Đặng Văn Hoà Một Vị Đại Thần Có Công Tâm Với Đạo Phật
		Hưng Thước 
	 https://sachhiem.net/VANHOC/Hungthuoc.php
	 20-Feb-2014
 20-Feb-2014
 
Suốt quá trình mở rộng bờ cõi vào phương Nam,  để chống đỡ với các chúa Trịnh ở phương Bắc đang dựa hẳn vào tư tưởng Khổng  Mạnh trong việc xây dựng xã hội, các chúa Nguyễn đã vạch ra cho vùng đất mới  của mình một nền tảng tư tưởng đạo đức khác bằng cách đẩy mạnh việc truyền bá  Phật pháp. Lịch sử đã ghi nhận Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) có đạo  hiệu Thiên Túng đạo nhân như một vị hộ pháp có công phát triển đạo Phật ở miền Nam. 
    Khi đất nước được thống nhất dưới thời vua Gia Long  vào năm 1802, tuy cần đến tư tưởng Nho giáo để củng cố vương triều, nhà Nguyễn  tiếp tục ủng hộ Phật giáo, dẫn đến quan niệm cư Nho mộ Thích ở hầu hết các vị  đại quan triều Nguyễn. Một trong những vị đó là Đặng Văn Hòa (1791-1856).
    Đặng Văn Hòa  hiệu Lễ Trai, người làng Thanh Lương, xã Hương  Xuân, (nay thuộc thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên- Huế) là trưởng nam của một  vị túc nho từng là thầy dạy cho con trai thái úy Tây Sơn là Phan Văn Trị nhưng không  ra làm quan. 
    Năm Quý Dậu 1813, niên hiệu Gia Long thứ 12, nhà  Nguyễn mở khoa thi hương đầu tiên, Đặng Văn Hòa dự thi và đỗ Hương cống (cử  nhân); lúc ấy ông mới 22 tuổi. Hai năm sau, ông được tuyển vào học ở Cống sĩ  Viện (tức là Quốc tử giám) để chuẩn bị thi tiến sĩ, rồi đến năm 1819 lúc vừa 29  tuổi, đã được bổ nhiệm làm Tri huyện một huyện ở tỉnh Quảng Nam. Từ đó, ông bắt  đầu cuộc đời làm quan qua hơn 40 năm, trải bốn đời vua, Gia Long, Minh Mạng,  Thiệu Trị, và Tự Đức; đã từng kinh qua các chức thượng thư trong triều và là  đại thần Cơ mật viện. Ông cùng nhiều lần được bổ ra ngoài trị nhậm những tỉnh  thành quan trọng với vai trò Tổng trấn, Tuần phủ, Tổng đốc . 
Năm 1831, ông làm quyền Tổng trấn Bắc thành (thành Hà  Nội); khi vua Minh Mạng bãi bỏ chức Tổng trấn và đổi tên Thăng Long thành Hà  Nội cũng trong năm đó, thì ông được cử làm Tuần phủ Hà Nội một thời gian ngắn.  Ông thực sự là Tổng đốc Hà Nội-Ninh Bình trong thời gian từ 1835 đến 1839 và từ  1846 đến 1848. Ngoài ra, ông cũng là Tổng đốc các tỉnh Nam Định-Hưng Yên trong  các giai đoạn 1832-1833, 1843, và 1848; không kể những lần ông được điều gấp  vào phụ trách công việc cai trị ở các tỉnh Bình Định-Phú Yên và Gia Định-Biên  Hòa. Thời gian là Tổng đốc các tỉnh Hà Nội- Ninh Bình và Nam Định- Hưng Yên,  ông đã để lại trong lòng người Bắc Hà nhiều tình cảm nồng hậu. Ở đây ông đã  được kẻ sĩ, dân chúng kính yêu. Họ đã soạn khúc ca ngợi ông truyền bá khắp nội,  ngoại thành, hát trong các yến hội, khánh tiết: 
    «So công đức ai bằng quan họ Đặng
Nhà nam bắc gặp hội thanh bình
Vâng ơn trên ra tỉnh Hà Thành
Ngôi đại hiến mọi bề then khóa
Từng năm thứ thanh cần tấc dạ
Mười hai năm lịch duyệt đã nhiều lần
Kẻ lại dân bia miệng khắp xa gần
Buổi chiêm cận đoái ngâm câu biệt  khúc... »
    Danh sĩ Cao Bá Quát từng là môn khách của ông và có  lần được ông xin tha tội chết khi họ Cao vì thương tài mà chữa lỗi phạm húy  trong bài thi của thí sinh. 
Vào năm 1853, con trai ông là Đặng Huy Cát được kén  làm Phò Mã, lấy Thái Trưởng công chúa Tĩnh Hòa, con thứ 34 của vua Minh Mạng,  nên ông làm sớ xin đổi tên là Đặng Văn Thiêm; chính vì thế, sử sách nhà Nguyễn  nói về ông với tên Đặng Văn Thiêm. Cũng trong năm ấy, ông được sung vào làm  Tổng tài Quốc sử quán và phụ trách công việc này cho đến lúc mất ngay tại công  đường bộ Hộ vào năm 1856, hưởng thọ 66 tuổi. 
Căn cứ vào hành trạng của ông, Đặng công đã có tới gần  17 năm gắn bó với đất Bắc. Ngay từ năm 1831, ông đã là người có thẩm quyền ở Hà  Nội, nhưng phải đợi đến năm 1839, gần cuối giai đoạn thực sự làm Tổng đốc Hà  thành lần đầu, ông mới có cơ hội trùng tu chùa Một Cột. Tuy nhiên, ngay trong  năm đó, ông phải rời Hà Nội; vì thế, phải đến lần thứ hai ông trở lại Hà Nội vào  năm 1846, công việc trùng tu mới được tiếp tục và tấm bia ghi lại sự việc này  được dựng vào năm 1847; trong văn bia nêu rõ tâm trạng của ông khi nhìn thấy  cảnh tiêu điều của ngôi chùa một thời là biểu tượng của thành Thăng Long. 
Theo  một số nhà nghiên cứu, chính nhờ đợt trùng tu này mà chùa Một Cột đã duy trì  được sự phong quang của một thắng tích; theo lời văn bia ghi lại: “… đã khiến cửa Thiền lộng lẫy, tượng Phật  huy hoàng, sánh với hoàng đồ (bản đồ, đất đai của nhà vua), muôn đời bất  diệt..”, nếu không, chùa này cũng chẳng thể tránh được số phận như  chùa Báo Thiên hay chùa Báo Ân là bị triệt hạ dưới thời thuộc Pháp với lý do bị  hoang tàn. Cùng với việc trùng tu chùa Một Cột, ông cũng đã tâu với triều đình  xin cấp cho chùa 5 mẫu ta đất công bỏ hoang ven ngoại thành làm tự điền, để chư  Tăng ở chùa có phương tiện chi dụng về mặt hương hỏa.
    Văn bia chùa Một Cột (Nhất Trụ tự bi) dựng năm Đinh  mùi -1847 (Thiệu Trị) còn được lưu giữ cho đến ngày hôm nay đã ghi lại việc  trùng tu này:
    
Bản dịch:
    VĂN BIA CHÙA MỘT CỘT
    Mảng nghe:  
    Dựng bia để làm gì ? Là để ghi lại sự việc, truyền lại dài lâu.
    Xét: 
    Phật vốn  từ bi, thả bè báu (1)  tế độ chúng sinh.  Người biết tôn sùng đạo cần mở rộng phúc điền tam  bảo. 
    Chùa này, khí  thiêng nước Nam hun đúc, cảnh đẹp nổi tiếng phía tây thành. Phật Bà được tô  tượng vàng, dưới mở rộng giếng vuông, bốn mùa chứa đầy xuân sắc, trên xây cửa  đỏ, muôn thuở cảm ứng linh thiêng.
    Tháng 2 năm  Mậu tuất (1838) quan Đốc bộ đường (Tổng đốc) bản tỉnh là Đặng Văn Hoà nhân lúc  việc quan rảnh, cưỡi xe qua chơi, thấy tự viện tiêu điều, lòng từ trổi dậy, tự  xuất của nhà, lại được thập phương giúp thêm, thuê thợ tu sửa, làm cho tượng  Phật huy hoàng, điện thờ sáng lạn, tả hữu hành lang, tam quan, gác chuông,  trong ngoài bốn phía, tất cả đều trang nghiêm.
    Trộm nghĩ :  
    Có thịnh thì có suy, có thành  thì có  hoại, vận số trên đời thường như vậy.
    Khu chùa này  thuộc đất công bản tỉnh, không có người trông giữ, lâu ngày vật đổi sao dời,  khiến nổi hoàng kim biến sắc. May nhờ quan Đốc bộ đường và các viên văn vũ bản  tỉnh, xúc cảm trước cảnh chùa, phát tâm Bồ đề, gia công tu bổ, khiến cửa Thiền  lộng lẫy, tượng Phật huy hoàng, sánh với hoàng đồ, muôn đời bất diệt, so cùng  cột đá, lâu mãi vững bền.
    Công này, đức này, tiếng để ngàn năm.
    Lại đo các xứ  đất công bỏ hoang ven ngoài thành hào, ruộng và ao, ước trên 5 mẫu, giao cho sư  sãi trụ trì cày cấy để chi dụng vào những ngày lễ quanh năm và hương đèn vào  những ngày rằm, mùng một, sớm tối tụng kinh niệm Phật.
    Vì vậy dựng bia khắc lời văn để ghi sự việc.
     Người sinh trên đời,
Phúc là trên hết.
Lòng ta là Phật
Tâm trời sinh ra
Sẵn của, sẵn lòng (2) 
Nhân duyên muôn kiếp
Phúc tựa hà sa
Bền như bia đá”.
    Dựng  ngày rằm tháng 2, năm Đinh mùi, niên hiệu Thiệu Trị thứ 7 (1847).
Người  hưng công : 
    Vinh lộc đại phu, Hiệp biện đại học sĩ, lĩnh Binh bộ  thượng thư, kiêm Đô sát viện Hữu Đô ngự sử. Tổng đốc Hà nội – Ninh Bình,   Đề đốc quân vụ, kiêm lý lương hướng Đặng Văn Hoà.
    Kính  cẩn ghi 
Người  giúp công đức :
.................................
................................. 
     
    Ông  đã cung tiến vào chùa hai đôi câu đối: 
 I. «  Nhất trụ danh lam sáng kiến do lưu cựu tích
Thập  phương thiện niệm trùng tu tăng xướng tân quy »
    Dịch nghĩa:
(Danh lam chùa Một Cột dựng xây lưu lại dấu cũ,
 Thiện tâm của thập phương tăng thêm lòng mến mộ đạo  Phật)
 II. «Thạch trụ hồ trung  trừ pháp vũ 
     Kim liên  toà thượng toả từ vân»  (3) 
Dịch nghĩa:
(Trụ đá trong hồ ban mưa pháp 
 Sen vàng trên bệ toả mây hiền).
Một công trình thể hiện đạo tâm quảng đại của ông là  việc lập Nghĩa trủng lệ đàn (Đàn cúng cô hồn) trên khu đất rộng 15 mẫu ta ở  vùng trại Nam  Đồng và Thịnh Quang thuộc huyện Vĩnh Thuận ngoại thành Hà Nội (nay thuộc phường  quang Trung –Hà Nội -gần gò Đống Đa). Nguyên nơi đây là mồ hoang quân nhà Thanh  bị chết khi giao chiến với binh lính của vua Quang Trung tiến ra Bắc hồi năm 1789.  Nhân một dịp cho khơi sâu lòng hồ bao bọc quanh thành năm 1847, thấy trong  ngòi lạch có lắm xương cốt, Tổng đốc Đặng Văn Hòa thấy động lòng, đã đích thân  chỉ huy quân lính thu nhặt hài cốt rải rác trong bùn đất bên đường đem chôn cất  tử tế thành 12 gò; sau đó, xin trích ra 15 mẫu đất miễn thuế để nhân dân quanh  vùng làm nơi chôn cất và cày cấy để lấy hoa lợi chi dùng vào ngày rằm thàng  Giêng, tháng 7 và tháng mười hàng năm. Về sau, những vị quan tiếp nhận trọng  trách của Đặng công đã nối tiếp công việc của ông, xây tiếp trên đó một ngôi  chùa gọi là chùa Đồng Quang. Việc này đã được ghi trong bài ký bia chùa Đồng  Quang do tiến sĩ Lê Duy Trung, đốc học Thanh Hóa soạn, dựng năm Bính thìn  (1856) Tự Đức thứ 9. 
    Bản  dịch:
Văn bia Chùa Đồng Quang (4) 
    “Ơn của bậc  Thiên tử thấm nhuần tới nấm xương khô, dưới trướng bậc tướng có lòng nhân thì  kẻ dưới nhiều người thích làm điều thiện.
........................
    Đất chùa là  nơi quân Tây Sơn giao chiến với quân của thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống.  Quân Thanh bị chết hàng vạn, mồ mả chồng chất, người qua lại động lòng thương  xót.
    Tháng chạp  năm ngoái, nhân đi qua trại Nam Đồng -Thịnh Quan thấy mộ địa cũ hoang vắng thê  lương, còn 13 chỗ là di chỉ của khu mả cũ,  hiện dồn thành đống, hỏi các  vị bô lão cho biết: đây là mồ hoang của quân nhà Thanh mà dưới thời Thiệu Trị  năm Đinh Mùi -1847- quan tổng đốc Hà Nội là Đặng Văn Hoà cho thu nhặt các hài  cốt nằm rải rác trong bùn đất bên đường, trong ngòi lạch đem chôn đắp thành 12  gò đống. Ngài còn làm sớ xin trích 15 mẫu công điền của hai trại trên xin được  miễn thuế để làm mộ địa và cho dân hai trại cày cấy, thu nửa hoa lợi cúng lễ  vào ba ngày rằm tháng giêng, tháng 7 và tháng 10 hàng năm.
………………….
    Năm Tự Đức  thứ 4 vị Kinh lượt sứ lĩnh chức Tổng đốc Hà Nội ngài họ Nguyễn Đăng Giai cho mở  chợ mới. Khi chia vạch đường sá, đào thấy những khô cốt cho hợp táng thành đống  mả thứ 13. Mắt trông thấy mà lòng trắc ẩn, người bèn khuyến giáo những người có  lòng từ thiện rồi trên nền cũ dựng ngôi chùa bốn gian, đặt tên là chùa Đồng  Quan (5)  ...
    Ôi như lời  truyền lại thì lúc đầu chỉ dựng đàn để cúng cô hồn vào dịp ba ngày rằm, sau lại  dựng chùa thành nơi thờ Phật ngẫm lại hoá ra chẳng lạ lắm sao?...........
    Đức của Thiên  tử lớn lao, sông núi quỉ thần không đâu mà không yên, việc tế giải trừ lệ khí  đã ghi trong điển lệ, lại có ruộng làm nơi chôn cất để thể phách được yên nghỉ.
    Người trông  coi đất này hãy thường thường noi theo: đem cái đức lớn của ngài họ Đặng mà  truyền dạy xuống dưới, noi theo hai ngài họ Phan đem cái đức lớn mà tích âm  đức. Ngoài đồng không còn bộc cốt xương giãi ắt không còn quỉ đói, ma quỉ biết  được thì không bao giờ làm hại dân nữa. Như thế không chỉ là cái phúc cho người  chết mà cũng là cái phúc lớn cho người sống vậy. Như thế khí dương hoà sẽ  truyền lan, khí âm uất sẽ tiêu tan mà cũng tới cõi an lạc.
    Ai đến thăm   cảnh chùa, tiếp thu được tấm lòng Di Đà, sẽ biết lý do xây dựng và danh  nghĩa của chùa, không phải đợi giảng giải nữa”.
 
    Nghĩa trủng lệ đàn (đàn cúng cô hồn)
     Hồi đầu thị ngạn (Quay về bến giác) 
4 chữ “Nghĩa  trủng lệ đàn” vẫn còn cho đến hôm nay, dưới mái chùa Đồng Quan. Nơi đây Đặng  Văn Hòa đã cho lập đàn cúng cô hồn, sau xây chùa. 
    Theo sách “Nhĩ Hoàng Di Ái” của Đặng Huy Trứ, trong  thời gian Đặng công làm Tổng đốc Định-An, ông cũng cho lập ở ngoại thành Nam  Định một ngôi nghĩa trủng trong khoảng các năm 1833-1835, bên cạnh nghĩa trủng  có xây chùa Hàn Lâm. 
    Là một vị đại thần khi qua đời được nhà vua ban tên  thụy và tước công, khi mất được nhà vua ra lệnh cho các quan làm lễ tế, Đặng  công là một người trung thành với nhà vua, biết tuân giữ mọi mệnh lệnh của  triều đình, nhưng ông luôn luôn quan tâm đến việc dân việc nước, sẵn sàng vì  quyền lợi của dân mà đưa những đề nghị khác ý triều đình. Dưới triều Minh Mạng,  nhiều lần ông dâng sớ đề nghị thay đổi hoặc giữ nguyên những biện pháp của  triều đình, chỉ dựa trên cơ sở an dân; cũng may, hầu hết những đề nghị của ông,  nhờ có sự biện chính khéo léo, thường được chấp nhận. Khi làm quyền tổng trấn  Bắc thành năm 1831, ông đã cho người vẽ bản đồ Hà Nội; các nhà nghiên cứu cho  đó là bản đồ đầu tiên của Hà Nội. Trong cuộc đời làm quan, có lẽ Đặng công cũng  ngao ngán trước sự ganh tị của đồng liêu và thái độ đôi khi gần như mục hạ vô  nhân của triều đình nên ông đã có những bài thơ tỏ ý muốn về hưu, chỉ vì thương  dân mà tiếp tục cuộc đời của kẻ thần tử tận trung với nước. 
Cháu ruột của ông, Bố chánh Đặng Huy Trứ, làm quan  dưới triều Tự Đức, nổi tiếng là người thanh liêm, được các học giả thời nay tôn  vinh là danh nhân văn hóa, cũng là người quyết liệt chống tham nhũng, khẳng  định rằng chính thành tích thân dân của bác ruột mình – là Đặng Văn Hòa – đã  nung đúc ông có chí hướng giữ tròn danh tiết của người làm chính sự; điều này  được Đặng Huy Trứ ghi lại trong sách “Nhĩ Hoàng (6)  di  ái” (Yêu thương để lại Nhị Hoàng), nói về hành trạng của Đặng công, soạn bằng  Hán văn năm 1869, được nhóm Trà Lĩnh dịch ra quốc văn, nhà xuất bản Văn Hóa  Thông Tin Hà Nội ấn hành năm 1996. 
Riêng tại Thừa Thiên - Huế, là nơi chôn nhau cắt rốn  của ông, từ năm 1830 đến 1853, ông đã cung tiến 6 quả chuông vào các chùa làng  Thanh Lương, Bác Vọng đông, Bác Vọng tây, hai quả chuông vào chùa làng Hiền Sĩ,  chùa Hoà Viện. Hai bia đá tại chùa Thanh Lương và  Bác Vọng tây vẫn còn  được lưu giữ cho đến hôm nay là do ông cung tiến vào chùa. Văn bia do chính ông  soạn, cùng với nhiều câu đối, hoành phi, tượng Phật…
   
 
 Chuông  chùa Thanh Lương, một trong 6 quả chuông do cụ Hoà  cung tiến vào các chùa trong tỉnh Thưa  Thiên- Huế.
 
    Chuông chùa làng Bác Vọng đông do Đặng Văn Hòa cung  tiến năm 1846 khi làm tổng đốc Hà Nội-Ninh Bình.
    Ông mất năm Bính thìn (1856) tại  công đường bộ Hộ và được nhà vua ban tước Văn minh điện đại học sĩ. Bài vị của  ông được thờ tại đền Hiền Lương trong đại nội, Huế là nơi thờ các công thần của  nhà Nguyễn.
    Sách Đại Nam thực lục ghi: “Ông Thiêm (Đặng Văn Hoà) là người thành  thục, luyện đạc, làm việc khoan hoà, công bằng, khi mất ai cũng tiếc”.
    Đặng  Văn Hoà còn là một nhà thơ. Ông đã để lại tác phẩm “Lễ Trai thi” trong đó có   mười bài thơ mà ông đã từng xướng hoạ với vua Thiệu Trị tại vườn Cơ Hạ,   một số bài thơ miêu tả cảnh vật một số địa phương  những nơi ông đã  từng trấn nhậm hay đã đi qua. Ngoài ra còn  một số bài thơ nói lên tâm  trạng của mình khi ra làm quan, nói lên khí phách của người quân tử không ham  danh hám lợi; mặc dù làm quan lớn, sống trong cảnh phồn hoa nhưng không để thân  danh lụy vì vật chất tầm thường. 
Sau đây xin trích hai bài thơ trong tập thơ này do nhà  thơ Khương Hữu Dụng dịch.
    QUÁ THẬP THÁP TỰ
  Danh lam thắng địa cánh nan nhân,
 Thập Tháp y nhiên Phạn vũ tân (7) .
Môn tế tinh lam nghinh  tuệ nhật,
                                     Linh  chiêu duệ tảo chiếu kim thân (8) .
                                     Xà  lê (9)  nguyên  bất quan hưng phế,
  Bảo sái duy tri chứng thiện nhân.
   Ngạch biển thiên thu lưu thịnh sự,
  Mê tân độ đắc kỷ đa nhân ? (1843)
    Dịch thơ:
QUA CHÙA THẬP THÁP
 Danh lam thắng cảnh dễ đâu tàn,
   Thập  Tháp đền xưa vẹn vẻ xuân.
  Mây tạnh cửa quan chào đuốc tuệ,
 Vòm thiêng tua rạng chiếu kim thân.
  Tu hành chẳng để tâm hưng phế,
  Cửa Phật còn đây chứng thiện nhân.
  Biển ngạch ngàn năm lưu sự việc,
  Mấy người vượt được khỏi mê tân ?
     HỮU NHÂN HIẾN BẠCH CÚC NHẤT BỒN
TRÍ  Ư TỌA TIỀN KIẾN NHI THÀNH VỊNH
 Ly đông vạn đoá ngọc vô hà,
  Hồng tử thâu tha tạc nhất hoa.
  Hạo khiết tố xưng sương hạ kiệt,
  Tiên nghiên bất biện nguyệt trung hoa.
  Tài bồi xuất tự hàn vi địa,
  Thưởng thắng hoàn qui phú quí gia.
  Chỉ hữu cố viên qui vị đắc,
  Hoang lương tâm kính tự ca tà.
    CÓ NGƯỜI BIẾU MỘT CHẬU CÚC TRẮNG
ĐẶT TRƯỚC CHỖ NGỒI NGẮM NHÌN  LÀM THÀNH THƠ
    Dịch thơ:
 Vạn đoá tường đông nở tối qua,
  Tía hồng thua sắc ngọc không nhoà.
  Dưới sương thanh khiết nhường anh kiệt,
  Trong  nguyệt xinh tươi ví bóng nga.
  Gốc rễ vốn sinh nơi đất mọn,
  Sắc hương riêng hưởng chốn  danh gia.
   Tiếc chưa về được nơi vườn cũ,
 Dạo  lối mòn xưa cất tiếng ca.
       GIẢ SƠN
 Hoạn để thiên nghi kỷ nhật nhàn,
Đông hiên tịch địa tố thành san (sơn).
Thạch bài phong động phân cao hạ,
Chuyên thế nguyên khê hữu khúc loan.
Nhược vị cao thâm hoàn khả nhượng,
Chỉ nghi thanh tú hảo tương ban.
Trí nhân tận thị đình tiền thú (10) , 
Phong  nguyệt khâm hoài sái lạc gian. 
    NON BỘ 
    Dịch thơ: 
Mấy  ngày nhàn nhã ở dinh quan,
Chọn  đất hiên đông dựng giả san.
Đá  xếp động non cao thấp khác,
Gạch  xây khe suối vựng chen ngang.
Cao  thấp có chỗ còn chê được,
Thanh  khí chung đôi khỏi phải bàn.
Nhân  trí trước sân vui tận thú,
Lòng riêng  thanh thản gió trăng ngàn.
Ghi chú: 
Văn, thơ trong  bài này trích từ sách “Nhĩ Hoàng di ái” (Yêu thương để lại Nhị Hoàng)  của  Đặng Huy Trứ, nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin Hà Nội ấn hành năm 1996, và Lễ  Trai thi của Đặng Văn Hòa.
  (1) nguyên  văn là  « Bảo phiệt »
        (2) Chữ trong sách Mạnh Tử: "Hữu hằng sản hữu hằng tâm" nghĩa là sẵn có của lại có lòng tốt.
       (3) Từ vân,  Pháp vũ : chữ nhà Phật ví phật pháp  như mây trời, bao trùm khắp nơi, như  làn mưa mát thấm nhuần muôn vật.
       (4) Địa chỉ chùa  hiện nay: 119 Tây Sơn, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội. 
       (5) Do chùa  nằm trên khu vực 2 trại Nam  Đồng và Thịnh Quang xưa kia nên đặt tên chùa là Đồng Quang –theo lời chú giải  trong văn bia.
       (6) Nhĩ hà,  sông Hồng chảy đến Hà Nội có hình như vành tai nên gọi là Nhĩ hà, sau gọi trệch  đi là Nhị Hà. Hoàng, sông Vị Hoàng ở Nam Định. Lấy tên 2 con sông để chỉ  Hà Nội và Nam Định, nơi Đặng Văn Hòa 2 lần làm Tổng đốc.
       (7) Phạn vũ:  cảnh chùa 
       (8) Kim thân:  tượng Phật
       (9) Xà lê;  người tu hành.
   Luận ngữ có câu:
  Trí  giả lạc thủy, Nhân giả lạc sơn
 (Bậc  trí giả vui cảnh nước,
 Bậc  nhân giả vui cảnh núi).
 Nước  tiêu biểu cho trí tuệ linh hoạt, không trì trệ
 Núi  tiêu biểu cho cốt cách bền vững không đổi dời.
 Người có Trí và Nhân  là đạt được phẩm chất cao nhất.
 -- oo0oo -- 
 
		
		Trang Tôn Giáo