|
14 tháng 7, 2008
|
Chiến thuật
và công cụ truyền đạo thầm lặng..
Trên lãnh thổ Việt Nam,
không một tổ chức hay hội đoàn nào xây dựng nên một hệ thống hành chính
toàn diện và hoàn chỉnh như các đơn vị hành chính của Nhà nước như Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam.
Tuy nằm trong tổ chức của Mặt trận Tổ quốc nhưng
“phần xác” của GHCGVN là các cơ sở vật chất và hệ thống tổ chức, đứng
đầu là Hội đồng Giám mục với các ban ngành, sau đó là phân vùng quản
nhiệm như tổng giáo phận, giáo tỉnh hay giáo phận, hạt, giáo xứ, giáo
họ, họ đạo v.v.. Tuy giáo hội trên hình thức hoạt động theo qui định của
pháp luật của nhà nước Việt Nam, nhưng “phần hồn” thì thuộc về tòa thánh
Vatican, một quốc gia nhập nhằng giữa tôn giáo và thế quyền, có đủ ban
bệ, bộ ngành, thậm chí còn có hai đơn vị đặt nhiệm chống khủng bố vừa
mới được thành lập trong tháng 6 năm 2008.
Gọi là “phần hồn” là vì giáo
dân thông qua hệ thống tổ chức, mọi nghi thức thờ phụng, lễ tiết bí tích
phải tuân phục theo các qui định của tòa thánh, và giáo dân bao giờ
cũng hãnh diện tự nhận mình là “dân Chúa”, gọi cái xứ sở mình đang sống
là “nước Chúa”. Một vài phẩm hàm, chức sắc đầu lĩnh muốn được thụ phong
phải thông qua sự bổ nhiệm của Vatican như hồng y, tổng giám mục, giám
mục... Đó là nói về người sống, còn người đã chết nếu xét thấy có công
trạng trong công cuộc mở mang nước Chúa, do phản quốc mà bị xử tội chết,
thì được phong cho làm “thánh tử đạo”.
Việc phân định các đơn vị
hành chính của Giáo hội Công giáo Việt Nam tuy là hình thức để quản lý
giáo dân, và nhà nước cũng dựa trên hệ thống này để quản lý một tổ chức
mà đầu não nằm ở ngoài lãnh thổ của mình, nhưng trên thực tế, nhà nước
chỉ quản lý được con số, nói một cách khác là quản lý “bề nổi”để làm các
số liệu thống kê là chính, còn các sinh hoạt khác thì vượt ra ngoài tầm
kiểm soát, bởi giáo dân chỉ tuân phục và vâng lời các đấng “bề trên” của
họ hơn là luật pháp của chính quyền sở tại. Tuân phục là một đức tính cơ
bản trong giáo lý. Nếu chống đối lại thì xem như có nguy cơ bị rút phép
thông công, một hình thức như “khai trừ” ra khỏi đạo, không thể hiệp
thông với Chúa mà không thông qua các đấng đại diện cho Chúa là các chủ
chăn, và xem như cửa thiên đàng bị đóng sập lại, và con dường duy nhất
còn lại sau khi chết là xuống hỏa ngục, nơi có quỷ dữ và lửa thiêu đốt
đời đời!
Sự tuân phục tuyệt đối
được thể hiện như vụ việc cầu nguyện đòi đất tòa Khâm xảy ra vào lễ
giáng sinh 2007 tại Hà Nội. Thay vì chấp hành yêu cầu của chính quyền
địa phương không được tụ tập cầu nguyện ngoài đường, nhưng giáo dân
không những không chấp hành mà còn vâng lời mấy vị chủ chăn tụ tập, lôi
kéo giáo dân từ các địa phương khác về đông hơn, bất chấp lời khuyến cáo
của chính quyền, còn phá rào, vác cây thập ác, tượng bà Maria vào cắm và
đặt trong khuôn viên tòa nhà này. Trong khi đó, chỉ một lá thư chỉ thị từ
Vatican là các chủ chăn lẫn con chiên liu ríu cuốn cờ, dẹp trống rút lui
có trật tự. Sự vâng phục của giáo dân là nhắm mắt tuân theo chỉ thị của
cấp chủ chăn có phẩm trật cao hơn!
Những quốc gia có chung
đường biên giới thường thống nhất phân định lãnh thổ của nhau bằng các
cột mốc địa giới, có ký kết thỏa hiệp, thỏa ước; còn cơ cấu tổ chức của
Giáo hội Công giáo Việt Nam được Nhà nước chính thức công nhận nên các
địa giới này được thành lập dựa trên tên gọi của dòng tu, họ đạo hay địa
danh, và địa giới được phân vùng dựa theo bản đồ hành chính quốc gia,
được đánh dấu bằng các biển, bảng tên giáo phận, giáo xứ, họ đạo tương
ứng. Các biển, bảng này được trương, cắm trên vùng đất công cộng đó để
xác định địa phận của giáo họ, giáo xứ mà buộc ai đi ngang qua cũng phải
nhận biết, ví dụ như khi qua địa phận tỉnh Đồng Nai, nơi có số lượng
giáo dân đông nhất nước, chủ yếu từ miền bắc theo bà Maria di cư vào nam
năm 1954, ta có thể thấy hàng loạt các biển, bảng ghi tên Giáo Xứ như:
Hố Nai, Bùi Chu, Phương Lâm, Cát Tiên, Giáo họ Martinô v.v..cùng với vô
số nhà thờ nằm dọc theo quốc lộ 1 đi qua địa phận TP. Biên Hòa và quốc
lộ 20- đường lên Đà Lạt. Và không nói ở đâu xa, ngay tại các tỉnh thành
trong cả nước vẫn còn cài cắm các bảng tên giáo xứ, giáo họ v.v..thay
cho bảng tên khu phố, phường, xã v.v..
Các biển bảng tên giáo xứ,
họ đạo này được trương cắm lên như một thứ hàng rào “vô hình” làm cho
người giáo dân bị ngăn cách, tách biệt khỏi cộng đồng dân cư không thờ
Chúa! Mặt khác nó tích cực hỗ trợ cho chủ trương tách giáo dân ra khỏi
cộng đồng không thờ Chúa của Vatican, vì họ không muốn giáo dân chịu sự
tác động, ảnh hưởng của cộng động không thờ Chúa này, khỏi bị làm cho
cái gọi là rối đạo hay lạc đạo, và nhất là khó kiểm soát được các sinh
hoạt của các con chiên. Sự tách biệt khỏi cộng đồng cũng là một nguy cơ
tiềm ẩn khi nó nuôi dưỡng ý đồ trở thành “khu tự trị” như đã từng được
thành lập ở Giáo xứ Bùi Chu, Phát Diệm vào những năm 1940 khi lực Lượng
Tự Vệ Công Giáo Bùi Chu – Phát Diệm trở thành phụ lực quân cho quân đội
Pháp, và Bùi Chu – Phát Diệm được lập thành khu tự trị được trang bị vũ
khí.
Mặt khác, chính bản thân cộng đồng không thờ
Chúa cũng không ai muốn sinh sống nơi được cho là đất thuộc về các giáo
xứ, họ đạo vì ở đây chắc chắn là họ không được “đón chào”! Điển hình như
chùa Hiển Quang nằm trong địa phận của giáo xứ Vinh Sơn, Quận Tân Bình,
Tp. HCM bị đốt vào năm 2005 vì dám trương..tấm bảng tên chùa! Lại còn
có một vị giáo dân ngang nhiên tuyên bố: “Một đất không thể có hai
vua!”. Trên nguyên tắc pháp lý thì không có sự kỳ thị tôn giáo, mọi công
dân có quyền sinh sống trên toàn lãnh thổ nơi không bị cấm, nhưng trên
thực tế, những người không có đạo khi sống chung với cộng đồng giáo dân
trong giáo xứ của họ thường bị ngấm ngầm “tẩy chay” hay gặp nhiều phiền
toái không đâu khác mà khó có thể qui kết là kỳ thị được. Đây cũng là
một thứ “luật” bất thành văn mà ai đã từng sống chung với họ đều có kinh
nghiệm và cảm nhận được.
Hầu hết các tín đồ Công giáo đều rất tích
cực trong việc mở rộng nước Chúa bằng mọi phương tiện có được, từ việc
tuyên truyền “nhảm nhí” đơn giản như chỗ này có bà Maria khóc hay “phát
sáng”, chỗ kia có ông cha “tử đạo” linh thiêng “cầu gì được đó”, tinh vi
hơn là trong việc lồng ghép việc truyền đạo trong các hoạt động xã hội
v.v.. nhằm gia tăng số lượng giáo dân, giáo xứ trên toàn lãnh thổ hoặc
tiến hành khiếu kiện đòi đất để mở rộng vùng hoạt động. Theo số liệu
của Vietnamese Missionaries in Asia, thống kê được cập nhật vào tháng 10
năm 2000, số lượng giáo xứ ở Việt Nam là 2,166, theo ông Trưởng Ban tôn
giáo Chính phủ Nguyễn Thế Doanh, năm 2007 có thêm 300 giáo xứ được
thành lập mới, nâng tổng số giáo xứ đã lên đến con số 3,000! Như vậy từ
năm 2000 cho đến 2007 số giáo xứ tăng thêm 834 đơn vị!
Số lượng giáo xứ tăng cũng không hoàn toàn
có nghĩa là do số lượng giáo dân tăng nhiều, mà một trong những lý do đó
là chia tách nhỏ ra để dễ quản lý, mà nếu đây là con số chính xác thì
với tốc độ “tằm ăn dâu” này thì đến năm nào sẽ tràn ngập các biển, bảng
tên giáo xứ, giáo họ được trương cắm trên toàn quốc? Đây là một chiến
thuật, và các biển, bảng là công cụ truyền đạo thầm lặng đầy hiệu quả,
vì khi một giáo xứ được thành lập mới, thì có thêm ít nhất là một bảng
tên giáo xứ được cắm lên để xác định “lãnh địa”. Sự xuất hiện quá nhiều
bảng tên giáo xứ tác động không nhỏ đến cách nhìn nhận của người dân,
người bình dân đơn giản nghĩ rằng chắc đây là một tôn giáo tốt nên càng
lúc càng phát triển, phải lập thêm nhiều giáo xứ mới để đáp ứng nhu cầu
đông đảo của người dân cải đạo! Đây cũng là một hình thức truyền giáo
tinh vi bằng cách lập đi lập lại một hình ảnh để in sâu vào tâm thức mọi
người.
Tôi liên tưởng đến “chiến thuật” này thông
qua một sự kiện tình cờ. Vào dịp lễ Giáng sinh năm 2007, tôi đến thăm
một người bạn ở quận Gò Vấp, giăng ngang cổng chào đường vào khu phố là
tấm băng-rôn với hàng chữ “Giáo Xứ L.S - Mừng Chúa Giáng Sinh”. Tôi đinh
ninh rằng bạn sống trong khu phố đạo. Nhân dịp Đại Lễ Tam Hợp Vesak 2008
vừa qua, tiện dịp ghé thăm bạn, tôi thấy nhiều gia đình giăng cờ Phật
giáo, treo đèn, kết hoa đón mừng Phật Đản trong khu phố. Hỏi thăm bạn,
bạn cười đáp rằng ở khu phố này chỉ có một vài nhà có đạo, dân khu này
hầu hết là các gia đình trước ở nội thành, nhà bị giãi tỏa, giãn ra đây
mua đất xây dựng, lập thành khu phố mới, nhưng khu vực này lại nằm trong
địa phận giáo xứ nên năm nào họ cũng cố giăng cái băng-rôn “Mừng Chúa
Giáng Sinh” ở cổng chào của khu phố cho bằng được. Không riêng gì khu
phố này, nơi nào thuộc giáo xứ là họ đều cố treo băng-rôn, biển, bảng và
giăng đèn màu nhấp nháy suốt đêm, có nơi còn làm hang đá rất bắt mắt,
bất kể tỷ lệ “lương-giáo” ra sao! Bạn tôi còn khôi hài bảo đây là một
phương thức truyền giáo “trực quan sinh động”, thêm vào đó là ngày hai
buổi gióng giả tiếng chuông của gần mươi cái nhà thờ trong khu vực này
như nhắc nhở! Thành lập giáo xứ mới hay treo khống bảng tên giáo xứ đều
có “ý đồ” và tiềm ẩn ước vọng “toàn tòng” cho Việt Nam, đó là một chiến
thuật tốt để quảng bá và phô trương đạo! Một cách phân định “giang sơn”
của mình đơn giản như con cún ghếch chân “tè” vào gốc cây hay chân tường
để xác định lãnh thổ!
Sự phân định vùng trách nhiệm quản lý giáo
dân là quyền tự do tín ngưỡng và là công việc nội bộ của Giáo Hội Công
Giáo Việt Nam, một hệ thống tổ chức bản sao mô hình tổ chức của giáo hội
mẹ, được nhà nước công nhận, tuy nhiên, tất cả các biểu hiện tôn giáo
như những bảng tên giáo xứ, giáo họ hay biểu tượng của đạo v.v.. chỉ hợp
pháp khi trương, cắm trên phần đất thuộc quyền sở hữu đất đai tôn giáo
được nhà nước công nhận, ví dụ như đặt trước cổng nhà thờ hay trong phạm
vi của khuôn viên chủng viện, nhà thờ thuộc địa phận giáo xứ, như vậy sẽ
thể hiện được sự tôn trọng đối với cộng đồng dân cư không thờ Chúa
khác, cũng như hạn chế sự lạm dụng để phô trương nơi công cộng. Hiện nay
có một số nơi, thay vì trương bảng tên của khu phố hay phường khóm lại
thay bằng bảng tên của giáo xứ, giáo họ. Các bảng này không thể thay thế
cho hệ thống phân định địa giới hành chính quốc gia.
Những hiện tượng nêu trên chỉ là phần ngọn
của vấn đề “Phạm Nhan” (*). Nhà nước không thể cứ phải mãi đối phó với
những vấn nạn trên với bao nhiêu phát sinh phức tạp từ cái gốc Chúa trời
này gây ra, từ chuyện xưa như cấu kết với thực dân Pháp rồi Mỹ, đến
chuyện nay, chuyện bọn phản động Dega Tin lành rồi đến việc ông Lý, ông
Đài đến bà Nhân, việc chưa xong đến lượt ông tổng Kiệt, rồi chuyện đòi
đất từ bắc vào nam, từ thế lực bên ngoài đến nội ứng bên trong, rồi sẽ
còn những gì xảy ra nữa? Tất cả các chuyện rối rắm này không phải tự
chúng sinh ra, mà chúng chỉ là những con rối do thế lực bên ngoài giựt
dây để kích động, vì vậy cần phải chặt đứt cài vòi bạch tuộc này. Đến
lúc nào người Công giáo Việt Nam mới cần phải tự hỏi rằng tại sao lại cứ
phải vái vọng về đất nước Vatican kia, mà quên rằng đất nước mình là một
đất nước có cả ngàn năm văn hiến!
SG, 7-2008
Nguyễn Trí Cảm
(*) Theo truyền thuyết, tên “phù thủy”
của quân Nguyên này bị Đức Trần Hưng Đạo bắt trong trận thủy chiến Bạch
Đằng năm 1288, khi bị xử chém, chặt đứt đầu này là y lại mọc ra đầu khác.
Sau vì có thần báo mộng bày cho cách bôi phân gà sáp vào đao nên mới chém
được đầu Phạm Nhan.