|
30 tháng 1, 2010 |
LTS: Chỉ còn hai tuần nữa là đến Tết Canh Dần (nhằm 14 tháng 2, 2010 tây lịch), tòa soạn sachhiem.net được hân hạnh giới thiệu bài viết sau đây của tác giả Nguyễn Cung Thông gửi tặng độc giả. Đây là bài nghiên cứu đặc biệt về tên của con giáp Dần. Những bài viết khác về tên của 12 con giáp có thể đọc ở
http://www.khoahoc.net/. Kính mời bạn đọc cùng nghiên cứu (SH)
Phần này bổ túc cho bài viết "Nguồn gốc Việt (Nam) của
tên 12 con giáp : Dần-kính-*kễnh (9)" nên mang số thứ tự 9A, tương tự như
loạt bài viết về "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Mão Mẹo mèo"
gồm có các phần 4 (phần chính), 4A và 4B ... để tránh các bài viết trở thành
quá dài và càng khó đọc hơn nữa! Sau khi đã đi ngược dòng thời gian tìm các
cách viết/khắc cổ của Dần trong văn hoá Trung Quốc (triện văn, kim văn và
giáp cốt văn) để thấy rằng chúng hoàn toàn không liên hệ gì đến loài cọp hay
hổ; Và rồi xem qua những dấu vết ngữ âm thì có triển vọng hơn và đưa ta đến
gần hơn các dạng của cọp là khan, khai và kễnh. Các dữ kiện ngôn ngữ sau đây
được ghi nhận và tóm tắt lại cho thấy khả năng âm Dần Hán Việt/HV yín Bắc
Kinh/BK có nguồn gốc phương Nam hay tiếng Việt Cổ là kễnh. Không nên lầm
giữa chỉ số ghi thanh điệu (đứng sau âm chính) và số ghi thứ tự và phụ chú.
Để bài viết gọn và dễ hiểu hơn, người viết tránh dùng các thuật ngữ về ngôn
ngữ học và không trích dẫn các nguồn dễ tra cứu - thí dụ như tiếng Thái,
Anh, Pháp ...v.v... Trừ các nguồn tài liệu quan trọng và liên hệ trực tiếp
đến bài viết.
Các hiện tượng đáng được nhắc lại ở đây là
- hiện tượng nhập ngược (back loan, cho mượn lại) không
phải là hiếm khi các nền văn hoá chung đụng với nhau qua một thời gian dài
như Hán và Việt chẳng hạn. Cách dùng Bụt hay Phật
và trường hợp tên gọi 12
con giáp là những thí dụ cụ thể minh chứng cho hiện tượng nhập ngược này.
Cho nên những từ trước đây thường được cho là Hán Việt/HV như Tý Sửu Dần Mão
... nên được xem là những từ Việt-Hán-Hán-Việt hay chúng có gốc Việt
Cổ, nhập vào văn hoá Hán tộc rồi lại nhập ngược vào tiếng Việt. Tương tự như
thế, các từ nguyên tử, điện tử, thị trường ... nên được gọi là từ
Hán-Nhật-Hán-Việt.
- hiện tượng đổi chữ hay nghĩa, và có lúc đi đến cực
đoan là đào thải như Mão Mẹo mèo đã bị thay bằng thố (thỏ) của văn hoá du
mục; Hay trường hợp của các từ hiệp/hạp (cọp)
䖎, cúc (cóc)
䗇 – Unicode 45C7,
dự/vui (voi) 豫
... đã từng hiện diện trong Thuyết Văn, Ngọc Thiên ... nhưng nay đã
bị đào thải. Đây cũng là lợi thế của một nền văn hoá có sẵn chữ viết như Hán
tộc - với truyền thống chịu khó ‘viết lách’ - và luôn luôn tìm cách thay đổi
chữ viết vì nhiều lý do khác nhau.
1. Trong vốn từ Hán Cổ ta thấy có một chữ rất hiếm (bị đào thải)
là
hiệp 䖎
(Unicode 458E, nghĩa là con cọp/hổ) - giọng BK là xiá so với giọng Quảng
Đông/QĐ haap6 - theo Khang Hy tự điển/KH
《玉篇》音狎。虎也
<< Ngọc Thiên >> âm hiệp . Hổ dã
Hứa Thận viết về âm hiệp
狎
trong Thuyết Văn Giải Tự/TVGT như sau
犬可習也。從犬甲聲
Khuyển khả tập dã . Tòng khuyển giáp thanh
(không thấy chữ hiệp
䖎
là cọp trong triện văn, kim hay giáp văn)
Dữ kiện quan trọng mà ta có thể lọc ra từ ghi nhận trên
của TVGT là âm tương đương thời Đông Hán của hiệp (hạp) là giáp hay dạng cổ
hơn là *kap
Cạp (cắn lẫn nhau) còn là hoạt động bình thường khi các
con cọp họp lại với nhau: ý và âm này rất rõ nét trong chữ *kap (cọp)1
hay hạp/hiệp
(Unicode 271A5) theo KH
<唐韻>
胡甲切,音狎。虎習搏也。《玉篇》今作狎
"Đường vận " hồ giáp thiết , âm hiệp . Hổ tập bác dã .
" Ngọc thiên " kim tác hiệp
Các dạng hiệp HV hay haap6 QĐ hay gab5 Hẹ cũng như cách
đọc giáp của thành phần hài thanh
甲 cho ta cơ sở để phục
nguyên một dạng âm cổ hơn là *kap hay chính là
CỌP tiếng Việt - so với tiếng
Katu (kooq là cọp), tiếng Bahna (cop cop là con cọp). Các dạng chữ Nôm chỉ
cọp dùng bộ khuyển hay bộ trãi hợp với thanh phù cập
及, cáp
合... đều hỗ trợ cho
nhận xét trên2. Ngoài ra, Ngọc Thiên ra đời khoảng năm 543 SCN,
cho thấy âm này đã có từ trước thời Đường Tống. Tóm lại dạng *kap hay
CỌP tiếng Việt đã từng hiện diện
trong vốn từ Hán, nhưng không phù hợp với hệ thống âm thanh phương Bắc nên
bị đào thải (vô tình hay cố ý) và thay bằng các dạng hổ
虎 'thích hợp' hơn -
cũng như chữ dự 豫
(vui) đã từng có nghĩa là voi (TVGT, tượng chi đại dã) nhưng nghĩa này đã bị
đào thải chỉ còn vết tích trong âm đọc vui mà thôi. ... Nếu tên gọi chi thứ
3 Dần là Hổ, một chữ có gốc tượng hình (con cọp), thì không ai đặt vấn đề về
nguồn gốc phi-Hán làm gì, tuy cũng có thể không đơn giản như thế3.
Nhưng khi có thể tìm ra những tương quan ngữ âm giữa Dần và *khan hay kinh
獍, kễnh đều chỉ loài
cọp thì vấn đề truy nguyên có lẽ dễ dàng hơn phần nào.
2. Trong
vốn từ Hán Cổ có một chữ rất hiếm chỉ con cọp trắng,
cọp giân dữ , tiếng gầm4
của cọp, là hạm 䖔
(Unicode 4594) hàn kăn BK - KH ghi là âm hạm
音頷; Mà hạm
頷 có một dạng cổ hơn
là cằm vẫn còn dùng trong tiếng Việt. Tập Vận cũng ghi cách đọc của hạm là
hộ cảm thiết (集韻 -戸感切)
mà hộ có âm cổ hơn là cửa - đây là liên hệ lịch đại k/c-h từng được đi vào
chi tiết trong bài viết "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp -
Hợi/Gỏi/cúi (phần 5)". Do đó ta có cơ sở phục nguyên một dạng âm cổ của hạm
䖔 là
*kam/kham/khan với khả năng rút gọn phụ âm
cuối để cho ra dạng *khai (như các cặp biển
bể, tiền tệ, chun chui, lụn lụi, toản tỏi, lãn lười, tụm tụ ...). Các dạng
khan, khal đều thấy trong tên 12 con giáp của Thái, Lào và Khme:
Thái:
ปีขาล bpeeM
khaanR (năm Dần) hay
ปีเสือ bpeeM
seuuaR (năm con cọp)
Khme: khal
Lào: kane
Tuy nhiên cọp tiếng Thái là seuuaR
เสือ chứ không
dùng dạng khan. Tiếng Khme bây giờ là kho-la. Tiếng Việt
khái là con cọp so với tiếng Mường (Bi)
khảl như cách dùng tlu khà chăng lo khảl
tẻnh (trâu già chẳng lo hổ đánh/bắt). Vấn đề trở nên rất thú vị khi tra
cứu âm và nghĩa của khái HV . Chữ khái trong TVGT thì được dùng trong cụm từ
khảng khái - các từ ghép như vậy có thể là các tiếng song tiết hay ký âm của
một tiếng nước ngoài (như TVGT còn ghi nạo sưu
獿獀 là *a-so hay chó
...)
忼慨,壯士不得志也。從心旣聲
Khảng khái , tráng sĩ bất đắc chí dã . Tòng tâm khái
thanh
Ta thấy một nghĩa gốc của khảng khái là phản ứng mạnh
bạo hay không khuất phục (bản chất của tráng sĩ) khi không đạt được ý muốn -
cũng như con cọp khi gầm gừ một cách dữ tợn chăng? Như tướng cọp hung hăng
bất khuất? Với quá trình nhược hoá k > h , khảng khái có thể biến thành hăng
hái ... Việt Nam Tự Điển (1954) còn ghi cách dùng "người ấy có tính khái;
khảng khái, khí khái ". Nếu khái có phần tiêu cực trong cách dùng tiếng
Hán (khái ; bại mạo 慨
:惫貌 theo KH) thì khái
hàm ý tích cực hơn trong tiếng Việt. Paulus Của trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị
(1895) cũng nhận xét thêm là khái3 chữ Nôm (cọp) dùng khái HV
慨. Ngoài ra, khăng
khăng tiếng Việt cũng hàm nghĩa không khuất phục, không thay đổi (kiên cường
như mãnh hổ): khăng chữ Nôm thường viết bằng chữ khang
康 HV rất gần với âm
*khan/khal như trong cách dùng “giữ khăng khăng ai nỡ phụ” (Nguyễn
Trãi).
Chữ hạm ở trên có phạm trù nghĩa từ tiếng cọp gầm đến
loài cọp trắng, nhưng cũng có các chữ (tượng thanh) chỉ tiếng cọp gầm với
dạng kăn, kàn, hàn BK như 闞
(khán, hám HV, Unicode 95DE),
㘎 (360E), 㺝(3E9D),
鬫 (9B2B) ... Và các
chữ này không còn dùng nữa: chúng trở thành chữ hiếm, tần số dùng rất thấp
như chữ hạm/khảm 鬫 có
mặt khoảng 14 lần trong 171894734 chữ đọc được. Các âm trên đều tương ứng
với âm haam3 (giọng Quảng Đông) hay kam3 (Hẹ) so với các dạng gầm (gừ), hầm
(hừ) tiếng Việt. Để ý bây giờ ở Trung Quốc, những chữ chỉ tiếng gầm của cọp
là bào hao 咆哮 (páo
xiāo BK), hiệu 唬 xiāo
BK ... là kêu (hiệu) hay gào (hao) rất khác với các dạng *kan/*khan tượng
thanh (nhái lại tiếng thú kêu) từ phương Nam.
Với nhiều từ hiện diện trong ngôn ngữ như cọp,
hồm/hùm/hầm, kễnh/kĩnh, khái, ông ba mươi, hổ ... ta thấy loài này phải rất
thân thiết với văn hoá dân tộc theo chiều dài lịch sử cũng như là bản đồ
phân bố dưới đây cho thấy, tuy số còn sống trong môi trường thiên nhiên càng
ngày càng ít đi!
(dựa vào bản đồ trên mạng
http://en.wikipedia.org/wiki/File:Tiger_map.jpg, bấm vào hình để đọc rõ chú thích)
3. Thời
xưa,
Dần 寅 và dần
夤 dùng như nhau - lại
theo TVGT, dần 夤 là
恭也,敬惕也
cung dã . kính dịch dã
Để ý dịch
惕
cũng là kính sợ: cho thấy nghĩa kính (cung kính) chính là cốt lõi của
âm dần - nói cách khác, ta có cơ sở để thành lập dạng *kính tương đương với
Dần. Từ thời Nhĩ Nhã, dần đã là kính :
《尔雅》寅,敬也
và cách dùng này còn thấy TVGT ghi nhận. Không những thế tên họ quý
tộc thời Tần vẫn cho ta vài vết tích của liên hệ giữa Dần, hổ và kễnh (mà
một dạng âm cổ phục nguyên là *k(i)anh). Thời tiền Hán, tên người có thể
dùng tên thú vật như Mã, Ngưu, Dương5 ... Cha con và anh có tên
khác nhau nhưng ý nghĩa giống nhau như Khánh Dần và Khánh Hổ chẳng hạn - đây
là bằng chứng xưa nhất cho thấy tương quan giữa Dần và Hổ đã từng hiện diện
trong Tả Truyện6; Tài liệu này kể lại các việc xẩy ra vào thời
Xuân Thu nên còn gọi là Xuân Thu Tả Truyện - cho ta thấy liên hệ Dần Hổ ít
nhất đã có mặt trong khoảng thời gian từ năm 722 TCN cho đến năm 468 TCN.
Tuy nhiên một số học giả, như Dương Bá Tuấn
楊伯峻, lại cho rằng Tả
Truyện được hợp soạn sau thời Xuân Thu hay vào khoảng thời Chiến Quốc, do đó
thời điểm ra đời không thể trước năm 389 TCN được. Thêm vào đó, hổ đã từng
là vật tổ/tô-tem của vài bộ tộc7 (như ở vùng Chiết Giang chẳng
hạn) và do đó âm hổ cũng được dùng làm họ4 vào thời cổ đại. Chính
vì thế mà ta có các biến âm của hổ như là Ngu
虞 hay Ngô
呉 trong các họ có lâu
đời ... Trở lại với họ Khánh
慶 và các cách đọc xưa
hơn ta thấy
《唐韵》丘竟切《集韵》《韵会》《正韵》丘正切
“Đường Vận” khâu cánh
thiết " Tập vận " " Vận hội " " Chánh vận " khâu chính/chánh
Đồng thời, ta hãy xem lại chữ kính
獍 một loài cọp dữ ăn
thịt mẹ đẻ - so với kễnh là con cọp trong tiếng Việt mà chữ Nôm vẫn dùng
kính 獍 như trong cách
dùng "kễnh tha con lợn thì coi trừng trừng" (Lý hạng ca dao). Âm kính
thời Đường có các cách đọc kính là
居庆切,音敬
cư khánh thiết , âm kính (cánh)
Do đó ta có thể thiết lập liên hệ ngữ âm khánh và
kính-kễnh: đây là một trong các lý do hình thành loạt bài viết về chuỗi
tương quan Dần-kính-kễnh.
Có lẽ tương quan giữa phụ âm đầu d- (giọng Nam) của âm
yín BK (dần HV) và phụ âm cuối lưỡi (vòm) k-/g-/ng- của kễnh thấy rõ nét khi
xem vài chữ hiếm trong vốn từ Hán Cổ. Chữ dần
䖐
(Unicode 4590) yín BK, viết bằng chữ hổ
虎 hợp với chữ
cân
斤 hài thanh bên trái -
theo KH ghi nhận
<唐韵>
语斤切,音垠。《说文》虎声也
"Đường vận " ngữ cân thiết , âm ngân . " Thuyết văn "
hổ thanh dã
Chữ dần
䖐
đã từng hiện diện trong TVGT thời Đông Hán, liên hệ trực tiếp đến loài cọp,
nhưng cũng phải chịu chung số phận đào thải như chữ hiệp
䖎
(*kap/CỌP) của phương Nam!
Chữ kan/ngan
䖗 (Unicode 4597) đọc
là yán yàn BK aam4 ngaam4 QĐ cũng cho thấy phụ âm d- đã từng liên hệ đến
loài hổ mạnh (hùng hổ)và kết quả của quá trình ngạc cứng hoá
(palatalisation)8 của phụ âm k- cho ra các dạng d- (y-) và nh- ;
Trích KH về chữ 䖗
<集韵>
鱼咸切,音嵒。《类篇》雄虎绝有力者。
"Tập vận " ngư hàm thiết , âm nham . " Loại thiên "
hùng hổ tuyệt hữu lực giả
Tóm lại ta có khá nhiều dữ kiện về ngữ âm (Hán Cổ, Việt
Cổ) minh chứng tương quan Dần và kễnh (loài cọp dữ), do đó có thêm cơ sở để
kết luận khả năng tên gọi 12 con giáp có nguồn gốc là tiếng Việt Cổ. Chỉ dựa
vào ngôn ngữ Hán tộc, ta không thể nào tìm ra được tương quan giữa các
chữ/âm Tý Sửu Dần ... với tên gọi các loài này một cách thuyết phục; Cũng
như nhiều công trình khảo cứu của các học giả Trung Quốc chỉ dẫn đến một số
kết luận mơ hồ là '... có lẽ 12 con giáp nhập vào TQ từ một dân tộc thiểu số
nào đó ở Hoa Hạ hay phương Bắc (Triệu Dực) …’ hay từ phương Tây/Babylon
(Quách Mạt Nhược) ...!
4. Phụ chú và phê
bình thêm
Để cho liên tục, người đọc nên tham khảo thêm bài viết
"Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp : Dần-kính-*kễnh (9)" - các bài
liên hệ có thể tìm thấy trên mạng
http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/030108-muoihaicongiap-dan.htm
hay
http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=81&ia=2961
…v.v...
1)xem thêm tương quan lịch đại k-gi trên diễn đàn Viện
Việt Học, phần tiếng Việt, chủ đề căn-gian (9/8/2008) :
http://www.viethoc.org/phorum/read.php?20,37118 , trong đó vài thí dụ
đưa ra là
gian 閒
hay 間 - căn
giam 監
- khám
giảm 減
- kém
giái - giới
介 - cõi
giải 解
- cải, cởi, cổi , gỡ ...
giải 蟹
- cua
giới 疥
- ghẻ (bệnh)
giới 戒
- cai (cai nghiện)
giái - giới
芥 - cải (rau)
giái (giới)
薤 - kiệu (rau)
giác, giốc
角 - gạc (sừng nai),
góc
giác 覺
- cóc, cốc (biết, hiểu)
giả 赭
- ké (màu đỏ) vết tích còn trong cách dùng đỏ ké
giả 者
- kẻ (người ấy)
...v.v...
Cho nên giáp
甲 có thể phục nguyên
dạng cổ hơn là *kap hay các biến âm đương đại là kép , kẹp, khép, hẹp, cặp,
cắp, gắp ...v.v…
2) cạp là động từ diễn tả hoạt động ngoạm vào hay cắn
vào vật gì: âm cạp bắt đầu từ phụ âm cuối lưỡi (vòm) tắc vô thanh k- hợp với
nguyên âm sau với độ mở cao -a- và sau cùng là phụ âm môi tắc vô thanh -p.
Đọc chậm âm này ta thấy rõ nét quá trình ngoạm hay cắn và ngậm vào mồm, cũng
như cách đọc chữ ngậm và phạm trù nghĩa liên hệ. Cạp tiếng Việt là âm tượng
hình cũng như các âm tý/tí (chút - *chuột), li chi, nhí ... so với vi ti/ty
HV… Các ngôn ngữ láng giềng đều có dạng cạp tương ứng như tiếng Lào, Thái là
khạp; Tiếng Zhuang, Khme, Bahnar, Aslian, Chrau, Brou, Khasi là kap
...v.v... Không phải ngẫu nhiên mà tiếng Việt dùng âm cọp (hay *kap) để chỉ
loài vua sơn lâm này với khả năng 'cạp' cho chết - một kỹ thuật bắt mồi của
loài thú này.
3) để ý tương quan giữa các âm HV và Việt như
khái 咳
ho - cũng như chữ khái
欬
khánh khái
謦欬 (cười nói) hô hố
khái 漑
(giặt, rửa) so với hối
頮, 靧
khai 開
(mở) - há, hé, hở (mở miệng) hô (hở răng) hớ (hênh)
khải, khai
闓 (mở mang) - hở
khải 啓
(mở) - hở
khải, khởi
豈
há sao
...
khái慨
- hổ : tương quan này cần được
nghiên cứu kỹ thêm để cho thấy giao lưu văn hoá của phương Nam và Hán tộc
vào thời thượng cổ (giọng Quảng Đông cũng có khuynh hướng nhược hoá kh-
thành ra h- như tiếng Việt).
4) gầm hay gầm gừ ... chỉ tiếng của động vật (kể cả con
người) so với rầm thường chỉ các đối tượng là tĩnh vật: gầm và rầm đều chỉ
tiếng kêu lớn. Trong cách gọi tên các loài vật hay cây cối ... thường dựa
vào các đặc tính mà con người có thể cảm nhận được qua ngũ quan như tiếng
chim hót, gà gáy, ngựa hí, con quạ, con cóc, con cọp (cạp), bọ cạp, con cú
... qua thính giác; Nếu không nhận được tín hiệu nào qua thính giác (vì tần
số không nằm trong khả năng nghe của con người) thì dùng thị giác như cá
mực, cá mập, cá vàng ... Hay loại không phát ra âm thanh như trái/quả nâu,
trái bầu, trái hồng ...v.v... Trở lại với loài cọp, với tiếng gầm gừ có tần
số thấp (thường từ các loài có khối lượng cơ thể cao) và nhất là bản chất
hung hăng của loài cọp nên động từ gầm được dùng để chỉ loài này - tuy nhiên
có thể một biến âm là hầm (g > h) đã cho ra dạng hùm tiếng Việt - tự điển
Việt Bồ La ghi là hồm (1651) so với chữ Nôm thường viết là hùm (bộ khuyển
hợp với chữ hàm 含 hài
thanh); So sánh phạm trù nghĩa của chuỗi rầm - ầm - rùm - ùm/um. Có
tác giả lại cho rằng hùm từ hàm (ngậm, cằm) mà ra dựa vào khả năng cạp vì
hàm của loài cọp rất mạnh.
Kết quả trên tương ứng phần nào với động từ gầm (loài
cọp) là growl trong tiếng Anh -
grolling là dạng tiếng Anh
Trung Cổ; grogner (Pháp) cũng
dựa vào các phụ âm g và r. So với tên gọi con cọp trong tiếng Anh/ Đức/Đan
Mạch/Thuỵ Điển là tiger - tiếng
Anh Cổ là tigras, so với tiếng Pháp/ Bồ Đào Nha/Ý/ Tây Ban Nha là tigre,
La Tinh và Hy Lạp đều là tigris.
Các phương ngữ Ấn Độ cũng có âm g- hay gr- như Hindi là
व्याघ्र (vyāghra), Malayalam
വ്യാഘ്രം (vyaaghram) ... Cũng như ở
Phi Châu ta còn thấy tiếng Xhosa cọp là ingwe, tiếng Zulu cọp là ingwe,
Tiếng Khme có dạng ខាធំ
(khlā-thum) với biến âm gr- > khl- ...v.v... Học giả Michel Ferlus, trong
bài "Le cycle des douze animaux: histoire d'un contact ancien entre Vietnam
et Cambodge" (2004), đã ghi nhận các dạng khái (cọp) là kơha:l3 (tiếng Rục),
kăha:l3 (Thavung), kha:l3 (Poong, Cuối, Mường) ... và đề nghị một
dạng tiền Việt-Mường PVM *k-ha:l? rất gần với dạng khan (Thái) so với các âm
cánh 竟 và kính
獍 và kễnh. Không phải
ngẫu nhiên mà các tên gọi loài cọp và tiếng gầm của chúng thường có các phụ
âm g/k, r, gr/khl ... Nhà
nghiên cứu về chim (Ornithologist) Eugene Morton (1977) đề nghị là có sự
tương quan về ý nghĩa với tần số và mức độ âm thanh loài vật phát ra: các âm
thanh trầm (tần số thấp - như tiếng gầm của cọp) diễn đạt tình trạng hung
hăng hiếu chiến (gầm gừ, hầm hừ) so với các âm cao diễn đạt trạng thái thân
thiện hay sợ hãi. Kết quả này cũng phù hợp với cách giải thích tên gọi hùm
(< hầm/gầm) của loài cọp. Xem thêm chi tiết về nghiên cứu ngôn ngữ loài vật
trên mạng
http://findarticles.com/p/articles/mi_m1200/is_v127/ai_3777499/ …v.v…
Các khảo cứu về ngôn ngữ loài vật và các cách gọi tên chúng (nguồn gốc ngôn
ngữ) rất lý thú nhưng không nằm trong phạm vi loạt bài viết về tên gọi 12
con giáp này. Tuy nhiên một số nhận xét rất sơ lược về khả năng có thể tên
gọi xuất phát từ tiếng kêu của loài thú có thể tìm thấy trong các bài viết
"Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp" về Mão Mẹo mèo (phần 4), Mùi/Vị
*mvei dê (phần 15), Dậu-rơ(ga)-gà (phần 14).
5) xem thêm "Những điều lý thú xung quanh vấn đề họ
tên" - tác giả Lý Tống Địch (2001) bản dịch của NXB Văn Hoá Thông Tin (Hà
Nội 2003)
6) theo Thập Tam Kinh - Tả Truyện - Tương công nhị thập
tam niên 十三經-左傳-襄公二十三年
... Toại sát Khánh hổ , Khánh dần
遂殺慶虎、慶寅 ...
7) như Di tộc, Bạch tộc, Thổ Gia tộc, Na-xi tộc, La-hu
tộc, Li-su tộc ... ở vùng Vân Nam - theo tác giả Thường Tuấn trong "Văn hoá
về 12 con giáp của Trung Quốc" (bản dịch ra tiếng Việt, 2003).
8) quá trình ngạc cứng hoá còn có thể sản xuất một số
dạng (k > d, z, ch) thường gặp trong các phương ngữ như
dẫn chăn
dẫn chẵn
dấn chấn
dăng giăng, chăng (giọng Nam)
zăng trăng (giọng Bắc, Hà Đông)
...
Do đó có thể chằn hay giằn (dằn) là một vết tích của
Dần và liên hệ đến loài ác thú (hổ), ma quỷ như trong các cách dùng “bà
chằn, chằn tinh, dữ như chằn tinh gấu ngựa ...” theo Paulus Của (Đại Nam
Quốc Âm Tự Vị, 1895) ... Một dạng chữ Nôm chỉ chằn là dùng bộ khuyển hợp với
chữ chân 眞 hài thanh.
Cũng theo ông thì dằn chữ Nôm viết bằng bộ thủ hợp với chữ Dần
寅: có thể đây là một
mối dây hỗ trợ cho liên hê Dần-kễnh (cọp) qua khẩu ngữ dữ dằn (dữ như
cọp) chăng? Chỉ có tiếng Việt mới còn giữ các tương quan dễ nhận ra như vậy.
Những bài nghiên cứu cùng tác giả:
BỤT HAY PHẬT ? phần 2A (Nguyễn Cung Thông)
BỤT HAY PHẬT? phần 1 (Nguyễn Cung Thông)
Bụt hay Phật ? phần 3 (Nguyễn Cung Thông)
Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp (Nguyễn Cung Thông)
Tản mạn về cõi Đâu Suất và lý thuyết tương đối -1 (Nguyễn Cung Thông)
Tứ Diệu Đế (Nguyễn Cung Thông)