Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam ?
Trần Thanh Lưu dịch cuốn
“Viet Nam: Why Did We Go?” Tác giả: Avro Manhattan
bản rời || Mục Lục | 14 tháng 9, 2009
Chương 12
Một Phi Cơ Thám Thính Của CIA (Cơ Quan Tình Báo Trung Ương
Hoa Kỳ) Hủy Bỏ Một Hội Nghị Thượng Đỉnh.
Chiến Tranh Của Hồng Y Spellman Thay Thế “Cuộc Chiến Tranh Phòng Ngừa" Của Anh Em Nhà Dulles Và Giáo Hoàng Pius XII
► Hai đối tác và mục tiêu toàn cầu của họ ► Nga Soviet xâm lăng Hungary ► Chiến tranh Thế giới thứ III chực chờ bùng nổ ► Các nhà hoạch định chính sách ngoại giao thực sự của Hoa Kỳ ► CIA thúc đẩy nền ngoại giao của Mỹ ► Cuộc họp thượng đỉnh Nga-Mỹ đổ vở ► CIA và phi cơ thám thính ► Trên bờ chiến tranh hạt nhân “ba lần" ► Hoa Kỳ đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân ► Giáo Hội cầu nguyện cho "cuộc giải phóng" ► Bí mật "thứ ba" của Mẹ Đồng Trinh ở Fatima ► Giáo hoàng ngất xỉu vì "kinh hãi" ► Ông kêu gọi một cuộc chiến tranh " tự vệ hiệu quả " ► Sự bành trướng của Cộng sản ở Châu Âu và Đông Nam Á.
Việc đàn áp của Ca-tô ở Nam Việt Nam không phải là công việc của một cá nhân
cuồng tín, hoặc của một nhóm người, như ba anh em Diệm, quyết Ca-tô hóa một nước
Phật giáo. Nó chỉ là phó sản của một chính sách dài hạn được tính toán kỷ lưởng
vốn đã thai nghén và xúc tiến bởi những đầu óc mà các mục tiêu cơ bản là sự bành
trướng bằng mọi giá của một tôn giáo mà họ tin là tôn giáo thực sự trên trái
đất. Kẻ gợi hứng chính và tiến hành một chính sách như vậy, như chúng ta đã
thấy, chính là Giáo hoàng Pius XII. Chính sách như thế đã hoàn toàn ăn khớp với
chiến lược toàn cầu của ông ta, nhắm đến hai mục tiêu cơ bản: sự diệt vong của
Chủ nghĩa Cộng sản, và việc bành trướng của Giáo Hội Công Giáo.
Giáo hoàng Pius XII đã cống hiến đời mình cho việc theo đuổi cả hai, với một
sự hăng say đã làm bạn bè ngưỡng mộ và kẻ thù khiếp sợ. Ông ta là một trong
những kẻ gợi hứng cho Chiến Tranh Lạnh. Chiến Tranh Việt Nam, đến phiên mình, là
con đẻ lô-gic của cuộc xung đột ý thức hệ to lớn hơn khắp toàn cầu, đạt lên hàng
đầu sau khi Chiến tranh Thế giới thứ II chấm dứt, và liên quan đến việc bành
trướng liên tục của Cộng sản Nga ở Châu Âu và Châu Á.
Hoa Kỳ đã quyết tâm ngăn chận sự bành trướng ấy bằng mọi giá. Như chúng tôi
đã chỉ ra trước đây, cuộc xung đột ấy đã mang Vatican và Mỹ đến gần với nhau
trong việc theo đuổi một chiến lược chống Cộng chung. Trên các lĩnh vực quân sự
của mình, mỗi phía sử dụng bất cứ loại vũ khí nào mà mình có thể gom lại được.
Trong khi Hoa Kỳ sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự, thì Vatican triển khai các
vũ khí tinh vi hơn về ngoại giao, sức ép chính trị, và trên tất cả, về tôn giáo.
Ngay từ khởi đầu, những vũ khí này đã được sử dụng rộng rãi ngày càng tăng
tại Việt Nam. Hai đối tác có cùng một mục tiêu chính trị: loại bỏ chủ nghĩa cộng
sản ở Đông Dương. Trong những năm 50’s Hoa Kỳ đã cố gắng tương tự và đã thất bại
tại Triều Tiên. Sự thất bại ấy của Mỹ đã khuyến khích nước Nga Soviet cố chinh
phục lãnh thổ khác, lần này ở Âu Châu. Trong các năm 1956-7 lấy cớ là có một mưu
đồ chống-cộng-của-nhóm-Quốc gia-Catô, Nga Soviet đã kéo đoàn xe thiết giáp vào
Hungary, chiếm đóng quốc gia này, và thiết lập một nền độc tài Cộng sản với bàn
tay sắt tại Budapest.
Sự căng thẳng mới giữa Nga Soviet và đế quốc Cộng sản của mình và các đối tác
Hoa Kỳ-Vatican, một lần nữa leo lên hàng đầu, và những chuyện về một cuộc bùng
phát cận kề của Chiến tranh Thế giới thứ III lại được nghe thêm một lần nữa trên
cả hai bờ Đại Tây Dương. Sự lo sợ không phải gây ra bởi những lời hù dọa hay
những động thái ngoại giao trống rỗng.
Chỉ vài năm sau cuộc xung đột Triều Tiên, thế giới đã đến gần cuộc đụng độ
này như thế nào cuối cùng đã được tiết lộ bởi người có thẩm quyền cao nhất của
Mỹ, là John Foster Dulles, bộ trưởng ngoại giao, kẻ đã biết nhiều hơn bất kỳ
người nào khác những gì đã xảy ra bên sau hậu trường. Ông ta biết rõ bởi vì ông
ta là một trong những kế hoạch gia chính của đại thiết kế CIA-Fatima
Như chúng tôi đã nói, John Foster Dulles tại thời điểm này là kẻ thực sự tạo
ra chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Tướng Eisenhower, Tổng thống, một người
tốt, biết nhiều về chiến tranh hơn là những chuyện rối rắm của các chính sách
đối ngoại. Kết quả là trên thực tế ông đã giao toàn bộ lĩnh vực vào tay của
Dulles, kẻ bị chủ nghĩa Cộng sản ám ảnh tột bực. Sự ám ảnh như thế tương hợp với
nổi ám ảnh của Giáo hoàng Pius XII. Dulles huy động tất cả các nguồn tài nguyên
bao la của Mỹ để đối phó với nó trên toàn thế giới. Ông đã biến thành kẻ cộng
tác vững chắc nhất của Pius XII.
Sự liên kết đã trở thành một trong những quan hệ đối tác ghê gớm nhất của
thời đại. Dulles thực hiện các chính sách của mình rất thường là không có sự
chấp thuận hoặc thậm chí cả sự hay biết của Tổng thống. Ông ta đã được trợ giúp
trong việc này, ngoài việc nhờ vào bộ máy ngoại giao thường trực của Hoa Kỳ, ông
ta lại sử dụng nhiều hơn bất cứ điều gì khác bộ máy bí mật và toàn năng của CIA.
Thật vậy, có thể nói rằng, ông ta đã thực hiện chính sách ngoại giao của Mỹ
thông qua CIA. Điều này được làm dễ dàng bởi một sự kiện mang điềm xấu là kẻ gợi
hứng, giám đốc, và chủ kiểm tra toàn bộ CIA không ai khác hơn là người em của
ông ta, Alan Dulles.
Hai anh em làm việc với nhau chặt chẽ đến nổi hơn một lần chính sách chính
thức của Tổng thống Eisenhower đã bị "vô hiệu hóa" bởi CIA. Đơn cử ngoạn mục
nhất là sự tan vở của cuộc hội nghị Mỹ-Nga vào năm 1960, khi CIA đã gửi một phi
cơ thám thính vào Nga để ngăn chặn việc tổng thống Mỹ và Thủ tướng Nga chấm dứt
"Chiến tranh Lạnh". Vì chuyện phi cơ CIA này mà Hội nghị đã bị huỷ bỏ. Nó là một
trong những thành công ly kỳ nhất của CIA.
John Foster Dulles (có con trai, tình cờ đã trở thành một tu sĩ Dòng Tên,
Jesuit) và Alan Dulles, cùng với sự phối hợp toàn diện của Ngành Tình Báo
Vatican, đã thực hiện một chính sách ngoại giao dựa trên các lời đe dọa của sự
"trả đủa ồ ạt" - đó là, cuộc chiến hạt nhân.
Trong lúc cao điểm của của cuộc nổi loạn ở Hungary - đó là, vào năm 1956 -
John Foster Dulles đã công khai ghi nhận trước một thế giới kinh hoàng rằng Hoa
Kỳ đã từng đứng bên bờ vực (thế chiến III) đến ba lần:
Ông Dulles thú nhận rằng trong mười tám tháng vừa qua Hoa Kỳ đã có ba cơ hội
đến gần chiến tranh hạt nhân hơn . . . là tưởng tượng, như các tờ báo London và
New York Times đã tỉnh táo tường thuật. "Cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Ba đã
tránh được, họ tiếp tục nhận xét, chỉ vì ông Dulles... đã cho thấy là Mỹ đã báo
cho Moscow và Peking ý định sử dụng vũ khí hạt nhân.[1]
Giáo hoàng Pius XII đã làm gì trong thời gian khủng hoảng kinh hoàng này? Đặc
biệt là khi ông ta, hơn bất kỳ ai khác ở vị trí cao nhất, đã biết rõ những gì đã
xảy ra bên sau hậu trường giữa Nga và Mỹ?
Ông đã đã gia tăng cường độ việc sùng bái Fatima. Sự sùng bái đã được ban
thêm nét lộng lẫy và thúc dục. Các nhà thờ Ca-tô đã cầu nguyện cho "cuộc giải
phóng" - đó là, cho một việc hoàn thành nhanh chóng "lời tiên tri" của Mẹ Đồng
Trinh. Điều này còn đáng quan tâm là sự kiện về "bí mật" thứ ba của Đức Mẹ
Fatima phải được tiết lộ trong một vài năm tới - đó là năm 1960.
Mặc dù không ai biết được điều "bí mật" Fatima là gì, nó đã được truyền tai
là việc giải phóng và cải đạo nước Nga cận kề. Dĩ nhiên Giáo hoàng Pius XII,
cũng muốn biết đến điều "bí mật" thứ ba và cuối cùng của Mẹ Đồng Trinh này. Ông
ra lệnh cho mở phong thư đã được niêm kín, chứa đựng điều bí mật theo lời kể của
một trong những đứa trẻ đã nói chuyện với Bà. Sau đó ông kể lại rằng, vừa đọc
xong, ông ta muốn ngât xỉu với nổi kinh ngạc. Thực là một mánh khóe tốt để khích
động Nổi Mê Cuồng Fatima lên đến mức độ trông chờ cao hơn.
Chưa hài lòng với điều này, Pius XII đã hăng hái tự mình điều kiện hóa thế
giới Ca-tô cho cuộc chiến tranh đang đến. Vì vậy, trong mùa đông của năm 1956-7,
ngay lập tức sau sự thất bại của cuộc phản cách mạng Hungary, ông đã trơ trẽn
kêu gọi tất cả giáo dân Ca-tô tham gia vào một cuộc thánh chiến Fatima thực sự.
Ông khuyến khích họ tham gia "trong một cuộc chiến tranh tự vệ hiệu quả," yêu
cầu Liên Hiệp Quốc được ban cho "quyền và sức mạnh ngăn chận tất cả mọi sự can
thiệp quân sự của một quốc gia trên một quốc gia khác."
Thật vậy, ở thời kỳ rất khủng khiếp này khi Hoa Kỳ và Nga đã thực sự đứng
trên bờ vực của một cuộc chiến tranh hạt nhân, ông ta đã đi đến chỗ, như chúng
tôi đã trích dẫn, lập lại "nền đạo đức của một chiến tranh tự vệ," như thế là
họa theo từng lời của Bí thư của ông ta, Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ, ông
Matthews, trong bài diễn văn nổi tiếng của mình ở Boston.
Năm sau (tháng mười, 1958), Pius XII chết, do bị hành hạ bởi các cuộc tấn
công dồn dập của bệnh thần kinh, bệnh suyễn, và một chứng hổn loạn thần kinh
toàn bộ. Qua nhiều năm, ông đã được duy trì bởi một số lượng lớn của ma túy, có
thể là nguyên do thực sự gây nhiều hoang tưởng, mà những kẻ ngưỡng mộ ông ta
nhanh chóng gọi là “Phép Lạ".
Trong khi và sau cuộc xâm lăng Hungary ở Châu Âu của Nga, Chủ nghĩa Cộng sản
mở màng cho cuộc chinh phục lãnh thổ ở Đông Dương, Hoa Kỳ còn đang nhức nhối vì
sự thua cuộc ở Triều Tiên, đã tìm được một đồng minh quyết tâm trong Giáo Hội
Công Giáo, như chúng tôi đã chỉ ra .
Ghi chú cuối chương
1. The Times, January 12, 1956, và 27 tháng mười hai, 1956. The New
York Times và còn trên Manchester Guardian, November 27, 1956, Time
Magazine, January 7, 1967.
xem phiên bản Anh ngữ
Tác giả: Avro Manhattan
Người
Dịch: Trần Thanh
Lưu
Còn nữa: Chương 13 - Vatican Cố Ngăn Chận Hòa Bình
Các bài cùng tác giả
Trang Sách Nước Ngoài