●   Bản rời    

Tội Ác Của Nhà Ngô - Cảnh Báo Về Bàn Tay Của Giáo Hội La Mã

Tội Ác Của Nhà Ngô - Cảnh Báo Về Bàn Tay Của Giáo Hội La Mã

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/NMQ110.php

04-Mar-2020

Lần về thăm Việt Nam vừa qua (tháng 2, 2020), chúng tôi được hân hạnh gặp gỡ một số bạn đọc thân tình. Các bạn ấy và chúng tôi cùng trao đổi cho nhau những quan tâm về lịch sử trong giai đoạn mà gần đây đã có nhiều tranh cãi. Điều này làm hoang mang lớp người trẻ, lớn lên trong giai đoạn mà lịch sử của cuộc chiến bi thảm 1945- 1975 vừa khuất vào màn đêm của quá khứ mịt mù. Một bạn đọc đặt ra câu hỏi một cách rõ rệt: Chúng tôi biết Giáo Sư đã viết rất nhiều về chế độ nhà Ngô, xin GS tóm tắt những tội ác của ông Ngô Đình Diệm đối với dân tộc và đất nước Việt Nam?

Bài viết này gián tiếp giải đáp câu thắc mắc trên đồng thời kêu gọi sự cảnh giác chung về bàn tay của Giáo Hội La Mã, một ngoại nhân, chân trong chân ngoài. Họ luôn rình rập mọi nơi mọi lúc để tìm cơ hội can thiệp, lèo lái mọi mặt, từ văn hóa, xã hội, đến kinh tế, ngoại giao, và quyền chính của nước ta,... đồng nghĩa với sự đánh mất chủ quyền vào tay ngoại nhân trong danh nghĩa tôn giáo.

Gồm có:

1. Dẫn Nhập

2. Bản Chất Và Những Hành Động Dã Man Khi Các Con Chiên Ki-tô Có Quyền Lực Trong Tay

3. Tội Ác Diệt Chủng Và Tiêu Diệt Phật Giáo Của Tên Bạo Chúa Tam Đại Việt Gian Ngô Đình Diệm

4. Hủy Hoại Sinh Lực Các Thế Hệ Trẻ Và Tương Lai Của Dân Tộc

5. Kết Luận

I. DẪN NHẬP

Ông Ngô Đình Diệm có thể được coi là  một con chiên ngoan, tiêu biểu cho tập thể con chiên người Việt. Sách sử và các chứng nhân đương thời đều khẳng định rằng ông rất cuồng tín (xem Tiết Mục V “Đặc Tính Cuồng Tín Của Ngô Đình Diệm”  (http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH63_1d.php)

Lịch sử và kinh  nghiệm thực tế cho thấy rằng, những hạng người cuồng tín về tôn giáo dễ đi đến tàn ác. Đặc biệt là các lãnh đạo cuồng tín về độc thần giáo như hệ phái Ki-tô La Mã (Roman Christianity) hay Ki-tô Tin Lành, đều trở thành những tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại khi chúng có quyền lực trong tay. Rõ ràng nhất là  trong số 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại được nêu lên đích danh trong sách Tyrants History’ s 100 Most Evil Despots & Dictators (London: Arturus, 2004) của tác giả Nigel Cawthorn, có tới hơn 65% những tên bạo chúa khốn nạn này là những tên con chiên Ki-tô  cuồng tín. Đó là tên bạo chúa như  Hồng Y Cesare Borgia (1475-1507), một trong những người con của Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503), Mary I (1516-1588) của nước Anh, (Hoàng Hậu Catherine de' Medici (1519-1589) của nước Pháp, Louis XVI (1754-1793) của nước Pháp, Juan Manuel de Rosas (1793-1877) của nước Á Căn Đình, Ferdinand II (1452-1516) của tiểu quốc Naples and Sicily, Leopold II (1835 -1909 ) của nước Bỉ, Juan Peron (1895-1974 ) của nước Á Căn Đình, Lý Thứa Vãn (1875-1965) của Nam Hàn, Ferdinand Marcos (1917-1989) của Phi Luật Tân, Ngô Đình Diệm (1897-1963) của miền Nam Việt Nam, Francisco Franco (1892-1975) của nước Tây Ban Nha, v.v…Vấn đề này độc giả có thể tìm đọc cuốn sách trên đây để kiểm chứng.  Như vậy, rõ ràng là Giáo Hội La Mã hay đạo Ca-tô là “cái lò” sản xuất ra những tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại!

II. BẢN CHẤT CỰC KỲ DÃ MAN KHI CÁC CON CHIÊN KI TÔ NẮM QUYỀN LỰC TRONG TAY

Do cái bản chất siêu cuồng tín và ác độc nhất trong lịch sử nhân loại như vậy, cho nên khi có quyền lực trong tay, bọn con chiên Ki-tô sẽ gây ra những cuộc tắm máu vô cùng khủng khiếp. Lịch sử cho thấy rõ như vây. Dưới đây là những bằng chứng bất khả phủ bác cho sự kiện này:

1.-/ Chuyện tín đồ Ca-tô người Pháp tàn sát những người Tin Lành trong nước Pháp. Chuyện này được sách Smokescreens ghi lại như sau:

“Ngày 22-8-1572 (Nhiều sách khác ghi là ngày 24/8/1572) bắt đầu xẩy ra một cuộc tàn sát đẫm máu ở nhà thờ St. Bartholomew. Đây là một trong những vụ tàn sát ghê gớm để tiêu diệt phong trào Tin Lành ở Pháp. Pháp Hoàng đã khôn khéo sắp đặt cuộc hôn nhân giữa người em gái của nhà vua với Đô Đốc Coligny, một nhân vật lãnh đạo của Tin Lành. Một bữa tiệc lớn được tổ chức ăn mừng lễ cưới. Sau bốn ngày, quân lính của tân lang Coligny được cho ăn uống no say, một hiệu lệnh được ban hành.

Đô Đốc Gaspard De Coligny, lãnh đạo giáo phái Tin lành Huguenots

Cuộc tàn sát man rợ ở nhà thờ St Bartholomew. Tranh sơn dầu trên gỗ của FrancoisDubois

12 giờ đêm hôm đó, tất cả nhà cửa của những người Tin Lành ở trong thành phố đều bị bắt buộc phải mở cửa. Đô Đốc Coligny bị giết. Thi hài của ông bị liệng qua cửa sổ ra ngoài đường. Thủ cấp của ông bị cắt đem gửi cho giáo hoàng. Hai cánh tay và bộ phận sinh dục của ông cũng bị cắt. Rồi chúng lôi kéo phần còn lại của xác chết đi khắp các đường phố cả ba ngày trời. Sau đó, chúng treo ngược cái xác chết không đầu, không tay, không bộ phận sinh dục ở một nơi ngoại ô thành phố. Đồng thời, chúng còn tàn sát nhiều người Tin Lành khác nữa. Trong 3 ngày, hơn mười ngàn dân Tin Lành (ở Paris) bị giết hại. Những xác chết này bị liệng xuống sông và máu nạn nhân lênh láng chẩy thành dòng ra tới tận cửa sông giống như một dòng máu. Trong cơn hung hãn này, chúng có thể giết cả những người đồng đạo của chúng nếu nạn nhân bị nghi ngờ là không mạnh tin vào Giáo Hoàng. Từ Paris, bịnh dịch tàn sát vì lòng cuồng tín như vậy lan tràn ra khắp nơi trong nước Pháp. Tính ra có tới hơn tám ngàn nạn nhân bị sát hại. Rất ít người Tin Lành thoát khỏi tai họa trong cơn hung hãn của chúng." (3)  

2.-/ Chuyện tín đồ Ca Tô La Mã ở Ái Nhĩ Lan tàn sát người Tin Lành: Chuyện này cũng được sách Smokescreens ghi lại với nguyên văn như sau:

 “Một vụ tàn sát người tập thể tương tự như vậy cũng xẩy ra ở Ái Nhĩ Lan vào năm 1641. Bọn tín đồ Gia-tô chủ mưu chọn ngày 23 tháng 10 là ngày lễ kỷ niệm Ignatius Loyola, người sáng lập ra Dòng Tên: Chúng dự trù một cuộc tổng nổi dậy trong toàn quốc. Tất cả những người theo đạo Tin Lành đều phải bị giết ngay tức thì. Để làm cho những người Tin Lành không chú ý đến việc làm của chúng, chúng tỏ ra rất là tử tế với họ. Sáng sớm ngày vùng dậy, bọn chủ mưu đều có võ trang đi lùng bắt những người Tin lành. Gặp người nào là chúng giết người đó, không một chút thương xót. Những người Tin Lành này chưng hửng trong kinh hoàng. Họ đã sống trong yên bình từ nhiều năm. Giờ đây, gặp cảnh ngộ như vậy, họ không biết phải chạy trốn đi đâu. Những kẻ tàn sát họ lại là những người láng giềng, bạn bè và bà con của họ. Phụ nữ bị trói vào cọc (cột) lột trần đến thắt lưng, vú bị cắt đứt ra để cho máu chẩy cho đến chết. Những đàn bà mang thai thì bị trói và treo vào cành cây. Chúng mổ bụng nạn nhân lấy thai nhi ra để cho chó ăn. Trong khi đó thì những ông chồng của nạn nhân bị cưỡng bách phải đứng nhìn những cảnh dã man như vậy.” (4)

Ảnh của: TopFoto, "Violence during the 1641 Rising" 

Qua cuộc tàn sát người Tin Lành ở Ái Nhĩ Lan trên đây, chúng ta mới hiểu được tại sao anh em ông Ngô Đình Diệm và bọn Cần Lao Công Giáo lại chọn ngày 23/10/1955 để làm ngày truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại.

3.-/ Chuyện Vua Louis XVIII (trị vì trong những năm 1814-1824) và Vua Charles X (trị vì trong những năm 1824-1830). Hai tên bạo chúa Ki-tô khốn nạn này đã chủ trương và khởi xướng phát động những cuộc tắm máu vô cùng khủng khiếp nhất trong lịch sử nước Pháp. Cuộc tắm máu này kéo dài tới 16 năm trời. Với một thời gian dài như vậy, tất nhiên là con số nạn nhân bị tàn sát phải lên đến hàng triệu người. Những cuộc tắm máu này được sách sử ghi nhận là “Cuộc Khủng Bố Trắng” (The White Terror), và đã được chúng tôi trình bày khá đầy đủ trong Tiết Mục 6 “Chuyện Hai Ông Vua Gia Tô Louis XVIII  Và Charles X Trả Thù Khi Phục Hồi Được Quyền Lực(5)

Vua LOUIS XVIII (1755–1824) và Vua CHARLES X (1757–1836) của Pháp

4.-/ Chuyện tín đồ Gia Tô Croatia tàn sát những người thuộc các tôn giáo khác ở Croatia trong những năm 1941-1945:

a.- Sử gia Avro Manhattan ghi lại trong cuốn The Vatican Holocaust như sau:

"Trong thời kỳ Croatia là quốc gia độc lập và lấy đạo Gia Tô làm quốc giáo, có trên 700 ngàn đàn ông, đàn bà và trẻ em bị giết hại. Nhiều người bị hành hình, bị tra tấn, bị bỏ cho chết đói, bị thiêu sống cho đến chết. Hàng trăm người bị cưỡng bách phải theo đạo Gia Tô (Thiên Chúa La Mã). Các ông linh-mục của Giáo Hội La Mã làm quản giáo tại các trại tù tập trung; nhiều tu sĩ khác của Giáo Hội là sĩ quan trong các đơn vị quân đội đã phạm tội ác tàn bạo. 700 ngàn trong tổng số dân có mấy triệu người tức là khoảng 1/3 dân số bị các đoàn lính dân quân Gia Tô giết hại." (6)

b.- Đồng thời, sử gia Avro Manhattan viết trong sách “Vietnam, Why Did We Go?” như sau:

Tổng Giám mục Aloysius Stepinac của Zagreb gặp nhà lãnh đạo

Ustasha Ante Pavelic năm 1941

"Ante Pavelich, người lãnh đạo mà cũng là người chủ mưu và tạo nên quốc gia Croatia độc lập theo đạo Gia Tô. Ông ta đã dùng chính sách khủng bố cũng như tinh thần cực đoan về chính trị và lòng cuồng đạo với tất cả những tàn bạo hơn cả hai nhà độc tài bảo trợ cho ông ta là Benito Mussolini và Adolf Hitler. Trước khi nước Nam Tư bị phân hóa, ông ta là người chủ mưu trong vụ ám sát vua Alexander (của nước Nam Tư) và các vụ giết hại các nhà chính trị khác. Nhờ vậy mà ông ta đã tạo nên được quốc gia Ustashi Croatia độc lập siêu Gia Tô giáo và thiết lập một chế độ độc tài siêu hơn cả chế độ độc tài Đức Quốc Xã. Ông ta được Giáo Hoàng Pius XII che chở và giúp đỡ bằng các phương tiện ngoại giao và tài chánh nhằm để đạt được cứu cánh của Giáo Hội La Mã. Khi quốc gia Ustashi Croatia sụp đổ (vào đầu năm 1945), Pavelich chạy vào ẩn trốn ở trong Tòa Thánh Vatican, rồi giả dạng như là một tu sĩ. Sau đó, ông ta trốn sang nước Á Căn Đình." (7)

c.-  Sách Smokescreens ghi lại. Chuyện như sau:



vài kiểu giết người dã man của tín đồ Ca-tô ở Croatia

“Nạn nhân của bọn mật vụ Ustachi (đạo phiệt Gia-tô Croatia trong thời bạo chúa Ante Pevalich) không những bị tra tấn tàn nhẫn về thể xác, mà còn bị hành hạ đau đớn về tinh thần và lương tâm nữa. Một trường hợp vô cùng dã man và tàn ác chưa từng thấy như trường hợp dưới đây đã được ghi lại và phối kiểm qua nhiều nhân chứng có tuyên thệ: “Tại Nevesinje, bọn mât vụ Ustachi càn bắt hết tất cả cha mẹ (vợ chồng) và bốn người con của một gia đình người Serb (theo đạo Chính Thống). Người cha bị giam riêng ở một chỗ khác, người mẹ và 4 người con bị giam ở một chỗ khác. Suốt trong 7 ngày giam giữ, chúng không cho nạn nhân ăn uống gì hết. Rồi thì chúng mang đến cho người mẹ và 4 đứa con mỗi người một miếng thịt nướng khá lớn và nước uống thừa thãi. Sau nhiều ngày không được ăn uống, những người bất hạnh này ăn hết sạch miếng thịt nướng đó. Sau khi ăn xong, bọn mật vụ Ustachi mới nói với gia đình nạn nhân rằng đó là thị người cha của họ." (8)

5.-/ Chuyện ở Rwanda (Phi Châu). Nhà nước Vatican sử dụng bọn quạ đen và tập thể con chiên bản địa tàn sát hơn 800,000 người thuộc các tôn giáo khác ở  Rwanda trong mấy tháng giữa năm 1994. Dưới đây là một số tài liệu nói về thảm trạng này. Trước hết là bản tin phổ biến vào ngày 5/11/2000 trên mạng http:/www.vietnamdaily.com loan truyền như sau:

"Tin Quốc Tế.- Giám Mục Thiên Chúa Giáo Có Thể Bị Tử Hình Tại Rwanada: Kigali, Rwanda (TH).- Một công tố viên nói hôm Thứ Tư là ông đã yêu cầu lên án tử hình một giám mục Thiên Chúa Giáo La Mã về tội diệt chủng trong năm 1994 liên hệ tới các vụ tàn sát ít nhất nửa triệu người, gồm cả nhiều người bị chém tại các nhà thờ nơi họ chạy vào lánh nạn.

Giám Mục Augustin Misago, 56 tuổi, là chức sắc đầu tiên của Giáo Hội bị truy tố về tội diệt chủng liên hệ tới các cuộc tàn sát sắc dân thiểu số Tutsis trong 90 ngày. Giám Mục kêu vô tội về tội cáo buộc diệt chủng và các tội chống nhân loại.

Trong vụ xử gây căng thẳng quan hệ giữa Rwanda và Tòa Thánh Vatican, Giám-mục Misago bị cáo buộc đã đẩy ba linh mục và trên 10 học sinh tới chỗ chết vì không cho họ tá túc trong giáo xứ của giám mục.

TGM Augustine Misago bị ra tòa năm 1994

nhưng GM Misago được tha bổng

Kết từ phần buộc tội hôm Thứ Ba, công tố viên Edward Kayihura cũng yêu cầu Giám-mục Misago và chính phủ bồi thường 93,750 Mỹ kim cho các gia đình nạn nhân.

Các cuộc tàn sát bắt đầu hồi tháng 4/1994, khi ấy Giám-mục Misago là chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội ở giáo xứ Gikongoro nơi hàng chục ngàn người bị giết. Giám mục Misago là chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo trong số trên 20 linh mục và nữ tu bị truy tố về tội diệt chủng. Hai linh mục đã bị kết án tử hình.

Các cuộc tàn sát chấm dứt với chiến thắng của Mặt Trận Ái Quốc Rwanda do sắc dân Tutsi lãnh đạo lật đổ chính phủ của sắc dân Hutu

Trên 125,000 can phạm diệt chủng bị tù tại Rwanda. Trên 1500 người đã được đưa ra tòa xét xử và 300 người bị án tử hình." (9)

Rwanda là một quốc gia tí hon. Diện tích vỏn vẹn chỉ có 26,338 cây số vuông, và dân số là 8,196,000 (vào năm 1995) trong đó 65% theo đạo Kitô La Mã. Vốn là hai vùng đất Rwanda và Burundi cùng bị Đức chiếm làm thuộc địa từ thập niên 1890. Đức là quốc gia bại trận trong trận Đệ Nhất Thế Chiến. Năm 1919, Hội Quốc Liên cho hợp nhất hai vùng đất này thành xứ Rwanda và giao cho nước Bỉ (theo đạo Kitô La Mã) quản trị. Vì thế mà tín đồ Kitô La Mã mới lên tới 65%.

Về con số nạn nhân người Tutsis bị chính quyền đạo phiệt Da-tô tàn sát trên đây, ký giả Joe Lauria của tờ The Boston Globe ghi nhận là 800 ngàn người. Bài báo của ký giả này với tựa đề là "U.N.'s inaction blamed for Rwanda killings" U.S. Belgium also criticized in report on 1994 genocide in African country" được tờ The News Tribune (Tacoma) số ra ngày Thứ Sáu 17/12/1999 đăng lại như sau:

"New York: Vì Liên Hiệp Quốc đã không quan tâm đến những lời cảnh cáo nhắc đi nhắc lại về nạn tàn sát người tập thể diến ra ở Rwanda vào năm 1994, khiến cho 800 ngàn người Tutsisi và Hutus ôn hòa bi sát hại trong vòng chưa đầy 100 ngày. Đây là bản báo cáo của một ủy ban độc lập vào ngày Thứ Năm (vừa qua).

Bản báo cáo nói rằng, cộng đồng thế giới đã không ngăn chặn thảm trạng diệt chủng này và cũng không ngăn chặn cái nạn này ngay từ khi nó bắt đầu xẩy ra. Sự việc này bắt nguồn từ "sự thiếu tài nguyên và thiếu ý chí chính trị" cả trước và sau khi thiểu số người Hutus tiến hành việc tàn sát người Tutsus khởi đầu từ ngày 6 tháng 4 năm 1994.

Các chuyên viên điều tra nói rằng, ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan, người cầm đầu lực lượng duy trì hòa bình, Hoa Kỳ và Bỉ, tất cả đều phải chịu trách nhiệm về việc không chặn đứng thảm trạng giết người diệt chủng này. Bản báo cáo cho rằng Hoa Kỳ đã đặt vấn để tốn phí cho lực lượng duy trì hòa binh lên trên việc cứu sồng sinh mạng con người và tố cáo Bỉ đã triệt thoái quân đội quá mau, bỏ rơi hai ngàn người ở trường kỹ thuật và để mặc cho nhiều người bị sát hại.

Bản báo cáo ghi nhận lần thứ hai trong vòng hai tháng rằng Liên Hiệp Quốc nhìn nhận đã thất bại, không thể chặn đứng được thảm trạng tàn sát tập thể này mà đáng lý ra có thể ngăn chặn được. Trong một bản báo cáo nội bộ vào tháng 10, Liên Hiệp Quốc đã nhận trách nhiệm về thảm trạng tàn sát hầng ngàn tín đồ Hồi giáo người Bosnia trong năm 1995 ở Srebrebia, thuộc xứ Bosnia.

Trong lời tuyên bố hôm Thứ Năm (vừa qua), ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Annan nói rằng, "cả hai bản báo cáo - một của riêng tôi và một của ủy ban độc lập điều tra ở Rwanda - phản ảnh sâu xa sự quyết tâm trình bầy sự thật về những thảm trạng này." Ông đã yêu cầu cho điều tra vụ thảm sát ở Rwanda vào tháng 3. Ban điều tra bắt đầu làm việc vào tháng 6. Ủy ban này do Thủ Tướng Ingvar Carlson của nước Thụy Điển làm trưởng ban. Bản báo cáo dày 58 trang nói rằng lệnh của Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc ban hành cho lực lượng duy trì hòa bình ở Rwanda không đầy đủ và những điều ghi trong đó không được rõ ràng. Bản báo cáo cũng nói rằng các viên chức Liên Hiệp Quốc kể cả ông Tổng Thư Ký Annan đã không hành động gì sau khi nhận được bằng chứng rõ ràng về vụ diệt chủng có kế họach rất là chu đáo, và ông cựu trưởng đòan Liên Hiệp Quốc Boutros Boutros -Ghahi đã không thông báo cho Hội Đồng An Ninh biết về tín tức này.

Trong lời tuyên bố vào hôm Thứ Năm, ông Tổng Thư Ký Annan thú nhận rằng Liên Hiệp Quốc đã khoanh tay đứng nhìn trong khi thảm trạng diệt chủng dưới một hình thức thuần túy là tội ác ghê gớm nhất xẩy ra." Tất cả chúng tôi đềi cảm thấy hối hận sâu xa vì rằng chúng tôi đã không làm gì hơn để ngăn chặn tội ác này. Khi xẩy ra tội ác này có Quân Đội Liên Hiệp Quốc ở đó. Nhưng đạo quân này lại không nhận được lệnh và cũng không được trang bị những thứ cần thiết để thì hành nhiệm vụ ngăn chặn những hành động tội ác diệt chủng này. Nhân danh Liên Hiệp Quốc, tôi nhìn nhận sự thất bại này và xin bày tổ lòng hối tiếc và ân hận sâu xa của tôi về thảm trạng này."

(Nguyên văn bản tin bằng Anh ngữ: "New York.- The United Nations ignored repeated warnings of an impending massacre in Rwanda in 1994, paving the way for an orgy of ethnic killing that left 8000,000 Tutsis and moderate Hutus dead in less than 100 days, in an independent panel reported Thursday.

"The international community did not prevent the genocide, nor did it stop the killing once the genocide had begun," the report said. This stemmed from a "lack of resources and political will" before and after the massacre of Tutsis by the minority Hutus began Aptil 6, 1994.

U.N. Secretary Geneal Kofi Annan, then head of U.N. peacekeeping forces, the United States and Belgium all bear some responsibility for failing to stop the genocide, the investigators said. The report suggested the United States put controlling the cost of peacekeeping operations above saving lives and accused Belgium of pulling its peacekeeping troops out too quickly - at one point abandoning 2,000 people in a technical school and leaving many of them to be murdered.

The findings marked the second time in two months the U.N. has acknowledged failing to stop mass killings that could have been prevented. In an internal report in October, the U.N. accepted blame for the massacre of thousands of Bosnian Moslem men in 1995 in Srebrenia, Bosnia.

"Both reports - my own on Srebrenica and that of the independent inquiry on Rwanda - reflect a profound determination to present the truth about these calamities," Annan said Thursday in a statement. Annan requested the inquiry into the Rwanda massacre in March. The panel, which began work in June, was headed by former Swedish Prime Minister Ingvar Carlson. The 58 page report said the mandate the Security Council gave the U.N. peackeeping force in Rwanda was inadequate and its rules of engagement unclear. It said U.N. officials, including Annan, failed to act after receiving direct evidence of a carefully planned genocide, and former U.N. chief Boutros Boutros-Ghahi did not inform the Security Coincil of the information.In a statement Thursday, Annan admitted the U.N. stood by during a genocide of the "purest and most evil form."

"All of us must bitterly regret that we did not do more to prevent it. There was a United Nations force in the country at the time, but it was neither mandated nor equipped for the kind of forceful action which would have been needed to prevent or halt the genocide. On behalf of the "U.N.', I acknowledge this failure and express my deep remorse."

Với những hành động cực kỳ dã man của các tín đồ Gia-tô như trên,  chúng ta có thể nói rằng giáo triều Vatican đã thành công trong việc hủy diệt hết "nhân tính và lương tâm" của tín đồ Ki-tô, làm cho họ mất hết  khả năng sử dụng lý trí để nhận thức được sự khác nhau giữa phải và trái, giữa đúng và sai, giữa thuận lý và nghịch lý, giữa ý kiến  (opinions) và sự kiện (facts), giữa hành động yêu nước và hành động phản quốc, v.v… Ở vào tình trạng này, họ chỉ còn biết phát ngôn và hành động theo lệnh truyền của giáo triều Vatican qua bọn quạ đen tại địa phương, giống y hệt như con chó trong phòng thí nghiệm của nhà bác học bác học Pavlov.

Nguyên nhân nào đã khiến cho tín đồ Ca-tô đã trở nên bị điều kiên hóa như vây?

Lý do: Họ đã bị chính sách giáo dục “đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo” của  giáo triều Vatican làm cho họ trở thành hạng người như vậy! (13)

III. TỘI ÁC DIỆT CHỦNG VÀ TIÊU DIÊT PHẬT GIÁO CỦA NGÔ ĐÌNH DIỆM

Là một con chiên siêu cuồng tín như đã nói ở trên, lịch sử cũng như các chứng nhân đương thời đều khẳng định rằng, ông Ngô Đình Diệm mang cái bản chất háo sát, khát máu, phản trắc, cực kỳ bạo ngược và dã man đến cùng độ của dã man. Về ác tính “phản trắc” của ông ta đã được chúng tôi trình bày khá đầy đủ nơi các trang 549-554, sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã – Quyển Hai (Tacoma, WA: TXB, 1990). 

Cũng vì thế mà sử giả Nigel Cawthorn đã phải quy liệt ông ta và danh sách 100 tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại (như đã nói trên). Cụ thể, vì cuồng tín, ông ta đã mang tội ác diệt chủng dân tộc Việt Nam, và tội ác tiêu diệt Phật giáo Việt Nam cùng với các thành phần thuộc các tôn khác với đạo Ki-tô:

1.- Tội ác diệt chủng dân tộc Việt Nam.

Có thể tội ác ghê tởm này là hệ luận của kế hoạch Puginier do tên Giám-muc Puginier (đại diện giáo triều Vatican tại Đường Ngoài trong những năm 1864-1892)  biên soạn và được sử gia Cao Huy Thuần nói rõ nơi các trang 301-317 trong sách “Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam 1857-1914 (TP Hồ Chí Minh: Công Ty TNHH Sách Phương Nam, 2014). Vì thế mà đất nước Việt Nam ta mới bị tàn phá bằng:

a.- Một loại vũ khí cực độc gọi là “Chất Độc Da Cam”:   

Chất độc Da Cam màu vàng da cam (Orange Agent) là một chất diệt cỏ và hóa chất làm rụng lá, một trong những chiến thuật "diệt cỏ". Nó được biết đến rộng rãi vì được quân đội Hoa Kỳ sử dụng như một phần của chương trình chiến tranh hóa học, Chiến dịch Ranch Hand, trong Chiến tranh Việt Nam từ 1961 đến 1971. Hóa chất này là hỗn hợp của hai loại thuốc diệt cỏ, 2,4,5-Trichlorophenoxyacetic acid (2,4,5-T) và 2,4-Dichlorophenoxyacetic acid (2,4-D). Ngoài các tác động môi trường gây hại, dấu vết của chất độc da cam (chủ yếu là 2,3,7,8-Tetrachlorodibenzo-p-dioxin viết tắt là TCDD, loại độc hại nhất) được tìm thấy trong hỗn hợp đã gây ra vấn đề sức khỏe lớn cho nhiều người bị phơi nhiễm. Phần lớn những bom trong các trận không kích và đạn đại bác do pháo binh bắn phá (gần 12 triệu tấn) đã sử dụng ở miền Nam Việt Nam thực sự là Chất Độc Da Cam. Đây là tội ác trời không dung đất không tha này

Chủ trương dùng chất độc này trên lãnh thổ Việt Nam là quyết định của chính phủ của Tổng Thống con chiên Kennedy của Hoa Kỳ chắc chắn phải được Tổng Thống con chiên Ngô Đình Diệm tán đồng. Hơn nữa, biết đâu đó cũng là sáng kiến, hay ít nhất là được sự tán đồng của "Đức Thánh Cha" bên Vatican, vì sự "vâng lời" trong liên hệ tôn giáo.

Loại vũ khí hóa học cực kỳ độc hại này đã được sử dụng để rải xuống những vùng nông thôn và rừng cây ở miền nam vĩ tuyến 17 suốt một thời gian dài 10 năm (1961 - 1971) với chủ tâm tàn sát và tiêu hủy sinh lực của hàng triệu người dân cũng như tiêu hủy tất cả  hoa mầu, rừng cây, thổ nhưỡng  ở trong các vùng này. Đây là hành động ác độc và dã man nhất chưa từng xẩy ra trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào trong lịch sử loài người nhằm để diệt chủng dân tộc Việt Nam. Việc hai ông tổng thống con chiên Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam sử dụng loại vũ khí hóa học cực kỳ độc hại như vậy được sách sử ghi nhận rõ ràng như sau:

 “Ngày 30/11/1961, Tông Thống John F. Kennedy phê chuẩn cho quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch khai quang đồng cỏ Việt Nam. Quyết định này được Ngô Đình Diệm, lúc đó là Tổng Thống Nam Việt Nam ủng hộ nhiệt liệt. Diệm cho rằng ông ta “biết cộng sản ở đâu.” và tin rằng chiến dịch này sẽ thành công mĩ mãn.” (14)

Vì thế mà chiến dịch rải loại vũ khi hóa học cực độc này được quân đội Mỹ cho tiến hành trên đất nước Việt Nam và hậu qủa ghê gớm của chiến dịch này được sách sử ghi nhận như sau:

 “Quân đội Mỷ rải 77 triệu lít chất độc da cam xuống miền Nam và Trung Việt Nam, gây ảnh hưởng và tác hại đến môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong 35,585 thôn ấp.(15)

b.- Một số lượng bom đạn khổng lồ.

Chỉ trong thời gian 8 năm gần cuối (1965 cho đến năm 1973) của cuộc chiến 20 năm, Hoa Kỳ đã dùng tới hơn 14 triệu tấn thuốc nổ thuộc loại hiện đại nhồi trong bom và đạn đại pháo để đánh phá cái diện tích bé nhỏ của Việt Nam. Riêng về khối lượng bom do không quân Hoa Kỳ sử dụng cũng đã lên tới hơn 7 triệu tấn, hơn gấp 3 lần tổng số bom được sử dụng trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Phần lớn những bom trong các trận không kích và đạn đai bác do pháo binh bắn phá (gần 12 triệu tấn) thực sự là những hóa chất có công dụng làm rụng lá cây đã sử dụng ở miền Nam Việt Nam (Chất Độc Da Cam) . Mục đích của nó là hủy diệt hạ tầng cơ sở của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và cũng là để Mặt Trận mất đi sự ủng hộ của quần chúng miền Nam bằng cách đẩy họ chạy về các vùng do chính quyền miền Nam kiểm soát.

Sự kiện này được sử gia Stanley I. Kutle ghi lại rõ ràng trong Encyclopedia of the Vietnam War như sau:

Trong một buổi điều trần tại Quốc Hội vào tháng 1 năm 1966, ông Tổng Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara đưa ra chứng cớ về sự thành công của các cuộc tấn kích bằng trọng pháo và không kích kể cả những phi vụ B.52 nhằm mục đích cưỡng bách người dân trong vùng “phải di chuyển về những nơi an toàn, khỏi phải bị tấn kích như vậy bất kể là thái độ của họ đối với chính quyền Miền Nam.” Ông McNamara nói tiếp,” làm như vậy không những phá vỡ được những hoạt động của quân du kích Việt Cộng, mà còn làm cho nền tảng kính tế của đối phương suy sụp. Tuy nhiên, tác dụng của việc sử dụng những thứ vũ khí như trên đã hủy diệt gần 1/3 ruộng đất canh tác và gần 50% xóm làng của người dân Việt. Vào năm 1972, theo bản báo cáo của tiểu ban Thượng Viện Hoa Kỳ thì bom và đạn trọng pháo của Mỹ đã làm cho cà 10 triệu người phải bỏ làng xóm đị tỵ nạn và hầu hết đã gây tổn thất cho người dân.” (16)

2.- Tiêu diệt Phật giáo Việt Nam

Với mục tiêu cải đạo càng nhiều càng tốt để lập công cho Tòa Thánh Vatican, gia đình ông Ngô Đình Diệm đã lợi dụng chiêu bài "tố Cộng" để gây thêm biết bao tội ác cho nhiều nạn nhân vô tội là những dân lương ở những vùng quê, và không theo Thiên Chúa giáo. Những người dân hiền lành này phải mang một cổ hai tròng: nếu bảo vệ người đi Cách Mạng thì bị mang tội là VC, nếu không bảo vệ cách mạng thì lại là hạng chỉ điểm cho giặc. Do đó, những quân trung thành với chế độ Ngô Đình Diệm đã gây thêm tội ác đối với dân thường là vu cáo cho họ là VC để tiêu diệt.

Mục tiêu cải đạo dân cũng lộ rõ trong quốc sách Ấp Chiến Lược, hay các Khu Trù Mật. Người dân, thuộc nhiều gốc-gác khác nhau, bỏ hẳn nhà cửa, họ-hàng, mồ-mả tổ-tiên, đến lập một cuộc sống mới tại vùng đất mới khai-hoang. Trong thực tế, tại các ấp chiến lược, họ chỉ xây nhà thờ mà không có xây chùa. Các chùa chiền trong vùng phải dở đi, nhưng khi vào ấp thì chỉ được cất nhà, chứ không được tái lập chùa (Thích Nhật Từ & Nguyễn Kha, Pháp Nạn Phật Giáo 1963: Nguyên Nhân, Bản Chất và Tiến Trình, Nhà Xuất Bản Hồng Đức 2013, trang 490)

Tội ác tiêu diệt Phật giáo Việt Nam và các thành phần thuộc các tôn khác với đạo Ki-tô. Tội ác này được các sách sử ghi lại đầy đủ.

a.- Sách Thập Giá và Lưỡi Gươm ghi nhận:

"Mùa hè năm 1955, Ngô Đình Diệm tung ra chiến dịch Tố Cộng và qua luật 10/1959, ông đã lập các Toà Án Quân Sự Đặc Biệt, như bộ máy đàn áp. Luật này, kết án tử hình và phải thi hành trong vòng ba ngày, khỏi có quyền bào chữa, tất cả những người Cộng Sản, những người có quan hệ với Cộng Sản (những chiến sĩ yêu nước chống Pháp, cả cha mẹ và bạn bè của họ), tất cả những bị cáo được xem là phạm đến an ninh quốc gia. Các cuộc càn quét đã dẫn về hàng ngàn "tên đỏ", từ nay gọi là Việt Cộng và nhiều người trong số đó đã bị giết... Trong lãnh vực này, tài liệu bí mật của Lầu Năm Góc (Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) cũng giống những gì do chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phổ biến hồi đó: "Suốt thời gian của cái gọi là Chiến Dịch Tố Cộng được tung ra vào mùa hè năm 1955, từ 50,000 (50 ngàn) đến 100,000 (100 ngàn) người đã bị nhốt vào ngục. Nhưng bản báo cáo có nói, phần lớn những kẻ bị bắt giam đây không phải là đảng viên Cộng Sản". Đó là lời của F. Butterfield viết trong bản phân tích Tài Liệu Lầu Năm Góc (Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ). Tác giả còn thêm: "Chương trình công dân vụ, đã thất bại, bởi vì Tổng Thống Diệm hầu như chỉ phát (gửi) toàn những người di cư miền Bắc hay là Công Giáo đến các làng đó. Nông dân cho rằng những thứ người đó không phải là người của họ (Pentagon Papers, trang 82." (17)

b.- Sách “Vietnam: Why Did We Go?” ghi nhận con số này rõ ràng hơn và nhiều hơn, nguyên văn như sau:

"Giữa năm 1955 và 1960, tối thiểu có tới 24 ngàn người bị thương, 80 ngàn người bị hành hình hay bị sát hại bằng cách này hoặc bằng cách khác, 275 ngàn người bị bắt tra vấn và giam giữ. Cuối cùng có tới 500 ngàn (khoảng nửa triệu) người bị cầm tù tại các trại giam. Bộ máy đàn áp của chính quyền Gia-tô (Công Giáo) trở nên hết sức ghê gớm và tàn bạo khiến cho Hoa Kỳ đã phải vừa ngấm ngầm vừa công khai phản đối chính sách Gia-tô hóa quá trơ trẽn của chính quyền Diệm. Nhiều tu sĩ Phật giáo theo gương ni cô Thanh Quang quyết tâm phản đối chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm. Phải can đảm lắm người ta mới có thể chuẩn bị để tự thiêu cho mục đích duy trì niềm tin tôn giáo. Các nam nữ tu sĩ Phật Giáo tự thiêu đã làm sống lại tinh thần Phật Giáo của hàng triệu Phật Giáo đồ khiến cho họ quyết tâm chống lại những luật lệ bất công của chính quyền Diệm. Giáo Hội La Mã chẳng hề tỏ ra đau buồn hay kính phục những người tử đạo Phật Giáo này." (18)

c.- Sách Đảng Cần Lao  ghi lại con số nạn nhân ở Liên Khu V như sau:

"Ngồi tại Dinh Độc Lập, Ngô Đình Diệm có ngờ đâu ông em mình đã nhân danh Đảng Cần Lao Nhân Vị mà nhúng tay vào máu người một cách khủng khiếp đến thế. Số người mà tại Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Khánh Hòa... đã bị cán bộ Cần Lao giết, vì vu cho là Cộng Sản, phá hoại chế độ... đã được kiểm kê vào các năm 1964-1965 là 300,000 (300 ngàn) người! Hơn ba trăm ngàn người chết oan, để rồi chỉ có một mình [Ngô Đình] Cẩn ở miền Trung đền tội, thật là một điều bất công cùng cực!" (19)

Chúng ta thấy các nguồn tài liệu trên đây đưa ra ba con số nạn nhân bi giết hại không giống nhau. Linh-mục Trần Tam Tỉnh chỉ nói đến con số nạn nhân bị bắt, bị giam trong các Chiến Dịch Tố Cộng được phát động vào mùa hè năm 1955 mà thôi, và không nói rõ con số nạn nhân bị sát hại là bao nhiêu. Ông chỉ nói lửng "nhiều người trong số đó đã bị giết."

Sự khác biệt về các con số nạn nhân bị bắt giam, bị tra tấn và bị sát hại trên đây trở thành cái cớ cho bọn quạ đen và con chiên cuồng tín người Việt cãi cuội để phủ nhận việc tàn sát đồng bào ta trong các chiến dịch "làm sáng danh Chúa" ở Liên Khu V được ngụy trang bằng các Chiến Dịch Tố Cộng của chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm trong thời kỳ này.

Trong khi đó,  Sách Đảng Cần Lao nói rõ con số nạn nhân bị sát hại ở các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Khánh Hòa là 300 ngàn người. Bản văn trong sách Vietnam Why Did We Go? ghi rõ: số nạn nhân 24 ngàn người bị thương, 80 ngàn bị giết, 275 ngàn bị tra vấn và 500 ngàn người bị đưa vào các trại giam.

Ai đã từng đọc qua các tài liệu nói về những hành động tra tấn của các hung thần Ca-tô và thảm cảnh các trại giam của các chế độ đạo phiệt Ca-tô trong lịch sử thế giới, nhất là vào thời Trung Cổ ở Âu Châu đều biết rõ là tất cả những thành phần thuộc các tôn giáo khác chẳng may lọt vào tay các ông hung thần này đều có thể coi như đã chết. Anh em họ Ngô, theo Đại sứ Henry Cabot Lodge là loại người cuồng giáo kiểu Trung Cổ. Và, theo linh mục đặc phái viên của giáo triều Vatican, tinh thần Ki-tô ở miền Nam Việt Nam vào cuối thập niên 1967 vẫn còn mang nặng tinh thần phe đảng bí mật kiểu Trung Cổ. Viên khâm sứ của giáo triều Vatican tại Sàigòn năm 1963 là Avatore d’Asta cũng phải thú thực rằng ông ta chứng kiến cảnh các nghi can bị công an mật vụ Ngô Đình Diệm tra tấn.

Ấy thế mà ông bà Hoàng Ngọc Thành (tác giả bài "Công Và Tội Của CT Hồ Chi Minh Và ĐCSVN 1945-2006") tìm cách lấp liếm, chối tội cho chủ cũ (của họ) rằng Khâm sứ Vatican đã lầm lẫn, chẳng bao giờ có chuyện tra tấn nạn nhân, và  ông bà Thành vẫn nhất định phải tung hô, cùng kêu gọi mọi người đồng xướng, rằng “Ngô Tổng thống, Ngô Tổng thống muôn năm, Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống.”

Ông bà Thành quên không biết rằng “toàn dân Việt Nam” nhớ ơn Tổng thống đến độ phải nổi lên tru diệt đi anh em nhà họ Ngô; và, thực ra nếu có “nhớ” đến họ Ngô, thì toàn dân Việt Nam, hoặc đại đa số Việt Nam, chỉ nhớ đến cái thành tích ba đời Việt gian của ông Ngô Đình Khả cũng lũ con của ông ta là Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Luyện và đứa cháu Ngô Đình Huân của ông ta. Tất cả đều là những tên Việt gian phản quốc. Vì thế mà gia đình này mói bị trời phạt. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá đầy đủ trong bài viết “Đọc “Gieo Gió Thì Gặt Bão” Của Ông Nguyễn Hy Vọng” (http://sachhiem.net/NMQ/NMQ52_NHVg.php).

Cũng nên biết, con số nạn nhân bị bắt giam và bị sát hại ở miền Bắc là do nhu cầu chính trị có tính cách giai đọan của bất kỳ một cuộc cách mạng chính trị và xã hội nào trong lịch sử để hủy diệt tất cả những đặc quyền, đặc lợi cùng tàn tích phong kiến, thực dân và tập đoàn phong kiến còn sót lại trong nhân dân. Dĩ nhiên là nó chỉ xẩy ra trong một giai đọan đó mà thôi. Trong khi đó, con số nạn nhân bị bắt giam, bị thủ tiêu và bị sát hại ở miền Nam là do chủ truơng bất di bất dịch bắt nguồn từ Cựu Ứơc Kinh, (sách Leviticus (26:18) là một thí dụ), đã biến thành "chính sách bất khoan dung" của Giáo Hội La Mã, rồi trở thành BẢN CHẤT của tât cả các chế độ đạo phiệt Ca-tô và tín đồ "ngoan đạo".

Giang sơn dễ đổi, bản chất khó chừa. Vì việc bắt giam, tra tấn và tàn sát những người khác tôn giáo đã trở thành bản chất của các chế độ đạo phiệt Ca-tô và tín đồ "ngoan đạo", cho nên từ thế kỷ thứ 4 cho đến ngày nay, các chế độ đạo phiệt Ca-tô ở Âu Châu trong thời Trung cổ với những Tòa Án Dị Giáo (Inquisitions), ở Croatia trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, ở miền Nam trong những năm 1954-1963 và ở Rwanda (Phi Châu) trong năm 1994 đều chiếm kỷ lục về những thành tích bắt giam, tra tấn và tàn sát những người thuộc các tôn giáo khác. Cái bản chất bạo ngược và dã man này không những đã không hề  thay đổi mà càng về sau càng  tinh vi hơn, càng tàn độc hơn và càng khủng khiếp hơn. Con số hơn 800 ngàn người bị tàn sát ở ở Rwanda trong vòng 100 ngày trong năm 1994 là bằng chứng hùng hồn bất khả bác cho sự kiện này.

Bao giờ mây mới ngừng trôi
Giáo Hội La Mã mới thôi giết người. (NMQ)

IV. CHÍNH SÁCH HỦY HOẠI SINH LỰC CÁC THẾ HỆ TRẺ VÀ TƯƠNG LAI CỦA DÂN TỘC

Đây là cả một khu rừng tội ác chống lại dân tộc trong dã tâm muốn biến dân ta giống các dân tộc Châu Mỹ La-tinh và dân Phi Luật Tân mà Giáo Hội La Mã đã chủ trương và chủ động đã làm tại các quốc gia này trong các thế kỷ 16 và 17. Những thủ đọạn được ngụy quyền Ngô Đình Diệm sử dụng để đạt được mục đích cực kỳ dã man trên đây của giáo triều Vatican mà chính  Ngô Đình Diệm đã công khai tuyên bố với các nhà chính khách có thế lực vận động đưa ông ta về Việt Nam vào tháng 10 năm 1950, rằng: “Tin tưởng vào quyền lực của Vatican và cực lực chống Cộng” [COO, Tr. 242] Lê Hữu Dản, Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, CA: TXB, 1997), tr 23.]

Để thực hiện độc kế cực kỳ thâm độc trên, ngụy quyền Ngô Đình Diệm đã làm cho miền Nam Việt Nam trở thành:

1.- Trung tâm buôn thuốc phiện:

Bạo quyền Ngô Đình Diệm đã biến miền Nam thành một trung tâm cung cấp thuốc phiện sống, làm nguyên liệu cho trung tâm biến chế bạch phiến ở Marseille. Trung tâm này cũng do con chiên Ca-tô người Âu Châu điều hành. Vấn đề này đã được trình bày đầy đủ trong Chương 91 có tựa đề là “Vấn Nạn Buôn Bán Ma Túy” (http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH91.php, sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã.

2.- Một mảnh đất hoàn toàn kiệt quệ về tài nguyên:

Chế độ nhà Ngô đã để cho liên minh Xâm Lược Mỹ - Vatican tàn phá đất nước với số lượng bom đạn khổng lồ và 77 triệu  lít chất độc da cam như đã nói ở trong Tiểu Mục “Tội Ác Diệt Chủng Dân Tộc Việt Nam” ở trên.

3.- Một thuộc địa trực trị của giáo triều Vatican:

a.- Hành động tổ chức một buổi đại lễ vô cùng trọng thể vào tháng 2/1959 để dâng nước Việt Nam cho giáo triều Vatican (được ngụy trang là Đức Mẹ Vô Nhiễm) và mời viên Khâm sứ đại diện giáo triều Vatican tại Sàigòn là Hồng Y Agagianian đến làm chủ tế. Buổi đại lễ này tốn phí lên đến nhiều triệu đồng vào thời đầu năm 1959. Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (TP Hồ Chí Minh: NXB Trẻ, 1978), 126-128.

Ngô Đình Diệm hôn nhẫn Hồng Y Agagianian

b.- Tôn vinh các giáo sĩ và con chiên người Việt chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam trong các thế kỷ 17, 18, 19 và nửa đầu thế kỷ 20 bằng cách dùng danh tính của chúng đặt tên cho các trường học, đường phố ở Sàigòn và ở nhiều thành phố lớn khác ở miền Nam Việt Nam. Ai đã từng sống ở Sàigòn trong những năm 1954-1975 đều thấy rõ sự thật này.

Về trường học, chúng ta thấy có các Trường Pétrus Ký, Trường Nguyễn Tường Tộ, Trường Trần Lục, Trường Hồ Ngọc Cẩn, Trường Nguyễn Bá Tòng, Trường Nguyễn Duy Khang (ở Thị Nghè), Trường Lê Bảo Tịnh, Trường Thánh Thomas (Nhà Thờ Ba Chuông), v.v…

Về đường phố, chúng ta  thấy có Đường Tổng Đốc Lộc (con chiên Trần Bá Lộc), Đường Tổng Đốc Phương (con chiên Đỗ Hữu Phương), Đường Alexandre de Rhodes, Đường Pétrus Ký, Đại Lộ Ngô Đình Khôi, Đường Nguyễn Bá Tòng, Đường Huỳnh Tịnh Của, Đường Phát Diệm, Đường Bùi Chu, v.v… Đặc biệt ở Vĩnh Long, lại có Đại Lộ Ngô Đình Thục.

c.- Bòn rút tài nguyên, tiền bạc và cắt xén tiền viện trợ Mỹ đến nộp cho giáo triều Vatican và làm của riêng cho gia đình. Có một số tài liệu nói về vấn đề này:

c.1. Chỉ nguyên ở Việt Nam không thôi, Vatican đã thu được 19 tỉ đô-la do Ngô Đình Diệm  ăn cắp được ở Việt Nam gửi cho Tòa Thánh Vatican (19 tỉ đô-la năm 1963, nay đã thành 50 tỉ),  đấy là chưa kể tiền của giáo dân đóng góp. Con số này rất chính xác, được vô tình tiết lộ bởi một nhân chứng sống. Sách Tuyển Tập Tường Trình Cùng Đồng Bào Trong Nước viết:

... "Đó là Trần Đình Trường, một giáo dân Gia-tô đạo gốc thuần thành được một vị linh mục ở Khu Tư viết một bức thư giơi thiệu với Ngô Đình Diệm. Trường cầm lá thư đó rồi vượt tuyến vào Nam năm 1957 và được Ngô Đình Diệm trọng dụng, giao cho Trường làm nhiệm vụ kinh tài.

Sau nhiều chuyến mang tiền sang gửi ở Vatican thành công nên Diệm rất tin tưởng. Năm 1963, Trường mang một số tiền lớn trên đường từ Sàigon đi Vatican qua ngả Pháp, nhưng khi đến Paris, thì nghe tin Diệm – Nhu chết, Trường bèn lấy số tiền đó gửi ở một ngân hàng ngoại quốc và trở thành một người Việt Nam giầu nhất thế giới.

Sau mấy năm lộn xộn, một người Gia-tô khác là Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ cho lên cầm quyền. Trần Đình Trường trở về hợp tác với Thiệu và lập một hàng tàu lấy tên là Vship Co-lines, chuyên buôn lậu lại càng giầu thêm.

Trần Đình Trường có rất nhiều vợ. Mỗi vợ được Trường lấy tên đặt tên cho những chiếc tàu biển của mình. Ví dụ, người vợ thứ nhất tên Xuân thì đặt tên tàu là Trương Xuân, người thứ nhì tên là Lê, đạt tên tàu là Trương Lê, người thứ ba tên là Hưng thì đặt tên tàu là Trường Hưng, v.v….

Năm 1975, Trường di tản đến Mỹ cùng các bà vợ rồi kinh doanh vào ngành khách sạn ở New York và mua cổ phẩn  của các hang máy bay, v.v… Nhờ có nhiều tiền nên Trường đã hối lộ một số viên chức CS nên mang được mẹ từ Khu Tư sang Mỹ. Trường tổ chức lễ thượng thọ (99 tuổi) cho mẹ ở New York. Trường đã đăng báo mời tất cả Việt kiều ở Mỹ tới New York dự lễ thượng thọ. Bất cứ người Việt nào muốn đến dự dù ở bất kỳ nơi nào trên đất Mỹ, cho dù là người không bao giờ quen thuộc, Trường  cũng mời họ, và gửi vé máy bay khứ hồi đến tận nơi cho họ. Lúc đến New York, thì có sẵn nơi ăn chốn ở để chờ dự tiệc linh đình do Trường khoản đãi. Thật là từ xưa đến nay, cả tỉ phú Mỹ cũng không dám chơi “xộp” như Trường, vì tổ chức như vậy rất là tốn kém. Cứ tính thử một người phải chi tới 500 Mỹ kim. Số người tham dự chỉ tính sơ sơ 500 người thôi thì tổng số tiền chi ra hết $250,000 USD....” [Phạm Tuấn, Thử Đánh Giá Một Hành Động Trong Diễn Biến Hòa Bình Của Mỹ Vatican.”   Bài viết này khá dài, đăng nơi các trang 89-102 trong Tuyển Tập Tường Trình Cùng Đồng Bào Trong Nước (Hoa Kỳ: TXB, 1998). Phần trích dẫn này nằm trong hai trang 98-99.

c.2. Sách Our Own Worst Enemy (New York: W.W. Norton & Company Inc, 1968) của tác giả William J. Lederer. Nơi trang 165, sách này có nói rõ chuyện bà Ngô Đình Nhu gửi một khoản tiền khổng lồ  là 18 tỷ Mỹ Kim trong một nhà ngân hàng Thụy Sĩ. Hiển nhiên đây là tiền ăn cướp của nhân dân miền Nam.

c.3. Sách Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993) của cựu Tướng Đỗ Mậu. Sách này cũng dành hẳn Chương XIII với nhan đề là “Tệ Trạng Tham Nhũng” (các trang 403-445). Chương sách này trình bày khá đầy đủ về những thủ đoạn và thành tích tham nhũng của anh em cũng như thân nhân nhà Ngô và băng đảng Cần Lao trong những năm 1954-1963.

c.4. Sách Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 Tập I – C: 1955-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000) của tác giả Chính Đạo, viết:

“Ngày 6/4/1960: Durbrow, Đại Sứ Mỹ ở Sàigòn, than phiền về sự lộng hành của Cần Lao;” (17)

c.5. Sách Công Và Tội (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1992) của ông Nguyễn Trân, cũng nói đến những vụ tham nhũng trong các chính quyền Sàigòn nơi các trang 201, 373, và 483-487.

c.6. Sách Việt Nam Một Trời Tâm Sự (Alamitos, CA: Xuân Thu, 1987) của cựu Tướng Nguyễn Chánh Thi, dành hẳn 57 trang (45-102) để nói về tội ác cướp rừng của Giám-mục Ngô Đình Thục và những hành động lộng quyền của Ngô Đình Cẩn, nơi các trang 45-102.

c.7. Sách Việt Nam nhân Chứng của cựu Tướng Trần Văn Đôn, nơi trang 248-249, nói về chuyện Ngô Đình Cẩn có 6 triệu Mỹ kim (ắn cướp của dân) để trong nhà Ngân Hàng Thụy  Sĩ, rồi đem dâng hiến cho Nhà Thờ Cứu Thế.

c.8. Sách "Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm" (San Jose, California: Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, 1994) của tác giả Hoàng Ngọc Thành & Thân Thi Nhân Đức. Trong sách này, nơi trang 191, nói rõ chuyện GM Ngô Đình Thục gửi 70 ngàn Mỹ kim trong một nhà ngân Hàng ở Ý Đại Lợi do một số người thân cận đứng tên và bị họ chiếm đoạt mất.

V. KẾT LUẬN

Phần trình bày trên đây cho thấy rõ ràng là bản chất của mọi thành phần trong giới chủ chăn cũng như trong tập thể con chiên Ki-tô ở bất kỳ địa phương nào, ở vào bất kỳ thời đại nào  cũng cũng đều bị  “súc vật hóa” bởi chính  sách ngu dân dưới lớp vỏ bọc là “đào tạo theo tinh thần công giáo” của Giáo Hội Lã để trở thành hạng người  luôn luôn tỏ ra “sung sướng và hãnh diện được làm tôi tớ hèn mọn” cho giáo triều Vatican và sẵn sàng hăng say triệt để tuân hành các lệnh truyền của các đấng chủ chăn của họ để tàn sát những người khác tôn giáo hayy khác văn hóa với chúng. Nhờ vậy mà Giáo Hội La Mã đã thành công dễ dàng trong:

1.- Những hành động tội ác kìm hãm nhân dân Âu Châu chìm đắm trong hơn một ngàn năm tối tăm mà sách sử gọi là “Thời Kỳ Đen Tối hay Thời Kỳ Hắc Ám” (the Dark Ages).

2.- Những hành động diệt chủng và huy diệt nền văn minh cũng như các nếp sống văn hóa của các dân tộc ở (a) một số vùng ở Phi Châu, (b) ở Trung Mỹ Cũng như ở Nam Mỹ, và ở Phi Luật Tân.

3.- Trong những năm 1885-1945:

a.) Dân tộc Việt Nam cùng với văn minh và  các nếp sống văn hóa  đã có kinh qua tình trạng đứng bờ vực thẳm  bị hủy diệt vì bị nằm trong Kế Hoạch Puginier. Kế hoạch ác ôn này được sử gia Cao Huy Thuần trình bày đầy đủ nơi các trang 301-317 trong sách Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam 1857-1914 (TP Hồ Chí Minh: Công Ty TNHH Sách Phương Nam, 2014.) Những cũng may cho dân  tộc ta là kế hoạch khốn nạn này đã bị người Pháp cầm trịch chính quyền thời bấy giờ và chỉ thi hành phần hủy bỏ chữ Nho được dùng trong các văn thư hành chánh vào năm 1917. Để biết rõ TẠI SAO lại như vây, xin mời độc giả vào đọc Tiết Mục 11 “Trong Thời Việt Nam bị Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược  Pháp – Vatican và thống trị, Đế Quốc Vatican và Đế Quốc Pháp là hai kẻ đồng sàng nhưng dị mộng” (nơi các trang 44-52, trong Chương Dẫn Nhập “Những Sự Kiện Lịch Sử Và Thực Tế  Cần Phải Biết” (tr 35-71),  sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã – Quyển Một (Tacoma, WA: TXB, 1999) của tác giả Nguyễn Mạnh Quang.

b.) Tại miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, dân ta cũng đã phải trải qua những cuộc tắm máu vô cùng khủng khiếp. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày trong bài viết “Tập Thể Con Chúa Đã Chống Lại Tổ Quốc Việt Nam Trong Những Năm 1954-1975 Như Thế Nào?" (http://sachhiem.net/NMQ/NMQ96.php).

4.- Ôn cố tri tân, lấy quá khứ để luận về tương lai: Giáo Hội La Mã với  chủ trương cố hữu là quyết tâm diệt chủng và hủy diệt  các nền văn minh cũng như  văn hóa của các dân tộc thuộc các tôn giáo khác với đạo Ki-tô là như vậy!

Nếu quan sát thời cuộc trong nước vào những năm qua, người ta thấy những hiện tượng như sau.

a.) Bọn quạ đen và tập thể con chiên người Việt ở trong nước tiếp tục lộng hành, tác oai tác quái giống như GM Ngô Quang Kiệt, GM Nguyễn Thái Hợp, LM Nguyễn Văn Lý, LM Nguyễn Duy Tân, LM Nguyễn Đình Thục, LM Nguyễn Ngọc Nam Phong, LM Đặng Hữu Nam, v.v…, và băng đảng trí thức “nửa mùa” (dù có học vị đại học về chuyên môn, nhưng rất yếu kém về kiến thức tổng quát và không có lòng yêu nước) của  tên GS Nguyễn Đăng Hưng cùng đồng bọn “nhận giặc làm cha” đã mưu đồ tôn vinh tên cố đạo tội đồ Alexandre de Rhodes trong những năm tháng vừa qua.

b.) Thế lực Ca-tô giáo trong nước đã xoay sở, tậu mãi, chiếm dụng cả một vùng núi để thiết lập cơ sở Trung Tâm Hành Hương ở Núi Cúi (gần Gia Kiệm, tỉnh Long Khánh) hết sức rộng lớn và đẹp đẻ. Họ đã khởi công và đang tiến hành xây dựng những cơ sở hạ tầng.

c.) Đó đây, họ đã đòi lại hay xây thêm các cơ sở trồng người, như các Đại Chủng Viện: Giáo hoàng Học viện Piô X Đà Lạt, Xuân Bích, Huế, Thánh Giuse Hà Nội, Bùi Chu, Vinh Thanh, Sao Biển, Thánh Giuse SG, Thánh Giuse Xuân Lộc, Thánh Quý Học viện Công giáo Việt Nam,... Ngoài ra, họ còn nắm chặt bao nhiêu cơ sở tu viện, đan viện: TV Dòng Thánh Phaolô thành Chartres, TV Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm, Đan Viện Châu Sơn, Đơn Dương, Đan Viện Cát Minh, SG... Chưa kể các cơ sở giáo dục khắp nơi trên đất nước.

d.) Ngoài ra, nhiều nơi linh mục đã lấn chiếm các mảnh đất quanh vùng, bằng nhiều cách. Năm 2015, hàng trăm giáo dân giáo họ Yên Lạc dưới sự chỉ đạo của Linh mục quản xứ Lê Công Lượng, đã ngang nhiên đập phá tường rào, lấn chiếm khuôn viên Trường mầm non xã Nghi Kiều (Nghi Lộc, Nghệ An), với lý do là mở đường vào nhà thờ giáo họ Yên Lạc. Năm 2017, linh mục Nguyễn Đức Nhân quản xứ Kẻ Gai, Hưng Nguyên, Nghệ An kích động giáo dân chiếm đất trái phép, đánh người thi hành công vụ,...

Lề luật Giáo Hội La Mã buộc con chiên phải đi nhà thờ mỗi ngày để họ đầu độc tinh thần giáo dân bằng những bài giảng và kinh nguyện, đó là những công cụ chiến tranh tâm lý hữu hiệu để Vatican biến họ thành một lực lượng chính trị của Vatican. Điều nguy hiểm là lực lượng chính trị này đồng nhất như một đội quân mai phục sẵn trong lòng dân tộc Việt Nam, với những bộ óc bán khai, hung hăng cuồng tín, cho nên kẻ lưu manh quốc tế ở Roma rất dễ dàng xử dụng họ để tha hồ lũng đoạn nội bộ nước ta.

Nếu tình hình mỗi ngày cứ lan rộng như thế, và nếu chính quyền Việt Nam không đề cao cảnh giác về các tình trạng lấn chiếm cả tinh thần lẫn vật chất như thế, e rằng sẽ có một ngày không xa, đất nước và dân tộc Việt Nam ta sẽ bị giáo triều Vatican dựng nên “một chế độ Diệm không Diệm”. Viễn cảnh của ngày đó sẽ như sau:

- Chúng sẽ tiến hành “những cuộc tắm máu vô cùng khủng khiếp” (Khủng Bố Trắng) giống như những cuộc thảm sát nhân dân Pháp trong thời Vua Louis XVIII (1814-1824) và Vua Charles X (1824-1830) như chúng tôi đã trình bày ở trên.

- Việt Nam sẽ rơi vào thảm cảnh bị diệt chủng, các nền văn minh và văn hóa của dân ta sẽ bị hủy diệt giống như ở Châu Mỹ La-tinh (Trung và Nam Mỹ) và ở Phi Lụật Tân trong các thế kỷ 16 và 17. 

Trước đây, vấn đề này đã được chúng tôi nêu rõ trong bản đề nghị dùng những biện pháp mạnh như vậy trong Chương 22 “Một Số Biện Pháp Để Ngăn Âm Mưu Lấn Lướt Của Vatican” (http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_22.php), sách Tâm Thư Gửi Nhà nước Việt Nam.

Với nỗi lòng ưu tư như trên, chúng tôi thiết tha thỉnh cầu và kính mong các nhà hữu trách trong chính quyền ta hiện nay hãy vì tiền đồ của dân tộc và quyền lợi tối thượng của tổ quốc mà lưu tâm đến vấn đề này.

Trân trọng cẩn bút,

Nguyễn Mạnh Quang

(còn tiếp)


CHÚ THÍCH

(1) Bernard F. Fall, The Two Vietnams (New York: Frederick A. Praeger, 1964), p. 236. Nguyên văn: "Ngo Dinh Diem's militancy is of that kind: His faith is made less of the kindness of the apostles, than of the ruthless militancy of the Grand Inquisitor; and his view of government is made less of the constitutional strength of a President of the republic than of the petty tyranny of a tradition-bound mandarin. To a French Catholic interlocutor who wanted to emphazise Diem's bond with French culture by stressing "our common faith," Diem was reported to have answered calmly: "You know, I consider myself rather as a Spanish Catholic," i.e., a spiritual son of a fiercely aggressive and militant faith rather than of the easygoing and tolerant approach of Gallican Catholicism."

(2) Lê Hữu Dản, Sự Thật - Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, Calìornia, 1997), trang 23-24.

(3) Jack T. Chick, Smokescreens (Chino, CA: Chick Publications,1983), tr. 14-17. Nguyên văn: "On August 22, 1572, the bloody St. Bartholomew massacre began. This was to be one fatal blow to destroy the Prostestant movement in France. The King of France had cleverly arranged a marriage between his sister and Admiral Coligny, the chief Protestant leader. There was a great feast with much celebrating. After four days of feasting the soldiers were given a signal. At twelve o'clock midnight, all the houses of the Protestants in the city were forced open at once. The admiral was killed, his body thrown out of a window into the street where his head was cut off and sent to the pope. They also cut off his arms and privates and dragged him through the streets for three days until they finally hung his body by the heels outside the city. They also slaughtered many other well kown Protestants. In the first three days, over ten thousands were killed. The bodies were thrown into the river and blood ran through the streets into the river until it appeared like a stream of blood. So furious was their hellish rage that they even slew their own followers if they suspected that they were not very strong in their belief in the pope. From Paris, the destruction spread to all parts of the country. Over eight thousand more people were killed. Very few Pretestants escaped the fury of their persecutors.").

(4) Jack T. Chick, Sđd., tr 17. Nguyên văn:"A similar massacre occurred in Ireland in 1641. The conspirators picked October 23, the feast of Ignatius Loyola, the founder of the Jesuit Order. They planned a general uprising for the whole country. All Protestants would be killed at once. To throw them off guard while the plan was being made, extra acts of kindness were shown to the Protestants. Early in the morning the conspirators were armed and every Protestant they could find was immediately murdered. They showed no mercy. From children to the aged, they were killed. Even invalids were not spared. They were caught by complete surprise. They had lived in peace and safety for years and now find no place to run. They were massacred by neighbors, friends, and even relatives. Death often was the least they had to fear. Women were tied to posts, stripped to the waist, their breast cut off with shears and left to bleed to death. Others who were pregnant were tied to tree branches, their unborn babies cut out and fed to the dogs while the husbands were forced to watch.")

(5) Nguyễn Mạnh Quang, Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004), tr. 191-209.

(6) Avro Manhattan, The Vatican’s Holocaust (Springfield, MO: Ozark Book, 1986) p. VII. Nguyên văn: “During the existence of Croatia as an independent Catholic State, over 700,000 men, women and children perished. Many were executed, tortured, died of starvation, or burned to death. Hundreds were forced to become Catholic. Catholic padres ran concentration camps; Catholic priests were officers of the military corps which committed such atrocities. 700,000 in a total population of a few million, proportionally, would be as if one-third of the USA population had been exterminated by a Catholic militia.”

(7) Avro Manhattan, Vietnam: why did we go? (Chino, CA: Chick Publication, 1984), page 125. Nguyên văn “Ante Pavelich, the inspirer, creator and leader of the independent Catholic state of Croatia. He employed terrorism, political extremism and religious fanaticism with such ruthlessness as to outsmart even his two main fascist protectors, Beneto Mussolini and Adolf Hitler. He was the brain behind the assassination of King Alexander and other political murders which preceded the disintegration of Yugoslavia and thus the erection of his super-nazi, super-Catholic independent Ustashi Croatia. He enjoyed the protection of Pope Pius XII, who helped him via diplomatic and monetary means to achieve his ultimate objective. When Ustashi Croatia collapsed, Pavelich hid in the Vatican, then, disguised as a monk, fled to Argentina.")

(8) Jack T. Chick, Sđd., tr. 32. Nguyên văn: "The atrocities of the Ustachi far surpassed mere physical torture. Their victims were tormented emotionally as well. An example of the unprecedented brutality is recorded by the sworn testimony of several witnesses regarding the following incident. At Nevesinje, the Ustachi arrested one whole Serbian family consisting of father, mother and four children. The mother and children were separated from the father. For seven days they were tortured by starvation and thirst. Then they brought the mother and children a good-sized roast, and plenty of water to drink. These unfortunates were so hungry that they ate the entire roast. After they finished, the Ustachi told them that they had eaten the flesh of their father.”)

(9) Bản tin "Giám Mục Thiên Chúa Giáo Có Thể Bị Tử Hình Tại Rwanda." http://www.vietdaily.com. Ngày 5/11/2000.

(10) Charlie nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr, 228 và 272.

(11) Loraine Boettner, Roman Catholicism (Phillipsburg, New Jersey: Presbyterian and Reformed Publishing Company, 1962), p.424.

(12) Bùi Đức Sinh, Lịch Sử Giáo Hội Cộng Giáo – Phần Nhì (Sàigòn: Chân lý, 1972), tr. 165.

(13) Trích trong Mục Thiên Hạ Phong Trần, Nguyệt San Việt Nam Mới, Seattle, Số 207 ra ngày 23/12/1994 và Số 208 ra ngày 30/12/1994.

(14) Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr. 35.

(15) Nguyễn Văn Tuấn, Sđd., tr 171.

(16) Stanley I. Kutler (Ed.), Encyclopedia of the Vietnam War (New York: Simon & Schuster McMillan, 1996), pp. 591-592. Nguyên văn: “Between 1965 and 1973, the United States used more than 14 million tons of air – and artillery high explosives on the area. The bombing done accounted about 7 million tons or more than three times the tonnage used during World War II. Most of the bombs and artillery shells, and virtually all the defoliant (nearly 12 million tons), fell on the southern half of the country. The purpose to destroy the National Liberation Front revolutionaries’ infrastructure and to deprive them of popular support in the South by driving the population into areas controlled by the South Vietnamese government. In congressional testimony in January 1966, Secretary Defense Robert McNamara introduced evidence on the success of air and artillery attacks, including “the most devasting and frightening” B.52 raids in forcing the villagers “to move to where they will be safe from such attacks regardless of their attitude to the GVN.” This, Mc Namara continued, not only disrupted Viet Cong guerrillas’ activities but also threatened” a major deterioration of their economic base. The effect, however, was to destroy nearly one third of the cropland and more than half of the hamlets. By 1972, according to a U.S. Senate subcommittee report, U.S. air and artillery attacks were responsible for great bulk of the ten million refugees and most of the civilian casualties.”

(17) Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (TP Hồ Chí Minh: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978), tr 130-131.

(18) Avro Manhattan, Vietnam: Why Did We Go?” (Chino, CA Chick Publications, 1984), tr. 117. Nguyên văn: ("Beetween 1955 and 1960 at least 24,000 were wounded, while 80,000 people were executed or otherwise murdered, 275,000 had been detained or interrogated. Eventually, about 500,000 were sent to concentration or detention camps. The Catholic state machinery of suppression became so overpowering and ruthless that the US had to protest, privately and officially, the barefaced religious character of Diem's Catholic policy. Many more Buddhist monks followed the example Nun Nu Thanh Quang in protest against Diem's Catholic regime. It took tremendous personal courage to prepare oneself for death by fire in order to uphold one's own religious belief. The self-immolation of Buddhist monks and nuns helped revive the religiosity of millions of Buddhists, who became determined to resist the unjust laws of Diem government. The Catholic Church never expressed any sorrow or admiration for those Buddhist martyrs.")

(19) Chu Bằng Lĩnh, Đảng Cần Lao (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1993), tr. 133.