 |
07 tháng 1, 2010
|
Tác giả: KTS Nguyễn Trọng Huấn (Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối
tuần)
Bài đã được xuất bản.: 02/01/2010 06:00 GMT+7
Gần đây, một vài ý kiến, vẫn còn mơ cho TP. Hồ Chí Minh tương lai sẽ là một
hòn ngọc Viễn Đông mới. Tôi hơi bị bất ngờ, tò mò, lục mớ sách cũ, lại gặp nhiều
điều thú vị, xin kể ra đây.
Sài Gòn đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đổi tên
thành TP. Hồ Chí Minh từ ngày 2/7/1976, cách đây đã hơn 30 năm, còn hòn ngọc
Viễn Đông, phụ danh của Sài Gòn cũ đã mất dạng từ 1939, khi nước Pháp sa vào Thế
chiến thứ II và không còn thì giờ nhắc đến nữa.
Vì vậy thử tìm xem cái "hòn ngọc Viễn Đông", một thời từng là phụ danh của
Sài Gòn cũ, thực chất là gì.
Nguyên địa danh Sài Gòn, theo cụ Vương Hồng Sển thì đã là một mớ bòng bong
(Tuyển tập Vương Hồng Sển - Sài Gòn năm xưa - NXB Văn học - 2001 - Nguyễn Q.
Thắng sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu). Xuất xứ của địa danh Sài Gòn cho đến nay
vẫn là một bí ẩn chưa được giải mã một cách rành mạch. Ngay bây giờ, viết: Sài
gòn, Sàigòn, Sài Gòn, hay SàiGòn, cách nào cho đúng thì các nhà ngôn ngữ cũng
chưa có lời chỉ bảo. Nhưng dù sao cũng khẳng định được Sài Gòn là một địa danh
gốc Việt, quá trình hình thành, lịch sử thành văn ghi chép khá rõ:
1698: Chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh kinh lý miền Nam... cho lập Phủ Gia
Định và hai huyện Phước Long và Tân Bình. Vùng Nam bộ được sáp nhập vào cương
vực Việt Nam.
1790: Nguyễn Ánh cho xây thành Bát Quái (thành Quy), làm trụ sở cho chính
quyền mới. Gia Định thành đổi thành Gia Định kinh.
1835: Vua Minh Mạng cho phá thành Quy, xây thành Phụng.
1859: Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định, người Pháp gấp rút quy hoạch
Sài Gòn thành một đô thị lớn phục vụ cho mục đích khai thác thuộc địa... Rất
nhanh chóng, các công trình quan trọng của thành phố như Dinh Thống đốc, Phủ
Toàn quyền... được thực hiện. Sau hai năm xây dựng, bộ mặt Sài Gòn hoàn toàn
thay đổi.
1861: Địa phận Sài Gòn được giới hạn một bên là rạch Thị Nghè và rạch Bến
Nghé với một bên là sông Sài Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai, với những
phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa.
1862: Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa.
1867: Chiếm nốt ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
Cướp xong ba tỉnh miền Tây, thực dân Pháp đơn phương tuyên bố sáu tỉnh Nam kỳ
là lãnh địa của Pháp, cho Nam kỳ hưởng quy chế thuộc địa với chính quyền thực
dân đứng đầu là một thống đốc người Pháp.
1874: Ngày 15/3, Tổng thống Pháp, Jules Grévy ký sắc lệnh thành lập thành phố
Sài Gòn.
Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, Sài Gòn trở thành trung tâm quan trọng không
chỉ hành chính mà còn kinh tế, văn hóa, giáo dục của cả Liên bang Đông Dương,
được mệnh danh là "hòn ngọc Viễn Đông" hay "Paris phương Đông". (Theo Wikipédia)
Như vậy là thực dân Pháp, ngay sau khi ngang ngược dùng vũ lực chiếm đất Sài
Gòn (trước Hòa ước Giáp Thân 25 năm) đã vội vã xây dựng ngay ở đây một thành phố
thuộc địa, làm bàn đạp tiếp tục xâm lược nước ta.
Cũng theo cụ Vương, sở dĩ người Pháp chọn tên Sài Gòn cho dễ đọc vì Bến Nghé,
người Pháp phát âm thành Pingeh, đọc khó hơn. Từ khi xuất hiện mấy ông mũi lõ
mắt xanh, mọi việc cứ lộn tùng phèo lên hết cả.
Sài Gòn là một thành phố Pháp mang tên Việt, thực chất là một bàn đạp để thực
dân Pháp đứng chân, tiếp tục tiến hành âm mưu cướp nước. Mười năm sau, âm mưu
của Pháp hoàn thành, nhà Nguyễn buộc phải ký với quân xâm lược Hòa ước Giáp Thân
(1884, còn gọi là Hòa ước Patenôtre), chính thức đầu hàng, cam tâm chấp nhận
thân phận một xứ sở thuộc địa, một dân tộc nô lệ.
Cái thời được coi là "hòn ngọc" ấy, Sài Gòn rất nhỏ. (Năm 1885, kiểm tra dân
số Pháp kiều tại Sài Gòn, đếm được vẻn vẹn năm trăm bảy mươi bảy trự (577) trong
số đó tám mươi thuộc phái đẹp (Tuyển tập VHS - SGNX - trang 64). Địa giới như đã
trình bày, từ rạch Thị Nghè đến sông Sài Gòn, một chốn ăn chơi khét tiếng.
Những dòng sau đây cũng trích từ "Sài Gòn năm xưa" của cụ Vương:
"Đầu thế kỷ XX, ra khỏi Sài Gòn hai mươi cây số ngàn (20km) đã là xa xôi lắm.
Tha hồ săn bắn; heo rừng, nai, cà tong... Xa vô chút nữa thì trâu rừng, con min,
cọp, voi không thiếu gì. Hoàng tử Henri D'Orléans, dòng dõi vua Henri IV, Thái
tử xứ Đan Mạch Waldemar và công tước Duc de Montpensier đua nhau thường năm dứt
mùa mưa, lối tháng mười ta là có mặt tại Sài Gòn, lấy sự săn bắn thú dữ làm món
tiêu khiển phong lưu. Công tước Duc de Montpensier xài tiền như nước, mua nhà
hàng Continental tặng cô nhân tình là Bá tước Comtesse de B...".
"...Hãng tàu chạy sông "Messageries Fluviales" sáng lập năm 1883-1884. Sau
đổi là "Compagnie Saigonnaise de navigation", đầu tiên do Jules Rueff làm chủ
sáng tạo. Rueff quen thân với vua Hoàng Lân (Norodom). Rueff bán đồng hồ reo,
đồng hồ chuông, đồng hồ bỏ túi cho Norodom mà dư sức làm giàu. Rueff mướn bọn
thuyền chủ (trong Nam gọi là Cò Tàu), tuy người quốc tịch Lang Sa nhưng trả
lương chỉ có bốn chục đồng bạc mỗi tháng, tính mỗi tuần mười đồng. Thế mà bọn
này làm giàu ngang xương, đủ tiền nuôi em út, còn nuôi thêm ngựa đua, vì tàu
chạy đường Sài Gòn qua Bangkok, chuyến đi thì chở lậu súng lục, chuyến về chở
lậu thuốc phiện, không giàu sao được... (VHS - sđd - trang 170, 171).
Sau chuyến hải hành kéo dài cả tháng, từ hải cảng Marseille, qua Địa Trung
Hải, xuyên kênh đào Suez, vượt Ấn Độ Dương sóng to gió lớn, lách qua eo biển
Malacca vào vịnh Ghềnh Rái, không khó để suy ra tâm trạng mệt nhọc, buồn chán
của khách lữ hành, cả tháng ròng chỉ thấy trời và nước. Cung cuối chặng đường,
khi trạng thái rã rời đã lên đến đỉnh điểm, chuyến hải trình theo sông Lòng Tàu,
xuyên qua rừng đước Cần Giờ, một thứ rừng ngập mặn nhiệt đới mà nhiều người châu
Âu chưa gặp bao giờ, cảm giác xa lạ tưởng như càng đi càng xa thế giới văn minh
phương Tây quen thuộc. Trong tâm trạng cùng cực của cô đơn ấy, bỗng một chiều
bừng sáng một thành phố phương Tây khi tàu cập cảng Sài Gòn.
Ngủ khách sạn Continental, khách sạn Majestic, ăn thịt bò beefsteak, uống
rượu chát vùng Bordeaux, thưởng thức xì gà La Habana, săn bò rừng, lấy da cọp,
hút thuốc phiện và chơi gái thì, với thủy thủ tàu viễn dương và đám thực dân đến
từ Viễn Tây, Sài Gòn được ngợi ca là hòn ngọc Viễn Đông đâu có gì lạ.
 |
 |
Nhà hát lớn ngày xưa |
Nhà hát Thành phố ngày nay |
Nó hoàn toàn không là "hòn ngọc" với thợ thuyền xưởng đóng tàu Ba Son, cu li
bốc vác cảng Sài Gòn, phu xe kéo và đông đảo người dân bản xứ mang trên mình bản
án kiếp nô lệ, kẻ mất nước.
Để phục vụ cho hòn ngọc ấy, cả một xã hội Sài Gòn thuộc địa mà nhiều địa danh
còn được giữ đến tận bây giờ: Xóm Củi, Xóm Than, Xóm Dầu, Xóm Bàu Sen (gần đồn
Cây Mai), Xóm Giá (làm giá đậu xanh gần cầu Cây Gõ), xóm Lò Bún (gần giếng Hộ
Tùng), Xóm Ụ Ghe, Xóm Rẫy Cái, Xóm Cây Cui... (VHS - SGNX - trang 84, 85).
Để hòn ngọc Viễn Đông hoạt động bình thường, đám tay sai bản xứ: Tôn Thọ
Tường, Cai tổng Du, Lãnh binh Huỳnh Công Tấn, tri phủ Trần Bá Lộc, tri huyện Đỗ
Hữu Phương, thông ngôn Joanès Liễu, Paul Lương và Loan... bán nước cầu vinh.
Cũng sách đã dẫn, cụ Vương đã chép về Tôn Thọ Tường:
"... xuất thân "đội" rồi thăng tri huyện, tri phủ, rồi lại về hưu "hàm Tổng
đốc"... Ông người khô ráo, dong dảy, môi mỏng, cặp mắt có sát khí. Ông bắt được
địch thủ, nhất quyết không cầm tù và chỉ chặt đầu y quân lịnh: chém người như
chém chuối, chém không chừa con đỏ. Các ông già bà cả, nay nghe nhắc tên ông,
đều thảy lắc đầu... Để đối phó với các địch binh không chịu ra quy thuận và
thường ẩn mình nơi thâm sơn cùng cốc, có một cách tuyệt đối: Sai bắt cha mẹ vợ
con của người ấy, đóng gông cầm tù. Một mặt bố cáo trong ngoài kỳ hạn bao nhiêu
ngày, phải ra nạp mạng. Bằng không thì:
- Cha, mẹ, vợ bêu đầu làm lịnh.
- Trẻ con thì bỏ vào lòng cối giã gạo, sai lính dùng chày lớn quết như quết
nem. (Sách đã dẫn - trang 144).
Trong bài viết của một kiến trúc sư tên tuổi khi nói về một dự án đầu tư tại
TP. Hồ Chí Minh có đoạn nói rằng: "Chủ tịch HĐQT Công ty Métropolitan xin chuyển
địa điểm công trình từ 63 Nguyễn Du sang đường Đồng Khởi và giải thích: "Đồng
khởi với chữ Catinat trong ngoặc". Và bình: "Catinat - Sài Gòn là một thương
hiệu quá có giá trị" mà không biết rằng Catinat là tên một Thống chế Pháp,
Nicolas de Catinat, sinh năm 1637, mất năm 1712, phục vụ dưới thời vua Louis
XIV. Giữa thế kỷ XIX, Pháp lấy tên Catinat đặt cho một chiếc tàu chiến tham gia
trận đánh chiếm Sài Gòn năm 1859. (Theo Hà My - Đường Catinat và nếp sống Sài
Gòn xưa)... Con đường phải mang tên kẻ xâm lược là một vết nhục lịch sử đối với
dân tộc, với đất nước.
Theo Hà My, bài đã dẫn:
"... Vào thời kỳ này, đường Catinat là bộ mặt sinh hoạt của cả Sài Gòn, thành
phố thuộc địa ở vùng Viễn Đông với sự hiện diện của khoảng 3.000 người Pháp, 3/4
trong số này là sĩ quan và viên chức. Lính Pháp ở trong các bungalow (nhà gỗ có
hiên rộng) nằm khuất trong các vườn cây xanh. Để tiết kiệm chi phí và tìm sự
đông vui hai, ba anh chung nhau tiền mướn một chỗ ở, có sự giúp việc của một anh
bồi (boy) bản xứ, đi chợ, giặt giũ, nấu ăn...".
Vậy thì hòn ngọc Viễn Đông với những dấu ấn thuộc địa chẳng có gì đáng tự hào
sao lại là mơ ước của một Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh ngày hôm nay năng động, từng
tạo nên những giá trị tiền đề cho công cuộc đổi mới đất nước?
* Ảnh tư liệu của Dương Minh Long và ảnh chụp của A.K.