LỊCH SỬ HOA KỲ
(3 tác giả)
Nguyễn Mạnh Quang dịch
http://sachhiem.net/NMQ/LSHK/LSHK19.php
|
bản rời | « Xem Mục Lục » | 02 tháng 3, 2010
(tiếp theo Chương mười tám)
pypypy
CHƯƠNG XIX
CHIẾN TRANH GIỮA MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM
Trong tất cả các loại chiến
tranh thì cuộc chiến tranh giữa những người cùng một dân tộc, cùng một quốc gia
là bi đát hơn cả. Và thường thì người ta cảm thấy đau đớn não nề chua chát nhất.
Dân trong một nước đánh nhau, giết hại lẫn nhau, người cùng trong một tỉnh thù
nghịch chém giết lẫn nhau. Đôi khi có người trong cùng một gia đình lại chiến
đấu trong cả hai hàng ngũ đối nghịch nhau. Trong những năm từ 1861 đến năm 1865,
Hoa Kỳ bị tàn phá bởi cuộc chiến tranh như vậy. Lúc đó, chiến tranh bùng nổ giữa
miền Bắc và miền Nam, cuộc chiến tranh này còn gọi là trận chiến tranh giữa các
tiểu bang hay cuộc nội chiến. Trận đánh đầu tiên của cuộc chiến xảy ra ở đồn
Sumter thuộc tiểu bang South Carolina.
Trận chiến
tranh bi đát này bộc phát và bành trướng ra ngoài hoàn cảnh và điều kiện đã nói
ở trong các chương trước đây trong sách này. Như các bạn đã biết, hai miền Nam
Bắc đã phát triển những lối sinh sống khác biệt nhau. Rất nhiều người miền Bắc
sinh nhai bằng nghề buôn bán, thủy vận và sản xuất hàng hóa kỹ nghệ. Về phần
miền nam thì dân chúng sinh nhai bằng nghề trồng trọt, đặc biệt là họ trồng rất
nhiều bông vải. Vì sự khác biệt về lối sinh sống cho nên hai miền thường không
đồng ý với nhau về những vấn đề quan trọng như vấn đề thuế mậu dịch và vấn đề
ngoại thương. Mỗi khi có những vấn đề như vậy được nêu lên ở Quốc hội là hai
miền Nam Bắc thường chống đối nhau. Trong một quốc gia rộng lớn như Hoa Kỳ thì
sự bất đồng chính kiến với nhau là một việc hoàn toàn tự nhiên,và những vấn đề
bất đồng ý kiến với nhau như vậy thường thì có thể giải quyết với nhau một cách
êm đẹp.
Tuy nhiên, vào
thời kỳ tiền bán thế kỷ thứ XIX, sự bất đồng chính kiến về vấn đề nô lệ đã làm
cho miền Bắc và miền Nam phải phân ly tách rời nhau. Hẳn các bạn còn nhớ các
tiểu bang miền Bắc đã từ bỏ chế độ nô lệ vì rằng chế độ nô lệ không còn cần
thiết và thích hợp ở đây. Ngược lại, các tiểu bang miền Nam vẫn còn duy trì chế
độ nô lệ, vì rằng dân miền Nam rất cần nô lệ để trông coi làm lụng trong các đồn
điền trồng bông của họ. Đúng ra, sự bất đồng chính kiến về vấn đề nô lệ vào lúc
nào đó nếu không xảy ra một biến chuyển khác thì vẫn có thể giải quyết ổn thỏa
với nhau được. Sự bành trướng lãnh thổ về phía Tây một cách mau chóng, một lần
nữa lại gây ra sự tranh chấp giữa miền Bắc và miền Nam về vấn đề cho phép hay
không cho phép duy trì chế độ nô lệ ở các tiểu bang mới được thiết lập ở miền
Tây. Trong nhiều năm, sự tranh chấp này đã được giải quyết bằng nhiều thỏa hiệp,
trong đó mỗi miền nhượng bộ một ít. Nhưng lúc này là lúc mà sự tranh chấp dữ dội
đến nỗi không còn thể nào giải quyết bằng một thỏa hiệp nào nữa. Đất nước dần
dần rơi vào vực thẳm chiến tranh.
Trong chương
này, chúng ta sẽ tìm hiểu về chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc đã xảy ra như thế
nào. Dưới đây là những câu hỏi có thể giúp các bạn hiểu biết về những biến cố
đưa đến cuộc nội chiến này.
1. Trong nhiều
năm, miền Bắc và miền Nam đã giải quyết những dị biệt như thế nào?
2. Hai miền Nam
Bắc đã tiến dần đến chiến tranh ra làm sao?
3. Những biến
cố nào đã trực tiếp đưa đến chiến tranh giữa miền Bắc và miền Nam?
¨
PHẦN MỘT
TRONG NHIỀU NĂM, MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM
ĐÃ GIẢI QUYẾT NHỮNG DỊ BIỆT NHƯ THẾ NÀO?
Trong chương trước, các bạn
đã được biết, Hoa Kỳ đã chiếm từng vùng đất một dần dần cho tới khi lãnh thổ
vươn ra bao trùm kín cả vùng đồng bằng và miền núi ở bên bờ Thái bình dương. Dân
chúng ở cả hai miền Nam Bắc đều tiến đến vùng đất mới này để lập nghiệp. Dĩ
nhiên là khi đi lập nghiệp, họ mang theo tất cả những cách sinh sống và lối suy
tư cố hữu cuả họ. Dần dần các làng định cư được khởi lập, và sau đó có những
tiểu bang mới được thành hình. Cả hai miền Nam Bắc đều thấy rằng số phiếu của
dân miền Tây ở trong Quốc hội rất là quan trọng. Liệu rằng những phiếu này sẽ
làm thêm sức mạnh cho miền Bắc hay miền Nam? Liệu rằng những dân biểu của miền
Tây ở Quốc hội sẽ ủng hộ hay chống đối chế độ nô lệ? Cả hai miền đều cảm thấy
rằng họ cần phải có phiếu của các tiểu bang mới ở miền Tây này.
¨
MỘT THỎA HIỆP ĐÃ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC VẤN ĐỀ NÔ LỆ Ở LOUISIANA
- Việc thu nhận
tiểu bang Missouri khởi đầu cho việc tranh chấp về vấn đề nô lệ
Vùng đất đầu tiên được sát
nhập vào lãnh thổ Hoa Kỳ là vùng đất Louisiana do Tổng thống Jefferson mua, và
tiểu bang đầu tiên được thành lập ở trong vùng đất mới mua này là tiểu bang
Louisiana. Ở đây không có vấn đề tranh chấp về vấn đề nô lệ. Tiểu bang Louisiana
rõ ràng là ở tận cùng miền Nam, và chế độ nô lệ đã có ở đây ngay từ những ngày
đầu. Cho nên khi tiểu bang Louisiana được thâu nhận vào Cộng đồng Liên bang thì
tiểu bang này là tiểu bang chấp nhận chế độ nô lệ. Tuy nhiên, năm 1819, khi
Missouri xin gia nhập vào Cộng đồng Liên bang thì xảy ra việc tranh chấp dữ dội
giữa miền Bắc và miền Nam. Missouri cũng là một phần đất của lãnh thổ Louisiana
do Tổng thống Jefferson mua trước kia, nhưng tiểu bang này nằm xa hơn về phía
Bắc chứ không như tiểu bang Louisiana ở xa hẳn về phía Nam.
Nhiều người có
nô lệ đã đến định cư lập nghiệp ở Missouri. Khi Missouri nộp đơn xin phép để trở
thành một tiểu bang thì dân chúng ở đây lại muốn rằng tiểu bang của họ phải được
duy trì chế độ nô lệ. Nhưng khi đơn xin gia nhập vào Cộng đồng Liên bang đưa đến
Quốc hội thì một số dân biểu của các tiểu bang miền Bắc yêu cầu rằng chỉ khi nào
Missouri giải phóng hết nô lệ thì Quốc hội mới thu nhận Missouri vào cộng đồng
liên bang. Lời yêu cầu này khiến cho dân miền Nam sợ rằng nếu chế độ nô lệ bị
cấm ở tiểu bang Missouri thì rất có thể nô lệ cũng sẽ bị cấm ở những tiểu bang
khác nếu được thành lập ở trong vùng lãnh thổ Louisiana do Tổng thống Jefferson
mua trước kia. Miền Nam nêu lên thắc mắc là tại sao người miền Bắc không có nô
lệ lại được phép đi miền Tây định cư và được thành lập các tiểu bang ở đây,
trong khi đó thì người miền Nam có mang theo nô lệ lại bị cấm?
- Thỏa hiệp
Missouri giải quyết vụ tranh chấp về nô lệ này
Khi vụ tranh chấp gay cấn
này đi đến hồi quyết liệt thì lại xảy ra một điều may mắn. Maine vốn là một phần
của tiểu bang Massachusetts nộp đơn xin gia nhập Cộng đồng Liên bang như là một
tiểu bang riêng biệt. Dân chúng ở tiểu bang Maine không cần hay đúng hơn là
không muốn duy trì chế độ nô lệ. Có một lúc người ta đã nói: “Đây là một cơ hội
để giải quyết vụ tranh chấp gay cấn về tiểu bang Missouri”. Năm 1820, Quốc hội
đạt được một thỏa hiệp mệnh danh là “Thỏa hiệp Missouri” hay còn gọi là “Thoả
hiệp 1820” .
Theo thỏa hiệp
này thì:
1. Missouri sẽ
gia nhập Cộng đồng Liên bang như là một tiểu bang duy trì chế độ nô lệ.
2. Maine sẽ là
một tiểu bang tự do (không chấp nhận chế độ nô lệ)
3. Hai miền Nam
Bắc đồng thỏa thuận rằng sẽ dùng một đường ranh giới để giải quyết vấn đề tranh
chấp về chế độ nô lệ ở trong các phần đất còn lại trong lãnh thổ Louisiana do
Tổng thống Jefferson mua trước kia. Đường ranh này là đường biên giới ở phía Nam
của tiểu bang Missouri cắt ngang lãnh thổ Louisiana chạy thẳng về phía Tây.
Trong tương lai, trong phần lãnh thổ Louisiana, mỗi tiểu bang được thành lập nếu
nằm ở phía Bắc lằn ranh này thì sẽ là tiểu bang tự do (không châp nhận chế độ nô
lệ), nếu nằm ở phía Nam lằn ranh này thì sẽ được duy trì chế độ nô lệ.
Thỏa hiệp này
coi như là êm đẹp. Miền Nam đã thỏa mãn được những gì họ mong muốn – duy trì chế
độ nô lệ ở Missouri - miền Bắc có thể tin cậy vào số phiếu của tiểu bang Maine ở
Quốc hội để giữ quân bình số phiếu khi tiểu bang Missouri đứng về phía miền Nam.
Cả hai bên đều cảm thấy thoải mái, nhẹ nhõm, vì rằng Quốc hội đã thông qua một
đạo luật để giải quyết vấn đề nô lệ ở trong phần lãnh thổ Louisiana mới tậu
được. Miền Bắc đặc biệt đã hài lòng vì Quốc hội đã giữ địa vị của mình mà lấy
quyền quyết định vấn đề nô lệ trong phần đất còn lại sẽ trở thành các tiểu bang
sau này.
- Vụ tranh
chấp này đã gây ra cảm nghĩ chua chát và đắng cay
Dù rằng cuộc tranh chấp này
đã chấm dứt bằng thỏa hiệp Missouri, nhưng nó vẫn còn gây nên những chua chát và
đắng cay trong lòng người. Nhìn vào tương lai, nhiều người sợ rằng sau này sẽ có
những tranh chấp khác nữa về vấn đề nô lệ và những vụ tranh chấp sau này còn có
thể nguy hiểm hơn cả cuộc tranh chấp vừa mới giải quyết xong. Ông Thomas
Jefferson đã viết lên nỗi lo sợ này trong một đoạn văn: “Đây là vấn đề nhất thời
giống như tiếng chuông kêu cứu hỏa trong đêm khuya, nó đã đánh thức mọi người
dậy, và ai cũng khiếp sợ”. Ông còn viết thêm rằng “Trong những ngày giờ đen tối
nhất của thời chiến tranh cách mạng ông cũng không lo sợ cho tổ quốc như vậy”
¨ MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM TRANH LUẬN VỀ CÁC QUYỀN TỰ DO CỦA CÁC
TIỂU BANG
Việc tranh luận về việc thu
nhận Missouri vào Cộng đồng Liên bang đã khiến cho người miền Nam nhận thức được
mối lo sợ về lối sống của họ. Việc trồng bông vải đã làm cho đất đai ở miền Nam
trở nên cằn cỗi. Dân miền Nam sợ rằng sẽ có một ngày họ sẽ không có thêm những
đất mới để trồng bông. Họ cũng cảm thấy lo sợ vì những đạo luật về thuế mậu dịch
sẽ làm cho giá cả các hàng hóa lên cao. Vì rằng miền Nam mua rất nhiều hàng hóa
kỹ nghệ của Anh quốc, và ngược lại Anh quốc cũng mua rất nhiều bông vải của miền
Nam cho nên nâng cao thuế mậu dịch có nghĩa là nền thịnh vượng của miền Nam bị
đe dọa. Dân miền Nam trung thành với Cộng đồng quốc gia Hoa Kỳ, nhưng họ cũng
bắt đầu tự hỏi: “Có cách nào mà chúng ta vẫn ở lại êm đẹp ở trong cộng đồng mà
những điều kiện cần thiết cho lối sinh sống của chúng ta vẫn còn được bảo đảm?”.
- Ý niệm về
quyền tự do của các tiểu bang phát triển ở miền Nam
Hình như các nhà lãnh đạo
miền Nam muốn có một cách là ở lại trong Cộng Đồng Quốc Gia mà vẫn bảo vệ được
quyền lợi của miền Nam. Hẳn các bạn còn nhớ rằng Hiến pháp Hoa Kỳ đã phân chia
quyền hành cho chính quyền liên bang và chính quyền tiểu bang. Chính quyền liên
bang chỉ có những quyền hành nào đã được ghi rõ trong Hiến pháp. Còn tất cả
những quyền hành khác là thuộc về các tiểu bang. Người miền Nam cho rằng họ có
thể duy trì được lối sinh sống của họ bằng cách khẳng định rằng chính quyền liên
bang không được can thiệp vào tất cả các vấn đề không được Hiến pháp trao quyền
cho chính quyền liên bang. Tư tưởng này là nền tảng cho điều mà người ta gọi là
chủ nghĩa “quyền tự do của các tiểu bang”.
- Dân miền
Nam bảo vệ quyền tự đo của các tiểu bang
Ông John Calhoun ở South
Carolina là một người bảo vệ hăng say nhất các quyền tự do của các tiểu bang.
Các bạn đã có dịp đọc qua về đoạn văn ông viết trong lời phản kháng mạnh mẽ để
chống lại đạo luật nâng cao thuế mậu dịch vào năm 1828. Trong bản tuyên cáo phản
kháng này, ông Calhoun tuyên bố rằng Quốc hội không có quyền đánh thuế mậu dịch
cao theo đó mà một phần của đất nước phải gánh chịu thiệt hại. Ông nói lên tiếng
nói bênh vực cho người miền Nam. Ông phản đối rằng thuế mậu dịch là “bất hợp
hiến, áp bức và bất công”.
Một trong những
cuộc tranh luận nổi tiếng nhất ở Thượng viện Hoa Kỳ xảy ra vào năm 1830 là vụ
tranh luận về các quyền tự do của các tiểu bang. Cuộc tranh luận này kéo dài gần
2 tuần lễ. Vì lúc bấy giờ ông Calhoun là Phó Tổng thống nên ông không tham dự
cuộc tranh luận này. Nhưng thượng nghị sĩ Robert Y. Hayne cũng là người của tiểu
bang South Carolina, rất hăng say tranh luận, bênh vực cho miền Nam. Ông lý luận
rằng khi chấp nhận Hiến pháp, các tiểu bang chỉ trao chính quyền trung ương một
số quyền hành thôi. Ông tuyên bố rằng bất kỳ tiểu bang nào cũng có quyền hành
động chống lại các đạo luật do Quốc hội thông qua, nếu tiểu bang đó thấy rằng
các đạo luật này vi hiến.
- Ông Daniel
Webster biện luận cho chính quyền trung ương mạnh
Thượng nghị sĩ Daniel
Webster của tiểu bang Massachusetts đáp lại bài diễn văn của thượng nghị sĩ
Hayne. Ông Webster là một người lùn, nhưng chiếc đầu to lớn và cặp mắt “sáng rực
như hai cục than cháy trong đêm tối” của ông đã làm cho cái vẻ bề ngoài của ông
lại càng thêm phần uy nghi oai vệ. Ngày nào có ý định đọc bài diễn văn, ông mặc
bộ đồ lớn màu da bò và chiếc áo choàng kiểu xưa có nút bằng đồng. Lối ăn mặc này
rất thịnh hành vào thời cách mạng, và cũng làm cho cái vẻ bề ngoài của ông càng
thích hợp với hoàn cảnh. Ông không đồng ý với quan điểm của miền Nam về quyền tự
do của các tiểu bang. Ông lên tiếng bênh vực cho những người Hoa Kỳ cho rằng nếu
muốn Cộng đồng Liên bang tồn tại thì chính quyền liên bang phải có nhiều quyền
hành hơn các tiểu bang.
Vào ngày mà ông
Daniel Webster bắt đầu đáp lại bài diễn văn của ông Hayne, các hành lang của
Thượng viện đông chật ních những người đến nghe ông nói. Khi đứng lên, ông
Webster bắt đầu nói với giọng nói trầm trầm và sang sảng. Ông nói, nếu mọi tiểu
bang đều khẳng định cái quyền tự do để quyết định xem một đạo luật có hợp hiến
hay không thì những gì sẽ xảy ra? Câu trả lời của ông là Hoa Kỳ sẽ tan rã thành
từng tiểu bang riêng rẽ hay là thành từng một nhóm của một vài tiểu bang. Ông
viện dẫn những câu văn dài hoa mỹ của những bài diễn văn thời đó, ông đưa ra
những lời lẽ rất khích động để biện hộ cho cộng đồng liên bang, và ông chấm dứt
bài diễn văn của ông bằng những lời lẽ vô cùng cảm động:
“Vừa rồi khi
tôi quay lại nhìn mặt trời, tôi thấy trời không chiếu sáng trên những mảnh vụn
đã một thời ở trong tập thể (cộng đồng liên bang), trời sẽ không soi sáng lên
những tiểu bang hiếu chiến, bất hòa, ly khai, trời sẽ không soi sáng lên những
mảnh đất mà ở đây đầy rẫy những hận thù trong cảnh nồi da xáo thịt, tắm máu anh
em. Hãy để cho tia sáng mong manh lóe lên một phần để nhìn màu cờ huy hoàng của
đất nước đã từng vang danh khắp địa cầu và còn tiến cao hơn nữa. Nhưng vào khi
mà những chiến công cuồn cuộn dâng lên trong ánh sáng rực rỡ của ngày xưa thì
nhất định sẽ không có một lằn sọc nào trong quốc kỳ bị xóa bỏ hay bị làm ô uế,
và nhất định cũng không có một ngôi sao nào trong quốc kỳ bị che lấp. Quốc kỳ
đang mang những câu châm ngôn không giống như những câu hỏi đáng thương như “tất
cả giá trị của nó đáng là bao nhiêu?”. Và cũng không phải như những lời lẽ lường
gạt điên rồ như “Tự do trước và đoàn kết sau”mà là ở đâu đâu cũng tỏa ra ánh
sáng sống động đốt sáng lòng người trong mọi gia đình và bao trùm hết cả bốn bể
năm châu cuồn cuộn tung bay trong mọi làn gió ở thế gian này, và là tình cảm
khác rất quý báu đối với những con tim của người dân đất nước Hoa Kỳ. Đó là tự
do và đoàn kết ngày nay và mãi mãi, chỉ là một mà không thể nào tách rời chia rẽ
được”.
Cuộc tranh luận
giữa hai nghị sĩ Webster và Hayne chỉ là một trong hàng loạt cuộc tranh luận về
quyền tự do của các tiểu bang. Các tiểu bang miền Nam mạnh mẽ tin tưởng vào
quyền tự do của các tiểu bang đến độ họ bắt đầu đòi đến quyền tự do rút khỏi
Cộng đồng quốc gia. Và cuối cùng đến khi họ hành động, chúng ta sẽ thấy rằng sẽ
xảy ra thảm họa chiến tranh giữa các tiểu bang.
¨
NHỮNG TRANH CHẤP MỚI ĐƯA ĐẾN THỎA HIỆP 1850
Theo thỏa hiệp
Missouri thì mỗi vùng trong lãnh thổ Hoa Kỳ đều được ghi rõ là “tự do” (đã giải
phóng nô lệ) hay là “nô lệ” (còn duy trì chế độ nô lệ). Tuy nhiên, những vùng
đất mới được sát nhập vào lãnh thổ chắc chắn lại xảy ra tranh chấp. Các bạn đã
đọc qua chương XVIII và thấy rằng đã có những bất đồng chính kiến với nhau về
vấn đề thâu nhận Texas như là một tiểu bang duy trì chế độ nô lệ.
- Cuộc chiến
tranh với Mễ Tây Cơ đưa đến một vụ tranh chấp mới về chế độ nô lệ
Cuộc chiến với
Mễ Tây Cơ bùng nổ vào năm 1846 cho ta thấy rõ rằng Hoa Kỳ có thể chiếm một vùng
đất vô cùng rộng lớn. Đã có một lần, người ta nêu lên câu hỏi là” Những vùng đất
mới này sẽ là những vùng đất duy trì chế độ nô lệ hay giải phóng nô lệ”. Ngay
khi chiến tranh bùng nổ, ông Davis Wilmot, dân biểu của tiểu bang Pennsylvania
đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi này. Ông Wilmot là người rất ghét chế độ nô
lệ. Ông đề nghị với Quốc hội là hãy thỏa thuận với nhau trước rằng chế độ nô lệ
sẽ không được du nhập vào bất kỳ phần đất nào trong những vùng đất sẽ chiếm được
của Mễ Tây Cơ. Đề nghị này gọi là điều khoản Wilmot và được đưa ra Quốc hội
nhiều lần, nhưng đều bị đánh bại cả. Đại biểu các tiểu bang miền Bắc ghét chế độ
nô lệ bỏ phiếu ủng hộ đề nghị này. Nhưng các đại biểu miền Nam thì bỏ phiếu
chống lại.
- Người miền
Nam trở nên lo ngại]
Khi trận chiến với Mễ Tây
Cơ chấm dứt vào năm 1848, cuộc tranh luận do ông Wilmot khởi xướng trở nên quyết
liệt hơn. Khắp trong nước, ở đâu người ta cũng bàn về vấn đề nô lệ ở trong các
vùng đất vừa mới chiếm được của Mễ Tây Cơ. Người miền Nam sợ rằng người miền Bắc
có thể ngăn chặn không cho họ mang nô lệ vào các vùng đất mới này. Để hiểu rõ
nỗi lo sợ của họ, chúng ta hãy lắng tai nghe cuộc nói chuyện xảy ra vào thời đó
của một điền chủ giàu có ở miền Nam với ông bạn láng giềng. Ta hãy gọi hai người
này là ông A và ông B đang ngồi nói chuyện với nhau trong phòng khách.
Ông A bắt đầu
nói: “Tôi không thể nào lại không lo cho tương lai được. Không biết những gì sẽ
xảy ra nếu các tiểu bang miền Bắc, nơi mà có quá nhiều người theo chủ trương hủy
bỏ chế độ nô lệ, sẽ cố gắng ngăn chặn chúng ta mang nô lệ vào các vùng đất ở
miền Tây, hay là họ sẽ cố gắng can thiệp vào lối sinh sống ở miền Nam”.
Ông B nói: “Tôi
cũng đã nghĩ như vậy. Tôi cảm thấy vô cùng lo ngại rằng miền Bắc sẽ cố gắng hoạt
động để quốc hội chống lại việc duy trì chế độ nô lệ”
Ông A hỏi lại:
“Dịp nào khiến cho ông nghĩ rằng chính quyền liên bang có thể làm như vậy?”
- Số các
tiểu bang duy trì nô lệ bằng với số các tiểu bang giải phóng nô lệ
Ông B trả lời rằng: “Đó là
điều mà tôi đang nghĩ ra để giải quyết, tôi đã lập một danh sách những tiểu bang
nguyên thủy và những tiểu bang mới gia nhập Cộng đồng Liên bang kể từ khi đất
nước chúng ta giành được độc lập. Tôi cũng đã ghi rõ những năm mà các tiểu bang
mới được thâu nhận vào Cộng đồng Quốc gia. Trong danh sách này tôi chia làm hai
cột, một cột dành cho các tiểu bang được phép duy trì chế độ nô lệ, và cột kia
dành cho các tiểu bang tự do:
MƯỜI BA TIỂU BANG NGUYÊN
THỦY
Tiểu bang
nô lệ Tiểu
bang tự do
Delaware New
Hamsphire
Maryland
Massachusetts
Virginia
Rhode Island
North
Carolina Connecticut
South
Carolina New York
Georgia New
Jersey
Pennsylvania
NHỮNG TIỂU BANG MỚI
Tiểu bang
nô lệ Tiểu bang tự do
Kentucky
1792 Vermont 1791
Tennessee
1796 Ohio 1803
Louisiana
1812 Indiana 1816
Mississippi
1817 Illinois 1818
Albama
1819 Maine 1820
Missouri
1821 Michigan 1837
Arkansas
1836 Iowa 1846
Florida 1845
Wiscosin 1848
Texas
1845
- Nếu các
tiểu bang tự do trở nên mạnh hơn thì những gì sẽ xảy ra
Ông B nói tiếp: “Ông thấy là hầu hết thời gian và
con số các tiểu bang nô lệ và các tiểu bang tự do đều bằng nhau. Các tiểu bang
nô lệ mới và các tiểu bang tự do mới đều được thâu nhận một lượt. Việc thâu nhận
các tiểu bang này hầu như đi từng cặp một. Mỗi tiểu bang có hai thượng nghị sĩ.
Cho nên nếu vấn đề gì mà hai miền Nam, Bắc không đồng ý với nhau thì có những số
phiếu bằng nhau bỏ cho mỗi bên. Hơn nữa, đa số các vị Tổng thống là người miền Nam, chúng
ta cũng hy vọng là các ông ấy sẽ lo lắng quyền lợi của miền Nam”.
Ông A nói:
“cho tới bây giờ thì mọi việc đều tốt đẹp. Trong Thượng viện, số thượng nghị sĩ
của hai miền Nam Bắc đều bằng nhau và thường thì Tổng thống sẽ đứng về phía chúng ta”.
Ông B trông có
vẻ suy nghĩ hơn bao giờ hết. Ông nói: “Vâng, đúng vậy, nhưng ở Hạ viện lại là
một chuyện khác, cả hai chúng ta đều nhận thấy rằng trong 50 năm vừa qua, dân số
ở miền Bắc đã gia tăng nhanh hơn miền Nam. Tại Hạ viện, dĩ nhiên là con số dân
biểu của các tiểu bang tùy thuộc vào số dân của tiểu bang đó. Vì thế mà con số
các vị dân biểu của các tiểu bang miền Bắc gia tăng nhanh chóng. Đây là bảng
danh sách ghi những gì đã xảy ra ở Hạ viện từ năm 1800. bảng ghi này không những
chỉ ghi con số các vị dân biểu của các tiểu bang miền Bắc cũng như của miền Nam,
mà còn ghi con số phần trăm bao nhiêu dân biểu của miền Nam”
Năm |
1800 |
1810 |
1820 |
1830 |
1840 |
1850 |
Số dân biểu của
các tiểu bang tự do |
76 |
96 |
123 |
141 |
135 |
142 |
Số dân biểu của
các tiểu bang nô lệ |
65 |
79 |
90 |
99 |
88 |
90 |
Số bách phân của
các dân biểu miền Nam |
46 |
45 |
42 |
41 |
39.5 |
38.8 |
Ông B kết luận
rằng: “Bây giờ chúng ta đang mất dần sức mạnh đầu phiếu ở Hạ viện. Giả thử rằng
Tổng thống là người của miền Bắc, nếu
miền Bắc kiểm soát các vùng lãnh thổ và nếu các tiểu bang mới gia nhập Cộng đồng
Quốc gia là những tiểu bang tự do, như vậy là chúng ta cũng sẽ bị thiểu số ở Hạ
viện”.
Ông A trả lời
với vẻ lo lắng: “Tôi đã thấy rõ, chúng ta là những người miền Nam phải làm tất
cả những gì để ngăn chặn những vùng đất mới này khi gia nhập Cộng đồng Quốc gia
không thể trở thành các tiểu bang tự do được. Tôi không thể để cho miền Bắc can
thiệp vào lối sinh sống của chúng ta được”.
-
California muốn trở thành một tiểu bang
Sau khi khám phá ra vàng ở California thì việc
tranh luận nên làm gì đối với vấn đề nô lệ ở trong các vùng đất vừa mới chiếm
được của Mễ Tây Cơ trở nên hàng đầu. Các bạn đã thấy trong chương XVIII rằng
việc khám phá ra vàng ở California khiến cho nhiều người đổ xô đến vùng đất này.
Dân định cư ở đây thành lập một chính quyền riêng cho họ và nộp đơn xin gia nhập
Cộng đồng Quốc gia như là một tiểu bang tự do. Đối với dân miền Nam thì đây là
một sự lăng nhục họ. Họ khẳng định rằng California không được cấm đoán chế độ nô
lệ. Dân miền Bắc xác quyết rằng cần phải cấm.
Nếu vấn đề nô
lệ ở California được đem ra Quốc hội để bàn cãi thì vấn đề nô lệ ở những vùng
đất mới còn lại cũng cần phải được đưa ra Quốc hội để bàn cãi. Và nếu không có
một thỏa hiệp nào để giải quyết được vấn đề này thì đất nước có thể chia ra làm
hai phần. Viễn ảnh thật là đen tối.
- Những vĩ
nhân đại diện cho các tiểu bang ở trong Quốc hội
Trong khi quốc hội đang phải đương đầu với những
vấn đề rắc rối thì lại có những vĩ nhân xuất hiện. Đặc biệt là có ba người trở
nên nổi tiếng. Ba ông này đã bước vào làm việc ở tòa nhà lập pháp từ 40 năm về
trước, và gần như trọn đời phục vụ trong nghề dân biểu của họ. Trong đó có ông
Daniel Webster, người của tiểu bang Massachusetts, một chính khách mà cũng là
một nhà đại hùng biện. Dù là ông không thích chế độ nô lệ, nhưng ông ước vọng
một cái gì khác hơn, đó là giữ cho đất nước được đoàn kết. Ông Henry Clay, người
của tiểu bang Kentucky, được nổi tiếng là người “ôn hòa” (great compromiser).
Ông Clay rất có tài trong việc tìm cách hòa giải giữa những người bất đồng chính
kiến với nhau. Trong năm 1820, chính ông đã có công trợ giúp thỏa hiệp Missouri.
Và bây giờ là đúng 30 năm sau, ông lại đem những cố gắng để kiến tạo một thỏa
hiệp khác cho hai miền Nam Bắc. Ông John Calhoun thuộc tiểu bang Carolina, người
chiếm giải quán quân về việc tranh đấu cho các quyền tự do của các tiểu bang.
Mặc dầu là ông đã già yếu nhưng ông cũng vẫn cương quyết là South Carolina và
chế độ nô lệ phải có tiếng nói của họ. Ông chống lại bất kỳ một thỏa hiệp nào.
Ngoài ra còn
có những vị dân biểu nổi tiếng trong mấy năm sau này. một trong những người này
là ông Stephen A. Douglas thuộc tiểu bang Illinois, ông cho rằng dân chúng trong
các vùng lãnh thổ mới này phải giải quyết mọi vấn đề như vấn đề nô lệ cho chính
họ. Người khác nữa là ông William H. Seward thuộc tiểu bang New York. Ông Seward
tuyên bố rằng luật của Thượng đế là con người sinh ra là phải được tự do, và
luật của thượng đế còn cao hơn cả Hiến pháp của Hiệp chủng quốc. Ngoài ra còn có
những vị dân biểu trẻ xuất sắc bênh vực cho miền Nam. Trong đó có các ông
Jefferson Davis thuộc tiểu bang Mississippi
và ông Alexander H. Stephens thuộc tiểu bang Georgia. Sau này, khi miền Nam lập
chính phủ riêng thì chính hai ông này trở thành Tổng thống và Phó Tổng thống.
- Quốc hội
thông qua thỏa hiệp 1850
Sau những cuộc
bàn cãi dài vô tận, Quốc hội đồng ý một thỏa hiệp mệnh danh là thỏa hiệp 1850.
Thỏa hiệp này giải quyết vấn đề nô lệ ở các vùng đất vừa mới chiếm được của Mễ
Tây Cơ và một vài vấn đề khác, dưới đây là những phần quan trọng của thỏa hiệp
1850.
1. California
được thu nhận vào Cộng đồng Quốc Gia như là một tiểu bang tự do.
2. Những vùng
đất còn lại vừa chiếm được của Mễ Tây Cơ được chia ra làm lãnh thổ Mexico và
lãnh thổ Utah. Vấn đề nô lệ ở đây được trao cho dân chúng tự giải quyết lấy. Nói
một cách khác là dân chúng ở đây sẽ phải tự quyết định xem có nên duy trì chế độ
nô lệ hay không.
3. Sẽ không
được buôn bán nô lệ ở quận Columbia
4. để làm cho
nô lệ khó có thể giải thoát được bằng cách trốn từ các tiểu bang nô lệ sang các
tiểu bang tự do, Quốc hội cho thông qua một đạo luật ngặt nghèo gọi là luật về
nô lệ đào tẩu (Fugitive Slave Law). Luật này buộc dân chúng ở các tiểu bang tự
do phải giúp đỡ để bắt các nô lệ chạy trốn.
Qua thỏa hiệp
này, Quốc hội hy vọng sẽ mãi mãi giải quyết được vấn đề nô lệ. Các vị dân biểu
trong Quốc hội không muốn có một cuộc tranh luận gay cấn nào khác nữa có thể gây
nguy hiểm cho đất nước. Nhân dân Hoa Kỳ đã thở ra nhẹ nhõm. Chắc chắn là có
nhiều người đã nghĩ rằng việc tranh chấp về vấn đề nô lệ đã rơi vào quên lãng.
¨
PHẦN HAI
HAI MIỀN
NAM BẮC ĐÃ TIẾN DẦN ĐẾN CHIẾN TRANH
NHƯ THẾ
NÀO?
Người Hoa Kỳ
nào nghĩ rằng thỏa hiệp 1850 có thể giải quyết được vấn đề nô lệ và chấm dứt mọi
tranh chấp giữa hai miền Nam Bắc thì tỏ ra rất hy vọng. Nhều biến cố xảy ra
trong nhiều năm sau đó đã làm cho sự tranh chấp tái diễn thường hơn và còn gây
thêm hận thù và dữ dội hơn nhiều.
- Tác phẩm
“Chiếc lều của chú Tom” làm sôi nổi dư luận ở miền Bắc
Năm 1852, nữ sĩ Harriet
Beacher Stowe viết một cuốn sách với tựa đề là “Chiếc lều của chú Tom”. Đây là
cuốn sách nói lên sự đau khổ của dân nô lệ và sự tàn ác của các ông chủ. Tất cả
quả là bức tranh rõ rệt nhất ở khắp các miền Nam. Những thảm trạng này đã khiến
cho hàng trăm ngàn độc giả của tác phẩm này phải đau lòng. Đúng ra tác phẩm
“Chiếc lều của chú Tom” không có gì khác hơn là gây ảnh hưởng với nhân dân miền
Bắc trong vấn đề chống chế độ nô lệ. Người ta nói rằng trong những năm sau này,
Tổng thống Abraham Lincoln đã ca tụng bà Stowe như “Người thiếu phụ nhỏ bé đã
viết một tác phẩm gây nên một cuộc đại chiến”. Tuy nhiên, ở miền Nam, “Chiếc lều
của chú Tom” đã gây nên những làn sóng phản kháng và khuấy động lòng căm thù đối
với những người chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ.
- Đường xe
lửa bí mật giúp đỡ những người nô lệ chạy trốn
Mặc dầu đã có đạo luật về
những người nô lệ chạy trốn, dân miền Bắc vẫn tiếp tục giúp đỡ những người nô lệ
có cơ hội chạy trốn được. Một cách mà họ sử dụng để giúp đỡ những nô lệ nào chạy
trốn là đường xe lửa bí mật. Thực ra, đây không phải là một đường xe lửa thực sự
mà chỉ là một cách giúp đỡ cho các nô lệ chạy trốn để tới những nơi an toàn.
Những nô lệ tới được miền Bắc thì được những người chống lại chế độ nô lệ cho ăn
ở. Những người này gọi là những người hướng dẫn, đêm đến thì họ mang nô lệ đi từ
một căn nhà hay trạm đến một trạm khác xa dần về phía Bắc. Cuối cùng người nô lệ
này đi tới Gia Nã Đại, và ở đây họ có thể sinh sống như những người tự do. Mặc
dù không có nhiều nô lệ trốn đi theo cách này, nhưng đường xe lửa bí mật cũng đã
làm cho tinh thần chống đối nhau giữa hai miền Nam Bắc càng gia tăng.
- Khi vấn đề
nô lệ lại được đặt ra thì tranh chấp càng trở nên dữ dội
Những dị biệt giữa miền Nam
và miền Bắc vẫn tiếp tục trở nên trầm trọng hơn. Tuy nhiên, đầu năm 1854, hàng
loạt biến cố xảy ra khiến cho việc tranh chấp hai miền càng tiến dần đến điểm
không thể nào hàn gắn được. Nếu chúng ta có thể ngồi xem một chương trình truyền
hình của một vài biến cố quan trọng thì chắc chắn chúng ta có thể xem được một
vài hoạt cảnh dưới đây:
¨
HOẠT CẢNH 1
- Luật
Kansas- Nebraska làm tái diễn vụ tranh chấp về vấn đề nô lệ (1854)
Chúng ta đến xem phòng
Thượng viện ở trong điện Capitol tại Hoa Thịnh Đốn. Các thượng nghị sĩ đang bàn
cãi với nhau về dự luật Kansas – Nebraska, một dự luật để thiết lập hai chính
quyền mới. Một ở lãnh thổ Kansas và một ở lãnh thổ Nebraska. Nếu dự luật này
thành luật thì dân chúng ở hai vùng lãnh thổ sẽ tự quyết định có nên chấp nhận
chế độ nô lệ hay không. Một thượng nghị sĩ thuộc miền Bắc đang đọc bài diễn văn
với những lời lẽ sau đây:
“Thưa quý vị,
hãy nhìn vào bản đồ, Kansas ở phía Bắc đường ranh giới do thỏa hiệp Missouri ấn
định. Liệu rằng chúng ta có thể chấp nhận chế độ nô lệ ở đó được không? Không,
dân chúng miền Bắc sẽ không chấp nhận như vậy”.
Và một thượng
nghị sĩ miền Nam cãi lại:
“Thỏa hiệp
Missouri đã nói rằng chế độ nô lệ không được phép du nhập vào vùng lãnh thổ này.
nhưng dự luật này, dự luật Kansas – Nebraska sẽ khai tử thỏa hiệp Missouri. Nơi
nào có ngọn cờ của Hiệp Chủng Quốc thì ở đó có thể đu nhập chế độ nô lệ vào. Nó
phải như vậy. Nô lệ là của cải, là tiền bạc. Chúng tôi có quyền tự do mang tài
sản nô lệ của chúng tôi đến bất cứ một nơi nào ở miền Tây cũng như các bạn ở
miền Bắc có quyền mang tài sản như ngựa và bò của các bạn đến đó vậy. Dân chúng
ở miền Nam sẽ khẳng định quyền tự do này”.
Dự luật được
thông qua ở Thượng và Hạ viện và trở thành luật. Thỏa hiệp Missouri không còn
nữa. Luật Kansas – Nebraska thay thế thỏa hiệp Missour. Dân chúng ở các vùng
lãnh thổ Kansas và Nebraska có thể tự quyết định có nên chấp nhận chế độ nô lệ
hay không.
¨
HOẠT CẢNH 2
- Bạo động bùng
nổ về vấn đề nô lệ ở Kansas (1854-1857)
Chúng ta thấy có một người
cao lớn, với chòm râu bạc đứng ở ngoài trời trong đêm tối. Ông ta nhìn xuống năm
người đang hấp hối. Có người hỏi: “John Brown, tại sao anh lại bắn họ?” Hắn trả
lời: “Những người chống lại chế độ nô lệ đã bị giết, cho nên những kẻ ủng hộ
chế độ nô lệ cũng phải chết”.
Địa điểm xảy ra
là Kansas, nơi được đặt ra vấn đề tự do hay nô lệ. Dân từ miền Bắc và miền Nam
lũ lượt kéo đến đây lập nghiệp. Những người gốc miền Nam nói: “Chúng tôi sẽ mang
nô lệ vào Kansas. Nếu cần, chúng tôi sẽ chiến đấu để bảo vệ nô lệ của chúng
tôi”. Những người gốc miền Bắc nói: “chúng tôi sẽ không để cho nô lệ tồn tại ở
Kansas. Nếu cần chúng tôi sẽ chiến đấu để không cho đem nô lệ vào lãnh thổ này”.
Sự giết những
người ủng hộ chế độ nô lệ của John Brown chỉ là một trong những hoạt cảnh báo
động trong thời kỳ dân đi lập nghiệp kéo đến định cư ở Kansas. Lúc đầu, người ta
nổi lửa tiêu hủy làng Lawence của những người chống chế độ nô lệ. Có cả đoàn
người cưỡi ngựa đi lang thang trên khắp các nẻo đường. Họ mang theo súng trường
và nhắm bắn bất kỳ những người nào khác. đây là những người ủng hộ và chống chế
độ nô lệ đánh lẫn nhau để giành giật, nắm quyền kiểm soát Kansas. Bạo động ở
Kansas dần dần cũng nguôi ngoai lắng dần, nhưng cuộc đấu tranh để dành quyền
kiểm soát Kansas vẫn tiếp tục. Vì số người chống chế độ nô lệ đông hơn nên cuối
cùng họ đã thắng cuộc. Năm 1861, Kansas gia nhập Cộng đồng Liên bang như là một
tiểu bang tự do.
¨
HOẠT CẢNH 3
- Đảng Cộng Hòa
ra đời (1854)
Chúng ta thấy có một nhóm
người tụ tập ở ngoài trời tại một thị trấn ở Wisconsin. Một trong bọn họ nói:
“chúng tôi không thể bầu cho những người thuộc các chính đảng cũ, tức là đảng Tự
do và đảng Dân chủ nữa”. Những người khác vỗ tay hoan hô.
Diễn giả nói
tiếp: “Vấn đề quan trọng hôm nay là chúng ta sẽ phải duy trì chế độ nô lệ hay
chế độ tự do ở trong các vùng lãnh thổ mới? Các chính đảng cũ không thể đồng ý
với nhau về câu trả lời cho câu hỏi này. Quốc hội đã thông qua đạo luật Kansas –
Nebraska, định rằng dân chúng ở các vùng lãnh thổ này sẽ phải tự quyết định xem
có nên chấp nhận chế độ nô lệ hay không. Nhưng chúng ta là những người có mặt
trong cuộc họp này tin tưởng rằng Quốc hội sẽ có quyền và có bổn phận phải cấm
đoán chế độ nô lệ ở các vùng lãnh thổ mới này. Chúng ta mạnh và chúng ta phải
trở nên mạnh hơn. Chúng ta hãy thành lập một chánh đảng mới và tự gọi chúng ta
là những người của đảng Cộng hòa. Chúng ta hãy chiến đấu để không cho chế độ nô
lệ du nhập vào các vùng lãnh thổ mới”. Ở các tỉnh khác trong khắp miền Bắc đều
có hoạt cảnh như vậy “Không chấp nhận chế độ nô lệ ở các vùng lãnh thổ mới. Hãy
liên kết với những người của đảng Cộng hòa”.
Chính đảng mới
này thâu nhận được nhiều đảng viên. Trong kỳ bầu cử năm 1856, những người của
đảng Cộng hòa chiếm được 2/3 trong các tiểu bang miền Bắc và chọn ông John C.
Fremont một quân nhân kiêm thám hiểm gia, làm ứng cử viên. Tuy nhiên, hầu như
không có đảng viên đảng Cộng hòa nào ở miền Nam. Cho nên đảng Dân chủ ở cả miền
Bắc lẫn miền Nam đủ mạnh để bầu ông James Buchanan lên làm Tổng thống. Dù rằng
bị thất bại, đảng Cộng hòa cũng không chán nản. Họ biết rằng bước đầu của họ
tiến hành tốt đẹp hơn và hy vọng vào năm 1860 họ sẽ bầu được người của đảng Cộng
hòa lên làm Tổng thống.
¨
HOẠT CẢNH 4
- Trong vụ Dred
Scott, thỏa hiệp Missouri bị tuyên bố là bất hợp hiến (1857)
Chúng ta thấy trong một căn
phòng nhỏ hẹp im lặng, nơi đó Tối cao Pháp viện đang nhóm họp. Trên hàng ghế ở
trên bục cao, các vị thẩm phán Hoa Kỳ mặc áo choàng đen ngồi sau dãy bàn dài có
khảm trông rất là long trọng. Đây là tòa án tối cao của đất nước. Họ diễn giải ý
nghĩa của Hiến pháp Hoa Kỳ và quyết định về một đạo luật do Quốc hội ban hành có
vi hiến hay không.
Các vị thẩm
phán này đang cứu xét vụ án của một người da đen tên là Dred Scott. Scott vốn là
người nô lệ ở miền Nam được ông chủ mang đến một tiểu bang tự do, và tiểu bang
này nằm ở phía Bắc đường ranh do thỏa hiệp Missouri ấn định. Thỏa hiệp Missouri
quy định rằng trong lãnh thổ này sẽ không thể nào có chế độ nô lệ hay được phép
duy trì nô lệ. Vì thế cho nên Scott đòi quyền là một người tự do. Ông ta cũng đã
thỉnh cầu Tối cao Pháp viện buộc ông chủ của ông phải phóng thích ông. Một vị
thẩm phán chậm rãi đọc những lời lẽ của Tối cao Pháp viện quyết định. Nô lệ là
tài sản, là tiền bạc, và nô lệ không có quyền tự do của một công dân. Hiến pháp
bảo vệ tài sản trong các vùng lãnh thổ cũng như ở trong các tiểu bang. Quốc hội
không có quyền cấm đoán chế độ nô lệ ở trong bất cứ phần đất nào ở trong các
vùng lãnh thổ. Vì vậy mà thỏa hiệp Missouri là bất hợp hiến.
Quốc hội đã ấn
định trong luật Kansas – Nebraska rằng thỏa hiệp Missouri đã chết rồi, nhưng lại
đề nghị rằng các cử tri trong một vùng lãnh thổ sẽ tự quyết định lấy về vấn đề
nô lệ. Bây giờ trong vụ án Dred Scott, Tối cao Pháp viện lại quyết định rằng
không thể không cho du nhập nô lệ vào trong các vùng lãnh thổ.
Dân miền Nam dĩ
nhiên là rất hài lòng với quyết định của Tối cao Pháp viện, nhưng người miền Bắc
thì hết sức kinh ngạc. Đặc biệt là các đảng viên đảng Cộng hòa, họ phản đối rằng
Tối cao Pháp viện đã thiên vị ủng hộ miền Nam.
¨
HOẠT CẢNH 5
Một cuộc
tranh luận dữ dội xảy ra ở Illinois (1858)
Chúng ta thấy tại một công
viên ở trong một thị trấn nhỏ bé thuộc Illinois, trên một cái bục gỗ, có hai
người đứng trước một đám đông chật ních cả công viên. Có cái gì trái ngược hẳn
nhau giữa hai người này. Người này thì cao hơn người kia rất nhiều. Thật ra, nếu
người cao kia mà vươn thẳng tay ra thì người lùn này có thể đi dưới cánh tay
người cao. Người cao thì ăn mặc cẩu thả đến độ tay áo choàng của ông ta không
tới háng, và ống quần của ông ta không tới giày. Người lùn kia thì trái ngược
hẳn lại, ăn mặc rất chỉnh tề. Người cao lớn thì rất vụng về và mặt thì nhăn nhó
buồn rầu. Người lùn thì tự tin, vui vẻ và niềm nở.
Người cao là
ông Abraham Lincoln, đảng viên đảng Cộng hòa; người lùn là ông Stephen A.
Douglas thuộc đảng Dân chủ. Người nào cũng hy vọng sẽ được dân chúng Illinois
bầu làm Thượng nghị sĩ tại Thượng viện Hoa Kỳ. Muốn cho dân chúng biết họ sẽ bỏ
phiếu ở thượng viện ra sao, họ tranh luận về vấn đề nô lệ ở trong các vùng lãnh
thổ (chưa thành tiểu bang). Bất kể các quyết định của Tối cao Pháp viện trong vụ
án Dred Scott, ông Douglas nói rằng dân chúng ở trong các vùng lãnh thổ sẽ phải
quyết định xem có nên duy trì chế độ nô lệ ở trong lãnh thổ này hay không? (Tư
tưởng này gọi là chủ quyền nhân dân). Không ai ngạc nhiên khi thấy ông Douglas
nói như vậy, vì rằng chính ông là người đã soạn thảo luật Kansas – Nebraska.
Ông Lincoln nói
rằng chế độ nô lệ là lầm lẫn, Ông tuyên bố rằng Quốc hội có quyền giải phóng nô
lệ ở trong các vùng đất thuộc về toàn thể nhân dân Hoa Kỳ. Thế có nghĩa là trong
tất cả các vùng lãnh thổ chứ không phải trong tất cả các tiểu bang. Ông nói tiếp
rằng đảng Cộng hòa nghĩ rằng chế độ nô lệ là lầm lẫn. Vì lý do này mà đảng Cộng
hòa muốn giới hạn chế độ nô lệ ở trong các tiểu bang đã có sẵn nô lệ từ trước,
và ngăn chặn không cho nô lệ tràn sang các vùng lãnh thổ khác.
Tuy thế, nhưng
trong thâm tâm của ông Lincoln lại sợ rằng không thể nào tránh được một cuộc
tranh chấp giữa miền Bắc và miền Nam. Trong một bài diễn văn trước đó, ông đã
cảnh cáo với nhân dân Hoa Kỳ rằng: “Một gia đình mà chia rẽ thì sẽ không tồn tại
được. Tôi tin rằng chính phủ này sẽ không thể nào mãi mãi chịu đựng được cái
cảnh một nửa là nô lệ và một nửa là tự do”.
Ông Stephen
Douglas đã thắng kỳ bầu cử này. Nhưng ông Abraham Lincoln đã trở nên nổi tiếng
về các vấn đề đã nêu ra, nhất là vấn đề nô lệ.
¨
HOẠT CẢNH 6
- John Brown
tấn công kho vũ khí của chính phủ liên bang tại bến phà thuộc làng Harper, tiểu
bang Virginia (1859)
Tại bến phà ở
làng Harper trên bờ sông Potomac, chúng ta thấy căn nhà tạm giam với những bức
tường dầy. Súng nổ, quân lính đổ xô tới cửa và chiếm giữ tòa nhà. Ở bên trong,
người ta thấy John Brown và một số người. Phần lớn trong đám người này đã chết
hay đã bị thương. Đấy chính là John Brown mà chúng ta đã thấy ở Kansas. Ông ta
đang làm gì ở đấy bây giờ.
Ông Brown và
một số đông bạn của ông đã tới Virginia với ý định giải phóng nô lệ. Sau khi
chiếm đóng vũ khí của chính phủ Liên bang ở tại bến đò làng Harper để cướp vũ
khí, ông kêu những người nô lệ ở gần đó “Chúng tôi có mặt ở đây để giải phóng
các bạn! Hãy võ trang và bảo vệ tự do của các bạn”. Nhưng không có người nô lệ
nào theo ông cả. Ông Brown bị bắt và bị xử về tội phản bội, ông bị xử giảo.
Mặc dù những
người theo chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ coi ông Brown như là một vị thánh,
nhưng nhiều người miền Bắc lại coi hành động của ông như là hành động của người
điên. Tuy nhiên, dân miền Nam thì rất là sợ hãi. Họ sợ rằng những người theo chủ
trương hủy bỏ chế độ nô lệ ở miền Bắc đang tiến hành khuyến khích dân da đen nổi
loạn và dùng võ lực để giải phóng nô lệ. Người miền Nam bảo rằng: “Chúng ta
không thể chịu đựng được hơn nữa”.
¨
PHẦN BA
NHỮNG
BIẾN CỐ NÀO ĐÃ TRỰC TIẾP ĐƯA ĐẾN CHIẾN TRANH GIỮA MIỀN NAM VÀ MIỀN BẮC
¨
CUỘC BẦU CỬ ĐỊNH MẠNG
- Ông Abraham
Lincoln đắc cử Tổng thống
Năm 1860, toàn thể đất nước
lo sợ và căng thẳng như đang chờ đợi những biến cố trầm trọng nhất của mấy năm
qua. Cuộc bầu cử Tổng thống được tổ chức vào năm này, vấn đề chính sẽ là vấn đề
nô lệ. Kết quả sẽ như thế nào?
Trong kỳ bầu cử
này có 4 đảng chính trị, không giống như trước kia chỉ có hai hay ba chính đảng
thôi. Đảng Dân chủ cũ đã phân hóa ra làm hai nhóm. Một nhóm là đảng Dân chủ miền
Nam muốn bầu ông John C. Breckinridge thuộc tiểu bang Kentucky. Đảng này tin
tưởng ở quyền tự do của các tiểu bang và khẳng định rằng phải bảo vệ chế độ nô
lệ ở trong các vùng lãnh thổ. Đảng Dân chủ miền Bắc tin tưởng rằng giải pháp tốt
đẹp nhất cho vấn đề nô lệ là tư tưởng chủ quyền của nhân dân của ông Stephen
Douglas. Hãy để cho dân chúng ở trong các vùng lãnh thổ tự quyết định. Đảng này
chọn ông Douglas ra làm ứng cử viên. Một chính đảng thứ ba là đảng Đoàn kết Lập
hiến (The Union Constitutional Paryt). Những người ở đảng này là những người yêu
chuộng hòa bình và muốn cho quốc gia được đoàn kết. Họ hy vọng sẽ có một thỏa
hiệp khác về vấn đề nô lệ. Họ chọn ông John Bell làm ứng cử viên Tổng thống.
Sau hết là đảng
Cộng hòa. Đảng này nhắc lại những gì mà họ đã đòi hỏi vào năm 1854, rằng phải
ngăn chặn không cho chế độ nô lệ du nhập vào các vùng lãnh thổ. Đảng Cộng hòa
cũng cố gắng hoạt động để miền Bắc và miền Tây ủng hộ bằng cách:
1. Nâng cao
thuế mậu dịch.
2. Phân phối
ruộng đất miễn phí cho dân miền Tây.
3. Thiết lập
các đường xe lửa chạy tới bờ biển Thái bình dương. Đảng này chọn ông Abraham
Lincoln, một vị luật sư ở nơi xa xôi hẻo lánh thuộc tiểu bang Illinois ra làm
ứng cử viên Tổng thống.
Chính đảng nào
mà bị phân hóa vào những khi ra tranh cử thì thường thường là bị thất bại. Cho
nên đảng Dân chủ đã bị thất bại vào năm 1860. Đảng Cộng hòa thắng trong kỳ bầu
cử này, dù là ở hầu hết các tiểu bang miền Nam đảng này không có phiếu. Ông
Abraham Lincoln trở thành Tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1861.
- Ông Abraham Lincoln là ai?
Người đắc cử trong kỳ
bầu cử 1860 là một trong những người xuất sắc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Sinh
trưởng trong sự cực nhọc khó khăn ở vùng biên cương, ông không có những may mắn
mà nhiều vị Tổng
thống khác có. Vì
nghèo túng, ông đã phải xoay sở không biết bao nhiêu nghề để sinh nhai. Trước
khi trở thành luật sư, ông đã từng đi phá rừng, đẵn cây, cày ruộng, bổ củi, làm
việc cho tàu thuyền chạy trên sông Mississippi,
và trông nom cửa tiệm. Vì có ít dịp đi đến trường học để học nên ông tự học
trong những giờ nhàn rỗi trong ngày và trong những buổi chiều bên cạnh ánh lửa
bập bùng của lò sưởi. Ngay cả thân hình và thể xác của ông cũng bất lợi cho ông
– ông cao lêu nghêu, cử chỉ vụng về, giọng nói the thé.
Mặc dầu ông
có những trở ngại này, nhưng dân chúng vẫn kính nể ông. Sự thành thật, ý nghĩ
trong sáng, tính tình thân mật và tài kể chuyện của ông cũng như sự tín nhiệm ở
những người dân tầm thường là những đặc tính khiến cho ông được mọi người quý
mến. Ông đã làm việc trong cơ quan lập pháp ở Illinois trải qua nhiều nhiệm kỳ.
Năm 1846, ông được dân chúng bầu vào Hạ nghị viện và phục vụ trong một nhiệm kỳ
hai năm tại đây.
Khi nhiệm kỳ
tại Quốc hội chấm dứt, ông lại trở về hành nghề luật sư. Ông cho rằng ông đã
hoàn thành xong sự nghiệp chính trị. Nhưng lòng ưu tư về vấn đề nô lệ đã buộc
ông phải trở lại cuộc đời chính trị. Ông không đề nghị can thiệp vào vấn đề nô
lệ ở những tiểu bang nào vốn đã có nô lệ. Nhưng ông nhất quyết cho rằng chế độ
nô lệ không thể nào tồn tại được ở trong các vùng lãnh thổ thuộc chính quyền
trung ương. Niềm tin này đã khiến ông ra ứng cử làm thượng nghị sĩ của tiểu bang
Illinois, và phải tham dự tranh luận với ông Douglas.
Mặc dầu ông
rất nổi tiếng ở miền Tây, nhưng đối với dân chúng ở miền Đông thì ít người biết
đến ông. Đầu năm 1860, ông được mời nói chuyện tại Cooper Union Hall thuộc thành
phố Nữu Ước. Tại đây, nhiều người vì tò mò muốn đến xem và nghe nhân vật của
miền Tây đang trở thành một nhân vật quan trọng của đảng Cộng hòa. Đối với dân
Nữu Ước, ông Lincoln thật là vô cùng thô lỗ và nhà quê. Nhưng khi ông bắt đầu
nói thì người ta quên hẳn cái bộ quần áo kỳ lạ và dáng người cao lêu nghêu của
ông. Bài diễn văn của ông thật là hoa mỹ và sâu sắc. Cử chỉ của ông thật là
trang trọng và lôi cuốn. Lý luận của ông chống lại chế độ nô lệ ở trong các vùng
lãnh thổ thật là sâu sắc và trong sáng. Ông kết luận bằng những lời: “Chúng ta
hãy tin tưởng rằng quyền tự do làm nên sức mạnh, và trong niềm tin này, khi mà
chúng ta đã thấu hiểu thì chúng ta hãy mạnh bạo thi hành sứ mạng của chúng ta”.
Khi bài diễn văn chấm dứt, toàn thể thính giả hoan hô vang lên như sấm gào rung
chuyển cả đất trời.
Đó là con
người mà mùa thu năm 1860 được đắc cử làm Tổng thống thứ 16 của Hiệp Chủng
Quốc.
¨
CHIẾN TRANH BÙNG NỔ
- Các
tiểu bang miền Nam ly khai
Các tiểu
bang miền Nam đã tuyên bố rằng nếu ông Lincoln được bầu làm Tổng thống thì họ không còn muốn ở
lại trong Cộng đồng Quốc gia nữa. Thật ra, miền Nam vẫn có quyền hành ở trong
Quốc hội và ở trong Tối cao Pháp viện. Nhưng người miền Bắc mà lại là người của
đảng Cộng hòa đắc cử Tổng thống thì miền Nam không còn
cảm thấy an toàn được nữa. Họ không những sợ cho vấn đề nô lệ mà còn sợ cho cả
công việc sinh sống của họ tùy thuộc vào vấn đề nô lệ.
Ngay trước
khi ông Lincoln lên làm Tổng thống, các tiểu bang
miền Nam đã hăm dọa sẽ rút lui khỏi Cộng đồng Quốc gia. Trước hết là tiểu bang
South Carolina ly khai. Sau đó là các tiểu bang Mississippi, Florida, Alabama,
rồi Georgia, Louisiana và Texas. Ngày mùng 1 tháng 2 năm 1861, có 7 tiểu bang đã
ly khai. Tổng thống Buchanan lúc đó đã gần hết nhiệm kỳ nên không hành động gì
hết để ngăn chặn các tiểu bang ly khai này. Ông nói: “Tôi không có quyền gì để
hành động cả”.
- Liên minh
các tiểu bang Mỹ châu được thành lập
Tháng 2 năm 1861, 7 tiểu
bang ly khai gởi đại biểu đến Montgomery, Alabama để thành lập tân chính phủ.
Các vị đại biểu này soạn thảo hiến pháp cho Quốc gia mới, đó là liên minh các
tiểu bang Mỹ châu (còn được gọi là liên minh). Bản Hiến pháp này rất giống bản
Hiến pháp Hoa Kỳ, nhưng Hiến pháp này định rằng Quốc hội của Liên minh không
thể can thiệp vào chế độ nô lệ. Hiến pháp này quy định rằng không đánh thuế mậu
dịch vào các hàng hóa nhập cảng. Nhiệm kỳ của Tổng thống là 6 năm thay vì 4 năm,
và không được tái cử nữa.
- Ông
Jefferson Davis được bầu làm Tổng thống của Liên minh các tiểu bang
Ông Jefferson Davis thuộc
tiểu bang Mississippi được bầu làm Tổng thống của chính phủ Liên minh các tiểu
bang, và ông Alexander H. Stephens thuộc tiểu bang Georgia được tuyển chọn làm
Phó Tổng thống. Ông Jefferson Davis cùng sinh ở tiểu bang Kentucky với ông
Abraham Lincoln nhưng lớn hơn một tuổi. Ông Lincoln được song thân đem đi
Indiana lập nghiệp rồi di chuyển đi Illinois, trong khi đó, gia đình ông Davis
di chuyển xuống Mississippi. Thân phụ ông Davis là một nhà điền chủ có một đồn
điền rất lớn và có nhiều nô lệ. Ông Jefferson Davis là người có trình độ văn hóa
rất cao lại là người tốt nghiệp trường võ bị West Point. Trong thời chiến tranh
với Mễ Tây Cơ, ông là vị sĩ quan ghi được nhiều chiến công xuất sắc, ông cũng đã
từng phục vụ tại Hạ viện rồi Thượng viện tại Hoa Kỳ, và cũng đã từng làm Bộ
trưởng Bộ Chiến tranh. Khi còn là thượng nghị sĩ tại Thượng viện, ông mạnh mẽ
bảo vệ các quyền tự do của miền Nam.
Ông Davis là
một người thông minh, nhiều nghị lực và có vẻ của con người chỉ huy. Ông đã ra
gánh vác một trách nhiệm khó khăn là lãnh đạo Liên minh trong lúc còn phải tranh
đấu gay go để thành lập một Quốc gia độc lập.
- Tổng thống
Lincoln hy vọng hòa bình
Khi trở thành Tổng thống
Hoa Kỳ vào ngày mùng 4 tháng 3 năm 1861, ông Abraham Lincoln phải đương đầu với
một vấn đề khó khăn. Bây giờ có 2 quốc gia và 2 vị Tổng thống. Ông phải làm gì
đây?
Ông không muốn
chiến tranh, khi tuyên thệ nhậm chức ông nói: “Giả sử các bạn tiến đến chiến
tranh, các bạn cũng không phải chiến đấu mãi mãi. Sau khi cả hai bên cùng bị tổn
thất nặng nề, các bạn phải ngưng chiến đấu, thì những vấn đề xưa cũ vẫn còn lại
với các bạn”. Vấn đề nô lệ ở miền Nam không nguy hiểm, vì rằng Tổng thống
Lincoln hứa rằng ông “Không có ý định, dù trực tiếp hay gián tiếp, can thiệp vào
... vấn đề nô lệ ở các tiểu bang vốn đã có nô lệ”. Ông nói tiếp “Hỡi những đồng
bào bất mãn! Chính do nơi tay các bạn chứ không phải do nơi tay chúng tôi, đã
tạo nên cuộc nội chiến này. Chính phủ sẽ không tấn công các bạn. Tuy nhiên, Tổng
thống Lincoln đã làm sáng tỏ vấn đề khi ông long trọng thề phải “Duy trì , bảo
vệ” chính quyền Hiệp Chủng Quốc. Sau hết, ông kêu gọi toàn dân hãy đoàn kết. Ông
long trọng nói:
“Chúng ta không
phải là kẻ thù mà là bạn. Chúng ta nhất định không phải là kẻ thù. Tiếng vọng
huyền bí của trí nhớ bao trùm từ những nấm mồ của các nhà ái quốc cho đến hết
thảy mọi trái tim của những người còn sống ở trong khắp đất nước này sẽ trở
thành bài ca đồng điệu của toàn thể Quốc gia, và khi xúc động thì chắc chắn sẽ
là những thiên thần lộng lẫy trong vũ trụ của chúng ta”.
Như vậy là ông Lincoln đã
đứng ra đảm nhậm trách vụ bảo vệ và duy trì đất nước với lòng tin tưởng mãnh
liệt vào những gì mà ông cho là đúng. Song lẽ, dù rằng ông đã nói như vậy, nhưng
đất nước vẫn còn chia rẽ. Các đồn ải của chính phủ trung ương đã bị quân Liên
minh miền Nam chiếm giữ. Luật pháp của chính quyền trung ương không được tôn
trọng. Nếu ông Lincoln muốn cứu nguy tổ quốc, ông phải hành động mau lẹ.
- Chiến
tranh
Hải cảng Charleston thuộc
tiểu bang South Carolina rộng lớn và yên lặng. Dưới ánh nắng ấm áp của mùa xuân,
thành phố Charleston nằm mãi tận cùng phía Tây của hải cảng. Phía trong hải cảng
này là một hòn đảo, và trên hòn đảo nhỏ bé này là đồn Sumter. Đồn Sumter do quân
đội chính quyền trung ương đồn trú. Các nhà lãnh đạo Liên minh miền Nam đòi rằng
quân sĩ trung ương phải rời bỏ đồn này. Nhưng vị chỉ huy trưởng của đồn Sumter
từ chối. Liền sau đó, thì các nhà lãnh đạo Liên minh miền Nam lại hay tin là
Tổng thống Lincoln cho tàu thuyền tiếp tế thực phẩm và các đồ tiếp liệu cho đồn
Sumter. Dĩ nhiên là họ sợ rằng sự tăng viện này cũng có thể là lực lượng đổ bộ.
Ngày đêm hình như trở nên dài hơn. Dân chúng hồi hộp lo sợ.
Lúc bấy giờ là
4 giờ 30 sáng ngày 12 tháng 4 năm 1861, còn một giờ nữa thì trời mới sáng. Thình
lình một ánh lửa lóe lên rồi một tiếng nổ “Bùm” phá tan bầu không khí yên lặng.
Từ bốn chung quanh hải cảng, đại pháo của quân liên minh bắt đầu nã vào đồn
Sumter. Hòa bình không còn chỗ đứng ở hải cảng Charleston cũng như ở bất cứ nơi
nào trong đất nước Hoa Kỳ. Chiến tranh đã thực sự bắt đầu bùng nổ.
(xem tiếp : Chương XX)
Các bài cùng tập Lịch Sử Hoa Kỳ
▪ 2004-08-15 - LSHK-1- Marco Polo và những chuyện kỳ thú ở Đông phương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 0000-00-00 - LSHK-1- Marco Polo và những chuyện kỳ thú ở Đông phương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-2- Magellan tìm ra con đường đi vòng quanh thế giới - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-3- Những Lá Thư Của Phillip Andrew - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-4- Việc Thành Lập 13 Thuộc Địa Anh - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-5- Dân Chúng Sống Ở Thuộc Địa Anh Như Thế Nào? - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-6- Nước Pháp Thắng Rồi Lại Bại - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-7- Người Anh Cai Trị Các Thuộc Địa Như Thế Nào? - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-8- Dân Thuộc Địa Chống Lại Anh Quốc - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2022-07-05 - MƯỜI BA THUỘC ĐỊA ANH GIÀNH ĐỘC LẬP - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2014-07-04 - LSHK-9- 13 Thuộc Địa Anh Giành Độc Lập - Nguyễn Mạnh Quang dịch -
▪ 2004-08-15 - LSHK-1- Marco Polo và những chuyện kỳ thú ở Đông phương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-10- Tinh Thần Độc Lập Ảnh Hưởng Khắp Mỹ Châu - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-11- 13 Tiểu Bang Kết Thành 1 Quốc Gia - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-12- Tân Chính Phủ Trung Ương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-13- Hoa Kỳ Được Các Quốc Gia Khác Kính Nể - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-14- Miền Đông Bắc Trở Thành Trung Tâm Kỹ Nghệ - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-15- Miền Nam Trở Thành Vương Quốc Bông Vải - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 0000-00-00 - LSHK-16- Chế Độ Dân Chủ Theo Đà Mở Rộng Biên Cương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-17- Toàn Quốc Trở Nên Dân Chủ Hơn - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 1 2 ▪ >>>
Trang Lịch Sử