Luật sư
Nguyễn Hữu Thống
|
Mới đây, Người
Việt online đăng bài của “Luật sư” Nguyễn Hữu Thống về
Hiệp định Geneva 1954. Hẳn tôi đã im lặng để ông Thống
múa bút, như đã im lặng bấy lâu, nếu ông Thống không
nhắc đến chi tiết về việc ký kết Hiệp ước Geneva trong
tập Việt Nam Niên Biểu I-B: 1947-1963 của tôi. Và, vì
ông Thống không là người học sử, lại cũng không phải một
chuyên gia về công pháp quốc tế, tôi sẽ rất giới hạn
trong những chi tiết mà ông Thống đề cập.
Trước hết, ông
Thống cho rằng Việt Nam Niên Biểu là “sách diễn giải về
lịch sử.” Ông Thống dùng chữ không chỉnh rồi.
Niên
Biểu là sách ghi chép các biến cố lịch sử hàng
ngày.
Nó
chẳng hề diễn giải các biến cố ấy. (Phần diễn giải về
Hiệp định Geneva, trên thực tế, là một trong 5 tiểu luận
in trong tập Cuộc thánh chiến chống Cộng dưới bút hiệu
Chính Ðạo) Hiệp ước Geneva đã chính thức ký vào lúc 1
giờ sáng ngày 21 tháng 7 năm 1954; nhưng vì để giúp Thủ
tướng Mendès - France giữ được lời hứa là sẽ hoàn tất
việc ký kết hiệp ước trong vòng 4 tuần lễ sau ngày lên
cầm quyền (23 tháng 6 năm 1954), các đại biểu đồng ý vặn
ngược kim đồng hồ để trên danh nghĩa nó được hoàn tất
trong ngày 20 tháng 7 (tại Geneva), tức hạn chót của 4
tuần lễ mà ông Mendès-France đã tuyên bố trước Quốc Hội.
Trong Niên
Biểu, tôi ghi Hiệp ước Geneva ký kết lúc 1 giờ sáng ngày
21 tháng 7. Ðây là thời điểm địa phương; tương đương với
khoảng 8 giờ sáng ngày 21 tháng 7 tại Việt Nam . Ðó là
một sự thực lịch sử, còn ghi lại trong hồ sơ Bộ ngoại
giao nhiều nước. Tôi nghĩ ông Thống, người thích ziết
luật pháp Việt Nam cùng công pháp quốc tế, có lẽ biết
rất rõ các chi tiết này, có gì sai trái đâu mà ông Thống
thắc mắc?
Còn việc người
ta sửa chữa lại thành 20 tháng 7, đó là trò chơi chính
trị và ngoại giao của các cường quốc. Chính vì cái bản
chất “luật pháp trong tay người mạnh nhất” (la loi du
plus fort) này mà điều khoản chính trị của Hiệp định
Geneva (tổng tuyển cử vào tháng 7/1956) đã không được
tôn trọng; vĩ tuyến 17 biến thành ranh giới Bắc-Nam suốt
21 năm dài; và rồi phe nhóm ông Thống ở hải ngoại
khăng khăng đòi hỏi chế độ
Cộng Sản Việt Nam phải rút về phía Bắc vi tuyến 17 để .
. . tổ chức tổng tuyển cử trở lại!
Riêng phe miền
Nam thì chọn ngày 20 tháng 7 làm ngày quốc hận có lẽ vì
những người phụ trách cơ quan tuyên truyền lười biếng,
hoặc không biết tính toán sự khác biệt thời gian giữa
Geneva và Sài Gòn, chỉ lập lại cái thời điểm 20 tháng 7
ấy như một con vẹt. Hơn nữa, đã tuyên truyền thì cần gì
chính xác, có lẽ họ nghĩ vậy. Bởi thế mới có việc bịa ra
chi tiết Ngoại trưởng Trần Văn Ðỗ khóc để phản kháng
việc ký Hiệp định, v.. v... Trong khi đó, dấu diếm dư
luận một sự thực chua chát:
Ðiều kiện tiên quyết của Hồ Chí
Minh và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
[VNDCCH] là chỉ thương
thuyết với Pháp, tảng lờ phe Quốc Gia Việt Nam
[QGVN].
Nếu không có sự
can thiệp của Liên bang Mỹ, cùng sự nhân nhượng của Liên
Sô và (2) Trung Cộng, Pháp
chưa hẳn đã được cắt nhượng tới vĩ tuyến 17.
Các tư liệu văn khố thế giới đã mở ra cho các nhà nghiên
cứu. Nếu ông Thống có cơ hội đọc các tài liệu văn khố về
việc ký kết Hiệp ước Geneva 1954, không chỉ y cứ suy
luận của ông trên thứ cảm nhận sử học thô thiển
và đầy sai lầm (simplistic and erronous
perception of history), hẳn ông Thống tránh được thái độ
“đười ươi cầm ống lịch sử” phản ảnh qua bài viết của
ông.
Là một người
cùng khóa 16 trừ bị Thủ Ðức, từng gặp ông Thống đôi ba
lần trong bệnh xá, tôi muốn nhắc nhở ông Thống một điều:
Nếu muốn bàn về Hiệp định Geneva, không thể sử dụng các
tài liệu tuyên truyền đầy sai lầm xa xưa.
Không thể giữ thái độ ngựa vằn
húc đầu vào bụi rậm, đà điểu vùi mặt dưới cát. Phải đối
diện sự thực lịch sử với sự lương thiện và can đảm trí
thức.
Thứ hai, chi
tiết “20 tháng 7” hay “21 tháng 7” chỉ là vấn đề phụ
thuộc (dù phải đề là ngày 21 tháng 7 mới chính xác hơn).
Là một “Luật sư,” đáng lẽ ông Thống phải biết rằng để
phân tích một Hiệp ước (hay một giao kèo, văn khế quốc
tế nào), các luật gia và sử gia cần khảo sát thêm tiến
trình đàm phán để đạt tới văn kiện cuối cùng. Các điều
khoản căn bản của Hiệp định Geneva đã được thỏa thuận
vào chiều ngày 20 tháng 7 về cả ranh giới khu vực tập
trung tạm thời quân Pháp và VNDCCH (làm gì có Bắc Việt ở
đây?), cũng như thời hạn Tổng tuyển cử trong vòng hai
năm. Sở dĩ việc ký kết phải kéo dài vì các thủ tục giấy
tờ và kỹ thuật, v.. v... Lập luận rằng vì Việt Nam Cộng
Hòa, hậu thân của Quốc Gia Việt Nam, không được ký vào
Hiệp ước Geneva và từ chối ký vào bản Tuyên ngôn chung
ngày 21/7/1954 nên không tôn trọng Hiệp ước là lối ngụy
biện dựa theo luật kẻ mạnh (đúng hơn luật của ông
chủ mạnh là Liên bang Mỹ), đồng thời chứng tỏ sự
thiếu hiểu biết đích thực về Hiệp định Geneva. Ông Thống
nên tìm đọc các tài liệu nguyên bản cùng các nghiên cứu
chuyên nghiệp về Hiệp định này trước khi phát ngôn hay
đặt bút.
Tài liệu văn
khố thì không tham khảo, chỉ tìm đọc những tài liệu do
người khác nghiên cứu, rồi nhắm mắt lại mà phê bình
những gì không hợp với
niềm tin và sự hiểu biết chật hẹp của mình không phải là
thái độ lương thiện trí thức. Tệ hại hơn nữa, mang sự
hiểu biết sai lầm của mình ra ngụy biện cho những lời
tuyên truyền đã trở thành dĩ vãng còn là một thứ tội ác,
một hành động mọi rợ văn hóa [cultural barbarism],
làm ung hoại tuổi trẻ và hậu thế. Chúng
ta đang ở vào thế kỷ XXI, nhìn lại chuyện cũ, cần có đầu
óc tỉnh táo và lối suy luận khoa học, tôn trọng sự thực
sử học.
Thứ ba, về
những điều ông Thống so sánh Hiệp ước Geneva với “Hiệp
định Elysee 8/3/1949” hay Hiệp định Paris, 27/1/1973,
tôi quả thực rất thất vọng. Ông Thống có buồn tôi cũng
chịu, nhưng không thể không nói thẳng một điều: Ông biết
quá ít về lịch sử cận đại Việt Nam , vậy mà cứ thích
ziết sử
và ziết luật.
Ông Thống nên đọc lại các văn kiện về cái gọi là “Hiệp
định Elysée” đi. Nó chỉ là cuộc trao đổi thư tín giữa
Tổng thống Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Ðại, giữa lúc
Mao Trạch Ðông mới chiếm xong Bắc Kinh, hầu có thể tạo
ra một chế độ chống Cộng bản xứ, quốc tế hóa cuộc tái
xâm lăng của Pháp bằng chiêu bài mới: Cuộc thánh chiến
chống Cộng. Gọi là “Hiệp định” không chỉnh, và thật buồn
tủi cho nguyên tắc một “Hiệp định.” Vì thế các luật gia
và sử gia đều để hai chữ “Hiệp định” trong dấu ngoặc
kép. Và mãi cho tới ngày 4 tháng 6 năm 1954, Quốc Gia
Việt Nam mới được chính phủ Laniel cho hoàn toàn độc lập
với Pháp, qua những văn kiện này chỉ được “paraphé” [ký
tắt], chưa bao giờ được Quốc Hội Pháp phê chuẩn! Nói
cách khác, vai trò của Quốc Gia Việt Nam không đơn giản
như ông Thống (3) hoang tưởng đâu. Ðọc bài ông, tôi nhớ
đến lời dạy của Socratus: “Ðiều đáng xấu hổ nhất
là cứ tưởng mình biết điều mình thực sự chẳng biết gì
cả!”
Hiệp định Paris
ngày 27 tháng 1 năm 1973 cũng vậy. Trên thực tế nó chỉ
là hiệp ước song phương
giữa Liên bang Mỹ và VNDCCH. Phe VNCH chỉ
được xếp hạng tương đương với Chính phủ Lâm Thời Miền
Nam Việt Nam , tức hậu thân của Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng Miền Nam Việt Nam . Ngắn và gọn, cả hai phe
Quốc-Cộng miền Nam chỉ là thứ mặt hàng bày ra cho đẹp để
nước Mỹ có thể rút quân khỏi miền Nam một cách danh
chính ngôn thuận.
[Quyết định triệt thoái này, theo tôi, là một quyết định
khôn ngoan
của
chính phủ Johnson và Nixon: Nước Mỹ chỉ nên giúp đỡ
những chế độ tiền đồn đủ
sức
đứng hai chân trên mặt đất (như trường hợp Nam Hàn và
Tây Ðức)].
Thứ tư, ông
Thống chẳng biết gì nhiều
về Hồ Chí Minh hay Ðảng CSÐD trong giai đoạn 1944-1949
mà cứ thích luận bàn và buộc tội. Ðiểm
yếu nhất trong lập luận của ông Thống là cuộc chiến Ðông
Dương đã xảy ra vì HCM là một cán bộ Cộng Sản Quốc Tế
[CSQT] thuần thành. Tài liệu văn khố Nga cho thấy HCM
chẳng bao giờ được coi như một cán bộ CSQT thuần thành.
Việc khai tử Nguyễn Ái Quốc vào mùa Hè 1932, và những
năm tháng “ăn không ngồi rồi” của “Lin” (tức Lâm, bí
danh mới của Nguyễn Sinh Côn từ 1934 tới 1938) trên đất
Nga là một bằng chứng mà chỉ từ thập niên 1990 thế giới
mới biết rõ. Nếu quả thực là một cán bộ Cộng Sản Quốc Tế
thuần thành, liệu HCM có quyết định giải tán Ðảng CSÐD
vào ngày 5 tháng 11 năm 1945 hay chăng? Nên nhớ đây là
việc làm đầu tiên trong khối Cộng Sản, trước khi xảy ra
sự sụp đổ của đế quốc Nga.
Thêm nữa, ông
Thống có biết nhờ ai mà HCM lên nắm quyền vào tháng
8/1945 hay chăng? Chính là cơ quan OSS của Mỹ và văn
phòng Việt Cách của Ðệ tứ Quân Khu của Tưởng Giới thạch
đấy.
Việc HCM
phải ngả theo khối CSQT từ hạ bán năm 1949, theo sự
nghiên cứu của tôi, là một việc chẳng đặng đừng.
Vì nhu cầu sinh tồn, HCM đã phải yêu cầu khối CSQT nhìn
nhận chế độ VNDCCH, để có khả năng chống lại lực lượng
viễn chinh Pháp mới được tăng cường viện trợ Mỹ và ý
thức hệ “thánh chiến” qua thánh dụ của Giáo hoàng Pius
XII là sẽ rút phép thông công bất cứ ai có liên hệ
với Cộng Sản!
Việc chấp nhận chia đôi Việt Nam thành hai vùng tập
trung quân sự tạm thời năm 1954, do áp lực của cả ngũ
cường, là một việc chẳng đặng đừng khác, giữa thế giới
luật kẻ mạnh. Với HCM, Hiệp định Geneva 1954 chưa là
chiến thắng hoàn toàn, nhưng cũng đã là một chiến thắng
lớn về chính trị cũng như ngoại giao: hoàn toàn kiểm
soát được nửa nước, chuẩn bị cho ngày chiếm phần đất còn
lại qua tổng tuyển cử dự trù vào tháng 7/1956.
Hơn nữa, điều
mà ông Thống và những người phụ trách tuyên truyền cho
miền Nam khó thể chối cãi trước tòa án lương
tâm và lịch sử là chính ông Ngô Ðình Diệm đã quyết chia
đôi đất nước thành hai quốc gia, sau khi truất phế Bảo
Ðại, lập ra chế độ VNCH vào (4) tháng 10/1955.
Sự
thực lịch sử này cần được nhấn mạnh; dù vấn đề công và
tội của
việc
phân chia đất nước sẽ có hậu thế phán xét.
Nói cách khác,
lên án HCM chia cắt đất nước năm 1954 chỉ là một thủ
thuật tuyên truyền trái ngược hẳn với sự thực sử học.
Những người còn
đôi chút lương tâm và lương thiện trí thức, có thể nào
nhai lại mãi thứ truyền đơn, khẩu hiệu sai lầm, chỉ có
tác dụng nghịch này?
Phải thú thực,
tôi không rõ ông Thống đã tốt nghiệp luật sư ở Mỹ hay
chỉ là cựu Luật sư của Việt Nam Cộng Hòa. Tôi cũng không
rõ ông Thống có được huấn luyện chuyên nghiệp
về công pháp quốc tế hay chăng. Nhưng
một điều tôi có thể đoan chắc là kiến thức của ông Thống
về công pháp quốc tế, qua những điều ông đã viết, (1)
rất nông cạn; hoặc, (2) vì méo mó nghề nghiệp, ông đã
tảng lờ chứng từ lịch sử, ngụy biện cho vui.
Ðiều đáng trách
nhất của ông Thống, và nguyên cớ chính khiến tôi phải
lên tiếng, là cái tật bệnh ưa chụp mũ của ông. Thế nào
là lập luận “chính thống của Cộng Sản Bắc Việt?” Nói lên
sự thực sử học là Cộng Sản hay sao? Loại chụp mũ này đã
quá lỗi thời rồi, ngỡ
tưởng đã vùi chôn theo hai thi hài đẫm máu của anh em
ông Ngô Ðình Diệm-Ngô Ðình Nhu sáng ngày 2 tháng 11 năm
1963, hay thả trôi trên mặt sóng Thái Bình Dương sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975! Hơn nữa,
ông Thống biết chăng, chính anh em ông Diệm mới xứng
đáng với tội danh “Phiến Cộng” qua việc tìm cách móc nối
với Cộng Sản Bắc Việt trong hai năm 1962-1963. Vì thế,
họ Ngô đã phải trả cái giá xứng đáng cho các tội bội
phản và âm mưu bội phản theo hình luật VNCH, qua những
hành động mà Cố vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ McGeorge Bundy
gọi là “cơn điên rồ tập thể của một gia đình cai trị
chưa từng thấy từ thời các Nga hoàng.” (Xin đọc “Phiến
Công trong Dinh Gia Long,” trong Cuộc thánh chiến chống
Cộng của Chính Ðạo). Ngày xưa, khi còn được chế độ họ
Ngô ưu đãi, chưa bị gửi đi học khóa 16 trừ bị Thủ Ðức
tại bệnh xá quân trường, ông Thống có toàn quyền chụp mũ
người này Cộng Sản, kẻ kia “phiến Cộng” và đề nghị bỏ tù
họ hay mang ra xử bắn, đầy đi Côn Ðảo, hoặc tống vào các
trại cải huấn. Nhưng ngày nay, ở hải ngoại, trên chính
nước Mỹ, ông không thể chụp mũ giới luật gia và nghiên
cứu sử học chân chính là Cộng Sản hay làm lợi cho Cộng
Sản.
Ðó là một
thứ bệnh tâm thần, hoặc
một sự vu khống có thể bị truy tố ra trước pháp đình.
Suy nghĩ về trường hợp ông Thống, tôi nghĩ
tất cả chỉ do sự ngu dốt sặc sỡ
và thói điêu ngoa hào nhoáng mà ra. Một
bạn văn của tôi, Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, đã có cả một
tập sách thảo luận với ông Thống cùng nhóm cựu Cần Lao
của ông về thứ kiến
thức giả ngụy và thái độ đười ươi cầm ống
lịch sử. (Xin xem Stê-pha-nô Nguyễn Mạnh Quang, Nói
chuyện với tổ chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation [Ða
Nguyên, 2004])
Houston , 1/8/2004
Chính Ðạo
NDVN, ngày 3/10/09