung-Hoa chưa thành công, lãnh tụ Tôn-Dật-Tiên qua cầu viện nước Nhật, tại đây Tôn-Dật-Tiên có gặp ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị (một chính khách Nhật cũng là một nhà mạnh thường quân của cách mạng Việt-Nam), trong câu chuyện hàn huyên, khi đề cập tới Việt-Nam, Tôn-Dật-Tiên đã bĩu môi chê dân tộc Việt-Nam, họ Tôn nói với ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị như sau:

"Dân An-Nam là một dân tộc nô lệ, trước họ nô lệ chúng tôi, nay họ nô lệ người Pháp, họ là một dân tộc có đầu óc nô lệ làm sao giúp họ độc lập được"uot;

Ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị đã cắt lời Tôn-Dật-Tiên như sau:

"Tôi xin được phép ngắt lời ngài ở đây, ngài đã có những nhận xét không đúng về dân tộc đó (dân tộc Việt-Nam), bây giờ họ thua người Pháp vì họ không có khí giới tối tân chống lại người Pháp, mai sau khi họ có khí giới tối tân họ sẽ đánh bại người Pháp (lời tiên đoán này đúng với chiến thắng Điện-Biên-Phủ sau này). Ngài nên nhớ rằng dân tộc Lạc Việt này là một chi duy nhất còn lại của Bách Việt đã chống lại sự đồng hóa của người Trung-Hoa giữ nền độc lập của tổ tiên họ, trong khi các chi Việt khác như Mân Việt đã bị đồng hóa cả ngàn năm" Khi nghe tới đây, Tôn-Dật-Tiên đỏ bừng mặt xin lỗi ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị và xin cáo lui. Tôn-Dật-Tiên xấu hổ vì Tôn-Dật-Tiên là người Quảng Đông (Mân Việt).


(còn tiếp)

 

Trang Chính Trị