Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam ?
Trần Thanh Lưu dịch cuốn
“Viet Nam: Why Did We Go?” Tác giả: Avro Manhattan
bản rời || Mục Lục | 22 tháng 3, 2009
Chương 6
Cuộc "chiến phòng ngừa" của Giáo Hoàng bị thất bại.
Các đô đốc, tướng lãnh và nhà ngoại giao Hoa Kỳ tụ tập đến Vatican, Những lời bình luận thất vọng của tổng thống Truman.
►
Lời cảnh báo của Giáo hòang về cuộc "xâm lược của bọn man rợ" ► Lãnh đạo Mỹ của
"Ủy ban Giải Phóng nước Nga" ► Dulles kêu gọi lập "một lực lượng xung kích hạt
nhân" ► Eisenhower và 12 Bộ trưởng Chiến tranh ► 100 Sư đoàn đã "sẵn sàng" ► Các
chuyên gia trải bom gặp Giáo Hoàng ► Các điệp viên Nga đánh cắp "các sách mật
mã" của Vatican ► Các nhà ngoại giao Vatican và lưới điệp báo của họ dưới dạng
tôn giáo ► Sở Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) ► 100 triệu đô la để đào tạo các điệp
viên và bọn khủng bố ► Quân phục với huy
hiệu cầu vai ghi USSR, thay vì USA ► Ở đây ai có thể nói được tiếng Nga? ► Giáo Hoàng
hứa hẹn việc giải phóng nước Nga Soviet ► Sự điều kiện hóa thần bí của Công giáo
cho sự bộc phát của một xung đột hạt nhân ► Lời bình luận thất vọng của tổng
thống Truman.
Các
dấu hiệu trong cùng năm (Tháng hai, 1951) cho thấy Pius XII đã cảnh báo giáo dân
Ca-tô về cuộc "xâm lược của bọn man rợ". Hoa Kỳ và hàng giáo phẩm Ca-tô mọi cấp
khác đều a dua theo. Lời của Pius XII không chỉ thuần phô trương. Nó là giấy bọc
màu cho việc tiến hành sự mê tín tôn giáo trong quần chúng, nhằm nuôi dưỡng chủ
nghĩa cuồng tín ý thức hệ thông qua sự sùng bái Fatima, phép lạ về mặt trời xoay
tít và những thông điệp thiêng liêng từ trời gởi cho Giáo Hoàng; đồng thời lại
được sự hỗ trợ tiếp tay bằng các hoạt động ngoại giao, chính trị, và trên tất
cả, các hoạt động quân sự đã được khởi động khắp phương Tây.
Những hoạt động quân sự này không chỉ gò bó trong các chiến lược xa-lông trừu
tượng. Chúng rất thực, tích cực và cụ thể. Một tướng lãnh tại ngũ của quân đội
Mỹ đã được chỉ định làm đại sứ tại Vatican không phải để ngồi đếm số chuổi mân
côi do du khách Mỹ đang xâu hạt; mà ngay từ đầu ông ta đã được gởi đến Rome "để
giúp việc điều phối nỗ lực chống lại mối đe dọa của cộng sản" với Vatican (có
nghĩa là với Giáo hoàng Pius XII), "cùng mạnh mẽ tham gia vào việc đấu tranh
chống chủ nghĩa cộng sản," như là lời tuyên bố giải thích từ Nhà Trắng vào ngày
21 tháng 10, 1951 ngay sau khi tuyên bố sự bổ nhiệm. [1]
Kennan, thủ lãnh của "Ủy ban Giải Phóng nước Nga," được chỉ định làm đại sứ Hoa
Kỳ tại Moscow, đã đến đấy vào nãm 1952, trong khi đó Dulles kêu gọi thế giới hãy
thành lập nhanh chóng "một lực lượng xung kích hạt nhân" "để ngăn chặn mối đe
dọa xâm lăng của Nga bằng một cuộc phản kích dứt khoác."
[2]
Tại
Châu Âu thủ tướng siêu-Ca-tô Adenauer, người hàng ngày đọc kinh mân côi trước
Đức Mẹ Fatima, đã đến Paris vào tháng 11, 1951, để gặp một nhà lãnh đạo Ca-tô
khác, cũng là một người sùng tín Đức Mẹ, bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp và là cựu
Thủ tướng tên là Schuman, bàn chuyện xây dựng một đội quân siêu quốc gia "để đấu
tranh cứu nền vãn minh Cơ Đốc giáo". Cùng lúc với các sự kiện nham hiễm này, báo
chí thế giới ảm đạm thông báo rằng tướng Eisenhower, tham mưu trưởng của tất cả
lực lượng vũ trang Hoa Kỳ và Châu Âu, đã đến Tòa Thánh, đồng thời với các Bộ
trưởng ngoại giao, kinh tế và chiến tranh của mười hai quốc gia Châu Âu, dự cuộc
họp tại Rome để tổ chức "mặt trận quân sự chống Nga." Tướng Eisenhower thông báo
với các bộ trưởng chiến tranh của mười hai quốc gia tụ họp rằng họ nên gấp rút
tái vũ trang phương Tây càng nhanh càng tốt, vì một Thời Đại Đen Tối không thể
tránh khỏi do một "cuộc xâm lược man rợ mới," dùng chính những từ ngữ mà Giáo
Hoàng Pius XII đã sử dụng.
Nhiệm vụ của họ? Nhanh chóng tổ chức cho đến nãm 1952 một đội quân Châu Âu do
người Mỹ chỉ huy gồm 40 sư đoàn chiến đấu trang bị đầy đủ, và 100 sư đoàn cho
đến nãm 1953, đúng vào ngày số đặc biệt của báo Collier đã tự tin dự đoán sự xâm
lăng và chiếm đóng nước Nga sẽ diễn ra.
Trong khi đó tướng Omar Bradley, Chủ tịch Uỷ ban Tham mưu Liên quân Hoa Kỳ, đã
được Pius XII tiếp kiến (cuối tháng mười một, 1951), rồi thời gian ngắn sau đó
(ngày 6 tháng mười hai, 1951) gặp Thống tướng Lord Montgomery, Phụ tá Chỉ huy
tối cao của lực lượng Đồng Minh ở Châu Âu. [3]
Các
chuyên viên về trải bom của Bộ binh, Hải quân và Không quân từ Tây Ban Nha,
Pháp, Anh, và trên hết, Mỹ, tiếp tục được Thánh Cha Pius XII tiếp kiến. Đọc danh
sách chính thức của các nhà lãnh đạo chiến tranh đến thăm ông ta trong giai đoạn
này cũng giống như đọc một danh sách các nhà lãnh đạo chiến tranh được thuyết
trình tại một siêu-Ngủ Giác Đài toàn cầu. Trong khi nhiều phái đoàn của các bộ
trưởng chiến tranh của mười hai quốc gia, và đủ loại tướng lãnh đương nhiệm đang
ngồi chờ dưới các bức tường của Vatican, Quốc hội Úc đã được yêu cầu cam kết giữ
bí mật trước khi được một trong các tướng lãnh của họ, H. Robertson, cựu Chỉ huy
trưởng của các lực lượng thuộc khối Thịnh vượng chung tại Nhật Bản thuyết trình.
Điệp văn bí mật gì của ông tướng này? “Những chiến sự lớn (có nghĩa là Thế chiến
III) sắp xảy ra.” [4]
Năm
sau (tháng sáu, 1952), Vatican đã lên tiếng phản đối việc các điệp viên cộng sản
đã cố lấy cắp các tài liệu bí mật từ Đài Phát thanh Vatican. Những tài liệu này
gồm một "sách mật mã", mà theo giám đốc đài phát thanh, Cha Dòng Tên F.
Soccorsi, "đã không hề tồn tại." Tuy vậy, một lô nhân viên của Vatican đã bị lấy
dấu tay. Quả thật các điệp viên Cominform đã được lệnh từ giới tình báo Soviet
tóm cho được cuốn mật mã "không hề có" của Đài Phát thanh Vatican. Tại sao? Đơn
giản là vì Đài Phát thanh Vatican phóng tin nhắn bằng tín hiệu đến bọn tình báo
chống Cộng và các phần tử Ca-tô nằm vùng trong các nước Cộng sản. Tại thời điểm
đó nó đã được phát sóng trên hơn hai mươi loại ngôn ngữ, hầu hết nằm trong số
nước chư hầu của Nga, như tiếng An-ba-ni, Ukrainian, Lát-vi-a, vv..
Dù đã lặp đi lặp lại lời bác bỏ, Vatican cuối cùng đã phải thừa nhận rằng, trong
khi bộ trưởng ngoại giao của mình thường xuyên liên lạc với các đại sứ tòa thánh
“bằng mật mã”, mà tin tức gởi đi “và nhận được” đã thông qua đài phát thanh tới
Rome nhờ các "kênh ngầm". [5]
Thực tế của tình trạng này, tất nhiên, là Vatican đã liên lạc với các điệp viên
tích cực nhất của mình, cũng như với vài thành viên của Sở Tình Báo Trung ương
Mỹ (rất thường là cùng người), sẵn sàng kết hợp các nỗ lực của họ cho ngày "giải
phóng" nước Nga và các nước cộng sản khác. Theo cách này, thì Vatican đã hành
động, không những cho Hoa Kỳ, mà chính là điệp báo hàng đầu của Sở Tình Báo
Trung ương Mỹ (CIA).
Chỉ vài tháng trước, chính quyền Mỹ đã thông qua một đạo luật đáng ngại. Đó là
Đạo luật An Ninh Hổ Tương Hoa Kỳ. Sứ mệnh chính của nó: Gài cấy, phối hợp và chỉ
đạo một hệ thống tình báo rộng lớn trong các quốc gia sớm được "giải phóng". Đạo
luật được tài trợ hơn 100 triệu đô la cho sự thiết lập một đội ngũ phá hoại,
gián điệp, đặc vụ và khủng bố, không phải chỉ gồm bọn chống Cộng định cư tại
Hoa Kỳ và Châu Âu, mà "để giúp đỡ bất kỳ ai được tuyển chọn đang sống . . ở Liên
Xô và các nước chư hầu của nó... để biến những người như thế thành bộ phận của
các lực lượng quân sự." Điều này, theo một Dân biểu kẻ đã đệ trình đạo luật giải
thích, "để viện trợ cho các phong trào nằm vùng trong các nước Cộng sản, bắt đầu
từ nước Nga." [6]
Đến 1952 (năm Hoa Kỳ định tấn công Nga), quân phục, các huy hiệu cầu vai ghi
thay vì U.S.A. lại là U.S.S.R., đã được giao cho các nhóm di dân Đông Âu được
chọn và có thể nói rành tiếng Nga. Đáng kể, phần lớn là giáo dân Ca-tô.
[7] Tại
Rome, các giáo sĩ Ca-tô và Dòng Tên đã học tiếng Nga và đã được đào tạo các lễ
nghi của Giáo hội Chính thống (Orthodox Church), cũng đã được yêu cầu "túc
trực".
Rome, tự cho mình là một trung tâm của hòa bình, đã trở thành một trung tâm nham
hiễm rộng lớn của chiến tranh. Liên tục có nhiều đoàn tướng lãnh, đô đốc, bộ
trưởng chiến tranh, các chuyên gia về trải bom, khua giày dọc theo các hành lang
cẩm thạch của Vatican, đã là cuộc biểu dương đáng nguyền rủa cho những cá nhân,
các nhà lãnh đạo chiến tranh chuyên nghiệp này đã đến gặp một nhà lãnh đạo
chiến tranh khác, Giáo hoàng Pius XII – kẻ mà trong thời kỳ này, thật buồn cười
là chẳng hề tiếp một phái đoàn hòa bình nào, từ phương Đông hay phương Tây. Sự
khéo léo phối hợp về ngoại giao tòa thánh, sức mạnh của guồng máy tôn giáo và sự
mê tín tôn giáo có tổ chức đã làm cho Giáo hoàng trở thành một trong những nhà
lãnh đạo chiến tranh tối cao trong việc xúi giục một cuộc thế chiến lần thứ ba.
Việc đồng hóa Fatima với Vatican, và sự tính toán khai thác chính trị của tín
ngưỡng tôn giáo trong sự sùng bái mới, đã được bộc lộ rõ ràng bởi Đặc phái viên
của Giáo hoàng, Hồng y Tedeschini, khi ông ta kết luận với một dấu hỏi quan
trọng, sau lần kể cho một triệu thính giả của mình nghe về "các thông điệp" được
gởi đến Pius XII một cách kỳ lạ từ trời: "Đây có phải là Fatima đã được chuyển
đến Vatican hay không? Hay là Vatican đã biến thành Fatima?"
[8]
Đúng thế. Vì lời hứa của Đức Mẹ là sự chiếm đóng và giải phóng nước Nga, sau
cùng dẫn đến việc cãi đạo nước này theo Giáo hội Công giáo, mà hàng loạt các nhà
lãnh đạo chiến tranh Tây phương, khi đang lập kế hoạch cho một cuộc chiến tranh
hạt nhân, đã trở thành công cụ cho một âm mưu tôn giáo-chính trị rộng lớn nhằm
đạt cho kỳ được mục tiêu cuối cùng ấy. Giáo hoàng Pius XII, đang ở trung tâm của
tất cả sự việc, lập lại lời nói với hàng triệu giáo dân rằng Đức Mẹ đã biểu hiện
phép mầu cho riêng ông tại Rome nãm 1950, để ông ta thực hiện tốt lời hứa của
Đức Mẹ Fatima là chiếm đóng, giải phóng và cãi đạo nước Nga Soviet. Vì thế mà
ông đã luôn sát cánh với những lực lượng thế tục quyết đánh liều một trận sống
mái trong cuộc xung đột để thăng tiến các kế hoạch riêng của họ.
Sự
sùng bái Đức Mẹ Fatima, do đó, hoàn toàn không dính dáng gì đến yếu tố thuần
thần linh, trong tay của Giáo hoàng Pius XII rõ ràng nó đã được biến thành một
vũ khí chiến tranh tâm lý nhằm điều kiện hoá hàng triệu giáo dân Ca-tô chấp nhận
sự bùng nổ của một cuộc xung đột hạt nhân. Theo đó để hoàn thành một trong những
thiết kế chinh phục ác hiễm nhất của Giáo Hội Công Giáo trong thời hiện đại, dù
có khả năng lặp lại tất cả các điều kinh hoàng ở Croatia trên một quy mô đồ sộ.
Pius XII đã biết rõ rằng các hoạt động nham hiễm của mình với nhiều tướng lãnh
và chính trị gia mà ông ta đã liên tục giao dịch không chỉ thuần là làm dáng yên
hùng chính trị, nhưng thực tế khủng khiếp đã minh chứng không chỉ qua sự tiết lộ
bí mật tại Quốc hội Úc. Nó đã được chính thức xác nhận bởi một người, người ấy
có lẽ hơn bất kỳ ai khác, đã biết hết những gì đã xảy ra trong các hành lang bất
khả xâm phạm ở Washington và Vatican. Người đó chính
là Tổng thống Hoa Kỳ.
Harry
S. Truman đã là tổng thống khi tất cả các điều kể trên xảy ra. Như vậy, đang ở
ngay chính giữa các guồng máy này, ông bị buộc phải đối phó với chính những lực
lượng đã hoạt động cho việc xúi giục Thế chiến thứ ba. "Có một vài ngượi bị lạc
dẫn muốn có chiến tranh để sắp xếp lại tình hình thế giới hiện tại," ông đã
viết. Sau đó (vào ngày 9 tháng mười hai, 1951) ông nãn lòng ghi thêm: "Chúng tôi
đã có hết hội nghị này đến hội nghị khác về tình hình gay go đang đối mặt đất
nước. Tôi đã làm việc cho hòa bình trong 5 năm và 6 tháng, vậy mà có vẻ như
Chiến tranh Thế giới thứ III vẫn đến gần kề." [9]
Cần phải ghi nhận điều này, trong khi Pius XII nói với giáo dân Ca-tô chuẩn bị
chống lại sự “xâm lược của bọn man rợ" và đã tiết lộ cho họ biết bằng cách nào
Đức Mẹ Đồng Trinh Fatima đã gửi riêng cho ông ta một thông điệp liên quan đến
việc cãi đạo nước Nga về với Giáo Hội Công Giáo, cùng với tất cả các hàm ý khủng
khiếp của một cuộc chiến tranh hũy diệt toàn bộ. Sự phát động cho một "cuộc
chiến tranh nguyên tử phòng ngừa" đã bị thất bại. Tuy vậy, nổ lực gây chiến trên
toàn thế giới không nên bị lãng quên. Nó đã có thể thành công.
xem phiên bản Anh ngữ
Ghi chú cuối trang:
1. Thời Báo Luân Đôn, 22 tháng 10, 1951.
2. Xem Báo chí Mỹ (New York Times, vv) tường trình về Dulles, Detroit, 27 tháng
11, 1951.
3. Catholic Herald, 30 tháng 11, 1951. Vũ trụ, 14 tháng 12, 1951.
4. Tướng H. Robertson, nguyên Chỉ huy trưởng, Các lực lượng vũ trang của Khối
Thịnh vượng chung tại Nhật Bản, trong một phiên họp bí mật của các thành viên
của tất cả các đảng. Hãy xem tuyên bố của ông Menzies, Thủ tướng Chính phủ Úc,
Quốc Hội ngày 28 tháng 11, 1951, khiếu nại về sự tiết lộ bí mật. Xem The Times,
London, ngày 22 tháng 12, 1951.
5. Xem Daily Mail, 23 tháng 7, 1952.
6. The
Times, London, 22 tháng 12, 1951. Xem thêm “Dollar Và Vatican”, của tác giả.
7. Quy
định huy hiệu cầu vai với các chữ U.S.S.R. đã được ban hành trong năm 1952. Báo
Cộng sản The Daily
Worker, sao chép các huy hiệu trong vài trường hợp, ví
dụ như 18 tháng ba, 1952.
8. Hồng Y Tedeschini, Fatima, Bồ Đào Nha, 13 tháng 10, 1951.
9. Ngài Tổng Thống, biên soạn bởi Hillman, 1952.
Tác giả: Avro Manhattan
Người
Dịch: Trần Thanh
Lưu
Kỳ tới: Chương 7 - Những Kẻ Đằng Sau Chiến Tranh Việt Nam
Các bài cùng tác giả
Trang Sách Nước Ngoài