Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam ?
Trần Thanh Lưu dịch cuốn
“Viet Nam: Why Did We Go?” Tác giả: Avro Manhattan
bản rời || Mục Lục | 12 tháng 2, 2009
CHƯƠNG 1
Phác Thảo
Thế Chiến thứ II, Sự Phân Chia Tạm Thời nước Việt Nam, và khởi đầu
của cuộc xung đột ở Việt Nam.
► Sự thất trận của Pháp và Nhật ► Những chiến sĩ tự do người Việt
tuyên bố Việt Nam độc lập ► Một thủ tướng Việt bù nhìn của Pháp ► Các
Giám Mục Việt kêu gọi Vatican ► Hoa Kỳ gởi 2 chiến hạm đến Sài gòn ►
Eisenhower giúp Pháp tại Việt Nam ► Hòa Ước Geneva ► Vĩ tuyến 17 như
“một đường chia cắt tạm thời” giữa Bắc và Nam Việt Nam ► Vận động hành
lang của Ca-tô tại Mỹ ngăn cản một cuộc bầu cử tự do tại Việt Nam ► Lo
sợ Cộng sản thắng cuộc bầu cử ► Lời bình luận thật thà của tổng thống
Eisenhower.
Vào năm 1940, khi nước Pháp bị Hitler đánh bại, Pháp nhường Việt Nam
lại cho Nhật và được Nhật yêu cầu tiếp tục quản lý đất nước giùm họ. Bảo
Đại, một bù nhìn của Pháp đã từng cai trị đất nước 20 năm trước đó đã
tuân thủ.
Nhưng Bảo Đại lại phải đương đầu ngay với một chủ nghĩa quốc gia mãnh
liệt. Điều này càng trở nên quyết liệt và đã đưa đến một cuộc chiến
tranh du kích có hiệu quả gia tăng. Mục tiêu tối hậu của nó có hai phần:
xóa bỏ sự cai trị của Pháp và Nhật, và giành một nền độc lập hoàn toàn.
Những chiến sĩ tự do được biết như là Việt Minh, đã được toàn dân ủng hộ
và kết quả là họ trở nên đồng hóa với khát vọng quốc gia của mọi người
Việt Nam.
Khi Nhật bại trận vào tháng 8 năm 1945 thì dân Việt đã kiểm soát được
hầu hết đất nước. Đến tháng 9 cùng năm thì những chiến sĩ tự do tuyến bố
Việt Nam độc lập. Bảo Đại, bù nhìn của Pháp-Nhật, thoái vị. Sau hơn một
thế kỷ, Việt Nam được tự do trở lại, hoặc có vẻ như vậy. Dân Việt, lãnh
đạo bởi người Cộng sản, nhận ra rằng thành phần thiểu số đồng nhất trong
nước lại là giáo dân Ca-tô. Và rằng đa số giáo dân ủng hộ cuộc đấu tranh
chống Pháp và Nhật, để tranh thủ sự ủng hộ của thành phần này, họ đã bổ
nhiệm nhiều nhân vật Ca-tô vào tân chánh phủ.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh đề cử một giáo dân làm bộ trưởng kinh tế, ông ta
còn có cả một Giám Mục Ca-tô La-mã. Hơn nữa để chứng tỏ dù là một ngưới
Marxist, ông không hề có thành kiến đối với Giáo hội Ca-tô, ông chấp
thuận ngày Chủ nhật đầu tháng 9 là ngày lễ độc lập, cho trùng với ngày
lễ Công giáo toàn quốc.
Tự do tôn giáo được bảo đảm cho mọi người. Những thành tích của Việt
Minh được lòng dân nên trong tháng 9 bốn chục ngàn giáo dân đã biểu tình
ủng hộ Hồ Chí Minh tại Hà Nội. Ngay cả 4 vị giám mục đã kêu gọi trực
tiếp đến Vatican yêu cầu tòa thánh ủng hộ nước Việt Nam độc lập mới dưới
những người cai trị mới.
Có vẻ như một chương sách mới đã khởi sự, không những cho Việt Nam,
mà còn cho giáo dân Ca-tô, những kẻ thường được Pháp che chở, dù thế cho
đến lúc ấy cũng vẫn bất mãn đối với nền cai trị thực dân của Pháp.
Trong khi chính phủ mới của Việt Nam đang bận rộn thiết lập một nền
dân chủ cộng hòa ở miền bắc Việt Nam thì, người Anh ngay khi biết Nhật
đầu hàng đã trao miền Nam Việt Nam lại cho Pháp. Nhức nhối vì sự thất
trận ở châu Âu, Pháp quyết áp đặt một nền cai trị thực dân sắt máu nhất
với mục tiêu tỏa rộng sự thống trị của họ lên phần còn lại của đất Việt.
Đối lại, dân Việt liền tổ chức một cuộc chiến du kích hòng ngăn chận sự
tái lập nền cai trị của Pháp.
Vào tháng 2, 1950, Hoa Kỳ nhìn nhận chính quyền Bảo Đại. Hầu như tức
khắc Pháp yêu cầu sự giúp đở quân sự. Tháng 3, hai chiến hạm của Mỹ đến
Sài gòn để ủng hộ Bảo Đại. Liền sau đó, tháng 5, Washington tuyên bố
viện trợ cho Pháp 10 triệu đô-la. Hoa Kỳ đồng ý để Pháp lo liệu chuyện
Việt Nam trong khi Mỹ bận tham chiến ở Triều Tiên. Vào tháng 6, tổng
thống Truman tuyên bố Hoa Kỳ sẽ tài trợ cho quân Pháp chống chính quyền
Bắc Việt Nam. Khoảng tháng 11, 1952, Hoa Kỳ đã gởi 200 tàu chất đầy quân
dụng, 222 phi cơ chiến đấu, 225 chiến hạm hải quân, 1,300 xe tãi, trả
1/3 chi phí cho cuộc chiến ở Việt Nam.
Khi Eisenhower kế nhiệm Truman vào tháng 7, 1953 thì cuộc đình chiến
được ký kết ở Triều Tiên, nhưng trong năm 1953 sự ủng hộ tài chánh của
Mỹ đã đạt đến 400 triệu một năm. Vào tháng 10, ngoại trưởng John Foster
Dulles tuyên bố rằng sự giúp đở của Hoa Kỳ cho nền cai trị thực dân của
Pháp đã là “thành quả sáng chói nhất của ông ta trong năm.”
Đến năm 1954, Hoa Kỳ đã trả hết 80% của tổng số. Chính phủ Pháp xác
nhận rằng Hoa Kỳ đã chi tiêu hết 1,785 tỷ đô-la cho chuộc chiến. Nhưng
đến cuối năm thì thực ra Hoa kỳ đã trả 2 tỷ đô-la để duy trì nền đô hộ
thực dân của Pháp.
Tuy vậy, người Việt với quyết tâm đánh đuổi người Pháp, đã chiến đấu
dữ đội trong sự ngạc nhiên của cả bạn lẫn thù. Khi sắp bị đánh bại tại
Điện Biên Phủ, Pháp yêu cầu sự trợ giúp của Mỹ. John Foster Dulles đòi
có sự tham chiến của Hoa Kỳ (để bảo vệ Đông Dương khỏi rơi vào tay Cộng
Sản). Thế là ông ta công bố một kế hoạch, Tổ Chức Hiệp ước Đông Nam Á –
(SEATO: Southeast Asia Treaty Organization). Tháng 4, ông ta triệu tập
một cuộc họp kín với các lãnh đạo Quốc hội. Mục tiêu: Giành cho
Eisenhower quyền sử dụng hải và không lực Mỹ để giúp Pháp tại Việt Nam.
Kế hoạch được khéo đặt tên là “Chiến Dịch Kên Kên” (Operation Vulture).
Sau này, khi Lyndon Johnson làm tổng thống, ông đã phản đối việc gởi
lính Mỹ sang tham chiến và hầu hết lãnh đạo Quốc hội đều đồng ý với ông
ta. Tuy vậy đến tháng 11, (từ năm 1950 đến 1954) Hoa Kỳ đã gởi 340 máy
bay và 350 tàu chiến.
Tháng 5, 1954 quân Pháp đầu hàng tại Điện Biên Phủ. Tháng 7 kế tiếp
thỏa hiệp Geneva được ký kết. Vĩ tuyến 17 được thừa nhận là đường ranh
tạm thời phân chia nước Cộng hòa Việt Nam ở miền Bắc và người Pháp ở
miền Nam. Vào ngày 21 tháng 7 tại buổi “Tuyên Bố Chung Cuộc,” có 9 nước
chuẩn nhận hiệp ước chỉ trừ Bảo Đại và Hoa Kỳ.
Bản tuyên bố chỉ rõ rằng sự phân chia bắc-nam Việt Nam chỉ là sự phân
chia “quân sự”, để chấm dứt sự xung đột vũ trang, chứ không phải là sự
phân chia lãnh thổ hay ranh giới chính trị. Điều này có nghĩa là Pháp
được ủy nhiệm trông coi miền Nam trong vòng 2 năm, đến khi có một cuộc
tổng tuyển cử và người dân có quyền chọn lựa chính thể mình muốn.
Đối với một vài phía tham dự thì Hiệp ước Geneva đã tạo ra nổi lo
rằng nếu các cuộc bầu cử được tổ chức thì Việt Minh vốn được lòng dân
khắp nước chắc sẽ thắng luôn trong Nam.
Đám quân nhân vận động hành lang và trên hết là Ca-tô tại Washington
liền ra tay, quyết thuyết phục chính quyền Hoa Kỳ ngăn cản cuộc bầu cử.
Giáo hoàng Pius XII hết lòng tán trợ các nổ lực của họ. Hồng Y Spellman,
con thoi giữa Washington-Vatican là phát ngôn chính cho cả hai. Sách
lược của Giáo hoàng Pius XII và John Foster Dulles rốt lại đã được chấp
thuận và thi hành bất kể mối e ngại lan rộng ở Hoa Kỳ và châu Âu.
Trước và sau khi quyết định tai hại, bản thân Tổng thống Eisenhower
thú nhận trong một giây phút thật thà chính trị rằng “nếu các cuộc bầu
cử được tiến hành thì 80% dân số sẽ bầu cho người cộng sản Hồ Chí Minh
hơn là bầu cho quốc trưởng Bảo Đại.” Tổng thống Eisenhower đã nói đúng
sự thật về thực tế chính trị của Việt Nam trong tình huống trọng yếu lúc
bấy giờ.
[Hết Chương 1]
xem phiên bản Anh ngữ
Tác giả: Avro Manhattan
Người
Dịch: Trần Thanh
Lưu
Kỳ tới: Chương 2 - Đại Liên Minh Vatican-Mỹ
Các bài cùng tác giả
Trang Sách Nước Ngoài