Có vài “bút hữu” (chứ chẳng phải văn hữu hay
chiến hữu gì ráo) quen biết trên các trang mạng của những người “độc
lập duy ý chí”, i-meo hỏi tại sao không thấy tôi có ý kiến gì về vụ
việc xảy ra ở Tu viện Bát Nhã ở Bảo Lộc bấy lâu nay vì biết tui hay
“ăn cơm nhà, vác tre la ngà cho… ai” bàn thiên hạ sự, trong
khi biết bao nhiêu giấy mực và nghe nói có cả máu đã đổ quá chừng?
May không có ai chết cả, và hình như khi bài này được lên báo thì
mọi chuyện đã được lắng xuống êm ả ở Tu Viện Bát Nhã bên nhà.
Từ lâu tui vẫn muốn giữ im lặng trước cái vụ
này vì thấy rằng phía nào cũng quấy cả, mở miệng thì mắc quai, và
nhất là:
“Gà nhà bôi mặt đá nhau
Không tan phần xác cũng đau phần hồn” (câu
hai là của tui).
Tui chỉ là một tín đồ Phật giáo “tu tại gia” vô
danh tiểu tốt, (Cha ông đã từng nói: Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu
chợ, thứ ba mới tu chùa; đó là nói theo thứ lớp khó khăn của mức độ
tu, nói xuôi cũng được mà nói ngược cũng xong; tiếng Việt độc đáo là
ở chỗ ấy!), chẳng Pháp danh, chẳng áo nâu sòng, chẳng theo hệ
phái nào, chuyên y pháp bất y tăng vv… đến tuổi hưu trí sau bao
năm từng lê gót nơi Hoa Kỳ và lao động rất vinh quang. Nay vì
ngán bơ sữa, thịt bò, sâm banh lên tận cổ nên chỉ cơm rau hai bửa vổ
bụng no bình bịch mà an nhiên tự tại, thỉnh thoảng tìm hiểu kinh kệ
cốt nắm bắt được ý nghĩa thâm sâu của đạo giải thoát mà tâm đắc với
Pháp bảo.
Tui không lui tới chùa chiền gần nơi tui ở đã hai thập
niên từ ngày bị phản cảm bởi hình ảnh đăng trên mấy tở báo chợ về
vài tăng ni nai nịt tăng bào chen vai cùng bọn nhố nhăng phường
tuồng cầm cờ ba sọc hô hào chống cộng trong cái gọi là “Liên tôn” gì
đó. Bây giờ thì cái liên tôn đã rã đám nên các tăng ni ấy cũng diện
bích luôn để mà ngẫm nghĩ đến thế thái nhân tình, không biết các
ngài có ngượng với chính mình hay không? Vậy chứ cũng toàn là thiền
sư cả đấy. Đối với các ngài tui chỉ xin “kính nhi viễn chi” chẳng
dám tới gần. Tự dưng tui thắc mắc rằng giáo pháp của đức Như Lai có
dạy các tỳ kheo điều này không? Chốn già lam thanh tịnh là vĩa hè
chăng? Tăng đoàn là một tổ chức hoạt động đảng phái chính trị phe
phái trá hình? Vậy thì lời thuyết pháp của quí tăng ni ấy khi khuyên
Phật tử xa lánh tham sân si toàn là lời dối mị ư? Thế là tui rửa tay
gát kiếm (Tàu gọi là ‘kim bồn tẩy thủ’ nghe mới hay), rút lui
khỏi chốn giang hồ từ đó, xa lánh luôn chốn thiền môn ở hải ngoại.
Nhờ vậy trí óc bớt bị ô nhiễm bởi những điều vô bổ, thân tâm lại
thường an lạc, mới lạ! Xưa nay vẫn có rất nhiều ẩn sĩ sống đời yên
hà thâm xứ, mà đạo Phật vẫn cứ phây phây trường tồn có sao đâu!
Cũng nên thông cảm cho hoàn cảnh của số tăng ni
này. Đã tan đàn xẻ nghé tị nạn ở nước người, không còn thống thuộc
một giáo hội nào cả, mạnh ai lập chùa riêng thì phải sông nhờ “hạnh
bố thí” của đồng hương Phật tử cốt xây dựng cơ sở mình cho to lớn.
Trong môi trường mới dẫn dắt bởi những anh hùng chống cộng cho
Cristo, nếu không a dua theo, thì tự viện sẽ bị phong tõa vắng như
chùa Bà Đanh ngay, lấy gì mà hành đạo nữa. Trưởng tử Như Lai bây giờ
cũng xe hơi nhà lầu, TV, tủ lạnh, computers desktop, laptop, đầu máy
video, điện thoại tối tân vv… nào kém ai; thì giờ bận rộn với những
tiện nghi quanh mình, lại thêm business cầu siêu, cầu an, cúng sao,
cúng hạn, xin xăm, bói quẻ còn không đủ thì đâu có rảnh mà lo thêm
chuyện hoằng hóa chúng sanh. Các ngài rất ngại chuyện này; còn đi
biểu tình trình diễn thì không thể tránh được vì sợ bị bọn Mafia
Roma chụp mũ “thân cộng” là chết bỏ bu. Mọi sự đành tùy duyên là
thế. Số Phật tử bị các tôn giáo Cristo quyến rũ đi gần hết, nhưng
các ngài vẫn mũ ni che tai cơm chay hai bửa.
Đến đây nhắc tui một chuyện sai lầm về thống kê
ở trong nước. Trong vài năm qua, nhà nước Việt nam cũng học đòi
thống kê, và gần đây công bố thống kê về tín đồ các tôn giáo hiện
hành. Đối với các tôn giáo khác thì tiêu chuẩn rõ rệt là tín đồ phải
thường sinh hoạt trong giáo phận liên hệ. Riêng về Phật tử thì tiêu
chuẩn công nhận là phải có qui y với một vị tăng ni nào đó; vì thế
mà tổng số Phật giáo đồ bị hạ thấp thê thảm không đúng với thực tế
thường bảo 80%. Họ đã bỏ qua một mảng rất lớn những “Phật tử làng
nhàng” như tui đây. Thực đáng tiếc, hay họ lại xếp hạng này vào loại
“đạo ông bà” như thời nhà Ngô? Ai không bảo lịch sử là một sự lập
lại?
II. Thiền Sư Thích Nhất Hạnh và Làng Mai
Thầy Nhất Hạnh (từ nay xin viết tắt là NH) còn
được biết đến như là Sư Ông Làng Mai (xin viết tắt là LM, chớ nhầm
với La-Mã đấy), hay Thầy LM. Từ rất lâu danh thầy đã nổi như cồn
cùng với phát kiến gắn bông hồng trên áo nhân Mùa Vu Lan, nay đã
thành lệ. Thời chiến tranh Việt Nam cuốn sách “Hoa Sen Trong Biển
Lửa” bị chế độ Thiệu cấm, nhưng tui đã được đọc chui mà thán phục
lòng can đảm của thầy. Rồi thầy bị Nhà Nước Cộng Hòa 2 bắt lưu vong.
Sau 1975 khi ở nước ngoài thì nghe tin thầy ở Paris, hợp tác với Võ
Văn Ái ra tờ Quê Mẹ gì đó rồi thầy trò chơi nhau sát ván và rã đám.
Về sau nghe thầy lập ra Tu Viện Làng Mai hay Mai Thôn, mở dòng Tiếp
Hiện ở vùng Dordogne thuộc miền Nam nước Pháp,
lại nổi danh như cồn nhất là với người tây phương. Muốn đến đấy tu
thiền vài tuần cũng tốn kém dữ lắm chưa kể tiền phi cơ xuyên lục
địa. Ấy vậy mà năm nào tui cũng đóng tịnh tài cúng dường qua người
bạn chuyên gây qũi cho LM. Rồi cũng nghe rằng thầy thích thơ nên
những khu cư ngụ tu tập cũng được đặt tên như những đề thơ, nào là
Xóm Hạ, Xóm Thượng, Xóm Rừng Phương Bối, Xóm Bếp Lửa Hồng, Xóm Mây
Đầu Núi, Xóm Chim Đại Bàng vv… Lại nữa lối sinh hoạt trong LM vui
như tết, nam nữ tu chung, được thoãi mái đàn ca xướng hát, thêm tăng
bào màu đà của tăng thân LM mới nhìn thoáng qua không khác gì thiền
sinh ở các cộng đồng của mấy ông đạo Ấn Độ như phái
thiền ôm, thiền hôn của guru Bhagwan Shree Rajneesh, sau cãi danh là
Osho, hay phái Vô thượng sư Thanh Hải với những cuộc trình diễn thời
trang rực rở của Bà Thầy vv…
Có người
bảo mấy ông bà đạo trưởng bất cứ đạo nào là một alter-ego của những
thủ lãnh chính trị, cũng muốn được ngồi bệ cao, được người người phủ
phục tán thưởng liên hồi. Các ngài dạy vẻ cho mọi người con đường
“giải thoát khỏi những hệ lụy thế gian” để sống đời an lạc thế nhưng
xem ra các ngài còn vướng vào vòng hệ lụy sâu
hơn ai hết thẩy.
Tìm hiểu thêm tí nữa thi được
biết tục danh của thầy NH là Nguyễn Xuân Bảo, hiện đã 83 tuổi, sinh
ngày 11, tháng 10 năm 1926 tại
Thừa Thiên.
Thầy đã xuất gia xuất gia ở
chùa Từ Hiếu
gần
Huế,
thuộc dòng Liễu Quán của phái thiền
Lâm Tế,
và thọ giáo với Thiền sư Thanh Quý Chân Thật. Tốt nghiệp Viện Phật
học Bảo Quốc và thọ giới tỳ kheo vào năm
1949.
Vào năm
1956
thầy là Tổng biên tập của nguyệt san Phật giáo Việt Nam ở Sài
Gòn. Sau đó thầy thành lập Nhà xuất bản Lá Bối, góp phần vào việc
thành lập trường
Đại học Phật
giáo Vạn Hạnh và trường Thanh niên Phụng sự Xã hội.
Thầy NH đã đến
Hoa Kỳ
nhiều lần để nghiên cứu và diễn thuyết tại
Đại học
Princeton,
Đại học
Cornell, và sau này giảng dạy tại
Đại học
Columbia. Trong các chuyến đi ra các nước Mỹ và Âu Châu
thầy đã tích cực vận động cho hòa bình ở Việt Nam, được giới phản
chiến tây phương ủng hộ nhiệt liệt. Thầy cũng đã dẫn đầu phái đoàn
Phật giáo
đến dự cuộc
Đàm phán hòa
bình Paris. Thầy đã được Mục sư Martin Luther King đề cử
ứng viên cho Giải Nobel Hòa bình vào năm
1967.
Sau hơn 40 năm lưu
vong, và sau nhiều cuộc vận động thương thảo giữa Nhà nước Việt Nam
và LM, Thầy NH trở về quê hương lần đầu, hướng dẫn một đoàn tăng
thân LM đông đảo gồm 100 tăng ni và 90 thành viên khác, và đã lưu
lại Việt Nam từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2005. Phật tử hân
hoan chào đón Thầy như người thân lâu ngày vắng bóng. Thầy là nhân
vật Phật giáo đầu tiên từ nước ngoài được đặc biệt tiếp rước long
trọng như thế. Thầy được phép thuyết giảng khắp ba miền và một số
sách của Thầy được xuất bản bằng
tiếng Việt,
in ấn và lưu hành rộng rãi trong nước. Báo chí đua nhau ca tụng thầy
và LM không tiếc lời. Hai năm sau, từ
tháng 3 đến tháng 4, 2007,
Thầy NH cùng tăng thân LM quay trở lại Việt Nam để thực hiện lễ
cầu siêu giải oan ở trong nước cho tất cả những đồng bào nào
"từng là nạn nhân của chiến cuộc, không phân biệt Bắc Nam, chủng
tộc, tôn giáo, chính kiến, già trẻ hay trai gái".
Cuối tháng Tư,
2008, Thầy NH cùng tăng thân LM về dự Đại Lễ Vesak Tam Hợp Liên Hiệp
Quốc được tổ chức tại Hà Nội. Các chuyến đi xem như là thành công
viên mãn, nhưng đã bị đám Ca-tô và các tổ chức chống cộng người Việt
hải ngoại (cho Cristo và cho chủ ngoại bang) không tiếc lời thóa mạ
đả kích dữ dội.
Hình như kẻ có tài hay sinh
tật, dễ trở thành dị nhân, khác người. Thầy NH không thoát khỏi qui
luật này. Những việc thầy làm hơi khác truyền thống luôn gây nhiều
bàn cãi ồn ào. Từ lối sinh họat và đặt tên trong Thiền viện như đã
nói trên cho đến tái dụng danh từ Bụt, hay đem ý niệm Thiên Chúa vào
trong thiền phái của thầy như “Bụt trong ta, Chúa trong ta”, “Living
Buddha, Living Christ”, và "Going Home: Jesus and Buddha as
Brothers" dù được xem như là khế cơ để người tây phương dễ đến gần
với “đạo Bụt”. Vậy mà đám chống cộng cho Cristo nào có tha cho. Và
gần đây có tin cho biết một buổi cầu nguyện cho hòa bình và Tu viện
Bát Nhã do Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu kết hợp với tăng thân
Berlin tổ chức lúc 5 giờ chiều ngày 13/10/2009 tại nhà thờ lớn của
thành phố Berlin.
Phái đoàn tăng thân LM của thầy trở về quê mẹ
với một số lượng người rất “ấn tượng”, với các đệ tử “ông tây bà
đầm” cũng làm cho dân quê bản xứ thán phục sát đất vì lần đầu tiên
tại một đất nước của thầy tổ còn nghèo nàn đồng hương được thấy “tụi
tây” quì lạy thầy như thế thì ai không hả hê cho được. Hình như
phảng phất cái hình ảnh “vinh qui bái tổ” dù đây chỉ là một tăng
đoàn nhà Phật. Lại nữa, hình ảnh rất ấn tượng ấy với lối hành hoạt
mới trẻ trung sinh động lẫn tây lẫn ta đã làm cho các tăng sinh trẻ
trong nước muốn học đòi theo “một đạo Phật văn minh từ nước ngoài”,
và chợt thấy lề lối tu tập truyền thống của các tự viện mình trong
nước còn “xưa và quê” quá; tựa như sau thời mở cửa thị trường ở thập
niên 90s, giới trẻ trong nước bất ngờ nhìn thấy mọi chuyện đến từ
tây phương đều “văn minh choáng ngợp” ngòai sức tưởng tượng, nên lăn
xả vào hưởng thụ cho bỏ những ngày “khốn khó mì độn bo bo” mà không
kịp chuẩn bị tư tưởng vậy. Dĩ nhiên những màn trình diễn “shock and
awe” vô tình hay cố ý này từ LM đã không ít thì nhiều làm một số nhà
lãnh đạo giáo hội địa phương e dè. Nhưng thầy NH và LM vẫn thản
nhiên “cỡi ngựa xem hoa” coi như đây vẫn là “cái nhà là nhà của ta”.
III. Căng thẳng tại Tu viện
Bát Nhã
Tin tức về những rắc rối ở Tu
viện Bát Nhã đã âm ĩ kéo dài từ năm 2008 đã được đủ loại nguồn tin
tức thuận nghịch đua nhau loan tãi. Ở đây tui xin tóm tắt theo trình
tự như sau, dựa vào các tin tức trong và ngoài nước góp nhặt và sàn
lọc được trên mạng:
Sau lần đầu Thầy NH và tăng
thân LM về thăm quê hương vào năm 2005 gây được nhiều ấn tượng tốt.
Trong cái không khí đầy phấn khởi ấy, vào tháng 5, năm 2005, Thượng
Tọa Đức Nghi, kiêm nhiệm Viện chủ tu viện Bát Nhã thuộc xã Damb'ri,
thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng đã nắm bắt thời cơ, ngõ ý và tạo điều
kiện để Làng Mai dùng nơi này làm phương tiện sinh hoạt và tu học
cho tăng thân, để từ đó phát triễn pháp môn này ở Việt Nam, hy vọng
rằng Thượng tọa sẽ được kế thừa làm tổ sư pháp môn trong nước. Nên
nhớ là TT. Đức Nghi, trụ trì chính thức của Tổ đình An Lạc thuộc thị
xã Bảo Lộc, đã thiết lập tu viện Bát Nhã từ năm 1995, nhưng chưa
chính thức được bổ nhiệm làm Viện chủ theo Nội quy Ban Tăng sự Trung
ương/ GHPGVN vì một tu sĩ Phật giáo không được quyền trụ trì hay
viện chủ 2 chùa.
TT. Đức Nghi đã nỗ lực vận động
GHPGVN và Nhà nước chấp thuận phương án, và việc này đã được Giáo
hội Trung ương cho phép theo văn thư số 212 ngày 22-5-2006, và Ban
Tôn Giáo Chính phủ chấp thuận qua văn thư số 525 ngày 7-7-2006.
Thượng Tọa cũng đề cử một đệ tử là thầy Thích Đồng Hạnh, Trụ trì Tu
Viện làm phụ tá để sinh hoạt và tu học chung với tăng thân và để
giúp về việc hành chánh… Thầy Đức Nghi và ĐĐ. Đồng Hạnh đã được Thầy
NH “truyền đăng” tại Mai Thôn nhân chuyến thăm Pháp vào năm 2006.
Làng Mai thỏa thuận hợp tác và
đã để lại vài vị giáo thọ theo yêu cầu của TT. Đức Nghi, đồng thời
trợ giúp tài chánh triễn khai cơ sở cho rộng lớn hơn và bắt đầu
tuyển tăng sinh, cho đến năm ngoái lên đến 379 tăng ni và cư sĩ đang
tu học tại đây.
Trong chuyến về Việt
Nam lần hai để thực hiện lễ cầu siêu giải oan ở trong nước,
thầy NH và tăng đoàn còn có vinh dự được Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết đón tiếp tại Phủ Chủ tịch ở Hà Nội vào chiều ngày 5-5-2007.
Qua cuộc tiếp xúc này nghe nói thầy NH đã đề nghị Chủ tịch nước
Nguyễn Minh Triết rằng nhà nước nên dẹp bõ ngành Công an Tôn
giáo và giải tán Ban Tôn giáo chính phủ, (Ghi chú thêm của
người viết: Qua nghị định số 08/NĐ-CP ký bởi Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng ngày 8 tháng 8, 2007, Ban Tôn Giáo Chính Phủ trở thành một bộ
phận của Bộ Nội Vụ). Ngoài ra thầy NH còn có đệ trình bản đề nghị
riêng 10 điểm với Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết. Nhà Nước hứa sẽ cứu
xét và gợi ý không nên công bố; nhưng sau đó Làng Mai lại cho đăng
trên “Lá Thư Làng Mai số 31 ra ngày 4 tháng 2, 2008” một cách thiếu
tế nhị và tín cẩn.
Thêm nữa, Lá thư LM
lại nhắc đến, có khác nào chỉ trích kết án, những sai lầm của Đảng
cầm quyền trong quá khứ từ thời tiếp thu chính quyền, cải cách ruộng
đất, trăm hoa đua nở vv… và cả những khó khăn khi lập Đại Đàn Chẩn
Tế. (Trang 12).
Các tài liệu của Làng Mai còn đề xuất với chính
phủ hãy từ bỏ Chủ Nghĩa Cộng Sản, bỏ chữ “Cộng Sản” ra khỏi
tên của Đảng chính trị cầm quyền, và bỏ cụm từ “Xã hội chủ nghĩa” ra
khỏi tên chính thức của nước, “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”
để thành “Cộng Hòa Việt Nam” hay chỉ đơn giản là “Việt Nam”.
Đây chính là giọt nước đã làm tràn ly nước đầy.
Dĩ nhiên việc làm thiếu tế nhị và thiếu thận
trọng của LM đã làm cho người bảo lãnh là thầy Đức Nghi phải chịu
cảnh trên đe đạo (GHPGVN) dưới búa đời (Nhà nước). Ngoài ra trước đó
đã có nhiều bất đồng trong việc điều hành Tu viện giữa hai bên, là
thầy Đức Nghi không có quyền hạn như Viện chủ ở Việt Nam, mà do tập
thể giáo thọ của Làng Mai quyết định tất cả, nên từ tháng 6 năm
2008, thầy Đức Nghi đã muốn rút lui, không muốn tiếp tục bảo lãnh
các giáo thọ và không muốn tăng thân Làng Mai tu tập tại Tu viện Bát
Nhã nữa; đồng thời yếu cầu họ phải rời khỏi cơ sở này.
Ngày 08/08/2008, công an địa phương ra công văn trục
xuất những tu sinh này khỏi tu viện vì không còn có sự bảo lãnh cư
trú của TT. Đức Nghi. Dù vậy vì lý do thủ tục hành chánh và nhân đạo
nên mãi đến tháng 6 năm 2009, tăng thân vẫn tiếp tục cư trú tại Tu
viện.
Ta có thể thấy nổi khổ tâm của
TT. Đức Nghi, một nạn nhân đầu tiên của những toan tính chính trị
vụng về của LM, qua Bản Kiến Nghị ngày 1 tháng 9, 2008 của
thầy gởi Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo VN, Ban Trị sự Tỉnh Hội
Phật Giáo Lâm Đồng và ban Đại diện Phật Giáo Thị xã Bào Lộc, và đồng
thời gửi cho LM: “đã 3 năm qua, con đã hơn 10 lần bị kiểm điểm vì
vi phạm Hiến chương Giáo Hội và Nghị định 22 của Ban Tôn Giáo Chính
Phủ.”
Bản Kiến Nghị viết tiếp:
“Ban đầu con cứ tưởng Làng Mai tôn trọng Giáo Hội Phật Giáo VN và
Nghị định 22 của Ban Tôn giáo Chính Phủ, cứ tưởng tôn trọng lời đề
nghị của con tại Làng Mai 2006, lời đề nghị của con tại chùa Từ Hiếu
năm 2007, lời đề nghị của con tại Tu viện Bát Nhã năm 2008. Thầy
Đức Nghi đã không viết rõ những đề nghị của thầy.(Ghi chú
thêm của người viết: Về Nghị định 22 của Ban Tôn giáo Chính Phủ,
đúng ra là Nghị định của Chính phủ số 22/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 01
năm 2004 về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo thuộc Uỷ
Ban Nhân Dân các cấp, thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác tôn giáo).
Trong 3 lần gặp Thiền sư
Nhất Hạnh tại Làng Mai năm 2006, tại chùa Từ Hiếu năm 2007, và tại
Tu viện Bát Nhã năm 2008, con đã nói lên thực trạng của Tu viện Bát
Nhã: Giáo Hội Làng Mai chưa được phép sinh hoạt tại Việt Nam,
con chỉ đứng đơn xin tu theo pháp môn Làng Mai tại Tu viện Bát Nhã.
Nên mọi việc xẩy ra con chịu trách nhiệm trước Giáo Hội và Nhà Nước.
Con muốn tương lai Tu viện Bát Nhã sẽ lên tới 1.000 tu sinh, nhưng
những lời đề nghị của con lên Sư Ông và quý vị giáo thọ không ai
lắng nghe cả.”
Vì thế kề từ ngày 1 tháng 9,
2008, TT. Đức Nghi trình với GHPGVN chính thức rút lại tất cả
những văn thư xin phép cho tân tăng thân LM tu tập tại Tu viện Bát
Nhã, và không bảo lãnh cư trú cũng như không chịu trách nhiệm về mọi
hậu quả trong thời gian tới.
Tiếp đến ngày 29 tháng 10,
2008, Ban Tôn Giáo Chính Phủ từ Hà Nội liền ra văn thư
số1329/TGCP-PG do Trưởng ban Tôn giáo Nguyễn Thế Doanh ký v/v hoạt
động tôn giáo của Làng Mai (nước Pháp) tại Việt Nam, sau khi nhận
được văn thư số 427/CV/HĐTS của Hội Đồng Trị Sự GHPGVN ngày 10 tháng
10, năm 2008. Văn thư đã được gởi đến Hội Đồng Trị Sự GHPGVN, VP I,
và II GHPGVN, Bộ Công An (A41), UBND Tỉnh Lâm Đồng, Sử Nội Vụ Tỉnh
Lâm Đồng, BTS PG Tỉnh Lâm Đồng ghi rõ trong các lần về thăm VN,
Tăng thân LM đã thực hiện một số việc như: Mở giới đàn thụ giới và
một số khóa tu, bổ nhiệm trụ trì, tấn phong giáo phẩm không thông
qua GHPGVN, đề cập sai lệch những vấn đề chính trị của đất nước, đưa
lên mạng Internet (Website Làng Mai) một số thông tin sai sự thật về
thực tế ở Việt Nam… Những việc làm ấy là vi phạm pháp luật Việt
Nam, tạo cớ cho số xấu ở trong và ngoài nước xuyên tạc chính sách
tôn giáo của Nhà Nước và làm ảnh hưởng đến đoàn kết dân tộc, đòan
kết trong nội bộ GHPGVN.
Văn thư này cũng đã đề ra hướng
xử lý đối với những việc Tăng thân LM đang tạo ra phức tạp, gây
mất an ninh trật tự tại Tu Viện Bát Nhã. Theo đó, "Những người thực
hiện đúng quy định tạm trú, tạm thời cho ở trong một thời gian để
thu xếp chuyển đi; những người chưa thực hiện đăng ký tạm trú thì
với những ai thuần túy tu học, không gây ảnh hưởng tới an ninh trật
tự, cho phép kê khai đăng ký tạm trú và được ở lại trong một thời
gian (như những người đăng ký tạm trú) để thu xếp chuyển đi; số gây
mất trật tự, mất đoàn kết buộc trở về nơi cư trú cũ".
Đáng tiếc là gần một năm trôi
qua mà nội bộ hai bên Tu Viện Bát Nhã và LM vẫn không cố gắng giải
quyết vấn đề một cách khéo léo và gọn nhẹ dưới sự cố vấn và chỉ đạo
của GHPGVN, vì ngày 19 tháng 11, 2008,
đã có một cuộc họp ở TP. HCM với sự tham dự của đại diện Giáo hội
Phật giáo Việt Nam và Ban Tôn giáo Chính phủ. Cuộc họp quyết định ủy
quyền cho ban trị sự Phật giáo tỉnh Lâm Đồng giải quyết. GHPG tỉnh
Lâm Đồng nói họ tạm thời bảo lãnh cho các vị tăng ni sinh này ở lại
cho đến khi có giải pháp sau cùng.
Thế mà sự việc vẫn giậm chân
tại chỗ và gần 400 tăng thân biến thành “nhóm con tin, hostages” cho
những mưu toan khác trong ván cờ khó hiểu.
Cuối cùng, ngày 7 tháng 9,
2009, UBND Thị xã Bảo Lộc buộc phải gởi Văn thư Số: 789/UBND đến
các giới chức phường xã lệnh phải giải quyết việc giải tán tăng thân
LM ở chùa Bát Nhã, và việc gì đã xảy ra thì mọi người đã biết như
tin tức loan tãi và làm và đau lòng cho thất chúng Phật tử trong và
ngoài nước quan tâm. Bọn xấu chỉ chực chờ cơ hội như thế để đổ dầu
vào lửa cho bùng to lên mà thôi rồi tha hồ reo vui.
IV. Tinh túy của đạo Phật
Từ hơn 25 thế kỷ qua, dù bao
vật đổi sao dời, dù bao thời thế xoay chuyển, lời dạy của Đức Phật
vẫn trước sau như một, là chân lý dẫn đường cho những người mê muội.
Xin tạm bỏ đi những luận bàn thâm diệu cao siêu về lý Bất Nhị, về
Tính Không của vạn vật, hay những “pháp môn” thậm thâm linh tinh về
sau vv…; nếu mọi người con Phật cứ tâm tâm niệm niệm những bài dạy
cơ bản lúc Đức Phật chuyển pháp luân ở Lộc Uyển thì cũng đủ sống một
đời an lạc dư thừa; sao phải mãi chạy theo những hình tướng phù du
nhất thời. Vì là chân lý nên giáo pháp của Đức Phật bất biến, không
bị lỗi thời, không cần thêm bớt.
Là Phật tử ai lại không nhập
môn với 1) Tứ-Đế: “Khổ, Tập, Diệt, Đạo". 2) Thập Nhị Nhân Duyên. 3)
Lý nhân quả, nghiệp báo.
Đạo hạnh của vị chân tăng không
phải do ở lời tâng bốc của thế nhân, không từ lời thuyết giảng cuốn
hút lòng người, không từ khối lượng sách in, băng nói đã phát hành,
càng không từ tài sản vật chất cơ ngơi mình tạo tác sở hữu, không từ
pháp môn cãi cách khác thường mà là do trì giới luật của Đức Bổn Sư
đã thiết chế. Càng cao dày thì đạo hạnh tự hiển lộ trong tứ uy nghi:
đi đứng nằm ngồi tựa, đủ làm tín đồ rạp mình kính cẩn trọng vọng dù
chỉ “niêm hoa vi tiếu”.
Hàng cư sĩ dựa cột thiền môn,
một khi đã qui y nguyện giữ 5 giới 1) Không sát sanh. 2) Không trộm
cắp. 3) Không tà dâm. 4) Không nói dối. 5) Không uống rượu; đã là
khó khăn. Xa hơn nữa mon theo Bát Chánh Đạo (Aryatanagamagra) là 1)
Chánh kiến. 2) Chánh tư duy. 3) Chánh-ngữ. 4) Chánh-nghiệp. 5)
Chánh-mạng. 6) Chánh-tinh-tấn. 7) Chánh-niệm, và 8) Chánh định; thực
là thiên nan vạn nan. Huống chi một Tỳ-kheo xuất gia phải thọ và giữ
250 giới cụ túc, một Tỳ-kheo-ni phải thọ và giữ 348 giới cụ túc; làm
sao mà giáo chúng không bái phục ứng cúng các thánh nhân?
Nếu chư vị cao tăng liên hệ
trong vụ Tu Viện bát Nhã đã thọ và giữ được chừng ấy giới thì thế
giới đã an hòa, không còn vọng động tranh chấp chỉ làm trò cười cho
thiên hạ và ngoại đạo.
V. Quốc hữu quốc pháp – Gia
hữu gia qui
Điều này đã được biết đến từ
khi con người sống trong một xã hội có tổ chức. Cha ông ta hay nói
nôm na là “quá giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”. Việt Nam đã được
giải phóng khỏi gông cùm ngoại bang và đã được thống nhất an bình nề
nếp từ hơn 30 năm nay, tất phải có luật pháp thường hành mới cai trị
được hơn 80 triệu dân mà ổn định xã hội. Nhà cầm quyền dù từ gốc gác
ra sao, dù có kẻ ưa người chống, mà giữ được giềng mối trong một
thời gian đáng kể vẫn là chính thống, đi vào lịch sử dân tộc quang
minh chánh đại, huống chi lại còn cả thế giới kể cả cựu thù công
nhận giao hảo.
Ở đây tui không cần phải tâng
bốc Nhà Nước cầm quyền hiện tại, bởi tui vẫn còn chưa hài lòng với
nhiều chính sách thất nhân tâm khác, nhưng Nhà Nước lập ra đâu phải
để chiều ý mọi người. Dù muốn hay không ta phải chấp nhận một thực
tại lịch sử khách quan, đừng nên ngụy ngôn.
Vì thế mọi công dân đoàn thể
bất kể từ đâu muốn sinh hoạt trong nước Việt đều phải tuân thủ triệt
để pháp luật hiện hành. Không phải vì mình thường đi đây đi đó được
nhiều người tung hê là Nhà Nước phải rạp mình ca tụng. Không phải vì
mình thường sinh hoạt theo lối tây hay La Mã là Nhà nước phải uốn
thân chiều chuộng? Chưa chắc mình đã dám ngông cuồng đứng trên luật
pháp sở tại nơi mình trú ngụ, thì cớ sao mình lại xem thường pháp
luật của đất nước có nhã ý mời mình về thăm cố hương? Có đạo lý nào
dạy chủ nhân cứ tiếp tục tươi cười “tỉnh thức, hít vào ta biết hít
vào, thở ra ta biết thở ra” đón tiếp vị khách thô lổ đến thăm nhà mà
lại gay gắt chỉ trích hết chuyện này qua chuyện khác của gia chủ rồi
còn đề nghị chủ nhà đổi thay phá bỏ hết rường cột căn nhà đi? Vã lại
đây là chuyện quốc gia đại sự, nào có phải trong một phạm vi chật
hẹp của một tu viện. Sĩ diện quốc gia để ở chỗ nào? Tây Mỹ kia còn
chưa từng dám vi phạm những việc tế nhị như thế, huống chi là nề nếp
văn hóa Á đông.
Phật đạo không dạy đến Tứ Ân
đấy sao? 1) Ơn cha mẹ. 2) Ơn chúng sanh. 3) Ơn quốc gia, và 4) Ơn
Tam Bảo. Xưa kia các cao tăng đức trọng đều do Nhà Vua phong làm
quốc sư, các tự viện nổi danh đều do các hoàng triều phong sắc tứ.
Qua lịch sử, Phật Giáo thịnh suy đều do sự bảo hộ của các triều đại.
Thế thì làm gì có một giáo hội hay pháp môn đối nghịch chính sách
của Nhà Nước?
VI. Nhận xét
Qua sự việc đã được mọi người
biết đến về vụ Tu Viện Bát Nhã, theo tui phần lớn các khuyết điểm
thuộc về thầy NH và LM. Những vị khác chỉ là nạn nhân nông nổi của
một vở kịch vụng về do thầy và LM, hoặc ai đó đạo diễn.
1) Qua những tin tức chi tiết
đã nêu trên thì hình như mọi quan điểm lao nhao bênh chê hiện nay về
vấn đề Tu viện Bát Nhã đều tùy theo cảm tính bồng bột và lập trường
chính trị của từng phe phái, chỉ tập trung vào “ngọn” của vấn đề là
việc sử dụng vũ lực trục xuất Tăng thân LM ra khỏi Tu Viện Bát Nhã
mà không ai bình tâm vô tư xem lại nguyên do “gốc” từ đâu và vì sao
sự việc cứ giùng giằng bế tắt kéo dài trọn một năm. Điều này cũng
làm cho uy tín của hàng giáo phẩm GHPGVN, và hàng ngũ tăng già nói
chung bị tổn thương không ít.
2) Sau bước đầu khai mở đầy khó
khăn trong sự giao hảo với chính quyền; đáng ra thầy NH, vốn là một
Thiền sư thì nên nhẫn nại khuyến khích tăng thân chuyên lo tu học
Phật đạo, đẩy mạnh những công tác cứu tế nhân đạo, theo thời gian
phát huy hơn nữa và tạo nên một mối tin tưởng vững chãi giữa Nhà
Nước và Tăng thân thì về sau chuyện cảm hóa gì mà không thuận lợi.
Đi đâu mà vội mà vàng?
2) Thầy NH chỉ nổi danh là một
thiền sư, mọi người ngưỡng mộ qua sự ngộ đạo, đức độ và uy tín quốc
tế, chứ thầy không thể là một nhà hoạt động chính trị được, dù dưới
danh nghĩa gì. Bước qua lằn ranh mỏng manh ấy là hào quang của thầy
vụt tắt nhanh chóng. Trong khi sự tin tưởng đôi bên chưa xác định,
Nhà Nước còn đang nghi ngại LM bởi vì lối sinh hoạt của tăng thân
khác hẳn truyền thống, pha chút Tây, Mỹ; lại được tây phương nuôi
dưỡng hổ trợ lâu dài ở đất người; biết đâu đây cũng chỉ là con bài
trong Diễn biến Hòa bình của bọn xấu thì thầy NH lại vụng về hoặc
kiêu mạng đề nghị, rồi Làng Mai lại công bố những điều chính trị vô
bổ.
Nhiều người cứ mãi thắc mắc
không hiểu được, với một danh sư tài trí như thầy NH, ở tuổi 83 mà
theo Khổng Tử là tuổi quá Thất Thập Nhi Tùng Tâm Sở Dục Bất Du Củ
(Đến 70 tuổi, con người sẽ thấu triệt về cách xử thế; làm việc gì
cũng chừng mực), lại vi phạm những điều tối kỵ sơ đẳng về chính trị
như thế được; để làm đổ bể tất cả những công sức mình vun trồng đã
nhiều năm. Câu trả lời chỉ có thể là thầy chịu một áp lực “ngoại
bang” nào đó để trả ơn ưu đãi bấy lâu; hoặc thầy chịu một áp lực của
các tổ chức chống cộng lưu vong hay trong hàng ngũ tăng thân có
những phần tử chống cộng len lõi tác động.
3) Những đề nghị chính trị
không thức thời của thầy NH, trong những cơ hội hiếm có tốt nhất với
Chủ tịch Nước, ngay cả Giáo hoàng ở Vatican bấy lâu yêu cầu còn
không được, đã dập tắt bao kỳ vọng cãi thiện, và gây nhiều hậu quả
xấu không thể lường trước cho nhiều thành phần khác đạo lẫn đời. Nào
có phải ai cũng được Chủ tịch Nước đón tiếp đâu. Những điều thầy NH
nêu ra thì trước đây những tổ chức chống cộng cho Cristo lưu vong đã
từng hô hào nhưng không được Đảng cầm quyền trong nước đếm xĩa đến.
Nay bỗng dưng thầy thay mặt họ lên tiếng ngay trong Phủ Chủ tịch thì
thiết tưởng thầy là một thiền sư thông thái, chuyên dạy mọi người
điều hay lẽ phải, phải biết trước hậu quả sẽ như thế nào?
4) Thầy NH và LM hình như giả
vờ quên một thực tại chính trị về cơ chế vận hành của Đảng và Nhà
nước Việt Nam hiện nay. Nguyên tắc vẫn là Đảng lãnh đạo, Nhà Nước
quản lý. Người có quyết định tối hậu là Bí Thư Trung Ương Đảng, ở
đây là Ông Nông Đức Mạnh, sau khi bàn luận với Bộ Chính Trị Trung
Ương. Những vai trò Nhà Nước chỉ là sự phân công phân nhiệm cho các
Ủy Viên thuộc Bộ Chính trị của T.Ư. Đảng mà thôi. Như vậy đây là một
sự lãnh đạo tập thể, chứ không phải cá nhân Tổng thống như của các
chế độ cũ trong Nam trước đây. Vì thế Thầy NH phải biết cần cẩn
trọng và nên nói điều gì và nói với ai một cách kín đáo trong những
cơ hội được đón tiếp vào hàng quốc khách như thế. Không phải ai cũng
là thiền sinh đến tham vấn mình.
Đảng lãnh đạo, dĩ nhiên là Đảng
Cộng sản. Bây giờ là thời buổi kinh tế thị trường toàn cầu hóa thì
dùng từ Xã Hội Chủ Nghĩa cho hợp với sách lược mới. Vậy mà thầy NH
lại đề nghị xóa bõ Xã Hội Chủ Nghĩa đi thì sự chính thống của Đảng
cầm quyền nằm ở chỗ nào? Không lẽ thầy muốn thay bằng Đảng Cần Lao
Nhân Vị? Trung quốc trên danh nghĩa vẫn ghi là Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa, nhưng trên trường giao thương quốc tế mọi người đều gọi
là Nước Trung Hoa, và tương tự đối với Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam trên trường quốc tế người ta vẫn gọi gọn là Việt Nam từ bấy lâu
nay đâu có cần đến nay thầy NH phải lưu ý.
Cũng theo chiều hướng ấy, bao
nhiêu thế hệ Đảng viên đã hy sinh trong đấu tranh gian khổ mới có
được ngày hôm nay, không lẽ một sớm một chiều chỉ vì lời đề nghị của
thầy NH mà mọi chuyện đều đổi thay nhanh chóng, có thực tế không?
Đảng muốn tổ chức các bộ phận kiểm soát quốc gia như thế nào là tùy
ở T.Ư. Đảng, trong đó có Ban Tôn giáo Chính phủ, vốn đã hiện hữu từ
rất lâu. Nay thầy NH lại kêu gọi giải tán cơ quan ấy đi, khác nào
thầy đang hoạt động cho các đảng chống cộng ở hải ngoại do Ca-tô
giựt dây, tương tự như kêu gọi hủy bỏ điều 4 Hiến Pháp hiện hành?
Thầy thừa biết nếu các thành phần ấy kêu gọi như thế tại Hà Nội thì
Nhà nước sẽ phản ứng ra sao chứ!
Nếu thầy NH muốn thay đổi cơ
chế lãnh đạo này thì chỉ còn có con đường là tìm mọi cách để lật đổ
nó, điều mà khó có tổ chức phản động nào làm nỗi trừ phi được chủ
ngoại bang cõng về bằng mọi mưu mô nham hiễm kể cả gây chiến phá
hoại. Chính vì thế mà Đảng và Nhà nước hiện tại luôn nhậy cảm và dị
ứng với những “diễn biến hòa bình” trá hình như các lời đề nghị của
thầy. Còn muốn cảm hóa bằng lối thiền Làng Mai thì có cần phải hấp
tấp đến thế không?
Đã bảo thầy chỉ nên chuyên
thuyết về thiền mà thôi, chớ mò sang lãnh vực chính trị mà trật
đường rầy, mất uy tín lắm. Cứ đợi xem đến Lễ Vesak kỳ tới sẽ được tổ
chức tại Hà Nội, thầy và LM có được mời tham dự nữa hay không thì
mọi người sẽ rõ uy tín của Thầy đối với Nhà Nước Việt Nam ra sao.
Thế là toi công, mọi nổ lực gầy dựng bấy lâu nay đều đổ xuống sông
cả!
5) Một Đảng cầm quyền đã dạn
dày kinh nghiệm chính trị như Đảng CSVN thừa sức khôn khéo ứng xử
với thầy mà thầy nào thấy. Họ đã dành cho thầy vinh dự đón tiếp mà
thầy lại không cảm kích tri ân, lại vụng về trong hành xử. Dù họ đã
bất bình ngay sau buổi tiếp xúc trong Phủ chủ tịch nhưng họ đã không
lộ ra công khai, còn mời thầy và tăng thân LM về dự Lề Vesak vào năm
2008 vì tầm quan trọng của nó; nhưng theo mọi người nhận xét kín đáo
thì sự đón tiếp đã không nồng nhiệt như trước nữa. Là một thiền sư
nỗi danh, thầy phải nhận biết ra luật Nhân Quả ngay và tìm cách rút
tăng thân khỏi Tu Viện Bát Nhã càng sớm càng tốt. Qua Bản Kiến Nghị
ngày 1 tháng 9 năm 2008 của Thầy Đức Nghi đã được công bố nay ta mới
biết “đã 3 năm qua, con đã hơn 10 lần bị kiểm điểm vì vi phạm
Hiến chương Giáo Hội và Nghị định 22 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ.”
Dĩ nhiên thầy Đức Nghi cũng đã thông báo cho thầy NH biết thái độ
thay đổi của Nhà Nước ra sao rồi; vậy mà thầy NH và LM vẫn tảng lờ,
biến việc tăng thân phải rời khỏi Tu viện Bát Nhã theo đúng luật
pháp Nhà Nước thành hình thức đối kháng chính trị, để lấy cớ vu oan
giá họa là thầy trò Đức Nghi và Nhà Nước đàn áp tôn giáo bằng bạo
lực. Kẻ chân tu có cần những trò tiểu xảo vặt ấy không?
6) Nhà Nước Việt Nam phải ngày
đêm chăm lo cho sự an nguy của đất nước, đời sống thanh bình của hơn
80 triệu con dân thì một chuyện rối ren nội bộ Bát Nhã có đáng là
gì. Qui trách mọi chuyện xấu xa cho Nhà nước chỉ là trò trẻ con vì
dễ làm nhất. Ngay cả ở các nước Âu Mỹ, chính quyền là cha mẹ dân,
không bao giờ có lỗi trong việc trị an. Trong khi ấy các trang nhà
gần xa với LM cùng với bọn xấu luôn tìm cách chống Việt Nam được dịp
đi vào con đường “liên tôn” vô hiệu xưa cũ, phục vụ cho tính càn rỡ
của một thành phần thiểu số lưu vong. Có phải vì mình là đám thiểu
số tị nạn được sống nơi an toàn ở nước người, chẳng có công lao
trách nhiệm trực tiếp với dân với nước nên có quyền “dạy đời” trên
các trang báo mạng vu vơ về dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo?
Có lẽ cũng vì một vài tế nhị xã
giao đối với GHPGVN và Làng Mai, và không muốn sự việc vượt khỏi tầm
kiểm soát mà Nhà Nước đã để cho nội bộ Tu Viện Bát Nhã và LM giải
quyết ôn hòa và đã không sớm triệt để ra tay khi TT. Đức Nghi tuyệt
giao với tân tăng thân LM và yêu cầu trục xuất. Cứ xem lại trình tự
các văn thư nêu trên thì ta đã rõ, chứ có phải là lời phỏng đoán.
Xem ra cái “ego” của thầy NH và
LM quá lớn nên sự việc xảy ra không mấy đẹp như chúng ta đã rõ. Với
phương tiện liên lạc viễn thông tiên tiến ngày nay, chỉ cần một
“lệnh hồi cư” phát ra từ thầy NH qua điện đàm viễn liên thì không
mấy chốc tăng thân đã ai về nhà nấy, các giáo thọ đã bay ngay về LM
ở Pháp thì mọi sự đã xong. Nhưng đáng tiếc là chuyện đó đã không xảy
ra, mà hình như diễn tiến theo bài bản đã được ai trong bóng tối dàn
dựng sẳn; mà lại trùng hợp vào lúc có sự kiện giáo dân Ca-tô “cầu
nguyện đòi đất cho Vatican” ở Tam Tòa, Quảng Bình. Chắc sau vụ này
LM phải bận rộn đón tiếp nhiều phái đoàn “liên tôn chống cộng”, và
đã qua rồi những ngày cứ bị đám này thóa mạ đủ điều. Ngày nay nếu ai
tìm đọc các trang mạng của LM và phe nhóm đều có cảm tưởng như đã
lạc vào một diễn đàn chính trị ba xu, lập lại những luận điệu nhàm
chán của hàng trăm trang chống cộng khác.
7) Hậu quả là Tu viện Bát Nhã
và các nhân sự xung quanh kể cả các giới chức đạo lẫn đời địa phương
và gần 400 tân tăng sinh Làng Mai chỉ là nạn nhân tất yếu. Chuyện
này cũng đặt GHPGVN vào thế khó xử, đành phải “tịnh khẩu”. LM cũng
không nên quên ơn các bộ phận của GHPGVN mới ngày nào đã hăng say tổ
chức các cuộc đón tiếp thầy NH và tăng thân LM rất là chu đáo và
linh đình với đủ lễ nghi, lộng vàng thảm đỏ. Ai đã giập tắt niềm vui
đạo lữ quá vội? Chưa kể đến “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”; sau
vụ này kẻ ở nước ngoài thì ngậm đắng nuốt cay, nhưng những giới chức
nhỏ chỉ vì “hăng tiết vịt” lên lớp bênh phe này chống phe nọ sẽ bị
“thanh trừng” lãng nhách. Trách nhiệm ai sẽ gánh vác giùm đây?
8) Là một Thiền sư xuất chúng,
thầy NH nên can đảm chấp nhận lổi thuộc về mình, uy tín của Ngài chỉ
càng gia tăng; và từ đó ra lệnh cho tăng thân LM và các trang “ngoại
vi thân cận” nên chấm dứt các việc “phân bua, đổ lỗi cho người” dựa
theo Pháp Lục Hòa của Đức Từ Phụ đã dạy (1. Thân hòa đồng trụ. 2.
Giới hòa đồng tu. 3. Khẩu hòa vô tránh. 4. Kiến hòa đồng giải. 5. Ý
hòa đồng duyệt. 6. Lợi hòa đồng quân) để chúng sinh được an lạc.
Thầy thường nổi danh thuyết giảng về Tâm Kinh lắm; vậy thì “Quán
tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời chiếu kiến ngủ uẩn
giai không, độ nhất thiết khổ ách” có nên ứng dụng liền ở đây
hay không?
Xin quí đại sư giáo phẩm nên
luôn nghĩ đến đại cuộc phát huy Phật giáo hơn là vọng ngã hư danh
qua các cuộc tranh chấp nhỏ nhen không cần thiết. Các ngài một ngày
nào rồi cũng qua đi theo Luật vô thường nhưng chùa chiền và đạo Phật
thì vẫn còn miên viễn. Quí thầy nên chứng tõ cho Phật tử thấy rằng
lối hành xử của quí thầy luôn đúng theo lời Phật dạy và phải khác xa
nhân thế còn vô minh; hơn nữa các thiền sinh luôn quan sát và học
hỏi từ thân khẩu ý của quí thầy và quí thiền sư. Đâu là càn khôn nhẹ
tựa lông hồng, lòng rộng như biển cả của Rừng Phương Bối, Mây Đầu
Núi, Chim Đại Bàng…
Đã đến lúc mọi người không liên
hệ cũng nên chấm dứt bàn cãi để trời êm bể lặn; bởi đâu là sự thật?
Trong Vô Môn Quan ở tắc 49 hay còn gọi là Hậu Tự nói về An Vãn, một
thiền sinh tầm thường sau khi đọc hết 48 công án của Thiền sư Vô Môn
đã thốt: “Hãy ngưng, hãy ngưng, đừng nói. Chân lý tối thượng lắm
khi còn không thể nghĩ bàn (bất khả tư nghì).”
Tuyệt!
Thiên Lôi
Nov. 2009
Những bài liên quan về vụ Bát Nhã có đăng trong sachhiem.net: