|
ngày 26 tháng 5, 2008 |
“NGÀY TẬN THẾ” CỦA KI-TÔ GIÁO
(Christian Apocalypse)
Hay
Tín Đồ Ki-tô Việt Nam Có Được Chúa “Cứu Rỗi” Không?
Đó Là Câu Hỏi. Vậy Câu Trả Lời Là Gì?
1. Vài Lời Nói Đầu.
Tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học,
và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo
Hoàng John Paul II đã bắt buộc phải tuyên bố: "thiên đường không phải là
một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây”
(Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), và
“Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là
trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời
này” (Hell is not a punishment imposed externally by God, but the
condition resulting from attitudes and actions which people adopt in this
life). Như vậy là Giáo Hoàng đã bác bỏ phần giáo lý quan trọng nhất của giáo
hội Ca-Tô: “người nào tin Chúa thì sẽ được Chúa cho lên thiên đường sống cuộc
sống đời đời bên ngài, kẻ nào không tin sẽ bị Chúa phán xét đày vĩnh viễn xuống
hỏa ngục ở trong lòng đất”. Củ cà-rốt thiên đường thường dùng để khuyến
dụ những người nhẹ dạ cả tin, và cây gậy hỏa ngục để hù dọa những người yếu bóng
vía, sau cùng đã không còn tác dụng gì đối với nhân loại trong thời đại văn minh
tiến bộ ngày nay.
Dù vậy, không thiếu gì tín đồ Ki Tô Giáo ngày nay vẫn mơ tưởng đến
“ngày tận thế” để Chúa Giê-su của họ có thể làm cho phần hồn của họ nhập với xác
chết của họ, bất kể là họ đã chết từ bao giờ, ở đâu, chết trên giường hay tan
xác ngoài mặt trận v..v.. và cho họ lên “thiên đường” ở trên các tầng mây, hưởng
nhan thánh Chúa. Đó là tín ngưỡng, là quyền tin của mọi người, nhưng trong vấn
đề học thuật, tôi tự hỏi: “Thực ra thì các tín đồ Việt Nam theo Ki-Tô-Giáo có
được Chúa “cứu rỗi” hay không? Căn cứ vào đâu? Và thực ra thì những gì sẽ xẩy
ra trong “ngày tận thế”? Chúng ta không có cách nào khác là tìm hiểu về “ngày
tận thế” trong Thánh Kinh của Ki Tô Giáo. Thực ra thì chúng ta không cần tìm
hiểu về “ngày tận thế” cũng có thể khẳng định là theo huyền thoại của dân Do
Thái về Giê-su thì Giê-su xuống trần chỉ để cứu người Do Thái mà thôi. Trong
Tân Ước, chính Giê-su đã khẳng định như vậy và còn coi người phi Do Thái là
chó. Vậy thì, dựa theo Thánh Kinh thì những lời các “bề trên” dạy cho tín đồ
Việt Nam về một sự “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những lời lừa dối để khuyến dụ
những kẻ nhẹ dạ cả tin. Bài viết này nằm trong chủ trương giải hoặc, giúp con
người bỏ đi những điều huyễn hoặc mà ngày nay không còn thích ứng với kiến thức
của nhân loại.
Vậy chúng ta hãy tìm hiểu chút ít về “ngày tận thế” để có thể có một câu
trả lời chính xác về câu hỏi: “Các tín đồ Ki Tô Giáo Việt Nam có được cứu rỗi
trong ngày tận thế không?”
Trước thế kỷ 16, trước khi Martin Luther bắt đầu dịch Kinh Thánh [Kinh mà
Ki Tô Giáo cho là do các thánh viết theo sự mạc khải của Thiên Chúa chứ không
phải là Kinh về những điều thánh thiện] ra tiếng Đức và từ đó Kinh Thánh được
dịch sang tiếng các nước khác, tín đồ Ca-tô không được phép đọc Kinh Thánh. Vi
phạm có thể bị tịch thu tài sản hay xử tử hình. Tại sao vậy? Giáo hội Ca-tô
giải thích là sợ tín đồ thấp kém đọc Kinh Thánh hiểu sai ý Chúa. Hiểu ý Chúa là
độc quyền của giới giáo sĩ, từ giáo hoàng xuống tới linh mục [sự thực thì linh
mục cũng chỉ nhắc lại những gì mà các “bề trên” muốn họ phải nhắc cho tín đồ ở
dưới], tuy rằng “giáo hội dạy rằng”: “Thiên Chúa không thể hiểu được”
(God is incomprehensible). Thật ra thì giáo hội sợ tín đồ thấy rõ những chuyện
sai lầm và hoang đường trong Kinh Thánh, và những giáo lý ngụy tạo của giáo hội,
đưa đến tình trạng giáo hội mất đi quyền lực trên đám tín đồ, và lẽ dĩ nhiên,
thu hoạch giảm sút. Điều này đã xảy ra trong những nước Âu Mỹ văn minh tiến
bộ. Linh mục, nữ tu, và giáo dân bỏ đạo hàng loạt. Các nhà thần học đã lên
tiếng phê bình, chất vấn giáo hội về những tín lý như Đức Mẹ Thụ Thai Vô Nhiễm,
Giáo hoàng không thể sai lầm, Chúa sống lại và bay lên trời, Tuyệt thông v..v..
đến độ Giám mục Tin Lành John Shelby Spong đòi phải dẹp bỏ vai trò cứu thế của
Giê-su. [Xin đọc bài “Giê-su Như Là Đấng “Cứu Thế”: Một Vai Trò Cần
Phải Dẹp Bỏ” trên trang nhà Giao Điểm trước đây].
Nhìn vào số tín đồ trong các nước kém mở mang ở Phi Châu, Nam Mỹ và Phi
Luật Tân ở Á Châu, chiếm hơn 70% tổng số tín đồ Ca-tô hiện nay trên thế giới,
chúng ta thấy ngay tại sao Ca-tô Giáo có đông tín đồ: Vì tuyệt đại đa số các tín
đồ này thuộc những thành phần thấp kém nhất trong xã hội, ít học, kém hiểu biết,
ngây thơ, ngờ nghệch. Số tín đồ này có thể trong nhà có cuốn Kinh Thánh nhưng
chỉ dùng nó làm vật hứng bụi (dust collector), chưa bao giờ mở cuốn Kinh Thánh
ra đọc vì có đọc cũng không hiểu, và, ngoài việc đã bị nhồi sọ từ nhỏ, chỉ được
nghe giảng trong nhà thờ những đoạn chọn lọc ngoài toàn bộ vấn đề (out of
context) thuộc loại mê tín dị đoan của các linh mục chuyên nghề mê hoặc các tín
đồ vốn không có nhiều đầu óc. Cũng vì vậy mà nhiều chuyên gia về tôn giáo đã
phân tích vấn đề Ki-tô Giáo và cho rằng Ki-tô Giáo, đặc biệt là Ca-tô Giáo
Rô-ma, chỉ gồm có ba hạng người:
1). Tuyệt đại đa số tín đồ thuộc giai cấp cùng dân, thấp kém, ít hiểu
biết. Đối với hạng người này, niềm tin vào lời hứa hẹn được Chúa làm cho sống
lại, bất kể là đã chết từ bao giờ, cùng “Chúa” bay lên thiên đường, trong ngày
phán xét là một sự an ủi lớn.
2). Giới giáo sĩ (từ giáo hoàng trở xuống) xảo quyệt lợi dụng
sự ngờ nghệch và lòng mê tín của đám giáo dân thấp kém để tự tạo quyền lực, ăn
trên ngồi trước (đưa ra những tín lý như rửa tội, xưng tội, tha tội, ban
thánh thể [ăn thịt và uống máu Chúa], quyền tuyệt thông [excommunication]
v..v...) , vơ vét của cải (gia tài của Vatican nay lên đến trên một ngàn tỷ
đô-la, các giáo xứ ở Mỹ đã phải tiêu trên 2 tỷ đô-la để bồi thường cho các nạn
nhân của trên 4000 linh mục loạn dâm).
3.) Những học giả, nhà thần học thuộc loại bất lương trí thức
(intellectual dishonesty) theo như nhận định của Alfred Loisy, Giáo Sư tại Viện
Đại Học của Ca-tô Giáo Rô-ma ở Pháp từ 1889 đến 1908. Alfred Loisy thấy khó có
thể tin là những học giả hiểu biết (learned scholars), đặc biệt là những đồng
nghiệp Ca Tô của ông (his Catholic colleagues), vẫn tiếp tục biện hộ cho những
điều mê tín thuộc loại siêu nhiên. Chúng ta hãy đọc một đoạn ngắn của Loisy:
“Trong vấn đề siêu nhiên được hiểu như vậy (như viết trong Kinh
Thánh) chúng ta không thể tin vào phần nào, vì lý do rõ ràng là nó không có
thực, là nó đã bị tan ra từng mảnh nhỏ, những mảnh này chỉ được giữ lại với
nhau cho đến ngày nay bởi sự ngu đần của đám người cả tin, và bởi sự chủ tâm mù
quáng của những nhà thần học không chịu nhìn vào những gì ở ngay trước mắt;
chúng ta cũng không tránh khỏi nghi ngờ là những nhà thần học này đôi khi đã
dự vai trò có thể xếp họ vào loại những kẻ theo chủ nghĩa cơ hội, những chính
trị gia biện giải cho Ki Tô Giáo, những chiến thuật gia lý giải Kinh Thánh, thay
vì xếp họ vào hạng những người thực sự và chính mình tin vào thuyết siêu nhiên
giả dối này, cái thuyết mà có vẻ như họ đã quyết định áp đặt nó như một gánh
nặng trường tồn trên những đầu óc cả tin. Chúng tôi bảo cho họ biết, một
lần dứt khoát, rằng những tham vọng của họ là phi lý và cho rằng Kinh Thánh và
Giáo hoàng không sai lầm là một sự chống lại, mà họ không được phép, đối với
kiến thức đúng.” 1
Nhận định của Alfred Loisy như trên có phải là để “bôi nhọ” Ki-tô Giáo
hay không? Chắc chắn là không, vì chúng ta có thể chứng minh sự chính xác của
những nhận định trên qua lịch sử của Giáo hội Ca-tô Rô-ma, qua những tín lý mà
tuyệt đại đa số tín đồ vẫn còn tin trong thời đại ngày nay, và nhất là qua sự
phân tích cuốn sách mang tên “Kinh Thánh” của Ki-tô Giáo.
Một trong những sự ngu dại của đám người cả tin, nhất là những người
không phải là Do Thái, là tin vào ngày tận thế, thường được rao giảng trong các
nhà thờ, hứa hẹn một sự “cứu rỗi” của Giê-su. Trong bài này tôi xin luận
về điều “tiên tri” về “Ngày Tận Thế” của Ki-tô Giáo, viết trong sách “Khải
Huyền” ở cuối Tân Ước, và chứng minh rằng sách này thuộc loại cực kỳ mê tín
hoang đường còn sót lại trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay, và sách này đã
từng gây bao khổ nạn cho nhân loại, kéo dài cho đến tận ngày nay..
ooooo ۩ ooooo
2. “Ngày Tận Thế” Của Ki-tô Giáo.
Niềm tin vào “Ngày Tận Thế” của Ki-tô Giáo nằm rải rác trong Cựu Ước,
trong nửa cuốn sau của sách Daniel (nửa cuốn trước chỉ thích hợp với trẻ con
trong những lớp học sáng chủ nhật ở nhà thờ) và trong sách Khải Huyền
(Revelation) ở cuối Tân ước.
Sách Khải Huyền đã được Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson “khen tặng”
một cách rất chính xác như sau: “Sách Khải Huyền là những lời nói dốt nát
của một kẻ điên khùng” [President Thomas Jefferson referred to the
Book of Revelation as “the ravings of a maniac”, West County Times, California,
USA, Editor Steven Morris, 14 August, 1995].
Kẻ điên khùng dốt nát này là ai? Kinh Thánh viết rõ tên sách Khải Huyền:
“The Revelation of Jesus Christ”, có nghĩa là “Lời khải thị của Giê-su
Ki Tô”, và câu đầu trong sách Khải Huyền viết rõ: “Rev. 1: 1: The
Revelation of Jesus Christ, which God gave Him to show to His servants –
things which must soon take place, He made it known by sending his angel
to his servant John....” [TCN tạm dịch: Lời khải thị, hay mạc khải,
của Giê-su Ki-tô mà Chúa Cha đã ban cho ông ta để tỏ cho các tôi tớ của
ông ta thấy những điều sắp phải xảy ra. Giê-su tỏ điều khải thị này (cho
các tôi tớ) bằng cách sai thiên sứ của ông ta đến với kẻ tôi tớ của ông
ta là John (Gio-an hay Giăng)...].
Chúng ta thấy, trong đạo Giê-su không có tín đồ mà chỉ toàn là tôi tớ
rất hãnh diện được làm tôi tớ. Vậy theo tổng thống Jefferson và theo khẳng
định ở đầu sách Khải Huyền thì Giê-su chính là kẻ dốt nát, điên khùng. Nếu
Giê-su dốt nát điên khùng, thì chuyện những tôi tớ của ông ta, thí dụ như các
linh mục, mục sư không phải là người Do Thái, cũng như các tín đồ hoặc tân tòng
như Đỗ Mạnh Tri, Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng, Nguyễn Huệ Nhật, Khuất Minh,
Phan Như Ngọc, Trần Long v..v.. còn dốt nát điên khùng hơn ông ta không phải là
chuyện lạ. Bởi vì Kinh Thánh viết rõ, Matthew 10:24, Giê-su phán:
“Tôi tớ không hơn được chủ” (a servant is not above his master).
Chúng ta nên hiểu, dốt nát điên khùng ở đây là nói về phương diện hiểu biết
trí thức chứ không phải về vấn đề tín ngưỡng, một quyền căn bản của con người.
Khổ nạn của Ki-tô giáo là hầu hết tín đồ đều tin những điều John kể lại
trong sách Khải Huyền chính là những lời khải thị của Giê-su, do đó không thể
sai lầm. Nhưng họ lại không đọc sách Khải Huyền bằng một đầu óc phân tích để
thấy rằng cuốn sách này chỉ thích hợp với những đầu óc thuộc thời bán khai, thời
mà đầu óc của tuyệt đại đa số quần chúng chưa được mở mang, đầy mê tín dị đoan,
sợ thần sợ thánh, cho nên họ chỉ tin vào vài điều hứa hẹn viển vông trong sách
này mà các giới chăn chiên bịp bợm đã chọn lọc lấy ra để giảng cho họ. Họ
chỉ cần có vậy, còn sự dốt nát điên khùng của Giê-su, hay của chính họ, thì họ
chẳng bao giờ quan tâm đến hoặc không đủ khả năng để nhận ra.
Nhận định của Tổng Thống Thomas Jefferson như trên đúng hay sai? Muốn trả
lời câu hỏi này, không gì bằng đi vào chính nội dung của sách Khải Huyền. Và
đây chính là mục đích của tôi khi viết bài phân tích này.
Trước hết, chúng ta cần hiểu rõ thế nào là “khải thị” hay “mạc khải”
(revelation). Trong Ki- tô Giáo, khải thị có nghĩa là “bật mí” hay “tiết lộ bí
mật” (disclosure), những lời mà Chúa Cha trực tiếp tiết lộ với con người.
Điều kiện cần và đủ để tin vào những lời “khải thị” này là trước hết chúng ta
phải tin là đích thực có một God. Phiền một nỗi, trong mấy ngàn năm nay, không
một nhà thần học nào có thể đưa ra một luận cứ có thể thuyết phục người đời là
đích thực có một ông God, lẽ dĩ nhiên là God của Ki Tô Giáo. Nhưng chúng ta
hãy bỏ qua việc thảo luận về sự hiện hữu hay không hiện hữu của God của Ki Tô
Giáo, và tạm chấp nhận sách Khải Huyền chính là những lời mạc khải của Giê-su
Ki-tô cho người tôi tớ John.
Về vấn đề “mạc khải”, trong cuốn Thời Đại Lý Trí, Thomas Paine có
cho chúng ta biết thế nào là ý nghĩa đích thực của từ “mạc khải”, đại khái như
sau. Mạc khải là lời “bật mí” trực tiếp của God (giả thử là có God) cho người
nào đó. Nhưng đó chỉ là những lời “mạc khải” đối với cá nhân đó. Khi cá
nhân đó tuyên bố đó là những lời “mạc khải” của God thì đối với chúng ta không
còn là “mạc khải” nữa, vì cá nhân đó có thể mắc bệnh hoang tưởng, hay cố tình
lừa dối, hay nói láo. Cho nên chúng ta không cần phải tin đó là những
lời mạc khải của God, giả thử là có God. Trong cuốn Những Sai Lầm Của
Môi-Se (The Mistakes of Moses), Robert G. Ingersoll, nhà tư tưởng tự do vĩ
đại nhất của Mỹ vào cuối thế kỷ 19 đã viết:
“Người ta bảo tôi rằng cuốn sách đó (cuốn Kinh Thánh) là
những lời mạc khải của God. Tôi cóc cần biết là nó có phải là
được mạc khải hay không. Vấn đề là trong đó viết có đúng hay không. Nếu đúng
thì không cần phải được mạc khải. Không có gì cần đến sự mạc khải trừ phi đó
một sự giả tạo hay một sự sai lầm.” 2
Thật vậy, vì là giả tạo hoặc sai lầm, nên người ta đã lôi God ra
làm con ngoáo ộp để dọa những kẻ đầu óc yếu kém với tâm cảnh luôn luôn ở trong
tình trạng sợ hãi God, phải tin đó là những lời của God. Đã là của God thì không
thể sai lầm, và không tin thì không được lên thiên đường. Đây là xảo thuật của
giới giáo sĩ lừa dối đám tín đồ thấp kém, vì ngày nay đa số nghiên cứu của các
học giả chuyên gia về tôn giáo, cộng với thực tế, đã chứng tỏ rằng sách Khải
Huyền, nói về “Ngày Tận Thế”, là để cho những đầu óc thuộc loại Oxymoron tin, và
cũng chính vì vậy mà trên thế gian này đã xẩy ra bao nhiêu thảm trạng bắt nguồn
từ niềm tin nhảm nhí này, như tôi sẽ chứng minh qua vài tài liệu trong một phần
sau.
“Ngày Tận Thế” là niềm tin đặc thù của truyền thống Do-Thái – Ki-tô
(Judea-Christian tradition). Trong khi truyền thống Hi Lạp, Phật Giáo, Ấn Độ
Giáo đều quan niệm sự vận hành của vạn pháp trong vũ trụ, kể cả vũ trụ, có tính
cách tuần hoàn theo từng chu kỳ, thí dụ bốn mùa, hết năm cũ sang năm mới; sinh,
tử, rồi lại tái sinh v..v.. thì Kinh Thánh Do-Thái – Ki-tô quan niệm vũ trụ theo
đường thẳng: bắt đầu bằng một sự “sáng tạo” của Thiên Chúa và tận cùng bằng
“Ngày Tận Thế”, đặc biệt chỉ áp dụng cho loài người trên trái đất. Nhưng
ngày nay, trước những khám phá của khoa học về vũ trụ và con người, thuyết
“sáng tạo” như được viết trong cuốn Kinh Thánh đã chứng tỏ đó chỉ là một sản
phẩm dẫn xuất từ những sự mê tín trong thời bán khai (a product derived
from primitive superstitions), cho nên “ngày tận thế” trở thành sự hoang
tưởng dốt nát của một kẻ điên khùng, đúng như Tổng thống Thomas Jefferson đã
nhận định. Thật vậy, từ chính Giê-su, và sau Giê-su, đã có biết bao các nhà
tiên tri thuộc truyền thống Do-Thái – Ki- tô (kể cả Hối Giáo), tin vào Kinh
Thánh, tiên đoán là ngày tận thế đã gần kề, nhưng tất cả đều trật lất. Chính
Chúa đã trật thì tôi tớ của Chúa làm sao mà trúng cho được. Đọc những sách tiên
đoán về ngày tận thế, chúng ta thấy có cả trăm vụ khác nhau. Tất cả các vụ này
đều có một đặc tính chung: đó là tiên đoán bậy, trật lất. Tại sao? Vì tất cả
đều dựa trên một niềm tin nhảm nhí, mù lòa tin bướng tin càn.
Trong bài này, hiển nhiên tôi không thể liệt kê ra hết những vụ tiên
đoán này, mà chỉ có thể đưa ra vài trường hợp điển hình, bắt đầu bằng “Chúa”
Giê-su, “vua của các vua”, “ánh sáng của ánh sáng” (sic).
Trước hết, đọc Kinh Thánh chúng ta thấy rõ là Giê-su tin rằng mình sẽ
trở lại trần trong một tương lai rất gần để “bởi trời lại xuống phán xét kẻ
sống và kẻ chết” theo như Kinh Tin Kính của các Tông Đồ mà các tín đồ Ki-tô
Giáo đều phải tin. Ngày Giê-su trở lại trần báo hiệu ngày tận thế trong tương
lai theo quan niệm của Ki-tô Giáo và được viết rõ trong sách Khải Huyền mà chúng
ta sẽ bàn về sau. Những đoạn sau đây trích dẫn từ Kinh Thánh: Cựu Ước Và Tân
ước, Hội Quốc Tế Xuất Bản, 1994; Holy Bible: The New King James Version,
American Bible Society, New York, 1982; Holy Bible: New International Version,
International Bible Society, Colorado Springs, 1984; có thể chứng minh cho điều
nhận xét trên:
Matthew 16: 27-28: “Vì Ta (Con của người: Giê-su) sẽ
trở lại với các thiên sứ trong vinh quang của Cha Ta để thưởng phạt mỗi người
tùy theo việc họ làm. Chắc chắn là, Ta cho các con biết: một vài người
đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi thấy Ta vào trong Vương quốc của Ta.”
Matthew 24: 34: “Chắc chắn là, Ta cho các
con biết, thế hệ này chưa hề qua các biến cố ấy [về ngày trở lại của Giê-su]
đã xảy ra rồi.”
Mark 9: 1: Chúa bảo các môn đệ: “Chắc chắn là, Ta
cho các con biết, một vài người đang đứng đây sẽ còn sống khi nhìn thấy Nước
Trời với uy quyền”
Mark 13: 30: “Chắc chắn là, thế hệ này chưa hề
qua các biến cố ấy đã xảy ra rồi.”.
Luke 21: 27, 32: “Rồi nhân loại sẽ thấy ta giáng xuống
trong mây trời với vinh quang và uy quyền to lớn.. Chắc
chắn là, Ta cho các con biết, thế hệ này chưa hề qua các biến
cố ấy đã xảy ra rồi.”
John 14: 3: “Và nếu Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho các con, Ta
sẽ trở lại đón các con về với ta; ta ở đâu các con cũng sẽ ở đấy”
Chúng ta thấy, trong cả 4 Phúc Âm: Matthew, Mark, Luke và John, Giê-su
đều nói chắc chắn là ông ta sẽ trở lại trong một ngày rất gần, khi mà thế
hệ của ông chưa qua, và vài đệ tử của ông còn sống. Nhưng điều chắc chắn
của Giê-su thì lại chẳng chắc chút nào, vì điều này đã không hề xảy ra, chứng
tỏ rằng Giê-su bị bệnh tâm thần, mắc bệnh chứng hoang tưởng (paranoia),
vì bản thân có một lý lịch không mấy tốt đẹp (là đứa con hoang), và một
tâm cảnh cuồng tín tôn giáo khi đọc và tuyệt đối tin những điều trong Cựu Ước,
do đó sinh ra nhiều ảo giác và tự cho mình chính là “con duy nhất của God”,
“có nhiệm vụ chuộc tội cho nhân loại”, “là đấng cứu thế”, “sẽ trở lại trần phán
xét kẻ sống cũng như kẻ chết” v..v.. như nhiều nhà phân tâm học, điển hình
là các Bác sĩ phân tâm Albert Schweitzer, George de Loosten, William Hirsch, và
Binet-Sanglé, và Tiến sĩ Emil Rasmussen đã chứng minh. [Xin đọc cuốn Chúa
Giê-su Là Ai? Giảng Dạy Những Gì? của Trần Chung Ngọc, Giao Điểm xuất bản,
2002, chương I).
Nói tóm lại, những lời hứa hẹn của Giê-su về ngày trở lại của ông ta chỉ
là hứa hão, sai lầm. Nếu Giê-su sai lầm về điều này cũng như nhiều điều khác
rải rác trong Tân Ước, thì có gì bảo đảm là những lời hứa hẹn khác của ông ta về
vai trò cứu thế, về quyền phán xét người sống cũng như người chết v..v.. là
đúng. Nếu chính những lời của Giê-su không có gì để đảm bảo là đúng, thì
những gì mà các giáo hội Ki Tô Giáo giảng dạy về Giê-su chẳng qua chỉ là những
luận điệu thần học để dụ dỗ con người vào vòng mê tín, một vũ khí để giới giáo
sĩ ngự trị trên đám tín đồ thấp kém. Giáo điều Ca-Tô Giáo Rô-ma và Tin Lành
đã chứng tỏ như vậy. Một số không nhỏ các Giáo hoàng, Hồng Y, Tổng Giám mục,
Giám mục, Linh Mục Ca-tô, Mục sư Tin Lành phạm đủ thứ tội ác, kể cả giết người,
loạn luân, loạn dâm v..v.. nhưng vẫn tự nhận là “đức thánh cha”, là đại diện của
Giê-su, là “cha cũng như Chúa”, là “người có nhiệm vụ đi rao giảng Tin Lành
(sic) của Chúa”, có quyền cho hay không cho tín đồ hiệp thông với Chúa, có quyền
tha tội cho con chiên v..v.. Sau khi xưng thú 7 núi tội lỗi trước thế giới,
Giáo hội Ca-tô Rô-ma vẫn tự nhận là công cụ duy nhất để đưa “cả thế giới” đến
“cứu rỗi”. Chỉ tội nghiệp cho đám tín đồ thấp kém, nhẹ dạ cả tin, ngờ nghệch,
tiếp tục tin vào quyền năng tự tạo của Giáo hội và vào một cái bánh vẽ trên
trời.
Trước khi đi vào việc phân tích vài đoạn trong sách Khải Huyền,
tôi xin tóm lược nội dung sách này với vài lời bàn ngắn. Sau khi đọc xong phần
tóm lược này, nếu quý độc giả còn có can đảm và còn có hứng thú thì xin đọc
tiếp, còn nếu sợ lãng phí thì giờ vô ích thì thôi. Riêng đối với tôi, đọc và
phân tích Kinh Thánh là một điều thú vị, vì đó là những dịp để tôi cười thoải
mái, do đó sức khỏe tăng cường để tiếp tục làm công việc mà tôi đang làm.
Ngoài cuốn King James Version, tôi còn có vài cuốn Kinh Thánh
khác, trong số này có cuốn Holy Bible , New International Version, trong đó Tân
Ước được in hai màu chữ: đen và đỏ. Những hàng chữ đỏ là đích thực của Giê-su
nói. Còn những hàng chữ đen thì của người khác. Ở cuối cuốn Holy Bible này có
những đoạn tóm tắt nội dung các sách trong Holy Bible và sau đây là tóm tắt Sách
Khải Huyền, nguyên văn như sau:
“Sách Khải Huyền là loại sách duy nhất trong Tân ước. Đó là
cuốn sách nói về ngày tận cùng của thế giới hiện nay và sự bắt đầu của “một
thiên đường mới và một trái đất mới.” [Trái đất chỉ là một mảnh
văng ra từ mặt trời và trải qua trên 4 tỷ năm mới có tình trạng ngày nay. Một
trái đất mới mà không có một mặt trời mới là chuyện của những người thuộc thời
bán khai] Sách Khải Huyền được viết bởi tông đồ John trong khi đang bị đi
đày ở đảo Patmos. Khi John đang ở đó thì Giê-su [đã chết và táng xác trước
đó ít ra là 30 năm] ban cho ông ta một viễn kiến về những gì sắp sửa xảy ra
trong tương lai. John viết cuốn sách này để cho những tín đồ Ki Tô đang bị
bạo hành tin tưởng rằng Thiên Chúa kiểm soát tất cả mọi sự xảy ra trên trái đất
này. [Nếu vậy thì tại sao Thiên Chúa lại để cho những tín đồ của
Thiên Chúa bị bạo hành? Ngoài ra, phải chăng tất cả những bệnh tật, những sự
xấu ác, những sự tàn bạo v..v.. xảy ra trên trái đất này đều là “tác phẩm” của
Thiên Chúa cả? Thực tế cho thấy Thiên Chúa chẳng kiểm soát được cái gì xảy ra
trên trái đất này cả, nhất là kiểm soát được trang nhà Giao Điểm hay TCN đang
viết bài này.] Viễn kiến [hay ảo tưởng?] của John chứng tỏ Giê-su
là người nắm quyền ngự trị trên mọi người và trên mọi thứ trên trái đất - ngay
cả những chính phủ mạnh của con người - [Thật vậy hay sao?? Thực tế
cho thấy Giê-su chỉ có thể ngự trị trong những đầu óc thiếu oxy. Trong vụ án
Nguyễn Văn Lý vừa qua, có một người đã đưa ra một nhận xét rất thú vị về cái gọi
là “Chúa nắm quyền ngự trị ngay cả những chính phủ mạnh của con người” như sau:
“Ông Marx đã bịt miệng Chúa” ] và ông ta sẽ phán xét và trừng
phạt tất cả những gì xấu ác. Nó cũng cho các tín đồ Ki Tô một hình ảnh của
thiên đường [mù, theo John Paul II], nơi mà chúng ta sẽ ở cùng Giê-su.”
3
Ai đọc đoạn trên mà không phì cười tôi cho là đã tu thiền đến
trình độ cao cấp. Nhưng đoạn tóm tắt trên quá ngắn cho nên tôi xin tóm tắt sách
Khải Huyền dài hơn để cho các bạn đọc có những trận cười thỏa thích cho khỏe
người:
Mở đầu, ông John [các học giả phân tích Tân Ước cho rằng, trái
với quan niệm thông thường, ông John này không phải là ông John, một trong 12
tông đồ đầu tiên của Giê-su, người viết Phúc Âm John, vì văn phong trong Phúc Âm
John thì trong sáng và đúng văn phạm, còn văn phong trong sách Khải Huyền
thì đầy những lỗi về văn phạm, dùng từ sai và đầy tính cách man rợ (full
of gramatical errors, poor word choice, and general “barbarisms”), nhưng đây là
vấn đề của các học giả, không phải của chúng ta] khẳng định đây chính là những
lời Khải Thị của Giê-su ban cho ông ta và truyền cho ông ta ghi chép những điều
“khải thị” của Giê-su và gửi cho 7 “hội thánh” ở vùng Tiểu Á (Minor Asia).
Chúng ta hãy nghe “thánh John” kể lại, Khải Thị 1 : 10-16, và nên nhớ rằng thánh
John khi đó đang...bị đi đày ở đảo Patmos:
“...Tôi được linh cảm và nghe có tiếng gọi sau lưng vang dội
như tiếng kèn đồng (trumpet): Hãy ghi chép những điều con thấy và gửi cho 7 hội
thánh tại..... [xin xem đoạn sau].
Quay lại xem ai vừa nói, tôi thấy 7 giá đèn bằng vàng. Giữa
các giá đèn có ai giống như Chúa Giê-su [xin nhớ là Giê-su đã chết và táng
xác trước đó ít ra là 30 năm], mặc áo dài, ngực thắt đai vàng. Tóc ngài
trắng như lông chiên, như tuyết, mắt sáng như ngọn lửa, chân như đồng sáng loáng
trong lò, tiếng nói vang ầm như thác đổ. Tay phải ngài cầm “7 ngôi sao”, “miệng
có thanh gươm hai lưỡi sắc bén”, mặt sáng rực như mặt trời chói lọi giữa
trưa...” [Đây có phải là hình ảnh của một Chúa nhân từ hay không hay
đúng là hình ảnh của một Hung Thần? Và chúng ta nên nhớ: mặt trời chỉ
là một ngôi sao nhỏ, đường kính chỉ vào khoảng “1 triệu 3 trăm 90
ngàn cây số” và nhiệt độ ngoài biên khoảng 6000 độ, và Chúa Giê-su của Ki Tô
Giáo đã cầm trong tay một lúc 7 ngôi sao (chắc là bằng giấy của các em mẫu giáo
trong các lớp học Kinh Thánh ở nhà thờ sáng chủ nhật vẽ)] và rồi Chúa đọc cho
John chép 7 bức thư viết cho 7 hội thánh...
Chép xong, thánh John nhìn lên và thấy có một cánh cửa mở
ra ở trên trời. [Tầm mắt của thánh John nhìn được bao xa trên trời??]
Rồi thánh John nghe tiếng Giê-su gọi: “Lên đây, ta sẽ chỉ cho ngươi
thấy những gì sắp phải xảy ra trên thế gian.” Lập tức, xuyên qua cánh cửa
trên trời, thánh John thấy God ngồi trên ngai, [không thấy nói là thánh John
“lên đây” bằng cách nào, và ngai đặt ở đâu, hay lơ lửng trên trời. Thượng
đế, Chúa Giê-su và Thánh John tuyệt đối không biết rằng, trái đất thực sự đang
di chuyển trong không gian với một vận tốc khoảng 100000 cây số/giờ và quay xung
quanh trục Nam Bắc khoảng 1600 cây số/giờ] xung quanh có 24 trưởng lão
mặc áo trắng ngồi trên 24 ngai khác. Gần nơi ngai giữa, chỗ God ngồi, có 4 sinh
vật, có mắt phủ khắp trước và sau. 4 sinh vật này, một giống như con sư
tử, một giống con bò đực, một giống như mặt người, và một giống như con chim ưng
đang bay. Mỗi sinh vật này đều có 6 cái cánh, và khắp thân có mắt phủ, ngay
cả dưới cánh. (each of the 4 living creatures had six wings and was
covered with eyes all around, even under his wings). 4 sinh vật này ngày
đêm ca tụng [không thấy nói ca tụng bằng thứ tiếng nào, Hebrew, Phú Lăng
Sa, Ý Tà Lồ, hay tiếng Việt Bùi Chu Phát Diệm] không ngớt: “Thánh thay,
thánh thay, thánh thay, Là God toàn năng, là đấng đã có, hiện có, và sẽ có.”
(Day and night they never stop saying: Holy, holy, holy is the God Almighty,
who was, and is, and is to come)...
Rồi thánh John thấy trên tay God có một cuộn giấy trên cả hai mặt đều
có chữ viết, có 7 chỗ được gắn xi niêm phong. [Nếu thấy một cuộn giấy có chữ
viết trên cả hai mặt thì cuộn giấy đó đã được mở ra rồi, vậy gắn xi niêm phong ở
7 chỗ nào? và niêm phong cái gì? 7 cái bao thơ gắn trên cuộn giấy?] Ai
là người hay vật xứng đáng để mở những chỗ niêm phong gắn xi này. Một trưởng
lão nói với John: “Chỉ có Chúa Giê-su: con sư tử của đại tộc Judah, chồi của
David, đã chiến thắng (the lion of the tribe Judah, the Root of David,
has triumphed) mới có thể mở được những niêm phong này.” Rồi thánh John
thấy nơi ngai chính giữa, Chúa Giê-su hiện thân ra như một con chiên trông như
đã bị giết, có 7 sừng và 7 mắt, là 7 thần linh của God phái xuống trần.
(Then I saw a Lamb, looking as if it had been slain, standing in the center of
the throne... He had seven horns and seven eyes, which are the seven spirits of
God sent out into all the earth). [Tất cả các học giả ngày nay đều đồng ý ở
một điểm: con Chiên ở đây chính là Giê-su đã bị đóng đinh trên thập giá
(Scholars are in agreement that “a Lamb” refers to the crucified Christ), và đó
chính là hình ảnh của một thiên chúa mà các tín đồ tôn thờ, và rất hãnh diện
được làm tôi tớ của con chiên này] Rồi con chiên, tức Chúa Giê-su, bắt đầu
mở từng chỗ niêm phong gắn xi một cho thánh John thấy những gì sẽ xảy ra trong
“Ngày lịch sử con người dẹp tiệm” alias “Ngày Tận Thế”, alias “Ngày Chúa Trở Lại
Trần Lần Thứ Hai” (Second Coming), alias “Ngày một số nhỏ, vô cùng nhỏ, các tín
đồ của 12 bộ lạc Do Thái (tuyệt đối không có người Việt Nam trong số này)
được lên thiên đường ở cùng Chúa, như được viết rõ trong sách Khải Huyền 7: 4-8,
mà tôi sẽ trích dẫn trong một phần sau, nếu các bạn còn đủ can đảm và hứng thú
đọc tiếp.
Đó là tóm tắt phần đầu của sách Khải Huyền. Nếu bạn nào không phát phì
cười lắc đầu khi đọc đoạn tóm tắt trên thì chắc là trình độ thiền định của bạn
đó đã khá cao rồi. Nếu bạn nào tin tất cả những điều trong đoạn tóm tắt trên
thì trình độ làm tôi tớ Chúa của bạn đó phải cao đến mức tột đỉnh, cao đến độ
không còn oxy trong óc, có nghĩa là đầu óc thuộc loại oxymoron.
Sau đây, chúng ta đi vào phần phân tích sách Khải Huyền, phân
tích sơ sơ thôi, chứ phân tích kỹ thì là cả một chuyện lãng phí thời gian vô
ích. Trước hết là đoạn mở đầu:
“Khải Huyền 1: 1: Lời khải thị của Giê-su Ki Tô mà Chúa Cha đã ban
cho ông ta để tỏ cho các tôi tớ của ông ta thấy những điều sắp phải xảy
ra. Để bày tỏ điều này, ông ta (Giê-su) sai thiên sứ của ông ta đến với tên tôi
tớ John, ghi chép đầy đủ tất cả mọi điều thấy – nghĩa là, lời của Chúa Cha và
ghi chép bởi Giê-su Ki Tô. Phúc cho ai đọc được những lời tiên tri này, và phúc
cho những kẻ nào nghe được và tin những gì viết trong đó, vì thời điểm
(Chúa trở lại) đã gần kề”
Do đó, thực ra những lời khải thị của Giê-su là vô giá trị. Tại sao? Vì
phân tích câu đầu trong sách Khải Huyền, Rev. 1 : 1, chúng ta thấy rõ là những
lời khải thị của Giê-su là do tên tôi tớ Giăng của Giê-su được một thiên sứ của
Giê-su [nếu thực sự có một thiên sứ, nhưng, như được viết trong sách Khải Huyền,
chính Giê-su đã khải thị cho John] viết lại những điều trong sách Khải Huyền.
Nhưng vấn đề là, ai có thể biết rằng đây chính là những lời khải thị của God Cha
ban cho God Con (Giê-su) ngoài Giê-su ra? Vậy đây chỉ là những lời Giê-su tự
nhận là đã được God Cha ban cho, và tên tôi tớ John của Giê-su tin là thật và
viết lại. Điều này không lấy gì làm lạ, vì ngay trong thời đại này, có nhiều kẻ
tự nhận là “Con của God Cha” (Son of God) như David Koresh ở Waco, Texas, mà vẫn
có nhiều người tin, huống chi là cách đây gần 2000 năm. Hơn nữa, có những giáo
hoàng loạn luân, gian ác như trong quá khứ, hay xảo quyệt, đạo đức giả, vô đạo
đức tôn giáo như John Paul II, Benedict XVI ngày nay, tự nhận là “đại diện của
Ki Tô” (Vicar of Christ) trên trần, mà vẫn có người tin, cảm thấy hãnh diện được
hôn chân, hôn nhẫn của ông ta, thì chuyện tin những chuyện John kể lại không
phải là khó hiểu.
Ngay trong đoạn đầu này chúng ta đã thấy có vài vấn đề. Thứ nhất, căn cứ
vào đâu và dựa vào quyền năng uy tín nào mà chúng ta phải tin đây là “Lời
khải thị của Giê-su Ki Tô”? Phải chăng vì John viết nên chúng ta phải tin?
Nếu John viết láo thì sao? Thứ nhì, nếu tin rằng đó là Chúa Cha đã ban cho
Chúa Con thì thuyết Chúa Ba Ngôi cần phải vứt vào xọt rác. Tại sao? Vì có thể
chăng, điều mà Chúa Cha biết nhưng Chúa Con lại không biết, mà Chúa Cha cần phải
“khải thị” cho Chúa Con, rồi Chúa Con lại “khải thị” cho tôi tớ John?. Thứ
ba, Giê-su đã chết ít nhất là 30 năm trước, và ngày nay không còn người nào có
đầu óc còn tin vào chuyện Giê-su sống lại và bay lên trời rồi lại hiện thân ra
trước một mình John. Mặt khác, những lời tiên tri trong đoạn trên đã chứng
tỏ là láo khoét, vì không có điều nào đã được thực hiện. Và sau cùng, đọc những
lời tiên tri của Chúa trong sách Khải Huyền và tin thì đó là điều bất hạnh chứ
chẳng phải là phúc như sẽ được chứng minh trong một đoạn sau.
Bây giờ, chúng ta hãy tóm tắt rất sơ lược nội dung của 7 bức thư mà Giê-su
truyền cho John phải ghi chép và gủi cho 7 “hội thánh” ở Tiểu Á. May quá khi đó
chưa có “hội thánh” ở Việt Nam chứ nếu có thì Việt Nam đâu còn là Việt Nam.
Trong mỗi thư, tôi chỉ trích ra những câu điển hình của Giê-su, bạn nào muốn đọc
nguyên cả bức thư xin vào Tân Ước mà đọc.
1.- Bắt đầu bằng hội thánh Ephesus: “Ta khiển trách các con vì các con đã
đánh mất tình yêu ban đầu khi mới theo Ta [có nghĩa là đã theo Ta, yêu Ta
rồi lại bỏ Ta]; vậy các con phải ăn năn yêu Ta trở lại [Điều này hơi khó,
vì ngày nay có cả triệu người bỏ đạo, không còn tin Giê-su nữa. Xin đọc bài về
Sự Suy Thoái Của Ki Tô Giáo trên giaodiemonline]. Tuy nhiên các
con còn có một điều đáng khen: các con ghét những việc hành trì của dân
Nicolait, điều mà Ta cũng ghét (which I also hate).” [Trên
nước Mỹ có nhan nhản những bảng quảng cáo “Jesus Loves You”, không có một bảng
nào viết “Jesus Hates You” nếu you không theo Jesus. Tân ước viết rõ, Giê-su
ghét nhiều thứ lắm, ghét cha ghét mẹ, ghét em trai, em gái ruột, và nhất là ghét
thậm tệ những người không tin Giê-su, không muốn làm tôi tớ của Giê-su, đến độ
luôn luôn thốt ra những lời nguyền rủa họ].
2.- Hội thánh Smyrna: “Ta biết nỗi gian khổ, sự nghèo thiếu
của các con – nhưng thật ra các con giàu có” [Theo Giê-su thì giàu có là
theo Giê-su và yêu Giê-su chứ không phải là giàu có về tiền bạc hay của cải]
“Đừng sợ những nỗi gian khổ sắp đến...Hãy trung thành với Ta dù phải chết.
Ta sẽ cho các con mũ miện của sự sống đời đời” [Không lạ gì, những người
mù lòa tin bướng tin càn sẵn sàng chết để làm thánh tử đạo, do đó được sống đời
đời trên thiên đường cùng với Giê-su].
3.- Hội thánh Pergamum: “Ta biết thành phố của các con là
ngai của Satan. Tuy nhiên các con đã giữ vững đức tin, không chối bỏ danh
Ta...” “Nhưng ta phải khiển trách các con vài điều: Trong các con có những
người theo giáo phái Balaam, nó kéo dân Israel vào tội lỗi như ăn đồ cúng các
thần tượng và phạm tội gian dâm. Trong các con cũng có những người theo giáo
phái Nicolait. Vậy hãy thống hối. Nếu không Ta sẽ đến với các con một ngày
gần và dùng thanh gươm ở miệng ta đánh nhau với chúng” [Câu trước mâu
thuẫn với câu sau: đã giữ vững đức tin mà lại đi theo các giáo phái khác. Và
nếu họ đi theo các giáo phái khác thì sao Giê-su không giết họ đi mà lại ngậm
gươm đi đánh nhau với các giáo phái khác. Chẳng trách là trong 2 ngàn năm nay,
Ki Tô Giáo đã thay Chúa ngậm gươm giáo đi diệt các giáo phái khác. Thời buổi này
thì Giê-su phải xin ông Bush một quả bom nguyên tử, ngậm vào miệng để đi đánh
nhau với hàng trăm giáo phái khác. Kinh Thánh tiếng Mỹ viết là “fight against”,
Kinh Thánh tiếng Việt dịch là “đánh dẹp”. “Đánh nhau với” thì chưa biết bên nào
thắng, nhưng “đánh dẹp” thì có nghĩa là thắng rồi. Thực tế cho thấy Giê-su đã
thua và thua đậm vì trên thế gian ngày nay số người ăn đồ cúng thần tượng và
gian dâm [trong đó có một số linh mục và tín đồ Việt Nam mới được phép thờ cúng
tổ tiên] nhiều gấp không biết bao nhiêu lần số tín đồ “giữ vững đức tin”]
4.- Hội thánh Thyatira: “Đây là điều ta khiển trách: Các con
đã dung túng cho người phụ nữ Jezebel, kẻ tự xưng là tiên tri , nhưng dạy dỗ và
quyến rũ các tôi tớ của Ta phạm tội gian dâm và ăn của cúng thần tượng...Ta
sẽ khiến nó chịu đau đớn cùng cực trên giường bệnh, cũng như những kẻ gian dâm
với nó.. Ta sẽ đánh chết con cái nó (I will strike her
children dead), và mọi hội thánh sẽ biết là Ta sẽ lục soát tâm trí
(search hearts and minds) các con và sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc
họ làm.. Với người nào chiến thắng (Satan) và làm theo ý Ta cho đến cùng,
Ta sẽ cho nó uy quyền thống trị các nước – Nó sẽ cai trị những nước
này bằng một cây gậy sắt và đập tan chúng (những kẻ không làm theo ý Ta)
ra từng mảnh như là đập tan đồ gốm, cũng như ta đã nhận uy quyền thống trị từ
Cha Ta... Ta cũng cho nó ngôi sao mai..” [Đây là tình yêu của
“Chúa lòng lành vô cùng” đối với những người Chúa không ưa thích. Chúa giữ độc
quyền gian dâm và lấy cô gái Mary Magdalene (Một Giáo hoàng trong thế kỷ 7 gì đó
đã ra “Nghị Quyết” [giá trị tương đương với Nghị Quyết của Hạ Viện Mỹ về đạo
luật Nhân Quyền cho Việt Nam] để hạ bệ Mary Magdalene làm sáng danh
Chúa quyết định Mary Magdalene và cô gái điếm viết trong Tân ước là một, và mọi
tín đồ bắt buộc phải tin theo Nghị Quyết này, ai không tin thì không được lên
Thiên đường. Chỉ khác có một điều là các tín đồ nhắm mắt tin tất cả những
“Nghị Quyết” của Giáo hoàng, còn Việt Nam thì vứt Nghị Quyết của Hạ Viện
Mỹ vào Recycle Bin. Thuyết Giê-su lấy Mary Magdalene là một thuyết có nhiều
bằng chứng, nhất là dựa trên Phúc Âm Thomas và Phúc Âm Mary Magdalene mới tìm
thấy ở Ai Cập khoảng 50 năm trước, còn sót lại sau cuộc hủy diệt những chứng
tích về đời sống thật của Giê-su, của giáo hội Ca-tô Rô-ma trong những thế kỷ
đầu, theo như trong chương trình 20/20 của đài ABC tối ngày Thứ Tư 4 tháng 8,
2004, với đề tài: Jesus, Mary and Da Vinci,). Giê-su không muốn ai gian dâm với
“gái điếm” trừ ông ta ra. Đoạn văn trên chứng tỏ Jezebel cũng là một cô gái điếm
như Mary Magdalene và đã gian dâm với nhiều người. Nếu Chúa trừng phạt những
người gian dâm với gái điếm thì các “hội thánh” Ca-tô, Tin-lành còn lại mấy
người? Gian dâm với gái điếm hiển nhiên là nhẹ tội hơn tội loạn dâm của các
linh mục đã bị truy tố trước tòa án nhân dân. Còn trước tòa án của Chúa thì các
“Cha cũng như Chúa” loạn dâm này vẫn vô tội, vì họ tin Chúa nên tất cả các tội
lỗi thế gian đều không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống đời đời của họ với Chúa
trên thiên đường. Bởi vậy nên trong lịch sử nhân loại, Ki Tô Giáo làm đủ thứ
tội ác mà vẫn thản nhiên mong đến ngày tận thế để được Chúa bốc lên thiên đường]
5. Hội Thánh Sardis: Ta biết công việc của các con; các con nổi tiếng là
sống, nhưng các con đã chết [vì không tin Ta]. Hãy thức tỉnh! Hãy củng
cố những gì còn lại [một chút niềm tin] và chết đi, vì Ta thấy việc làm
của các con không được hoàn toàn [phải tuyệt đối tuân phục Ta] dưới mắt
Thượng đế.
Vậy, hãy nhớ những gì các con đã nhận và nghe: hãy tuân phục và ăn năn.
Tuy nhiên, có vài người trong số các con chưa làm hoen ố quần áo
[vẫn còn tin Ta]. Họ sẽ đi cùng Ta, mặc quần áo trắng, vì họ thật xứng đáng.
6. Hội Thánh Philadelphia: Ta biết công việc của các con. Dù năng lực
kém cỏi [đồng nghĩa với ngu si], các con đã vâng giữ lời Ta, không chối
bỏ danh Ta. Ta đã mở rộng trước mặt các con một cánh cửa [thiên đường (mù)]
chẳng ai có quyền đóng lại. Một số thuộc hạ của Satan mạo nhận là người Do Thái
(có cuốn Tân Ước thay hai chữ Do Thái bằng Thượng đế] sẽ rơi mặt nạ. Ta sẽ
khiến họ đến quỳ dưới chân các con và họ sẽ biết Ta yêu mến các con. Vì các con
theo lệnh Ta chịu khổ nạn nên Ta sẽ bảo vệ các con trong kỳ đại nạn sắp xảy ra
[ngày tận thế] trên thế giới để thử thách mọi ngời. Ta sẽ sớm đến!
Hãy giữ vững điều con có [tin vào Ta] để không ai cướp mất mũ miện của
các con [trên thiên đường, Giê-su sẽ đội mũ miện cho những nguời được chọn].
7. Hội Thánh Laodicea: Ta biết công việc của các con. Các con không
lạnh cũng không nóng [không hoàn toàn bỏ Ta cũng không hoàn toàn tin Ta].
Ta muốn các con hoặc nóng hoặc lạnh thì hơn. Nhưng vì các con chỉ ấm, không
nóng cũng không lạnh, nên Ta sẽ nhả các con ra khỏi miệng Ta. [Miệng
của Giê-su quả thật là rộng].
Đọc những đoạn trên trong sách Khải Huyền, chúng ta thấy Giê-su
là người như thế nào? Chẳng cần phải thông minh cho lắm cũng có thể nhận thấy
cái “Ta” của Giê-su lớn như con bò, và từ cái “Ta” đó, ông ta muốn cho mọi người
phải tin và tuân phục, làm tôi tớ cho ông ta, nếu không ông ta sẽ ghét bỏ và có
những hành động trả thù khủng khiếp như được viết trong các phần sau của sách
Khải Huyền. Phải có một đầu óc dốt nát và điên khùng, đúng như nhận định của
Tổng Thống Thomas Jefferson, mới có thể thốt ra những lời huênh hoang vô trí như
trên.
Như chúng ta đã biết ở một đoạn trên, thánh John nhìn qua một
cánh cửa mở trên trời và thấy gần nơi ngai giữa, chỗ God ngồi, có 4 sinh vật, có
mắt phủ khắp trước và sau. 4 sinh vật này, một giống như con sư tử, một giống
con bò đực, một giống như mặt người, và một giống như con chim ưng đang bay.
Mỗi sinh vật này đều có 6 cái cánh, và khắp thân có mắt phủ, ngay cả dưới cánh.
Rồi thánh John thấy trên tay God có một cuộn giấy trên cả hai mặt đều có chữ
viết, có 7 chỗ được gắn xi niêm phong mà chỉ có Giê-su mới mở được những chỗ
niêm phong này. Bây giờ chúng ta hãy xem Giê-su, hiện thân là một con chiên 7
mắt, 7 sừng, mở 7 chỗ niêm phong này và “bật mí” cho thánh John thấy những gì?
Những đoạn sau đây là từ Khải Huyền 6-11 nói về những hiện tượng nằm trong mỗi
niêm phong và chúng ta đừng quên rằng những chỗ niêm phong này là ở trên một
cuộn giấy:
Khải Huyền 6: Khi Chiên Con (Giê-su) mở niêm phong thứ nhất,
tôi nghe một sinh vật ở trước ngai gọi như sấm: “Lại đây!”. Tôi thấy một con
ngựa trắng (từ niêm phong trên cuộn giấy đi ra): người cưỡi ngựa tay cầm cung,
được trao cho một vương miện. Người phóng ra như một kẻ chinh phục đến đâu cũng
chinh phục (he rode out as a conqueror bent to conquest).
Khi Giê-su mở niêm phong thứ hai, tôi nghe sinh vật thứ hai gọi:
“Lại đây!”. Một con ngựa đỏ phóng ra. Người cưỡi ngựa được trao cho quyền
lấy đi hòa bình trên trái đất và làm cho con người giết nhau. (Its rider was
given the power to take peace from the earth and make men slay each other). Hắn
được ban cho một thanh gươm lớn.
Khi Giê-su mở niêm phong thứ ba, tôi nghe sinh vật thứ ba gọi:
“Lại đây!”. Tôi thấy một con ngựa đen [tượng trưng cho nạn đói (famine)] đi
ra. Người cưỡi ngựa tay cầm cái cân. Tôi nghe tiếng phát ra giữa bốn sinh vật
[nghĩa là từ cái ngai của God]: Một đấu lúa mì giá một ngày lương; Ba đấu lúa
mạch giá một ngày lương. [Không thấy nói đến gạo ở Á Châu] Không được làm
hư dầu và rượu (A quart of wheat for a day’s wages, and three quarts of barley
for a day’s wages, and do not damage the oil and the wine). [Nhiều học giả đã
phê bình đoạn này là các gian thương áp dụng tối đa điều trên. Đầu cơ tích trữ
thực phẩm, và khi có thiên tai, nạn đói thì đem ra bán với giá cắt cổ.]
Khi Giê-su mở niêm phong thứ tư, tôi nghe sinh vật thứ tư gọi:
“Lại đây!”. Tôi thấy một con ngựa màu xám nhạt. Người cưỡi ngựa có tên là Tử
Thần, có Âm phủ theo sát đằng sau [Âm Phủ có chân đi theo sát chân ngựa?].
Chúng (They= Tử Thần và Âm Phủ) được ban cho quyền thống trị một phần tư địa
cầu để tàn sát loài người bằng gươm giáo, nạn đói, bệnh dịch và thú dữ.
(They were given power over a fourth of the earth to kill by sword, famine and
plague, and by the wild beasts of the earth)
Khi Giê-su mở niêm phong thứ năm, tôi thấy dưới bàn thờ có linh
hồn [linh hồn là vật chất hay phi vật chất?] những người bị giềt vì đã công bố
đạo Chúa và trung thành làm chứng cho Ngài. Họ kêu lớn: “Tới bao giờ,
Chúa ơi, Ngài mới xét xử những người trên trái đất và trả thù nợ máu của chúng
tôi?” (How long, Lord, until you judge the inhabitants of the earth and
avenge our blood?) [Chúa hứa: cứ chờ cho đến khi hội họp đông đủ các “thánh tử
đạo” trên thế giới, Chúa sẽ trả thù cho một thể]
Khi Giê-su mở niêm phong thứ sáu thì xảy ra một trận động đất
lớn. Mặt trời tối đen, mặt trăng đỏ lòm như máu, các ngôi sao rụng xuống
trái đất như sung rụng trong một trận cuồng phong. Bầu trời cuốn lại như
một cuộn giấy, và mọi núi và đảo đều di chuyển ra khỏi chỗ....Mọi
người trên trái đất đều trốn trong hang động, khe đá ... để tránh không thấy
mặt của Đấng ngồi trên ngai và tránh sự phẫn nộ của Giê-su. Vì ngày phẫn nộ lớn
của hai cha con Giê-su đã đến, ai có thể chống cự được? (Hide from the face
of him who sits on the throne and from the wrath of the Lamb (Jesus). For the
great day of their wrath has come, and who can stand?) [Lẽ dĩ nhiên là
Chúa không hề biết đến kích thước của các ngôi sao là bao nhiêu. Ngôi sao nhỏ
nhất trong vũ trụ cũng lớn hơn trái đất gấp bao nhiêu lần]
Khải Huyền 7: Sau đó tôi thấy bốn thiên sứ đứng ở bốn góc
địa cầu [nguyên văn từ Kinh Thánh Việt Nam, quả địa cầu của Ki Tô Giáo có
hình tứ giác, có bốn góc] cầm giữ gió bốn phương trên đất, khiến cho khắp đất,
biển và cây cối đều bất động. Tôi lại thấy một thiên sứ khác đến từ phương
Đông, cầm con dấu (seal) của Thượng đế hằng sống. Thiên sứ này lớn tiếng kêu
gọi bốn thiên sứ (bốn người cưỡi ngựa ở trên) đã được Thương đế ban quyền cho
làm hại đất và biển (who had been given power to harm the land and the sea):
Đừng làm hại đất, biển và cây cối cho đến khi chúng ta đóng dấu ấn lên trán của
những tôi tớ Chúa. Rồi tôi nghe thấy số người được đóng dấu ấn trên trán,
tất cả là 144000 (một trăm bốn mươi bốn ngàn) thuộc 12 bộ lạc của Israel, mỗi bộ
lạc là 12000 người.
[Lời bàn của TCN: Những người được đóng dấu ấn của Thương đế trên trán là
những người được Chúa chọn để cho lên thiên đường của Chúa, vì Kinh Thánh viết
rõ “Nhiều người được kêu gọi nhưng chỉ có ít người được chọn” và
Chúa cũng đã phán, Matthew 7: 21-23: “Không phải người nào gọi Ta là Chúa
cũng được vào nước trời... Trong ngày phán xét sẽ có nhiều người kêu nài: “Thưa
Chúa, chúng tôi đã giới thiệu Chúa cho nhiều người, đã dùng danh Chúa để đuổi
quỷ và làm nhiều phép lạ [như một linh mục mít ở Úc làm cho tượng bà Mary
chảy dầu]. Nhưng ta sẽ đáp: “Ta không hề biết các ngươi! Hãy cút đi cho
khuất mắt ta, vì các ngươi chỉ làm việc gian ác” [Có vẻ như các nhà
truyền giáo hăng say đi truyền đạo cũng như các tín đồ Hi-tô cố gắng dụ người
khác vào đạo chưa bao giờ đọc đến câu này]
Bịp bợm, dối trá, lợi dụng lòng mê tín của tín đồ để vơ vét của cải, tiền
bạc, loạn dâm, đạo đức giả v..v.. có phải là việc gian ác hay không? Ngụy tạo
phép lạ, tín lý, bí tích để tạo quyền lực thế tục cho giới giáo sĩ v..v.. có
phải là việc gian ác hay không? Cưỡng bách cải đạo, giết người ngoại đạo, tra
tấn, thiêu sống người lạc đạo v..v.. có phải là việc gian ác không? Ai trả lời
không, xin lên tiếng. Các “hội thánh” Ki-tô, trong 2000 năm nay đã làm những
gì? Có làm điều gì gian ác không? Và ai lên thiên đường? Ai xuống hỏa ngục?
Chúng ta để ý, Chúa chỉ chọn 144000 người trong 12 bộ lạc Do Thái, không thấy
Chúa nói đến các bộ lạc Bùi Chu, Phát Diệm hay Hố Nai, Gia Kiệm, hay Bolsa, San
Jose. Dân Do Thái là dân được Chúa chọn (chosen people) nhưng Chúa cũng chỉ
chọn có 144000 người mà thôi. Đối với số người trên thế giới, chúng ta hãy làm
một con tính nhỏ. Trong thời John viết sách Khải Huyền, dân số trên thế giới
được ước tính là khoảng 200 triệu, ngày nay là khoảng 6.1 tỷ. Vậy tỷ lệ mà
các tín đồ Ki-tô hi vọng được Chúa chọn ngày nay đã giảm từ 1 trên 1387 (thời
John) xuống còn 1 trên 42300 (ngày nay). Việt Nam có khoảng 7 triệu tín đồ
Ca-tô và Tin Lành, vậy trong 165 người Việt Ki-tô chỉ có 1 người được Chúa chọn,
nếu Chúa chọn tất cả 144000 người được “cứu rỗi” đều là người Việt Nam. Hi vọng
này có một xác suất gần bằng 0 (con số không) vì Chúa đã tỏ ra là rất ghét những
người không phải là Do Thái, coi người không Do Thái như chó, như được viết
trong Tân Ước, và như trên đã nói, không có một người mít nào được đóng dấu ấn
của Thượng đế trên trán. [Không những thế, trong Khải Huyền 9: 4, Thiên Chúa
còn ra lệnh cho những con quái vật châu chấu giống như những con chiến mã, có
khả năng châm chích như bọ cạp, không được phá hại cây cỏ mà chỉ nhắm vào những
người không có dấu ấn của Thượng đế đóng trên trán. (They were told not to harm
the grass of the earth or any plant or tree, but only those people who did not
have the seal of God on their forefronts)] Quý vị tín đồ Ki-tô Việt Nam, nhất
là các tín đồ tân tòng Tin Lành như Nguyễn Huệ Nhật, Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên
Hồng v..v.., những người tuyệt đối tin vào Kinh Thánh là những lời mạc khải của
Chúa nên không thể sai lầm, nghĩ sao về chuyện này. Quý vị có thấy rằng mình đã
bị đám mục sư, linh mục lừa bịp quý vị bằng một cái bánh vẽ trên trời mà dù có
thật quý vị cũng không bao giờ có thể được hưởng theo như những lời không thể
sai lầm của Chúa trong sách Khải Huyền hay không? Muốn được lên thiên đường
cùng Chúa, giả thử được Chúa chọn, và điều này không bao giờ có thể xảy ra đối
với người Việt Nam như quý vị, quý vị cũng phải tranh nhau, rất có thể phải
chém giết nhau, để dành một chỗ trên thiên đường. Quý vị có bao giờ nghĩ đến
điều này hay không? Quý vị có bao nhiêu hi vọng được Chúa “cứu rỗi”, bốc cái
xác chết đã rũa nát của quý vị (chắc chắn là ngày tận thế sẽ không xảy ra trong
đời này của quý vị) lên thiên đường? Quý vị thử sờ lên trán mình xem có thấy
dấu ấn của Thượng đế trên đó không? Hãy dùng đến đầu óc một chút đi, và hãy cất
bỏ gánh nặng thiên chúa trên vai của quý vị (đề nghị của mục sư Harry Wilson),
đúng ra là gánh nặng giáo hoàng Ca-tô hay gánh nặng Kinh Thánh Tin Lành]
Khải Huyền 8-11: Khi Giê-su mở niêm phong thứ bảy..tôi thấy 7
thiên sứ đứng trước mặt Thượng đế và được trao cho 7 chiếc kèn đồng (trumpets).
Thiên sứ thứ nhất thổi kèn, liền có mưa đá và lửa pha với máu đổ
xuống mặt đất. Một phần ba đất bị thiêu đốt, một phần ba cây cối bị thiêu
đốt, và mọi loài cỏ xanh đều bị thiêu đốt.
Thiên sứ thứ hai thổi kèn, liền có một vật giống như hòn núi lớn
toàn bằng lửa bị ném xuống biển. Một phần ba biển biến thành máu. [1/3
nước biển biến thành máu, vậy 2/3 còn lại vẫn là nước biển, không hề bị hòa lẫn
với máu?] Một phần ba sinh vật trong biển chết, và một phần ba tàu bè trên
biển bị tiêu diệt.
Thiên sứ thứ ba thổi kèn, một ngôi sao lớn trên trời rơi xuống,
ngôi sao ấy rơi vào một phần ba sông ngòi và suối nước. Tên ngôi sao đó
là Ngải Đắng (Wormwood). Một phần ba nước hóa đắng. [1/3 nước đắng đứng
riêng một mình trong sông ngòi, trong suối nước?] Nhiều người chết vì uống
nước đắng ấy.
Thiên sứ thứ tư thổi kèn, một phần ba mặt trời, một phần ba mặt trăng, một
phần ba các ngôi sao bị phá hủy, trở thành tối đen. Một phần ba ngày không có
ánh sáng, cũng như một phần ba đêm không có ánh sáng. [Miễn phê bình]
Thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một vị sao rơi xuống mặt đất. Vị sao ấy
được trao cho một chìa khóa của Vực Thẳm. [Vị sao đưa tay ra nhận chìa khóa?]
Khi vị sao này mở Vực Thẳm ra [Vực Thẳm có cửa?], liền có khói bay ra che khuất
làm cho mặt trời và bầu trời tối sầm. Từ đám khói bay xuống đất những con
châu chấu. Chúng được ban cho nọc độc như những con bọ cạp ở dưới
đất. Chúng được lệnh không được phá hại cây cỏ mà chỉ nhắm vào những người
không có dấu ấn của Thượng đế đóng trên trán. Chúng không được quyền giết
mà chỉ được tra tấn hành hạ những người này trong 5 tháng. Và sự đau đớn cùng
cực của những người này giống như khi bị bọ cạp chích. Trong 5 tháng này, những
người này muốn chết đi cho rồi mà không chết được. [They (the locusts) were
not given power to kill them (those people who did not have the seal of God on
their forefronts), but only to torture them for five months. And the agony they
suffered was like that of the sting of a scorpion when it strikes a man. During
those days men will seek death, but will not find it; they will long to die, but
death will elude them.] [Chúa lòng lành của Ki Tô Giáo?]
Thiên sứ thứ sáu thổi kèn, tôi nghe từ những chiếc sừng của bàn thờ bằng vàng
đặt trước ngai Chúa có tiếng nói ra: Hãy thả bốn thiên sứ bị trói giữ tại sông
Euphrates. Và bốn thiên sứ, dược giữ ở đây để chuẩn bị sẵng sàng, đúng ngày
giờ được thả ra để đi giết một phần ba nhân loại (to kill a third of
mankind).
Thiên sứ thứ bảy thổi kèn, có những tiếng lớn vang ra trên trời:
Từ nay thế gian thuộc quyền Thiên Chúa và đấng Cứu Thế. Ngài sẽ cai trị
mãi mãi... 24 trưởng lão quỳ xuống và ca: Chúa là đức Chúa Trời toàn năng,
là đấng đã có, hiện có và sẽ có...Cơn thịnh nộ của Ngài đã đến: Giờ đã tới,
là giờ phán xét kẻ chết, thưởng cho tôi tớ Chúa blah..blah...blah..
Sách Khải Huyền gồm có 22 chương. Tôi mới chỉ lướt qua một nửa, đến hết
chương 11. Nếu người nào đọc những đoạn trên mà không cho đó là “tác phẩm” của
một kẻ dốt nát điên khùng thì chính người đó là kẻ dốt nát điên khùng.
Quý độc giả có ai muốn đọc tiếp không? Tôi nghĩ rằng không nên mất thêm thì
giờ để tiếp tục làm phiền đầu óc của quý vị bằng những chuyện nhảm nhí như trên
ở trong sách Khải Huyền. Trong những phần sau, Thượng đế của Ki tô giáo còn
“mạc khải” cho thánh John những chuyện hoang đường nhảm nhí như: Một con rồng
lớn xuất hiện, đuôi rồng kéo theo một phần ba tinh tú trên trời quăng xuống đất;
một người đàn bà mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội mũ miện kết bằng
12 tinh tú (ngôi sao), có thai (của ai?) kêu la quặn thắt vì sắp tới kỳ sinh nở
blah..blah...blah.. Ngoài ra Thượng đế của Ki Tô Giáo còn giáng thêm nhiều
tai họa đến cho nhân loại và mọi sinh vật, điển hình là trong chương 16: 1)
Những người mang dấu 666 (dấu của Satan) trên người bị nổi ung nhọt độc
địa ghê tởm; 2) Nước biển, sông ngòi, suối nước đều biến thành máu, mọi
sinh vật trong đó đều chết hết; 3) Mặt trời được phép nung đốt người
[lẽ dĩ nhiên là phải chừa ra những người có dấu của Thượng đế trên trán] v..v..
và Thượng đế được thiên sứ ca ngợi: “Chúa xét xử thật công minh, chân chính”
(Khải Huyền 16: 7)...
Người nào cho rằng những chuyện trên không phải là những chuyện nhảm nhí của
một kẻ dốt nát điên khùng, xin lên tiếng.
Đọc Kinh Thánh của Ki-tô-giáo, qua những chuyện Thượng đế hoặc đích thân,
hoặc sai tôi tớ (Moses, David, Joshua v..v..), đi tàn sát con người hàng loạt
(Mass destruction), hoặc sai thiên sứ giáng đủ mọi tai họa cho nhân loại, hoặc
hiện thân làm Chúa Con nguyền rủa, đầy đọa những người không tin Chúa (hơn 4 tỷ
người ngày nay) xuống hỏa ngục để bị thiêu đốt bởi ngọn lửa vĩnh hằng v..v..,
tôi không biết dùng danh từ nào để mô tả Thiên Chúa (Cha cũng như Con) của Ki
Tô Giáo cho chính xác. Rồi tôi chợt nghĩ đến bộ truyện Thiên Long Bát Bộ
và Lục Mạch Thần Kiếm của Kim Dung mà tôi đã đọc ở Saigon cách đây trên
30 năm, trong đó có mô tả 4 nhân vật trong “Tứ Ác” theo thứ tự chữ “Ác”: 1) Đoàn
Diên Khánh: Ác quán mãn doanh (Cái ác bao trùm khắp nơi); 2) Diệp Nhị
Nương: Vô Ác Bất Tác (Không có gì ác mà không làm); 3) Ngạc Hải Thần:
Hung Thần Ác Sát (Một hung thần giết người tàn ác); và 4) Vân
Trung Hạc: Cùng Hung Cực Ác (Cực kỳ hung dữ và ác độc), và tôi nghĩ không
có gì có thể thích hợp hơn để mô tả Thiên Chúa của Ki-tô giáo và cho cả
Ki-tô-giáo, xét đến lịch sử Ki-tô giáo trong 2000 năm nay, bất kể là trong Kinh
Thánh viết ở những chỗ khác là Thiên Chúa nhân từ như thế nào, thương yêu thế
gian như thế nào. [Rất có thể Kim Dung đã phải đọc Kinh Thánh của Ki Tô Giáo
mới có thể nghĩ ra những tên như vậy.] Và phải chăng vì vậy mà Giám mục Tin
Lành John Shelby Spong đã phải than trong cuốn Rescuing The Bible From
Fundamentalism, trang 24: “Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với
quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không
thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng.” (A literal Bible presents me with
far more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less
worship.) Phải, làm sao có thể kính trọng và thờ phụng một Thiên Chúa với những
thuộc tính “Ác quán mãn doanh”, “Vô ác bất tác”, “Hung thần ác sát”’ và “Cùng
hung cực ác”? Bất kể là người ta đã ca tụng Thiên Chúa của Ki-tô giáo như thế
nào, hay trích dẫn vụn vặt Kinh Thánh như thế nào, đã kính trọng và thờ phụng
Thiên Chúa như thế nào, tôi không thể không nói lên những ý nghĩ trung thực
trong đầu khi tôi đọc và phân tích những đoạn trích dẫn ở trên từ Kinh Thánh, và
không phải chỉ có vậy. Thật vậy, nhiều nhà phê bình Kinh Thánh đã cho chúng
ta biết là, đọc những sách Xuất Hành, Lê-vi, Phục Truyền, Giô-suê, Thẩm-phán,
Sa-mu-en, Dân số, A-mốt, Các Vua, Sử-ký, E-xơ-thê, Gióp, chỉ kể tên vài sách,
thì sẽ thấy chỉ nguyên trong Cựu Ước, không dưới 1 triệu người bị
chết dưới tay của Thượng đế (Neale Donald Walsch, The New
Revelations, Atria Books, New York, 2002, p. 208: The Bible critiques tell
us that a reading of the books of Exodus, Leviticus, Deuteronomy, Joshua,
Judges, Samuel, Numbers, Amos, Kings, Chronicles, Esther, and Job, to name a
few, will produce a toll of no less than one million people in Old Testament
history alone who were smote by God’s hands)
Để kết thúc về sách Khải Huyền, tôi xin trích sau đây đoạn cuối của sách này:
Khải Huyền 22: 18-21:
Tôi khuyến cáo mọi người đã nghe những lời tiên tri trong sách này. Người
nào thêm thắt vào bất cứ điều gì, Thượng đế sẽ thêm cho họ những tai họa mô
tả trong sách này. Người nào bớt đi bất cứ điều gì trong sách tiên tri này,
Thượng đế sẽ bớt đi phần của họ trong cái cây của sự sống và trong thành
thánh (Holy City = Jerusalem), như được mô tả trong sách này.
Người chứng nhận những lời tiên tri này (Giê-su) nói: “Phải, Ta sẽ đến
ngay gần đây.”
Amen. Hãy tới. Chúa Giê-su.
Ân sủng của Chúa Giê-su ở cùng dân Chúa (dân Do Thái). Amen
(He who testifies these things says: “Yes, I am coming soon”
Amen. Come. Lord Jesus.
The grace of the Lord Jesus be with God’s people. Amen.)
Người Ki-tô đã chờ đợi cái “soon” của Giê-su đã hai ngàn năm nay rồi, nhưng
Giê-su vẫn biệt tăm, dù đã sống lại và bay lên trời, ngồi trên tay phải
của Chúa Cha. Tuy nhiên, các tín đồ Ki Tô rất kiên nhẫn. Họ vẫn tiếp tục chờ
đợi ngày trở lại của Giê-su, năm này qua năm khác, đời này sang đời khác. Theo
ước tính của các khoa học gia thì trái đất chỉ có thể tồn tại nhiều nhất là 5 tỷ
năm nữa, khi đó mặt trời đã tiêu thụ hết nhiên liệu. Rất có thể, các tín đồ Ki
Tô sẽ chuyển sang một hành tinh khác và tiếp tục chờ đợi ngày trở lại của một
xác chết đã mục nát và không biết bây giờ ở đâu. Có nhiều công cuộc khảo cứu
cho rằng Giê-su đã lấy cô gái điếm Mary Magdalene, sinh con đẻ cái, và xác chết
của Giê-su hiện đang ở miền Nam nước Pháp [Theo chương trình 20/20 của đài ABC:
Jesus, Mary and Da Vinci]
Đọc tới đây, có thể có người nghĩ: Những chuyện nhảm nhí trong sách Khải
Huyền như trên thì làm sao mà có ai mà tin cho được. Không hẳn vậy. Từ xưa tới
nay, có rất nhiều người tin vào những chuyện trong sách Khải Huyền. Không kể
những tín đồ Ki-tô thấp kém mà còn có nhiều người thông thái trong Ki–tô giáo
cũng tin và đã nhiều lần tính toán, dựa vào Kinh Thánh, tiên tri về ngày tận thế
của Ki-tô giáo. Ngay trước năm 2000, Việt Nam ta cũng có ông Trương Tiến Đạt,
cựu nghị sĩ VNCH, tiên đoán ngày tận thế sẽ tới vào năm 2000 trong Tiếng Loa
Cảnh Báo. Từ xưa đến nay đã có hàng trăm vụ tiên đoán về ngày tận thế bằng tính
toán. Tính đi, tính lại, tính tái, tính hồi, trật vẫn hoàn trật. Tại sao vậy?
Có vài lý do chính.
Thứ nhất, tất cả những tính toán đều dựa vào Kinh Thánh, vào niềm tin rằng
Thượng đế đã tạo ra vạn vật cách đây khoảng 6000 năm. Dưới con mắt của chúng
ta, 6000 năm là một khoảng thời gian dài. Nhưng dưới con mắt của một nhà địa
chất học (geologist) thì 6000 năm chưa bằng một cái chớp mắt so với tuổi của vũ
trụ. Nếu ta biểu diễn tuổi của vũ trụ, khoảng 15 tỷ năm, thu gọn lại thành
1 năm, có khoảng 365 ngày (con số gần đúng nhất là 365 ngày, 5 giờ, 48
phút và 45.96768...giây), mỗi ngày có 24 giờ, mỗi giờ có 60 phút, và mỗi phút 60
giây, thì Thượng đế của Ki-tô giáo mới chỉ “sáng tạo ra trái đất phẳng và dẹt,
có 4 góc” lúc 23 giờ 59 phút 48.3866 giây đêm ngày 31 tháng 12, và Giê-su
sinh ra lúc 23 giờ 59 phút 56.7466... giây đêm ngày 31 tháng 12. Vì vậy
mà mọi tính toán dựa theo Kinh Thánh đều bắt buộc phải sai. Khoan kể là trang
nhà SAB (SkepticsAnnotatedBible) đã liệt kê khoảng gần 200 điều tiên tri láo
trong Kinh Thánh.
Thứ nhì, một số tính toán của Ki-tô giáo về ngày tận thế sẽ xảy ra khoảng năm
2000 Tây Lịch đều dựa trên 4 khái niệm; 1) Thượng đế “sáng tạo” ra thế giới
trong 6 ngày (Sáng Thế 1-2) và nghỉ ngày thứ bảy; 2) Mỗi ngày trong thời kỳ
“sáng tạo” không phải là một ngày như chúng ta thường hiểu, mà tượng trưng cho
1000 năm vì cả Cựu Ước lẫn Tân Ước đều viết như vậy (Thi Thiên 90:4; 2 Peter
3:9); 3) [Khái niệm này bỏ qua chuyện “sáng tạo” trong đó Thượng đế tạo ra cây
cỏ trước mặt trời một ngày, nhưng cây cỏ vẫn sống trong 1000 năm mà không cần
đến ánh sáng mặt trời]. Chuyện “sáng tạo” nói lên thời gian tồn tại của thế
giới, nghĩa là 6000 năm, sau đó là 1000 năm thuộc về Chúa; và 4) Thế giới được
“sáng tạo” ra năm –4004 (4004 năm trước thời đại của Ki-tô bắt đầu.) Nhưng ngày
nay, trước những khám phá của khoa học về vũ trụ và trước những bằng chứng về
tuổi của các sinh vật hóa thạch mà không ai có thể phủ nhận, thuyết sáng tạo đã
được ném vào Recycle Bin nên mọi tính toán dựa trên niềm tin vào Kinh Thánh bắt
buộc cũng phải sai.
Thứ ba, mọi tính toán đều dựa theo lịch của một nhà toán học Ki-tô,
Christopher Clavius, do giáo hoàng Gregory XIII bổ nhiệm để sửa lại lịch Julian
(một năm có 365.25 ngày), đưa ra một hệ thống lịch mới cho sát với những hiện
tượng thiên văn như Xuân phân, Hạ chí, Thu phân, Đông chí v..v.. Lịch này chỉ
được sử dụng từ năm 1582, và trong năm này, vì phải tính toán lại, nên Clavius
đã bỏ đi 10 ngày, từ 5 đến 14 tháng 10, nghĩa là trong năm 1582, ngày sau ngày 4
tháng 10 là ngày 15 tháng 10. Vậy về bản chất, lịch này đâu có gì đặc biệt,
chẳng qua chỉ là dựa trên sự chuyển động của trái đất. Chưa kể là ở Á Đông,
ngày nay người ta dùng lịch Tây cho thuận tiện, nhưng vẫn ăn Tết Ta, đón Giao
Thừa, và gần đây, tôi vừa đi dự Lễ Vu Lan 2548 theo Phật Lịch. Do đó những
tính toán theo lịch Tây chẳng có gì là đặc biệt, vì lịch này chẳng qua chỉ là
một áp đặt độc đoán của Ki tô giáo, dựa trên một ngày sinh độc đoán của Giê-su.
Nếu không có gì đặc biệt và không có tính phổ quát, thì mọi tính toán về ngày
tận thế dựa theo lịch này tất nhiên phải sai.
Tưởng chúng ta cũng nên biết là trước Clavius, trong thế kỷ 6, còn có một
giáo sĩ tên là Dionysius Exiguus, thường ghi các biến cố lịch sử theo ngày thành
lập La Mã (AUC = Ab Urbe Condita). Ông ta ấn định ngày sinh của Giê-su là ngày
25 tháng 12, 753 AUC, và thời đại của Ki-tô (Christian Era) bắt đầu 1 tuần lễ
sau đó, ngày 1 tháng 1, 754 AUC – ngày Giê-su làm lễ cắt bì, theo phong tục Do
Thái, khi Giê-su sinh ra được 1 tuần lễ. Chỉ phiền có một điều là ngày nay,
tuyệt đại đa số các học giả nghiên cứu Kinh Thánh đều không thể khẳng định được
ngày sinh của Giê-su là ngày nào. Tân ước viết Giê-su sinh ra trong triều đại
của Herod, không rõ năm nào. Nhưng người ta lại biết rõ, theo sử liệu, năm
Herod chết: 750 AUC hay 4 năm trước thời đại Ki tô bắt đầu (4 BC). Kết luận:
những chuyện viết về sự sinh ra của Giê-su trong triều đại Herod đều là có tính
độc đoán, áp đặt, đoán mò, bịa đặt, không phù hợp với những sự kiện lịch sử.
Niềm tin vào ngày tận thế qua những tiên đoán láo của các nhà “tiên tri” đã
gây ra nhiều ảnh hưởng trong xã hội. Thật vậy, nếu tin rằng chỉ còn có vài
ngày, hay vài tuần lễ, vài tháng là đến ngày tận thế, thì con người đâu cần còn
phải tuân theo luật lệ quốc gia, đâu cần làm việc v..v... Những chuyện này đã
xảy ra trên nhiều nơi trên thế giới. Như trên đã nói, trong 2000 năm nay, có cả
trăm sự tiên đoán về ngày tận thế, nhưng tất cả đều trật lất. Lại có những giáo
sĩ Ki-tô, lợi dụng lòng mê tín của tín đồ, loan báo ngày tận thế sắp tới và
khuyến dụ tín đồ trao hết của cải cho nhà thờ để được bảo đảm một chỗ trên thiên
đường. Trong bài này tôi không thể kể ra hết những vụ tiên đoán về ngày tận
thế, mà chỉ có thể nêu ra vài trường hợp điển hình.
Trước hết là Giám mục James Ussher (1581-1656) ở Ái Nhĩ Lan. Để phù hợp với
sự sinh ra của Giê-su dưới triều đại Herod (chết năm –4 (4 năm Trước Tây
Lịch)), James Usher tính ngược lại theo gia phả của Giê-su và xác định Thượng
đế “sáng tạo” ra thế giới lúc 9 giờ sáng, ngày 23 tháng 10, năm –4004, đền
Solomon được xây 3000 năm sau ngày sáng tạo, và Giê-su sinh ra 4000 năm sau
ngày sáng tạo, và từ ngày Giê-su sinh ra đời đến ngày tận thế là đúng 2000 năm,
nghĩa là ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 23 tháng 10, năm 1997. Sau đó là 1000
năm mà thế giới là “vương quốc hòa bình” thuộc quyền thống trị của Chúa
Giê-su.. Có ai nhớ rằng chúng ta đang ở trong năm 2004 không?
Trường hợp thứ hai là William Miller (1782-1849), Giáo Chủ Adventist (Hệ phái
Cơ Đốc tin rằng ngày trở lại lần thứ hai của Giê-su đã gần tới, có người dịch là
Cơ Đốc Phục Lâm) đã tính toán rất kỹ, dựa theo Kinh Thánh, để đưa ra ngày Giê-su
trở lại. Tin rằng một ngày tiên tri (Ezek. 4:6) là một năm, ông ta đã dựa vào
các lời tiên tri trong sách Daniel 9:24-27 nói là sau 70 tuần lễ, Giê-su sẽ trở
lại trần để cứu dân Do Thái, và Daniel 8:14 nói về một thời kỳ là 2300 ngày thì
trái đất sẽ thuộc về Chúa. 70 tuần lễ, hay 490 ngày, biểu thị một thời kỳ 490
năm bắt đầu từ năm 457 Trước Tây Lịch, năm Vua Artaxerxes ký nghị định tái thiết
Jerusalem. 490 năm sau là năm 33/34, năm Giê-su bị đóng đinh trên thập giá.
Vậy Giê-su “giáng sinh” đúng vào cuối thời kỳ 70 tuần lễ. Sau đó Miller cộng con
số 2300 năm vào năm 457 Trước Tây Lịch, và tiên đoán là Giê-su sẽ trở lại trần
lần thứ hai (Second Coming) vào năm 1843 (1843+457 = 2300). Ngày 1 tháng 1,
1843, William Miller tuyên bố xác định ngày Chúa tái lâm sẽ xảy ra trong khoảng
từ 21 tháng 3 năm 1843 đến 21 tháng 3, 1844. Thông điệp của Miller là: “Giờ Chúa
phán xét đã tới – Hãy sẵn sàng để hội diện với Chúa.” Ngày 21 tháng 3, 1843
qua. Chẳng có gì xảy ra nhưng những tín đồ cơ đốc theo Miller, khoảng vài trăm
ngàn, vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Trong khi đó, họ đi khắp nơi để đe dọa những người
không tin vào ngày tận thế của Miller là sẽ lãnh những điều khủng khiếp như được
viết trong Kinh Thánh. Đến ngày 21 tháng 3, 1844, tờ New York Herald loan tin có
nhiều tín đồ cơ đốc theo Miller đã nhảy từ trên nóc nhà hoặc ngọn cây xuống, tin
rằng sẽ được Chúa đón lên thiên đường. Giê-su không thấy đâu, chỉ thấy những
người tin nhảm tin nhí này hoặc bị thương nặng, hoặc chết. [Richard Abanes,
End Time Visions, Four Walls Eight Windows, New York, 1998, p. 224: Many
Millerites had actually jumped from roofs and treetops in hopes of timing their
leaps with Christ’s return. But Jesus did not return and those who jumped “were
critically hurt, and some fell to their death”].
Ngày hôm sau, một tờ báo ở Boston đưa lên trang nhất hàng chữ lớn: “Sao
vậy! – Chưa lên thiên đường hay sao? – Chúng tôi nghĩ các người đã lên thiên
đường rồi! Sắp lên rồi có phải không? Vợ các người không lên thiên đường để bỏ
lại các người bị thiêu đốt trong hỏa ngục, có phải không?” [Richard
Abanes, Ibid., p. 225: What! Not gone up yet? – We thought you’d gone up!
Aren’t you going up soon? – Wife didn’t go up and leave you behind to burn, did
she?]
Từ tiên đoán láo này đến tiên đoán láo khác, hệ phái Adventist vẫn không nản
chí. Samuel S. Snow, một người theo Miller đã tuyên bố là tìm ra sự sai trong
tính toán của Miller. Theo sự tính toán của Snow thì Giê-su sẽ trở lại vào ngày
22 tháng 10, 1844 chứ không phải là ngày 21 tháng 3, 1844.
Đến ngày Chúa trở lại, 22 tháng 10, 1844, sự hồ hởi náo nhiệt lan tràn trong
đám người theo hệ phái Aventist. Một người đeo đôi cánh của một con gà tây
(turkey wings), leo lên ngọn cây và cầu nguyện Chúa sẽ bốc mình lên trên trời.
Anh ta nhảy xuống và tin rằng mình sẽ bay lên trời cùng Chúa, nhưng rơi xuống
đất và gẫy tay. Nhiều địa chủ giầu có trở nên nghèo khổ vì đã bán hết gia sản
đất đai để cúng cho Miller xây một thánh đường tại Boston. Ở New Hampshire,
nhiều nông dân từ chối không gặt hái hoa mùa bắp và khoai và không cho phép ai
được gặt hái.
Ngày 22 tháng 10, 1844 tới nhưng Chúa vẫn biệt tăm. Ngày 22 tháng 10, 1844
đã đi vào lịch sử Hoa Kỳ như là Ngày Đại Thất Vọng, Tín đồ khóc sướt mướt suốt
đêm (Abanes, Ibid., p. 226: October 22, 1844 went down in history as the “Great
Disappointment” ...We wept, and wept, till the day down)
Trước ngày 21 tháng 3, 1843, Noah Webster [tác giả Tự Điển Webster] đã lên
tiếng khuyến cáo Miller như sau nhưng vô hiệu:
Sự rao giảng [về ngày tận thế] của ông không ích lợi gì cho xã hội mà chỉ
làm cho người ta rất khó chịu và bực mình. Nếu ông hi vọng rằng làm cho người
ta sợ hãi để kéo người ta vào vòng tôn giáo thì ông đã lầm.
... Nếu sự rao giảng [về ngày tận thế] của ông làm cho con người thất vọng
hay trở nên điên loạn, ông phải chịu trách nhiệm về những hậu quả. Tôi khuyên
ông hãy từ bỏ sự rao giảng [về ngày tận thế]; ông chẳng làm điều gì hay ho, tốt
đẹp, nhưng có thể ông đã gây ra phương hại lớn lao cho con người.
4
Những người bị ảnh hưởng bởi hệ phái Adventist sau này vẫn tiếp tục tin vào
ngày tận thế đã gần kề, và lập ra các hệ phái Adventist khác như Second
Adventist hay Seventh-day Adventist (Ellen G. White), tiên đoán ngày Chúa trở
lại :1873/1874, rồi đến hệ phái Nhân Chứng Jehovah (Jehovah’s Witnesses = JW)
“sáng lập” bởi Charles Taze Russell (1856-1916). Hệ phái Cơ Đốc Jehovah Witness
này đã gây ra nhiều tác hại trong xã hội, trong đó có nạn nhân người Việt, vì
những giáo lý và cấm điều bắt buộc quái gở của họ như: Cấm tín đồ không được tôn
trọng những ngày lễ như Giáng Sinh, Tạ Ơn, Phục Sinh; không được tổ chức Ngày
của Mẹ, Cha (Mother’s day, Father’s day), không được đi bỏ phiếu trong kỳ bầu
cử, không được chào quốc kỳ, hát quốc ca, và nhất là không được truyền máu làm
cho nhiều trẻ em và người lớn theo đạo JW chết, trong đó có một phụ nữ
Việt Nam đã chết vì cái luật quái gở này. Hệ phái Cơ Đốc này đã tiên đoán ngày
tận thế vào năm 1874, rồi sửa lại thành 1914, rồi 1925, 1940, 1941, 1975. Trước
những sự tiên đoán láo như trên, vẫn có nhiều người tiếp tục tin vào cái đạo Cơ
Đốc quái gở này. Nghe nói hệ phái JW ngày nay đã lan sang Việt Nam, nếu thật
vậy thì là một điều bất hạnh cho những người dân ngu ngơ tin theo. Hi vọng Nhà
Nước có biện pháp ngăn chận. Đây không phải là vấn đề vi phạm tự do tín ngưỡng
mà là vấn đề giữ cho xã hội được lành mạnh.
Rồi gần đây. những thảm họa gây ra bởi mục sư Jim Jones ở Jonestown, Guyana,
1978 (hơn 900 người vừa tự sát vừa bị cưỡng ép uống thuốc độc chết); hoặc bởi
Chúa Con (Son of God), lời David Koresh tự nhận ở Waco, Texas, 1993 (75 người,
đàn ông, đàn bà, trẻ con chết thiêu khi hệ phái Branch Davidian của David Koresh
tử thủ trong một trang trại); hoặc hệ phái Heaven’s Gate ở California, 1997 (39
người tự sát, tin rằng Chúa sẽ phái một phi thuyền (spaceship) xuống bốc lên
thiên đường).. Tất cả đều chỉ vì tin vào sự cứu rỗi của Chúa ở trong Kinh Thánh,
nói về ngày tận thế và được lên thiên đường ở cùng Chúa. Ki-tô giáo vẫn tự nhận
là tôn giáo văn minh, tiến bộ nhất thế giới.
Khi Tin Lành lan sang Á Châu, đặc biệt là ở Nam Hàn, quan niệm về ngày tận
thế của Ki-tô-giáo đã gây ra những tác hại trong xã hội như thế nào? Bắt chước
các nhà tiên tri dỏm ở Âu Mỹ, Tin Lành (hay Tin Dữ) Nam Hàn cũng đưa ra những
lời tiên tri bịp về ngày tận thế, tức ngày Giê-su trở lại trần lần thứ hai. Sau
đây là một vụ mà báo chí Mỹ đã loan tin rộng rãi.
Tối ngày 28 tháng 10, 1992, tín đồ Tin Dữ Nam Hàn tụ tập trong nhà thờ
Maranatha Mission ở trung tâm Los Angeles. Họ chờ đợi Chúa trở lại vào lúc 12
giờ đêm và bốc họ lên thiên đường. Ngoài cửa có người gác, không cho những
người không phải là thành viên của nhà thờ vào trong nhà thờ. Họ giữ độc quyền
được Chúa bốc lên thiên đường (Rapture). Nhưng Chúa không hề trở lại. 12 giờ
đêm đã qua. Một số thân nhân của các thành viên đến nhà thờ, chờ đợi ở ngoài,
hi vọng có thể an ủi những người thân của mình đang ở trong tình trạng tuyệt
vọng vì Chúa đã không trở lại. Tại sao lại có hiện tượng cuồng tín như vậy? Vì
những quảng cáo khắp nơi về ngày Chúa trở lại, mà nguyên một trang quảng cáo
trên tờ USA Today ngày 20 tháng 10, 1991, như sau:
Chúa Bốc Lên Trời
28 Tháng 10, 1992
Giê-su Sẽ Tới Từ Trên Không
Rapture
October 28, 1992
Jesus Is Coming In The Air
Đây chỉ là một trong rất nhiều quảng cáo về ngày tận thế của phong trào Tin
Dữ Nam Hàn Hyoo-go (tiếng Hàn có nghĩa là Rapture), có cả trăm ngàn tín đồ ở
trong nước cũng như ở ngoại quốc. Một nhóm Hyoo-go tiên đoán là bắt đầu từ ngày
28 tháng 10, 1992, sẽ có 50 triệu người chết vì động đất, 50 triệu chết vì nhà
cửa sụp đổ, 1 tỷ 4 người chết vì Đệ Tam Thế Chiến, và 1 tỷ 4 người chết vì những
cuộc chiến giữa Chúa Giê-su và Satan (Armageddon).
Những tiên đoán như trên được đề xướng bởi mục sư Tin Dữ Nam Hàn Lee Jang Rim
trong cuốn sách thuộc loại bán chạy nhất (bestseller): Đã Đến Gần Ngày Tận
Thế (Getting Close to the End) trong đó ông ta hứa hẹn ngày 28 tháng 10,
1992 là ngày Tất Cả (All) tín đồ Ki-tô đều được bốc lên trời. [Hiển nhiên là ông
mục sư Tin Dữ này không hề đọc Kinh Thánh].
Ngoài ra, những “mạc khải” của Thượng đế cho một đứa bé 12 tuổi tên là
Bang-Ik Ha cũng được dùng để khẳng định ngày tận thế vào tháng 10, 1992. Theo
điều tin nhảm nhí này thì God đã mạc khải những lời sau đây cho Bang-Ik Ha vào
tháng 7, 1987: “Cũng nhu Ta đã sửa soạn để cho John The Baptist xuất hiện
trước khi Giê-su giáng sinh xuống trần, ngày nay ta sửa soạn cho Bang-Ik Ha (12
tuổi)”. Một cuốn sách mỏng của Tin Dữ Taberah World Mission loan báo là
Giê-su đã đích thân nói với đứa trẻ: “Ta sẽ tới trong tháng 10, 1992. Hãy
sửa soạn! (Để nghênh đón Ta) [I will be there in October, 1992. Prepare!]
Theo hệ phái Tin Dữ Hyoo-go thì chỉ những người nào theo hệ phái này mới được
bốc lên trời, còn những người khác sẽ phải chịu sự khủng bố khủng khiếp của
Satan trong 7 năm (7 years of tribulation). Người nào không được bốc lên trời
phải chịu làm “thánh tử đạo” thì sau đó mới được lên thiên đường. Nếu không sẽ
bị đầy đọa xuống hỏa ngục vĩnh viễn. (eternal damnation).
Tại nhà thờ Maranatha Mission ở Los Angeles, các thành viên của Hyoo-go chứng
tỏ là họ đáng được bốc lên trời bằng cách lớn tiếng cầu nguyện mỗi đêm trước đêm
tận thế. Họ cầu nguyện đến độ cổ khô, khạc ra máu và cho đó là để tẩy uế tội
lỗi và là dấu hiệu để được “cứu rỗi” (a way of purging oneself of sin and a sign
of salvation). Cho nên, người nào càng khạc ra máu nhiều bao nhiêu thì càng có
nhiều may mắn để được bốc lên thiên đường.
Trong khi đó, ở Nam Hàn đã xảy ra những sự hỗn loạn trong xã hội. Ở thị trấn
Wonju, một nhóm Hyoo-go cuồng tín đốt đồ đạc ngoài đường phố và chờ để được Chúa
bốc lên trời. Ở Hán Thành (Seoul), 5000 người theo Hyoo-go bỏ việc. Nhiều người
bán nhà, từ bỏ gia đình. Rất nhiều giới trẻ bỏ học, từ Đại học xuống tới Tiểu
học. Nhiều phụ nữ mang thai đi phá thai để cho thân thể được nhẹ nhàng để Chúa
dễ bốc lên thiên đường (Several pregnant women reportedly had abortions “so they
would not be too heavy to be lifted to Heaven”), và ít nhất là có 4 người tự sát
trước ngày 28 tháng 10.
Đến ngày tiên đoán tận thế, hàng ngàn tín đồ Hyoo-go tụ họp trong các nhà thờ
Tin Dữ Nam Hàn trên thế giới để chờ sự vinh quang được Chúa bốc lên thiên
đường. Chính quyền Nam Hàn phải sử dụng 1500 cảnh sát, các xe cứu hỏa và xe
cứu thương túc trực xung quanh các nhà thờ lớn của Hyoo-go ở Hán Thành để ngăn
chận tái diễn cảnh ở Jonestown.
15 phút sau giờ tận thế, Mục sư Chang Man-Ho lên bục giảng và nói: ”Chẳng
có gì xảy ra. Thật đáng tiếc. Chúng ta hãy về nhà”. Tín đồ không những
nồi giận mà còn vô cùng đau khổ. Nhiều người khóc nức nở (Many began weeping
uncontrollably). Một số hành hung các mục sư đã nói láo với họ. Một thành viên
than: “Chúa đã nói láo với chúng tôi” (God lied to us).
Đối với mục sư Tin Dữ 46 tuổi Lee Jang Rim, người đã khởi xướng chuyện Chúa
trở lại, gây ra nhiều tai hại trong xã hội, thì ông ta bị tòa án Nam Hàn phạt 2
năm tù vì tội lừa dối tín đồ để vơ vét 4 triệu 4 đô-la và tàng trữ đô-la bất hợp
pháp. Người ta còn khám phá ra rằng Lee Jang Rim đã đầu tư một phần lớn số tiền
lừa được của tín đồ để mua công khố phiếu mà thời hạn được lãnh ra toàn phần
(bond mature) là vào tháng 5, 1993, nghĩa là hơn 6 tháng sau ngày tận thế.
Chuyện “ngày tận thế” của Ki-tô giáo đến đây là tận. Tôi xin để cho quý độc
giả tự mình suy nghĩ về ảnh hưởng của Kinh Thánh trên đầu óc đám dân thấp kém và
về những thủ đoạn khai thác lòng mê tín và sự ngu dốt của đám tín đồ ở dưới của
giới lãnh đạo Ki-tô.
ooooo ۩ ooooo
3. Vài Lời Cuối.
Tôi đã đặt một câu hỏi trong đầu đề của bài viết này: Tín đồ Ki-tô Việt
Nam có được Chúa “cứu rỗi” không? Qua phần trình bày ở trên, tôi tin rằng các
độc giả đã tìm ra câu trả lời. Riêng đối với tôi, câu trả lời là một tiếng
quyết định: “Không” (An emphatic “NO”). Tại sao? Không phải vì tôi không tin
như các Ki-tô hữu, cũng không phải vì tôi là người ngoại đạo nên cố ý phủ bác
niềm tin của các Ki-tô hữu. Mà vì sự “cứu rỗi” của Giê-su, nhất là cho những
người Việt Nam không đặt trên một căn bản nào, thần học cũng như khoa học, có
thể thuyết phục được những người có đôi chút hiểu biết. Hiểu biết ở đây là tôi
muốn nói hiểu biết về thực chất Kinh Thánh, về lịch sử Do Thái, về sự bành
trướng Ki-tô giáo trên thế giới, về khoa học chứ không phải là hiểu biết đại
cương về những bộ môn khác. Tôi không thể nào trình bầy ở đây những luận cứ để
bảo vệ sự xác định của tôi vì nó quá dài. Để thay thế, tôi chỉ xin đặt cho các
Ki-tô hữu hay Cơ đốc nhân hay dân Chúa vài câu hỏi để các bạn suy nghĩ. Trong
một bài khác tôi sẽ đặt vấn đề này một cách rõ ràng và chi tiết hơn.
Các bạn có biết niềm tin về một đấng cứu thế thật ra chỉ là niềm tin của
người Do Thái về một người anh hùng Do Thái xuất hiện để cứu dân tộc Do Thái ra
khỏi những nghịch cảnh của một quốc gia ở trong vòng nô lệ?
Các bạn có bao giờ suy nghĩ về sự kiện dân Do Thái là dân được Thượng đế
chọn nhưng lại không tin Con Một của Thượng đế, Giê-su, là đấng cứu thế mà chỉ
coi Giê-su như một tiên tri giống như nhiều tiên tri khác trong Cựu Ước? Cũng
vì vậy mà sau này, khi Ki-tô giáo nâng Giê-su lên hàng cứu thế cho cả nhân loại,
đã cực kỳ thù ghét người Do Thái và vu cho người Do Thái cái tội “giết Chúa”
[nếu Chúa có thể bị giết] và bạo hành người Do Thái trong nhiều thế kỷ với cao
điểm là Hitler, một tín đồ Ca-tô, đã tàn sát 6 triệu người Do Thái trong Đệ Nhị
Thế Chiến.
Các bạn có biết Cựu Ước chỉ là niềm tin của dân tộc Do Thái và Tân Ước chỉ
là sự tiếp nối của Cựu Ước để hoàn thành những luật của Thượng đế trong Tân Ước
như chính Giê-su đã khẳng định?
Các bạn có biết Kinh Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước được viết trong bối cảnh
lịch sử của dân Do Thái cách đây ít nhất là gần 2000 năm (Tân Ước), khi mà sự
hiểu biết của con người về nhân sinh, vũ trụ của những người viết Kinh Thánh còn
ở trong thời kỳ bán khai, cho nên đã có quá nhiều sai lầm về thần học cũng như
về khoa học?
Các bạn có biết là những người viết Kinh Thánh hoàn toàn không có một ý
niệm nào về sự cấu tạo của vũ trụ và trái đất, cho rằng trái đất phẳng và dẹt,
có 4 góc, do đó không thể biết là ở phía bên kia của trái đất còn có nhiều dân
tộc khác, cho nên tên các nhân vật trong Kinh Thánh hoàn toàn là ở trong vùng
Trung Đông, không hề có một tên nào ở Á Đông như tên Tàu hay tên Việt Nam?
Các bạn có biết rằng chính giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận sự hiện hữu
của một thiên đường ở trên các tầng mây, và đã thú nhận là con người có thể
không do Thượng đế tạo ra một cách tức thời mà là do một quá trình tiến hóa lâu
dài. Như vậy thuyết sáng tạo và thuyết về tội tổ tông chẳng qua chỉ là những
huyền thoại của dân Do Thái. Không có sáng tạo, không có tội tổ tông, không có
thiên đường, vậy thì ai cần ai chuộc tội, ai cần ai cứu rỗi? Chẳng có lẽ Chúa
chết là để chuộc những tội ác như cướp của, giết người hay loạn dâm? Các bạn
có đủ can đảm để chất vấn hay phản đối giáo hoàng về điều này không?
Các bạn có biết là các khoa học gia trong Ki-tô giáo, với những máy móc
tối tân nhất, những kỹ thuật tinh vi nhất, bén nhạy nhất, được dùng để cố chứng
minh là trong con người có một linh hồn độc lập, trường tồn, nhưng cho tới ngày
nay đã hoàn toàn thất bại? Vậy trước khi có thể chứng minh sự hiện hữu của một
linh hồn riêng biệt, khi chết sẽ được Chúa “cứu rỗi” cho lên thiên đường để chờ
ngày đoàn tụ với xác chết Chúa làm cho sống lại, sự “cứu rỗi” của Chúa chỉ là
một ảo tưởng vô vọng của những người tin Chúa?
Các bạn có biết, qua những nghiên cứu của các học giả, chuyên gia về Kinh
Thánh ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-tô, kể cả một số chức sắc trong
Ki Tô Giáo, trong mấy trăm năm nay đã đồng thuận ở một điểm: Giê-su Thần Học và
Giê-su Lịch Sử [con người thực của Giê-su] là hai nhân vật hoàn toàn khác nhau?
Do đó tất cả những điều các bạn tin về Giê-su chỉ là Giê-su theo Thần học chứ
không phải là Giê-su thực.
Các bạn có biết, theo như đoạn cuối trong sách Khải Huyền, thì Nước Trời
chỉ là một Jerusalem mới của người Do Thái được đặt dưới quyền thống trị của
Thiên Chúa?
Còn nhiêu câu hỏi nữa, nhưng tôi cho rằng như vậy cũng đã tạm đủ. các
bạn hãy suy nghĩ và trả lời với tất cả sự lương thiện trí thức của mình.
1 Alfred Loisy,
The Origins of the New Testament, University
Books, N.Y., 1962, pp.27-28: In the supernatural so understood we have
here no part or lot, for the plain reason that it is untrue, that it
crumbles to pieces, save so far as it is held together by the ignorance
of the believing masses, and by the wilful blindness of the theologians
who refuse to see what is before them; nor can the suspicion be avoided
that these theologians sometimes play a part which ranges them with
opportunists, apologetic politicians, exegetical strategists, rather
with those who really and personally believe in the false
supernaturalism, which they seem determined to impose as a perpetual
burden on the religious mind. We beg to tell them, and to say it once
for all, that their pretensions are preposterous and their assumption of
infallibility an unpermitted revolt against exact knowledge.
2
Robert G. Ingersoll, The Mistakes of Moses: Now they say that
this book (the Holy Bible) is inspired. I don’t care whether it is or
not; the question is, Is it true? If it is true it doesn’t need to be
inspired. Nothing needs inspiration except a falsehood or a mistake.
3 Holy Bible, New International Version: Revelation is the only
book of this kind in the New Testament. It is a book about the end of
this present world and the beginning of “a new heaven and a new earth.”
The book of Revelation was written by the apostle John during his exile
on the island of Patmos. While John was there, Jesus gave him a vision
of what w ould happen in the near future. John wrote this book so
Christians who were being persecuted would trust that God controls
whatever happens here on earth. John’s vision shows that Jesus is the
ruler over everyone and everything – even powerful human governments –
and he will judge and punish whatever is evil. It also gives Christians
a picture of heaven, where we will be with Jesus.
4
Richard Abanes, End-Time Visions, Four Walls Eight Windows, New
York, 1998, p. 224: Your preaching can be of no use to society but it
is a great annoyance. If you expect to frighten men and women into
religion, you probably mistaken.
...If your praching drives people into despair
or insanity, you are responsible for the consequences. I advise you to
abandon your preaching; you are doing no good, but you may do a great
deal of harm.
Các bài về tôn giáo cùng tác giả