Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam ?
Trần Thanh Lưu dịch cuốn
“Viet Nam: Why Did We Go?” Tác giả: Avro Manhattan
bản rời || Mục Lục | 15 tháng 12, 2009
Chương 15
Ngày Tàn Của Nền Độc Tài Công Giáo
Sự Sát Hại của Hai Tổng Thống Công Giáo
► ► Tại sao tòa đại sứ Mỹ đã chống lại cuộc đề cử Diệm ► Một sự lựa chọn tai hại ► Thế lưỡng nan của Kennedy ► Các ưu tiên chính trị tôn giáo của Diệm ► So sánh các nền độc tài Ca-tô của xứ Croatia và Việt Nam ► Những mục tiêu chính của Diệm và Pavelich ► Các hoạt động tôn giáo của Diệm làm nguy hại những nỗ lực chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam ► Binh sĩ Phật giáo đào ngũ khỏi Quân đội Việt Nam ► Các biện pháp giúp tránh sự tan rã của đội quân ► Viện trợ của Mỹ cho Việt Nam bị ngưng ► Trưởng CIA bị gọi về ► Một “cú lật đổ” Diệm được thả lõng ► Diệm và người em bị bắn chết ► Tổng thống Kennedy bị giết ► Thêm mười năm nữa cho chiến tranh Việt Nam ► Cái giá cuối cùng, mạng sống của 58 ngàn thanh niên Mỹ.
Đối với Vatican, Việt Nam là một cuộc thao dược
khác để cấy chủ nghĩa Ca-tô toàn trị vào một đất nước lạ bất chấp
ước vọng của đại đa số quần chúng. Vatican là một bậc thầy trong
việc lợi dụng các cơ hội chính trị và quân sự để tăng tiến những
chính sách tôn giáo của riêng mình, cuối cùng có nghĩa là sự mở rộng
của Giáo Hội Công Giáo mà nó đại diện. Như một quy tắc, để thúc đẩy
các chính sách như vậy, nó sẽ sử dụng những cá nhân cuồng đạo để
thực hiện các hoạt động tôn giáo và chính trị của nó.
Trường hợp của Diệm là một ví dụ điển hình.
Vatican hỗ trợ Diệm, bởi vì ông ta là một giáo dân Ca-tô cuồng đạo,
Mỹ ủng hộ ông vì ông là một kẻ chống Cộng hăng say. Vào thời điểm
này, vì chính sách của Giáo Hội Công Giáo là toàn diện chống cộng,
nên hậu quả là kẻ cuồng đạo phải phục tùng Nhà Thờ và thành kẻ hăng
say chống cộng tựa như nó.
Do đó đối với Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ và
với Vatican, tính cuồng đạo và lối sống khắc khổ của Diệm là sự bảo
đảm chắc chắn nhất rằng Diệm sẽ thực thi chính sách phối hợp của họ
với mức trung thành tối đa, và những sự kiện tiếp diễn về sau đã
chứng minh rằng họ đã đúng ở điểm này. Tuy nhiên những kẻ biết
chuyện, đã không hề đồng quan điểm về tính thích nghi của Diệm. Tòa
Đại sứ Mỹ chẳng hạn, đã khuyến cáo chống lại ông từ đầu. Cảnh báo
của tòa Đại sứ đã hoàn toàn bị Washington bỏ qua, và mặc dù ngay cả
Bộ Ngoại Giao chống lại sự lựa chọn này, Sở Chiến Dịch Đăc Vụ của
Ngủ Giác Đài lại dứt khoác chọn Diệm. Nó đã thành công. Lời giải
thích? Một bọn nào đó ở Ngủ Giác Đài đã được xúi giục bởi một đám
trong CIA vốn có các liên kết mật thiết với nhóm vận động hành lang
Công Giáo ở Washington và mấy tay hồng y ở Mỹ và qua đó đã hoàn toàn
ăn ý với Vatican, đã quyết định phải có một giáo dân Ca-tô trung
thành tại Nam Việt Nam.
Nên ghi nhớ rằng đây là giai đoạn tồi tệ nhất
của Cuộc Chiến tranh Lạnh. Những kẻ cổ vũ quái quỉ của nó chính là
anh em nhà Dulles – một tại Bộ Ngoại giao và một tại CIA - và GH.
Pius XII tại Vatican, đang tiến hành một đại chiến lược phối hợp về
ngoại giao, chính trị và hệ tư tưởng bao gồm cả phương Tây và Viễn
Đông mà Việt Nam là một phần trong đó.
Sự lựa chọn đã tỏ cho thấy là một thảm họa cho
miền Nam Việt Nam và cho các chính sách Á châu của Hoa Kỳ. Như chúng
ta đã thấy, vấn đề tôn giáo rốt ráo đã làm mất hiệu lực cả toàn
bộ chiến lược lớn của Mỹ ở đó.
Hai Tổng thống Ca-tô, Diệm và Kennedy, đã trở
thành những kẻ đứng đầu của hai quốc gia có liên quan mật thiết
trong một cuộc chiến tranh gây tranh cãi nhiều nhất. Nếu nhìn từ
quan điểm của Vatican và sự tiến hành của các kế hoạch của nó tại
châu Á, thì điều này có những khả năng vô giới hạn. Trong những hoàn
cảnh khác, sự chia sẻ những tín ngưỡng tôn giáo chung đã có thể giúp
nhau trong việc tiến hành một chính sách chung, vì lợi ích chính trị
của hai nước đều song hành.
Tuy nhiên với giáo dân Diệm đang theo đuổi
những cuộc đàn áp tôn giáo lỗi thời, giáo dân Kennedy càng cảm thấy
chẳng thoải mái chút nào, vì ông ta vốn là đã một nhà chính trị quá
tinh khôn để chịu làm hỏng sự nghiệp chính trị của mình hoặc hy sinh
lợi ích của Hoa Kỳ chỉ vì một đồng đạo Ca-tô, kẻ rốt cục đã làm sĩ
nhục đại đa số dân Mỹ, mà phần lớn vẫn nghi ngờ đạo Công giáo của
Kennedy. Vì thế mà chính quyền Kennedy cuối cùng đã cho phép lật đổ
chế độ Diệm. Thông thường với trường hợp người Công giáo cầm quyền,
bất cứ khi nào hoàn cảnh cho phép và không bị hạn chế bởi các điều
khoản của hiến pháp hoặc các sự chế tài khác, thì họ có xu hướng thi
hành chính sách ngày càng đồng bộ với tinh thần tôn giáo của họ. Kết
quả, do kết hợp các lợi ích của đất nước với những quyền lợi của
Giáo Hội của họ, thường là họ tạo nên các lĩnh vực xã hội và chính
trị không cần thiết.
Khi việc nước đi dần đến chỗ khủng hoảng do sự
kháng cự của phe đối lập phi-Ca-tô thì liền đó đám giáo dân Ca-tô
nắm quyền lực chính trị hay quân sự sẽ không ngần ngại sử dụng sức
mạnh ấy chống lại những người phản đối họ. Ở giai đoạn này, như là
một quy luật, quyền lợi của Giáo Hội của họ vượt lên trên quyền lợi
của đất nước họ.
Công thức này đã được chứng minh là đúng trong
trường hợp của miền Nam Việt Nam. Tổng thống Diệm, đã lỡ kích động
một cuộc khủng hoảng như thế lại coi thường lợi ích của đất nước, và
của cả những kẻ đở đầu cho mình là Hoa Kỳ, để theo đuổi những gì mà
ông ta cho là lợi ích của Giáo Hội của ông.
Trong khi các yếu tố chính trị và quân sự vốn
không quan trọng đã đóng một vai trò hàng đầu trong thảm kịch cuối
cùng, chính yếu tố tôn giáo đã che khuất tầm nhìn về chính trị và
quân sự của Tổng thống Diệm, và đã dẫn ông đến điều bất hạnh. Chỉ có
hai mươi năm trước, tại châu Âu, một giáo dân Ca-tô khác, Ante
Pavelich, đã tạo ra nước Croatia Công Giáo, trong đó Giáo Hội Công
Giáo cai trị tối cao để loại trừ bất kỳ tôn giáo khác. Giống như
Diệm, Pavelich đã biện minh cho chế độ Toàn trị Ca-tô trên cơ sở là
một nền độc tài Ca-tô là cách phòng thủ tốt nhất chống lại chủ nghĩa
cộng sản.
Ante
Pavelić, kẻ xúi giục, người tạo lập và lãnh đạo nhà nước độc lập Công Giáo
của Croatia. Y sử dụng chính sách khủng bố, cực đoan chính trị và cuồng tín
tôn giáo với độ tàn nhẫn vượt hẳn chính cả hai kẻ bảo hộ phát xít của y là
Benito Mussolini và Adolf Hitler. Y là bộ não đứng đằng sau vụ ám sát vua
Alexander và những vụ tàn sát chính trị khác dẫn đến sự tan vỡ của Nam Tư và
từ đó dựng lên nước Ustashi Croatia độc lập siêu Đức quốc xã, siêu Công giáo
của y. Y tận hưỡng sự bảo vệ của GH. Pius XII, kẻ đã giúp y bằng các phương
tiện ngoại giao và tiền bạc để đạt được mục tiêu cuối cùng của y. Khi
Ustashi Croatia bị sụp đổ, Pavelich núp trong Vatican, sau đó cải trang như
là một tu sĩ trốn sang Argentina.
Theo quan niệm như vậy mà y cho mình có quyền không chỉ để
phát động các cuộc đàn áp bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì phi-Ca tô, trong trường
hợp của y là Giáo Hội Chính Thống, nhưng còn tiêu diệt hơn 600 ngàn đàn ông, phụ
nữ và trẻ em - một trong những hành động khiếp đãm nhất của Thế chiến II.
Ở châu Á, tình hình thì đa dạng và các bối cảnh chính trị
và quân sự đang bị giám sát bởi một quyền lực hùng mạnh là Hoa Kỳ, các vụ lạm
quyền như vậy đều không được phép. Thế nhưng những việc chuẩn bị cho các cuộc
đàn áp tôn giáo và các trại tập trung đã là chỉ dẫn cho những gì có thể đã xảy
ra nếu dư luận thế giới và ảnh hưởng hạn chế của Hoa Kỳ không kịp thời can thiệp
vào. Tuy nhiên các tham vọng chính trị và tôn giáo của hai kẻ độc tài Ca-tô và
mối quan hệ của họ với Giáo Hội Công giáo đều đồng bộ. Vì vậy, khi bộ máy chính
trị và quân sự bị kiểm soát bởi những kẻ độc tài Nam Việt Nam và Croatia được
dùng vào việc phục vụ Giáo Hội Công Giáo, Giáo Hội này liền đặt bộ máy tinh thần
và nhà thờ của mình vào tay của hai kẻ độc tài để họ làm tất cả mọi người và mọi
thứ phải qui phục chính sách độc tài tôn giáo và chính trị của nó.
Cả Diệm và Pavelich đã theo đuổi ba mục tiêu cùng một lúc:
(1) sự hủy diệt của một kẻ thù chính trị, tức là chủ nghĩa cộng sản; (2) sự biện
minh cho sự hủy diệt của một giao hội thù địch, tức là Giáo Hội Chính Thống
trong trường hợp Pavelich và Phật giáo trong trường hợp của Diệm; (3) sự thiết
lập nền độc tài tôn giáo và chính trị Công giáo tại mỗi quốc gia.
Không cần bàn đến những hoàn cảnh và bối cảnh địa lý cùng
nền văn hóa khác nhau, các mô hình của hai chế độ đều y khuôn: bất cứ điều gì và
bất cứ ai không chịu uốn mình và phục tùng đạo Công giáo đều bị tiêu diệt một
cách tàn nhẫn bằng bắt giữ, ngược đãi, các trại tập trung và xử tử. Với kết quả
do việc xem thường lợi ích của đất nước của họ mà chỉ thúc đẩy các lợi ích của
tôn giáo của họ, cả hai kẻ độc tài cuối cùng đã đưa đất nước của họ vào đáy vực.
Trong trường hợp của Tổng thống Diệm, khi ông đưa Công giáo
lên hàng đầu, ông đã xa lạ không chỉ đại đa số quần chúng Nam Việt Nam, nhưng
nguy hiểm hơn là số lượng lớn nhất của quân đội Nam Việt Nam, những người đã
từng ủng hộ ông toàn bộ về chính trị. Ở điểm này, tiềm năng và thực tế đầy nguy
hiểm của mặt trận chống Cộng mà chính sách của Diệm dựa vào, cuối cùng đã lôi
việc can thiệp quân sự của Mỹ vào và đã dẫn đến các hậu quả tai hại.
Tuy Diệm vẫn là kẻ được đở đầu chính trị của Hoa Kỳ, nhưng
bằng cách theo đuổi một chính sách lấy cảm hứng từ nhiệt tình tôn giáo của riêng
cá nhân mình, và bằng cách bỏ qua lợi ích ngoại giao chính trị nhất định đã được
kết nối với chiến lược quân sự chung của Hoa Kỳ, ông ta đã gây nguy hiễm cho cả
một chính sách toàn bộ ở Đông Nam Á. Điều này trở nên rõ ràng hơn, không chỉ vì
những sự bất ổn đặc biệt do ông gây trong cả nước, nhưng trên tất cả, vì các
cuộc đàn áp tôn giáo của ông đã gây nguy khốn nghiêm trọng đến hiệu quả của quân
đội.
Nên ghi nhớ rằng đại đa số quân đội Nam Việt Nam là Phật
giáo đồ. Nhiều người trong số này, khi thấy tôn giáo của họ bị đàn áp, tăng sĩ
của họ bị bắt, người thân của họ bị giữ trong các trại giam, đã trở nên chán
nãn, và dĩ nhiên muốn gây binh biến. Những trường hợp vắng mặt ngày càng tăng,
đào ngũ, và thậm chí cả nổi loạn. Kết quả toàn bộ của điều này không phải vì
cuộc chiến tranh tôn giáo đã tự nó bất lực hóa chế độ Diệm, nhưng còn tệ hơn, là
những tính toán quân sự của Mỹ đã bị hiễm nguy nghiêm trọng. Vấn đề tại thời
điểm này càng trở thành bi thảm hơn, vì trong cùng thời gian Hoa Kỳ đã bầu lên
tổng thống Ca-tô đầu tiên của nó, và còn bi đát hơn nữa về phương diện cá nhân,
chính Kennedy trước khi vào Nhà Trắng, là một người kiên trì ủng hộ giáo dân
Ca-tô Diệm. Thật vậy ông đã là một trong những thành viên có ảnh hưởng lớn nhất
của nhóm vận động hành lang Công Giáo đã lái Hoa Kỳ hướng về chiến tranh Việt
Nam.
Khi tình hình nội trị và quân sự bên trong miền Nam Việt
Nam đã đi từ xấu đến tồi tệ hơn, các nhà thảo kế hoạch của khu vực Đông Nam Á đã
báo cáo rõ cho ông ta (Kennedy) phải làm một điều gì đó mạnh mẽ với sự hỗ trợ
hoàn toàn cho giới quân sự tại chỗ để ngăn chặn sự rã ngũ rộng rãi của quân đội
Nam Việt Nam. Những căng thẳng leo thang với Liên Xô Nga và Trung Quốc Đỏ đã
buộc Washington đi nước cờ cấp bách, vì sự suy thoái nội bộ và quân sự có thể
làm mặt trận chống Cộng sản bị sụp đổ hoàn toàn từ bên trong. Áp lực đã trở
thành không thể cưỡng lại được và những bước gở đầu tiên được đưa ra. Trợ cấp
cho Lực lượng Đặc biệt Việt Nam bị ngưng. Các chỉ thị bí mật đã được ban ra cho
các ngành có kết nối chặt chẽ với các đường dây nội bộ giữa Hoa Kỳ và chế độ
Diệm. Cuối cùng, vào ngày 4 Tháng 10, 1963, John Richardson, người đứng đầu của
CIA tại Việt Nam bất ngờ bị miễn nhiệm và gọi về Washington. Một số cá nhân hiểu
rằng họ đã được giao lệnh tự do hành động cho một một cuộc đảo chính chống Diệm.
Một cuộc đảo chính đã được thiết kế thành công, Tổng thống
Diệm và em trai, kẻ đứng đầu đáng ghét của ngành mật vụ phải chạy trốn. Họ đã bị
phiến quân phát hiện đang ẩn náu trong một nhà thờ nhỏ. Bị bắt giữ, họ đã bị đẩy
vào trong một chiếc xe cơ giới như những tội phạm quốc gia. Vừa đến nơi phải tới
- cả Diệm và em trai ông đã bị bắn chết. Xác chết của họ đã được đặt tại Bệnh
viện St Joseph, chỉ cách vài trăm mét từ chùa Xá Lợi, trung tâm của cuộc kháng
chiến chống sự đàn áp Phật giáo của Diệm [1].
Hai mươi ngày sau khi vụ ám sát Diệm, tổng thống Ca-tô đầu
tiên của Nam Việt Nam, tổng thống Công giáo đầu tiên của Mỹ, John F. Kennedy,
lại bị ám sát tại Dallas, Texas. Tại sao, và bởi ai vẫn là một bí mật từ bấy
giờ.
Sau sự sụp đổ của
chế độ độc tài của Tổng thống Diệm, sự tham gia của Mỹ trong cuộc chiến tranh
Việt Nam lại kéo dài thêm mười năm nữa từ 1963-1973 [2].
Các
xác chết tả tơi của Tổng thống Diệm và em trai của ông ta (Ngô Đình Nhu) sau
khi bị ám sát bởi các sĩ quan Phật tử ngày 2 tháng 11 năm 1963.
Vụ ám sát Tổng thống Kennedy ở Dalles, Texas, 22 tháng 11 năm 1963.
Vào tháng tư, năm 1975, Sài Gòn, thủ đô của miền Nam Việt
Nam đã rơi vào tay Cộng sản. Năm sau ngày 24 tháng 6 năm 1976, phiên họp đầu
tiên của Quốc hội Việt Nam khai trương tại Hà Nội ở miền Bắc. Ngày 2 Tháng 7 năm
1976, Bắc và Nam tuyên bố thống nhất, như thế kết thúc 20 năm chia cắt. Lá cờ
mới của họ, một ngôi sao năm cánh vàng trên nền đỏ, đã trở thành biểu tượng cho
quốc gia mới, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Người dân Việt Nam đã tổn
thất hàng trăm ngàn người bị thương và chết, sự tàn phá đất nước của họ và sự
đau khổ vô bờ của con người. Hoa Kỳ đã hao tốn hàng tỷ và hàng tỷ đô la, sự cay
đắng nội bộ và bên ngoài nước, sự tham gia của hơn 5 triệu rưỡi thanh niên Mỹ
với sự mất mát của hơn 58 ngàn mạng sống của người trẻ Mỹ. [3]
xem phiên bản Anh ngữ
Tác giả: Avro Manhattan
Người Dịch: Trần Thanh-Lưu
Còn nữa: Chương 16: Chủ Nghĩa Bành Trướng Đạo Công Giáo ở
Vùng Đông Nam Á Trong Thế Kỷ thứ 19.
Ghi
chú cuối chương:
[1]. Người bị cáo
buộc đã giết ông ta (Diệm) là một Đại úy Nguyễn Văn Nhung, người đã tự tử vào
ngày 31 tháng 1, 1965.
[2]. Hoa Kỳ đã buông bỏ trực tiếp tham gia vào Việt Nam vào
tháng Giêng, 1973. Sau đó, Quốc hội, mặc dù các cam kết hỗ trợ, đã quyết liệt
cắt giảm viện trợ cho quân đội Nam Việt Nam – trong khi Liên Xô lại tăng gấp đôi
hỗ trợ của nó. Nam Việt Nam tan rã vào tháng tư, năm 1975.
[3]. U.S. News and World Report [Tin tức Hoa
Kỳ và Báo cáo thế giới], ngày 10 tháng 10, 1983.
Các bài cùng tác giả
Trang Sách Nước Ngoài