Nietzsche - Về Lai Lịch của Đạo đức (12)
Mô Hình “Con Nợ/Chủ Nợ”
Lê Dọn Bàn dịch
http://sachhiem.net/SACHNGOAI/snL/LeDonBan/LDB09.php
30-Sep-2012
Về Lai lịch của Đạo đức
(On the Genealogy of Morality
Zur Genealogie der Moral)
Friedrich Nietzsche
“Có tội”, “Lương Tâm Cắn Rứt”, và Những Vấn Đề Liên Quan
18.
Chúng ta phải thận trọng khi suy nghĩ một cách
khinh miệt về toàn bộ hiện tượng này, vì nó thừa
hưởng xấu xí và đau đớn từ di truyền. Về nền tảng, nó là cùng một sức mạnh
tích cực như sức mạnh hoạt động trên một quy mô rộng lớn trong những nghệ sĩ
của bạo động và những người tổ chức, và của sức mạnh xây dựng những nhà
nước, vốn ở đây, có tính nội bộ, và trên một
quy mô nhỏ hơn, vụn vặt tầm thường hơn, đã quay ngược vào bên trong, trong
“mê cung của cõi lòng”, như Goethe thường nói, [1] tạo ra lương tâm cắn rứt cho chính nó, và xây
dựng những lý tưởng tiêu cực, nó là chính cái bản năng về tự do đó
(đưa vào ngôn ngữ của tôi: ý dục với quyền lực) [2]:
ngoại trừ rằng vật chất hữu hình trên đó bản
chất tham lam và trưởng thành của sức mạnh này
tự phun thoát ra, thì đích xác là con người chính
nó, toàn bộ tự ngã con thú cũ của nó – và không, như
trong hiện tượng đó lớn hơn và dán vào mắt hơn,
con người khác,
những con người khác. Sự tự vi phạm bí mật này, sự tàn ác của
nghệ sĩ này, khát vọng này muốn đem hình dạng
cho tự thân, như một mảnh của vật chất khó khăn,
phản kháng, đau khổ, để dán nhãn hiệu cho nó
với một ý chí, một phê bình, một mâu thuẫn, một
khinh miệt, một “không”, lao động kỳ lạ, khủng
khiếp nhưng vui vẻ này của một linh hồn tự nguyện
phân cắt bên trong chính nó, vốn làm chính nó
đau khổ thoát ra từ sự vui sướng của làm nên
đau khổ, toàn bộ cái lương tâm cắn rứt hoạt
động này
đã cuối cùng – chúng ta đã đoán được rồi – như
tử cung thực sự của lý tưởng và những sự kiện
tưởng tượng, đã mang lại một giàu có mới lạ khác
thường, cái đẹp ngỡ ngàng và sự khẳng định choáng
váng, ra với ánh sáng, và những có lẽ lần đầu
tiên, cái đẹp tự
thân. .
. Điều gì sẽ là “cái đẹp”, nếu trái với nó đã
không đi đến nhận thức của chính nó trước hết,
nếu sự xấu xí đã không trước tiên nói với chính
nó: “Tôi xấu xí”? . . . [3]
Ít nhất, sau đầu mối này, một câu đố sẽ bớt khó
hiểu hơn, cụ thể là – làm sao một lý tưởng, một gì đó đẹp đẽ, lại có
thể được ám chỉ, gợi ý trong những khái niệm tự mâu thuẫn với nó – loại
giống như sự vị tha, sự tự xóa, quên mình, tự hy sinh, và còn
thêm nhiều nữa, tôi không hoài nghi rằng chúng ta biết một điều, – loại
vui thú nào, vốn nó là từ đầu - sự vị tha, sự tự xóa, sự tự hy sinh,
- đã cảm nhận: vui thú này thuộc về sự tàn ác. –
Như thế là quá nhiều, trong lúc này, cho hậu duệ của sự “không-vị-kỉ”
như một giá trị đạo đức và trên sự phác họa của căn cứ trên đó
giá trị này đã lớn dậy: chỉ lương tâm cắn rứt, chỉ ý chí với sự tự hành
hạ, mới cung cấp những điều kiện tiên quyết cho giá trị của sự
không-vị-kỉ. –
19.
Lương tâm cắn rứt là một bệnh tật, phủ nhận nó
sẽ không đi đến đâu, nhưng nó giống một căn bệnh hơn là một sự hoài
thai. Chúng ta hãy cùng xem xét những điều kiện qua đó ốm đau này
đạt đến đỉnh khủng khiếp nhất và cao nhất của nó: – chúng ta sẽ thấy,
với điều này, những gì thực sự đã đi vào thế giới. Nhưng chúng ta
sẽ cần rất nhiều quyền lực chống đỡ, – và trước tiên chúng ta phải
trở về lại một điểm trước đó.
Quan hệ của một con nợ với chủ nợ của mình trong luật dân sự, điều
mà tôi đã viết đã khá dài, đã chuyển đổi lần thứ nhì, thông qua sự diễn
giải, trong một cách thức vô cùng lạ thường và gây chú ý tò mò nhìn
theo lịch sử, vào thành một quan hệ trong đó nó có lẽ là có thể hiểu
được ít nhất đối với con người hiện đại chúng ta: đó là quan hệ của thế
hệ hiện tại với tổ tiên của họ.
Trong vòng liên kết nguyên thủy bộ lạc – chúng ta đang nói về thời
thái cổ - thế hệ đương sống luôn luôn thừa nhận một sự biết ơn – một
nghĩa vụ pháp lý - đối với những thế hệ sớm hơn trước đó, và đặc biệt
hướng tới thế hệ sớm nhất, vốn đã thành lập bộ lạc (và điều này không
chỉ là một kết nối tình cảm, điều sau vừa kể có thể, với lý do chính
đáng, bị phủ nhận tất cả hoàn toàn trong giai đoạn dài nhất của giống
người [4]).
Có một tin tưởng vững chắc phổ biến rằng bộ lạc tồn tại chỉ vì
những hy sinh và những hành động của cha ông, – và rằng những điều này
phải được đền đáp trả lại bằng những hy sinh và những hành động:
mọi người công nhận một món nợ Schuld] vốn nó liên tục
tăng lên vì những tổ tiên này tiếp tục tồn tại như những thần linh to
lớn đáng sợ, đem cho bộ lạc những lợi thế mới và một số quyền năng của
họ. Có phải họ làm điều này cho-không, có lẽ? Nhưng không có gì “cho-không”
đôií với những thời đại thô sống và “nghèo nàn tinh thần”. Người ta
có thể đem trả họ những gì để đền đáp? Những hiến sinh, những dâng cúng
hy sinh (ban đầu là thực phẩm trong ý hướng tinh thần thô thiển), lễ
hội, nhà thờ cầu nguyện, dâng cống, trên tất cả, sự tuân phục vâng lời
– với tất cả những truyền thống, như những công trình của tổ tiên, cũng
như những quy tắc và mệnh lệnh của họ: – người ta có bao giờ đem cho
họ cho đủ hay không? Ngờ vực này vẫn còn và phát triển: thỉnh thoảng
nó bắt nặn phải đóng một khoản thanh toán trên một quy mô to rộng, một
gì đó lớn lao như một trả nợ cho ‘chủ nợ’ (sự hy sinh ô nhục nổi tiếng
đầu tiên là hy sinh đứa con đầu lòng [5], lấy thí dụ, máu, máu
của con người trong bất kỳ trường hợp nào).
Đi theo dòng suy nghĩ này, sự khiếp hãi tổ tiên và quyền năng
của người khuất mặt, ý thức về những khoản nợ với ông ta, chắc chắn
tăng dần không thể tránh, tỷ lệ thuận với sự gia tăng sức mạnh của bộ
tộc, đó là, theo tỷ lệ tương ứng khi chính bộ lạc, hơn bao giờ hết,
trở thành chiến thắng, độc lập, được tôn vinh và được kính sợ. Và không
phải là chiều ngược lại! Mỗi bước hướng tới sự suy yếu của bộ lạc, tất
cả những thiên tai bất hạnh, tất cả những dấu hiệu của thoái hóa và
tan rã sắp xảy ra, luôn luôn giảm bớt thay vì gia tăng sự sợ
hãi với thần linh của người sáng lập của nó, và dẫn tới một sự đánh
giá thấp hơn bao giờ hết về sự minh mẫn sắc sảo, sự đoán trước phòng
xa, và sự hiện diện mạnh mẽ của ông ta. Nếu bạn suy nghĩ theo thứ lôgích
thô thiển này từ đầu đến cuối: nó dẫn đến rằng ảo giác từ sự khiếp hãi
ngày càng tăng, những tổ tiên của những bộ lạc mạnh mẽ hùng cường
nhất phải phát triển đến một tầm vóc to lớn khôn lường, và đã phải
bị đẩy vào bóng tối của mầu nhiệm linh thiêng và siêu việt: – Chắc chắn,
không thể tránh được, là chính tổ tiên đã cuối cùng biến dạng vào thành
một vị gót. Có lẽ chúng ta có ở đây nguồn gốc thực sự của những
vị gót, một xuất xứ, vậy đó, trong sợ hãi! ... Và bất cứ ai thường
cho là phù hợp để bổ sung thêm: “nhưng cũng trong lòng thương xót nữa!”
sẽ gặp khó khăn khi biện minh cho tuyên bố này với thời kỳ dài nhất
của loài người, thời tiền sử. Tất cả lại còn hơn thế nữa, tuy nhiên,
người ấy có sẽ là đúng hay không, với khoảng thời gian ở giữa, trong
đó những bộ tộc cao quý đã phát triển: những người thực sự đã trả nợ,
cùng lãi xuất, với những người sáng lập của họ, tổ tiên của họ (những
anh hùng, những gót), với tất cả những thuộc tính, vốn trong thời gian
đó, đã trở thành thể hiện trong bản thân chính họ, những thuộc tính cao
quý. Về sau, chúng ta sẽ có một cái nhìn khác về những vị gót được
tôn sùng đáng kính phục và cao quý (vốn không hề tất cả để nói rằng
họ là “thiêng liêng”), nhưng giờ đây, hãy để chúng ta theo đuổi dòng
chảy của toàn bộ sự phát triển này của ý thức về tội lỗi đến kết luận
của nó.
20.
Sự nhận thức được về có mang nợ [6] với những vị gót, như
lịch sử cho biết, đã không đi đến một chấm dứt, ngay cả sau khi có sự
suy tàn của những “cộng đồng” được tổ chức trên nguyên lý quan hệ huyết
thống, đúng như khi con người thừa kế những khái niệm về “tốt và xấu”
từ tính cao quí của dòng dõi (cùng với khuynh hướng cơ bản về tâm lý
của nó để thành lập những thứ bậc theo địa vị), anh ta cũng thừa hưởng,
cùng với những thần linh của những bộ lạc và những gia tộc, gánh nặng
của những khoản nợ chưa trả và mong muốn để thanh toán, trả nợ chúng
cho xong. (Những quần thể lớn đó gồm những nô lệ và nông nô, tự họ chấp
nhận những sùng bái thần linh của những chủ nhân của họ, hoặc qua cưỡng
bách, hoặc do tùng phục, hoặc bởi bắt chước, hình thành giai đoạn chuyển
tiếp: từ những người này, sự thừa kế tràn lan ra tất cả mọi hướng).
Cảm xúc về sự mang nợ [7] hướng về một thần linh
đã tiếp tục phát triển trong nhiều nghìn năm, và thực vậy, đã luôn luôn
tỷ lệ thuận với khái niệm về Gót, và cảm xúc với Gót vốn đã lớn dậy
trong thế giới và đã kéo lên cao vời. (Toàn bộ lịch sử những chiến tranh
của các dân tộc, những chiến thắng, những hòa giải và những sát nhập,
và tất cả mọi sự việc vốn xảy ra trước khi có sự xếp thứ hạng cuối cùng
của những thành phần đa dạng của đám đông dân chúng, trong tất cả mỗi
tổng hợp sắc tộc lớn lao, thì phản ánh trong sự hỗn loạn về dòng dõi,
phả hệ của những vị gót của họ, trong những truyền thuyết về những trận
đánh, những chiến thắng, những hòa giải của họ; tiến trình đi đến những
đế quốc hoàn vũ, luôn luôn là tiến trình đồng thời đi đến những vị gót
hoàn vũ: chế độ chuyên quyền, với sự khuất phục của giới quí tộc độc
lập, cũng luôn luôn chuẩn bị con đường cho một vài loại của tôn giáo
thờ-chỉ-một-gót – độc thần.)
Sự ra đời của Gót Kitô như vị gót tối cùng cực điểm đã đạt được, như
thế cũng đã đưa đến sự xuất hiện của cảm xúc vĩ đại [8] nhất về mang nợ trên
trái đất. Giả sử rằng bây giờ chúng ta bắt đầu theo hướng ngược lại,
chúng ta sẽ diễn dịch phải là chính đáng, không một xác suất có thể
dù nhỏ, rằng từ sự suy tàn không thể chặn đứng được của đức tin vào
Gót Kitô, ngay cả giờ đây, có một sự suy sụp đáng kể trong ý thức về
khoản nợ của con người; thực vậy, khả năng không thể bị loại bỏ không
ngần ngừ, rằng chiến thắng toàn vẹn và dứt khoát cuối cùng của chủ nghĩa
vô thần - chủ nghĩa không-tin-gót -, rồi có thể giải phóng loài
người khỏi toàn bộ cảm xúc này về tư cách sự mắc nợ đối với những khởi
nguyên của nó, nguyên nhân đầu tiên (causa prima) của nó. Chủ
nghĩa vô thần và một loại của sự ngây thơ [9] trong trắng thứ nhì [10] cùng thuộc về nhau. –
21.
Như thế quá nhiều cho một đại cương sơ phác và
ngắn về sự kết nối giữa những khái niệm “nợ / tội lỗi”, và “trách
nhiệm” và những giới luật tôn giáo: cho đến giờ, tôi đã chủ ý đặt
sự đạo đức hóa thực sự của những khái niệm này sang một bên (lối mà
chúng bị đẩy ngược trở lại vào trong lương tâm; chính xác hơn, lối
của lương tâm cắn rứt bị đan cuốn vào cùng với khái niệm về
Gót), và ở kết luận trong đoạn vừa rồi, tôi thực sự đã nói dường như
thể sự đạo đức hóa này đã không hiện hữu, kết quả là, dường như thể
những khái niệm này sẽ tất yếu xụp đổ, đi đến một kết thúc, một khi
tiền đề cơ bản thôi không được áp dụng, sự tin tưởng đem cho ‘chủ
nợ’ [11] chúng
ta vay, trong Gót. Những sự kiện bất đồng từ điểm này một cách tệ
hại ghê gớm.
Với sự đạo đức hóa của những khái niệm “nợ / tội lỗi”, và trách nhiệm,
và sự đày ải giáng thấp chúng đến lương tâm cắn rứt, trong thực
tại, chúng ta có một nỗ lực để đảo ngược hướng phát triển tôi
đã mô tả ở trên, hay ít nhất chặn đứng vận động
của nó: giờ đây triển vọng của một sự trả nợ một-lần-và-xong-xuôi-cho-tất-cả thì
bị tịch
thu; tránh ra sự bi quan, giờ đây cái nhìn nhanh
của chúng ta là để vụt nảy lại và bật mạnh lại
một cách chán chường khỏi một sự bất khả sắt thép, giờ đây những khái
niệm “nợ” và “nhiệm vụ” đó là bị xoay
đảo ngược – nhưng xoay ngược đối lại với ai? Điều không thể chối
cãi: trước tiên là đối lại với ‘con nợ’, trong
con người ấy giờ đây lương tâm cắn rứt tự nó đã
thiết lập quá vững chặt, đương ăn nuốt vào trong anh ta, đương mở rộng
và lớn dậy, giống như một polyp [12], quá rộng và sâu khiến
đến cuối cùng, với sự không-thể-nào của việc trả
nợ xong cho được, thì mường tượng trong đầu sự
không-thể-nào sự thanh toán bốc rỡ cho hết sự đền tội, ý tưởng rằng
nó không thể được trả hết (“sự trừng phạt vĩnh
cửu” [13]); đến tận cùng, tuy
thế, chống lại ‘chủ nợ’, và ở đây chúng ta nên
nghĩ về causa prima của
con người, sự khởi nguyên của loài người, của tổ
tiên của loài người là bây giờ bị đè nặng gánh
với một lời nguyền ( ‘Adam’, “tội nguyên thủy –
tội tổ tiên”, “ý chí tự do bị câu thúc” [14]), hoặc của thiên nhiên,
từ tử cung của nó con người có nguồn gốc, mà với
nó nguyên lý của tà ác được quy gán cho (tà ma
hóa, quỉ dữ hóa thế giới tự nhiên), hoặc của sự hiện hữu nói chung,
vốn bỏ lại đứng trơ như không
có giá trị gì một cách di truyền [15] (một quay-đi có tính
hư vô từ sự hiện hữu, khát khao với hư vô, hay
ước mong cho một “phản đề”, là cái khác, đạo Phật
và giống như vậy) – cho đến khi tất cả cùng một lúc, chúng ta đương
đầu với mưu chước nghịch lý và kinh hoàng, qua đó một con người tử đạo
đã tìm cách cứu trợ tạm thời, cú đánh thần kỳ của bậc thiên tài của
đạo Kitô: không ai khác hơn là chính Gót hy sinh chính mình cho khoản
nợ của con người, không ai khác hơn là chính Gót trả nợ lại chính mình,
Gót như kẻ độc nhất có khả năng cứu chuộc con người từ những gì, với
chính bản thân con người, vốn đã trở thành vô cơ cứu vãn – chủ nợ hy
sinh chính mình cho con nợ của mình, thoát ra từ yêu thương (bạn sẽ
ghi nhận nó là công trạng không?), – thoát ra từ yêu thương với con
nợ của mình! . . . [16]
22.
Bạn sẽ đoán được rồi những gì đã thực sự xảy ra với tất cả điều
này, và đằng sau tất cả điều này: ý chí muốn hành hạ cá nhân
chính mình, tính tàn ác đàn áp đó của con người
động vật, kẻ đã sợ hãi đẩy ngược trở lại vào trong
chính mình, và được cho một đời sống bên trong,
bị giam cầm trong “trạng thái” để thành thuần hóa,
và đã khám phá được lương tâm cắn rứt như thế để
hắn có thể làm tổn thương chính mình, sau khi cống thoát tự
nhiên hơn của
mong ước muốn gây tổn thương này (cho người khác)
đã bị ngăn chặn, – con người này của lương tâm
cắn rứt đã nắm lấy chặt trên sự giả định trước
của tôn giáo ngõ hầu cung cấp cho sự tự tra tấn
của hắn với độ cứng và độ sắc khiếp đảm nhất của
nó. Phạm tội (Mắc nợ) với Gót:
ý tưởng này trở nên một khí cụ của tra tấn với
hắn. Nhìn trong ‘Gót’, hắn bắt lấy phản đề tối
hậu, hắn có thể tìm thấy, cho những bản năng động
vật thật sự và không thể bù chuộc của mình, hắn
diễn giải lại những bản năng tự-chúng y như loài
động vật - như là “nợ / tội lỗi” trước Gót (như
thù oán, bùng dậy, bạo loạn chống lại “người thầy”,
người cha”, tổ tiên nguyên thủy và khởi đầu của
thế giới), hắn ném chính hắn vào trong sự mâu thuẫn của “Gót” và “Quỉ
Dữ”, hắn thốt lên tất cả mọi tiếng “không” vốn hắn nói với chính hắn,
(như là một phủ định) với bản tính, với tự nhiên tính và thực tại của
sự tồn sinh của hắn (trong một hình thức) như là một “có” (một xác định),
như hiện hữu, sống, thực, như Gót, như sự thánh linh của Gót, như Gót-vị-Quan-Tòa,
như Gót-Người-Treo-Cổ-Tội-Nhân, là xa hơn nữa, như vĩnh cửu, như tra
tấn không cùng, không kết thúc, như hỏa ngục, như trừng phạt
khôn-lường-vô lượng và tội lỗi.
Chúng ta có ở đây một thứ điên rồ của ý chí cho thấy chính nó trong
sự tàn ác tâm thần tuyệt đối vô song, chưa từng
có: ý chí của
con người để tìm thấy chính hắn phạm tội và bị
lên án mà không hy vọng ân xá giảm tội, ý chí của hắn để nghĩ
về mình như bị trừng phạt, mà sự trừng phạt không
bao giờ có được tương đương với mức độ của tội
lỗi, ý chí của
hắn để tiêm nhiễm và đầu độc những nền tảng cơ
bản của những sự vật với vấn đề của trừng phạt
và tội lỗi, ngõ hầu để một lần và mãi mãi, ra khỏi
lối thoát của mê cung này của những “ý tưởng bất
động” [17], ý chí này thiết
lập một lý tưởng – đó là một “Gót linh thiêng”,
– ngõ hầu để có thể chắc chắn động chạm thuyết
phục được về chính sự tuyệt đối vô giá trị của
chính hắn khi đối mặt với lý tưởng này. Chao ơi,
con thú người, con thú điên thảm thương này! Đến
gì là những ý tưởng hắn có, đến gì là sự hư hỏng
đốn mạt, đến gì là những cuồng dại vô nghĩa, thật
là đến gì là thú
tính của suy tưởng bùng
trào ngay lập tức, khoảnh khắc hắn bị ngăn chặn,
nếu như chỉ nhẹ nhàng, để đừng là một con
thú trong vùng vẫy hành động! . . .
Đây là tất cả gần như vượt mức lý thú đáng chú ý, nhưng cũng có một
sự buồn bã đen tối ảm đạm, rã rời nhụt chí nữa,
thế nên người ta phải tự buộc mình từ bỏ, đừng chăm chú nhìn quá
lâu vào những sâu thẳm này. Đây là ốm đau bệnh tật, không còn ngờ
gì, thứ bệnh tật khủng khiếp nhất từ trước đến nay đã hoành hành
trong con người: – và bất cứ ai vẫn còn có thể nghe (nhưng ngày nay
người ta không có tai nghe đối với nó nữa! -) tiếng hét của thương yêu đã
vang rền như thế nào, dậy lên trải qua đêm này của tra tấn và phi
lý, tiếng hét của trạng thái mê ly khao khát nhất, của sự cứu chuộc
qua thương
yêu, sẽ
quay người đi, bị một kinh hoàng không gì thắng
vượt nổi ghì chặt. . . Có quá nhiều như thế trong
con người vốn là ghê tởm kinh hoàng! . . . Từ quá lâu, thế giới đã
là một nhà thương điên! . . .
23.
Thế là đủ, một lần và mãi mãi, về nguồn
gốc của “Gót linh thiêng”. –
Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất
(Aug/2012)
(còn tiếp ...)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Trong đoạn thơ cuối cùng – bài thơ ‘An den Mond’
(‘To the Moon’) (1778).
[2] the
will to power – như Nietzsche nói ở đây,
nó là một thứ bản năng – nên tôi dịch
là ý dục với quyền lực – khi thời gian
cho phép, sẽ giới thiệu khái niệm và dịch tập
sách quan trọng này. Vẫn thường dịch và có
lẽ đã phổ thông là “ý chí quyền lực” – nhưng
nếu hiểu ý chí như một gì đó chủ động, có ý
thức – thì “will to power” của Nietzsche – không
là một thứ ý chí thuần tinh thần, nhưng còn
là một bản năng, một xung lực - thúc đẩy
sống động khôn cưỡng, từ bên trong con người,
thường vượt sự kiểm soát của con người. Nó
có nhiều phần gần hơn với một thứ bản năng
sống, tham lam, ích kỷ và tàn nhẫn để sống
còn – như tất cả những bản năng của con người
tự nhiên.
[3] Chúng
ta không thể biết cái Đẹp nếu không biết cái
Xấu – và có lẽ phải biết cái Xấu trước rồi
mới nhận ra cái không-Xấu = cái Đẹp; khi một
nơi nào, ở đâu có tiếng ca ngợi, kêu gọi yêu
thương (“yêu kẻ khác như yêu chính mình” –
loại như vậy) – là nơi đó chắc chắn đã có hiện
diện rồi sự hận thù, tàn ác, chia rẽ.
[4] Nietzsche
nói đến thời kỳ phát triển ở châu Âu, của đạo
Kitô, trong đó con người được dạy “biết ơn”
gót, nhưng không nhấn mạnh vào tổ tiên sinh
thành hay nguồn gốc trực tiếp của dân tộc.
Những nhân vật trong kinh Thánh – được các
tín đồ gọi là “tổ phụ” – thực ra, nếu có thực,
chỉ là tổ tiên của một dân tộc đặc biệt – là
dân Dothái.
[5] Gót
bảo Abraham hy sinh con trai mình là Isaac;
dù giải thích thế nào – đoạn này, cũng như
vô số những đoạn khác trong kinh Thánh – cho
chúng ta biết một sự kiện là tục giết người
– đặc biệt dã man giết đứa con trai đầu lòng
– làm vật hiến sinh thần linh, hay gót, hay
Gót sau này trong bộ lạc dân Dothái, là phổ
biến trong thời tiền sử ở vùng Trung đông.
Yếu tính của câu chuyện về huyền thoại hy sinh
của Jesus là một sự hiến sinh – hy sinh đứa
con trai cho Gót.
[6] Schulden zu haben
[7] Das
Schuldgefühl
[8] Das
Schuldgefühls
[9] Unschuld
[10] Trong
trắng ngây thơ vô tôi lần thứ nhất –
là trước khi có thứ tôn giáo “dạy dỗ” , bóp
méo con người, khiến họ tự tin mình là một
loài vật “có tội” - Trong trắng ngây thơ vô
tôi lần thứ nhì - là sau khi con người
ném bỏ, rũ sạch ảnh hưởng của thứ tôn giáo
đó – để trở lại trạng thái tinh khôi, trong
sạch của mình, nghĩa là thành vô thần – không
tin vào gót.
[11] Der
Glaube an unsern “Gläubiger”: tín ngưỡng trong
“chủ nợ” của chúng ta – hay cái người tin “chủ
nợ” của chúng ta
[12] polyp: một
khối mô sinh vật phát triển bất thường (như
quả bóng phồng to) trong cơ thể - thường là
những cơ quan rỗng – như ống ruột, mũi.
[13] sự
trừng phạt trong hỏa ngục theo đạo Kitô là
đời đời, vĩnh cửu.
[14] On
the Bondage of the Will (Latin: 'De Servo
Arbitrio', literally, “On Un-free Will”, hay
“Concerning Bound Choice”), của Martin Luther,
1525 - Luther chủ trương tội lỗi (sin) làm
cho con người mất hết khả năng thực hiện sự
cứu rỗi cho chính họ, và họ hoàn toàn không
có khả năng đem họ lại với Gót, Vì thế, không
có “ý chí tự do” cho con người vì con người
có thể bị ảnh hưởng của tội lỗi chôn vùi.
[15] Con
người là “tội lỗi” – dù đứa trẻ mới sinh ra,
cũng phải đem rửa tội – tại sao? – vì có tội di
truyền, “tội nguyên thủy” – “tội tổ tông”,…
đó là những cách biện hộ, nhưng thần kỳ là
có người tin! - Ở đây Nietzche dùng mô hình
con nợ/chủ nợ để giải thích theo tâm lý – đem
lại một trả lời cho câu hỏi - tại sao một sự
phi lý quái đản như thế lại được đông đảo con
người tin theo hàng ngàn năm! – chỗ này bỏ
thì lại có chỗ kia nhặt lên tin tưởng tiếp,
“một cách tệ hại ghê gớm.” như Nietzche nói
ở trên. Dĩ nhiên là có cả một guồng máy tuyên
truyền tuyệt vời hữu hiệu, nhưng trong tự thân
con người, vẫn có những điểm tâm lý, khiến
guồng máy thần kỳ kia, từ bên ngoài, mới có
thể khai thác dược. Nietzsche gọi đó là sự
ra tay của “cú đánh thần kỳ của bậc thiên tài
của đạo Kitô”! – thiên tài vì đó là “mưu chước
nghịch lý và kinh hoàng” – tôi không nghĩ là
tôi dịch thoát hết được sự đắng cay và chua
xót trong giọng mỉa mai của ông - một con người
tỉnh ngộ thoát ra ngoài mê hoặc tôn giáo của
chính ông.
[16] Mô
hình “con nợ/chủ nợ”:
Tự nhiên có người đến bảo bạn thực ra có mang nợ một ai đó, và
bạn có bổn phận phải trả - và nếu đây là một món nợ vật chất, chẳng
hạn một món tiền gì đó; tất nhiên trong trường hợp bình thường,
nếu không phải là sự thực, bạn sẽ kinh hoàng, phẫn nộ và chống trả,
phủ nhận đến cùng những điều vừa nghe này –
Nhưng hãy tưởng tượng một trường hợp khác - thực ra rất tương tự
và phổ thông, quen thuộc – trường hợp có người bằng mọi cách khéo
léo tìm đến, và bảo rằng bạn có chịu một ân huệ, có mang một thứ
nợ tinh thần nào đó, trong đời sống – vốn bình thường đến nay, bạn
không ngờ đến, không biết tới, nếu như không may mắn có người –
như con người đang nói với bạn - xem vẻ cũng nhân từ, tử tế này
– tốt lành, đầy thiện ý cho biết. Đây là một hình thức nợ trước
hết diễn dịch từ những nhận định nào đó lượm lặt trên chính đời
sống của bạn – nội dung chủ yếu là khái niệm “tội lỗi”, và chính
bạn là người có tội. Bạn vốn là người chân thực, và có thể
xa lạ với khái niệm mới này – nhưng dĩ nhiên là bạn có sẵn một quan
điểm, một thái độ sống, trong đó có ngầm chứa một định nghĩa nào
đó để hành động - về thế nào là sai lầm đạo đức, là tội, là xấu,
thường rập khuôn theo cộng đồng của bạn. Nên phản ứng đầu tiên là
thường nhất phải ngẩn ngơ ít hay nhiều, có khi hoảng hốt, và có
thể đi đến sự tự dò xét chi li trước sau, trong ngoài – đến cả quá
khứ thầm kín, nếu có, của mình – (thường thường là có - quét
nhà bao giờ cũng ra rác! – và tâm lý của kẻ mặc áo vá –
nếu phải bước ra đường, phải nghĩ mọi người ai ai cũng đều thấy
rành rành chỗ vá dù kín đáo cách mấy trên áo mình đang mặc), nhưng
cuối cùng, dù có thấy gì hay không – theo định nghĩa của bạn - đều
không quan trọng; vì người ấy, nếu bạn còn nấn ná, sẽ dẫn đến giảng
giải thêm, đưa dần đến một định nghĩa – thế nào là có tội,
hiểu chủ quan theo người rao giảng này - và đây mới là điểm chính
yếu của một thứ đạo đức theo tôn giáo - tội ấy không
phải vì bạn (vì bạn có làm gì, hay đã làm gì đến thế đâu!), bạn
không có trách nhiệm, nhưng do tổ tiên bạn – còn xa hơn nữa
– do tổ tiên của cả loài người (giả định là câu chuyện tổ tiên đó
của một dân tộc được xem như của chung tất cả), nên bạn – dù sinh
ra ở đâu, dù thuộc giống người nào – bạn cũng không thể nào chối
tránh nó được, vì nó di truyền, nên không những bạn “đã” mang tội,
mà rằng bạn rồi “sẽ sa ngã”, cũng theo những bước chân sa ngã cũ
của “tổ tiên”, trước sau rồi cũng sẽ tội lỗi, - với lại, nhìn lại
xem – chẳng phải bạn là kẻ yếu đuối đấy sao? – và “mọi người đều
phạm sai lầm - to err is human” (ai
dám bảo mình là kẻ mạnh có thể vượt thắng hết những khó khăn của
sự sống trước thiên nhiên tàn nhẫn, thử thách của đời người trước
con người đối với nhau như loài sói dữ? – mà bạn, được tâng bốc
như là “con chiên” - một loài quá đỗi ngây thơ, hiền lành!).
Sau đó – đương hoang mang như thế, đâm ra thành sợ hãi như kẻ bị
đắm tàu, sắp chết đuối trong biển tội lỗi (thực hay tưởng tượng
– đã có, hay sắp có,..) – Bạn được ném cho một cái phao và sự an
ủi cần thiết, - Này, nhưng đừng quá lo như thế – vì “thực ra” có
một vị rất cao cả, thương yêu bạn lắm (nói theo Nietzsche là
một ông chủ nợ thương con nợ! và mỉa mai là có sẵn trên cao
kia – cao quá, không thấy được).
Trong đời sống, bạn cũng như bao con người khác hữu hạn trên trần
gian này, ai chẳng có những mơ ước về cái vô hạn? - khi đối mặt
với những gì không hiểu nổi, không giải thích trước sau được cho
rõ ràng để hoạt động sống còn – ai chẳng hơn một lần có niềm tin
vào có một gì đó - huyền nhiệm xoay vần mọi sự kiện thiên nhiên
và nhân văn quanh mình – và có lẽ những bất công ở đời sống này,
rồi cũng phải sẽ được quyền lực siêu nhân đó cầm cân nảy mực – Con
người khắp nơi trên mặt đất này, từ lâu đã vẫn thờ phụng, tin tưởng
những gì tin là vô hạn, siêu nhân, siêu nhiên đó, trong những hình
thức khác nhau và người ta gọi là những thần linh. Những thần linh
đó được tôn sùng, nhưng với xa cách, hoặc vì kính sợ, hoặc khiếp
hãi.
Nhưng thần linh này – vị-trên-cao đó - con người tử tế này nói
với bạn là một thần linh đặc biệt – có liên hệ với bạn –
đó là rất yêu thương bạn. A! – Một thần linh siêu việt như
thế nhưng lại yêu thương mình! Còn gì tuyệt vời hơn. Nếu còn ngờ
vực thì bạn được bảo thêm - với lại chính thần linh, bạn hay cộng
đồng bạn đang có – không là thần linh đích thực, hay ngày nay đã
khéo léo hơn – đã vận dụng một hình thức tinh xảo mượn bình cũ
đựng rượu mới – và cụ thể là tránh thương tổn tự ái của bạn,
(và đẩy bạn nhanh chóng qua được những bước do dự – chuyển tiếp
từ quen đến lạ: những thần linh mới y phục sẽ như bạn, những đền
thờ mới sẽ kiến trúc như những đền thờ vẫn có quanh bạn) – Và mời
gọi có thể chuyển sang cởi mở, dễ nghe hơn – loại như, thần linh
bạn đang có cũng chính là thần linh này, nhưng dưới một dạng
còn thô phác hay biểu hiện sai lạc, vì lầm lẫn đó nên hiểu lầm ngộ
nhận, nên bạn đã không nhận ra được vị thần linh này đấy thôi –
và nếu ai có con mắt tội lỗi thì không thấy được vị ấy! –
Trong những trường hợp đó, ai dám nói là không “thấy vị trên cao”
đó – thấy “thần linh duy nhất thực” đó - ai lại dại dột như đứa
trẻ của Hans Andersen nói trắng ra sự thực trần truồng “ông vua
chẳng mặc gì cả” – vì tất cả đám quần thần xung quanh đều sợ mình
bị xem là ngu xuẩn, bất tài!) – Đặc biệt là vị đó rất thương
yêu bạn – có những người quanh bạn lúc ấy đã được rao giảng
trước bạn - đều đồng lõa nói thế cả rồi, với lại – tại sao lại đi
phủ nhận rằng có một ai đó và người ấy thương yêu mình! Bạn là “đứa
con hoang đàng, thất lạc”- hãy trở về với vòng tay thương yêu
vẫn mở này đi - Nói như Pascal – có mất gì đâu – nếu vị cao cả đó
có thực thì càng hay, mà nếu không thực thì cũng chẳng lỗ lã mất
mát gì! - Thế nên “tin tưởng” trong trường hợp này là chắc ăn, có
lợi hơn cả – một nhà toán học lừng danh, một nhà tư tưởng thông
minh đã nói thế - ai dám bảo “tính toán” của ông có chỗ sai! Rằng
ông đã tìm tín ngưỡng nhưng sai chỗ trong chốn đỏ đen của sòng bài
hơn thiệt!
Vị thần linh kể đó rất thương yêu bạn (bạn có chú ý đến
sự nhấn mạnh quá trơ trẽn này không?, trơ trẽn hơn cả trường hợp
tương tự - một cô gái điếm đẹp đẽ, thơm tho - từ trong hẻm tối nào
đó, kín đáo đến bảo bạn “tôi yêu anh lắm” - dù một giây trước, bạn
không biết nàng là ai, giữa bạn và nàng tuyệt không có gì chung,
thế nhưng nàng nói yêu bạn lắm, thích bạn lắm - đến nỗi nàng sẵn
sàng “ngủ” với một người lạ như bạn, chỉ có điều là bạn phải tin -
à không, trường hợp này, nàng nói: “anh phải đưa tôi tiền”,
thế thôi!) - Vị “rất yêu thương con người” như “cha” yêu con đó
– rất yêu bạn, ở đây và bây giờ, (chẳng qua là bạn không biết đấy
thôi, giờ bạn đã biết chưa?); thương thực sự, đến nỗi hai nghìn
năm trước đã đem đứa con trai độc nhất của ông xuống trần gian này,
(ở chỗ hơi hẻo lánh, xa lạ một chút, nhưng có hề gì, và cũng đừng
lạc đề hỏi những câu loại - một ai nếu ở ngoài trần gian sao lại
có thể có con trong trần gian này - trong hay ngoài? ngoài hay trong?...
) – bằng chứng là đã để đứa con này đóng vai hy sinh, phải chịu
chết thảm, chịu đổ máu đau đớn, quằn quại trên giá gỗ
chữ thập – tất cả máu me ghê gớm như thế chỉ để “chuộc
tội” cho bạn (bạn quýnh quáng, nên cũng không suy nghĩ – tại sao
một vị cao cả, thương yêu loài người như thế, nếu như đã tạo ra
thế giới này với loài người, có bạn trong đó – ngay từ đầu lại không
xoay sở, tính toán làm sao để ít nhất không đi đến màn kịch này
– hay ít nhất tổ tiên giống người đã không phải “vướng vào tội lỗi”
như kể lại quá sớm như thế, ngay từ lúc còn trong vườn nhà của chính
ông! để cho hết sức rắc rối, phiền toái về sau, mà ông đâu phải
bất tài, kém sức gì cho cam – ông vẫn được xưng tụng là toàn năng,
toàn trí cơ mà! – Câu hỏi đó, có lẽ cũng như câu hỏi của những người
Việt chúng ta - “cái thằng bán tơ” đó gốc gác là ai - nội dung sự
“vu vạ” rắc rối đó là gì - khiến Kiều của chúng ta phải mười năm
lưu lạc? – tác giả kể dài dòng về cuộc đời nạn nhân, không thiếu
chi tiết về những gì quanh nạn nhân đáng thương này - nhưng không
cho biết gì nhiều về nội dung điều “rắc rối” do thằng bán tơ đã
gây ra cho ông viên ngoại già họ Vương! – vốn thực đó là đầu mối
quan trọng của câu chuyện dài, mọi người ai đọc cũng đều rơi lệ,
đều thương cảm cô Kiều, và đều cuối cùng sau khi lau nước mắt, vài
trống canh đã tàn – đã quên hỏi lại cho rõ – về sự rắc rối của “thằng
bán tơ” đó – nó là ai “xưng xuất” chuyện gì – nghe xem có hữu lý
không, hay chỉ “ấm ớ” như “ăn trái cấm”, hay “nghe lời con
rắn” nào đó – “trái cấm” gì đó – thằng bán tơ, xưng xuất, con rắn,
trái cấm, ... – thảy thảy đều thiếu chi tiết cụ thể rõ ràng ? chỉ
biết “ba trăm lạng” là xong, chỉ biết thành “nguyên tội”,
…), những biến cố này xem là vĩ đại, cao cả, hay kinh hoàng, dã
man khủng khiếp – tùy quan điểm – nhưng tất cả đều có tác động lớn
lao không thể phủ nhận như thế, nhưng với những bắt đầu đó của hai
vở kịch, thảm kịch của một con người, bi kịch một của cả loài người
- xem dường rất mập mờ, đầu mối không rõ ràng minh bạch cho lắm
(phải chăng chúng ta phài gọi đây là trường hợp đặc biệt “con
chuột đẻ ra trái núi”? – ngược lại với lối người ta vẫn
nói thường) - Nhưng, trở lại câu chuyện thương yêu của vị-trên-cao
kia, bạn và khách lạ đang bàn luận - và những tình tiết sau đó kể
lại - nào chết người, nào đổ máu, nào thống khổ quằn quại – tất
cả thu vào hai chữ hy sinh, để “cứu rỗi” cuộc đời bạn (và tất cả
những ai quanh bạn!, trước và sau bạn!)
Và nếu bạn nghe theo những lời thuận tai mát dạ này (quít làm
nhưng cam chịu tội thay - và vị trên cao kia chấp nhận! thế
là xong chuyện - công lý? chuyện bàn cãi của đám người ngoài,
nhưng với ba kẻ liên hệ xem dường êm đẹp xong xuôi) – như Nietzsche
nói ở trên – tôi chỉ lập lại “từ điểm này” trở đi – mọi sự xảy
ra “một cách tệ hại ghê gớm”.
Cuối cùng – sau những giảng giải tinh vi như thế, trong những trường
hợp tự nhiên hay những hoàn cảnh được chọn lựa dàn xếp rất khôn
khéo (bạn đơn giản chỉ theo chân cha mẹ, hay bạn còn là đứa trẻ
chưa biết suy nghĩ, hay trưởng thành nhưng xảy đến những biến cố
của cuộc đời, đưa bạn đến nhìn được mặt của khổ đau, thấy thất bại,
chịu tai nạn, hay bệnh tật, nghĩa là trong những mê trận của sự
yếu lòng, ý chí suy sụp, - tinh thần yếu đuối, đổ vỡ, đời sống đột
nhiên thành chông chênh, thôi không vững vàng như trước, ... Đã
từng ít nhất đôi lần vô tình mở ngăn kéo đầu giường khách sạn, hay
bên giường bệnh viện, bạn đã gặp một quyển sách - in giấy đẹp chữ
dễ đọc, bìa thường bằng da cầm mát tay ấy - mời đọc. Nó lặng lẽ
nằm phục kích sẵn ở đó từ lâu, kiên nhẫn chờ những khách
trên đường cô lữ, những bệnh nhân lẻ loi không người thân thăm viếng...)
khách ấy có thể là bạn, bệnh nhân ấy có thể là bạn.
Những giảng giải tinh vi trong những hoàn cảnh được chọn lựa -
thường có hiệu quả - trường hợp đó bạn quay sang tin chính mình
chịu ơn - mang nợ (có tội) thật – và bạn cũng tin rằng nợ
ấy quả không thể trả được (di truyền nguyên thủy – tội tổ tông)
vì nó lớn quá – rồi bạn đi đến tin rằng có ai đó trên cao kia –
và kẻ đó thương yêu bạn lắm lắm (dại gì mà không tin là có người
thương mình) – nếu muốn tin thương yêu kia lớn lắm, sẽ phải tin
món nợ này lớn lắm – đến không thể trả được – và rồi ơn cứu nợ -
cứu chuộc lớn lắm. Có một đòn tâm lý “nham hiểm” ở đây – nếu bạn
muốn được thương yêu nhiều, bạn cũng phải chịu nhận là
nợ này to lớn lắm! – Nợ càng lớn, thương yêu càng nhiều! (Dĩ
nhiên, với lại, gán cho món nợ phải không thể trả được; vì nếu trả
được– nếu tự mình, ai ai cũng có thể bằng cách này hay cách khác
– có thể đi đến trả sạch, dù cứ cho là có chuyện tội lỗi, – thì
còn đâu lý do cho tôn giáo đó sinh sôi nảy nở). Và cả hai – nợ và
thương yêu, điều này càng lớn, điều kia càng nhiều – và ân huệ cứu
rỗi – hay ơn trả nợ thay – vĩ đại đến vô cùng! (Lại về chuyện Kiều
của chúng ta – Kiều đã “cậy” Vân trả món nợ tình – và một
lần đó nàng đã bảo em “ngồi lên cho chị lạy” – còn bạn, nếu
một ai đó thay bạn trả nợ đời cho bạn – hẳn nhiên là bạn
phải lạy vị đó suốt đời, ít nhất là hàng tuần dành lấy một ngày!)
Như thế, bạn đột nhiên bị đẩy vào một ngõ đời cụt, không lối thoát
– chỉ có một sợi dây thòng xuống trước mắt từ miệng giếng thăm thẳm
trên cao kia – chỉ có một cái phao bé tí, nhưng xem ra vững chắc
giữa biển sóng mênh mông này - chỉ có một “tin tưởng” độc nhất hữu
hiệu để nhận lấy, tin theo – tôn thờ làm “đức tin” – để thoát được
cuộc đời hiểm nghèo này, sang một đời sau vĩnh cửu – Và đặc biệt
– cho dù là thế, nhưng lại thêm, và phải không được quên, không
được nghi ngờ (đến đây, đa số những người như bạn đã mất bình tĩnh,
nghĩa là bớt sáng suốt lắm rồi!) - Bạn không thể tự cứu được bạn,
bạn vội vàng tin theo dù một cách hạ mình như thế (người
ta ca ngợi là khiêm cung)- và cũng không ai , nhưng
chỉ độc nhất một mình vị trên cao đó – mới cứu được bạn, tương tự
như bạn được giảng giải cho biết là mắc bệnh nan y, không ai chữa
được, bạn cũng không đủ sức đi cầu học, tìm thuốc, ... chẳng hạn
để cứu chữa lấy chính mình – Không! Bạn không thể như thế
được! cái nọc tội lỗi đã chạy trong bạn rồi, không mở mắt
ra được, không thoát được sa đọa nó đem tới. Tuyệt đối không bao
giờ có khả năng! Nhưng chỉ Ông-lang đó mới cứu khỏi, không thuốc
nào uống khỏi, nhưng chỉ thuốc của Con ông-lang đó bốc mới hết bệnh.
Toa thuốc đó rất đơn giản – lại dễ uống – vẻn vẹn thu lại vào chỉ
có hai chữ - bạn đoán được rồi - “tin tưởng” – Đến đây bạn thành
ra thông minh và lại có đức hạnh nữa - Vì dẫu tin tưởng vào những
gì vô hình, phản thực nghiệm, không chứng minh được, nhưng thế mới
gọi là đức hạnh, là “đức tin” – như triết gia nổi tiếng Kierkegaard
đã gọi tên là “bước nhảy của đức tin”, vì như thế mới là thông minh
đích thực, vì nói làm chi đến trí tuệ ở đây - trong chốn của huyền
bí màu nhiệm này, trí tuệ con người sao có thể có chỗ đứng được
- chỉ có tin, không cần hiểu; Phải nhắm mắt nhảy vào vực
tối sâu đen ngòm đó – tin là không chết, nhưng trái lại tin dưới
đáy vực đó có sự sống vĩnh cửu là phần thưởng rất lớn – ai đó cười
nhạo là mù quáng, ngu xuẩn hay mê tín – thì đáng thương thay! họ
sẽ không có phần thưởng vẫn chờ người nhắm mắt nhảy, như Kierkegaard,
ở dưới đáy vực. Và còn thêm - nếu không nhảy, không mua thang thuốc
này - thì không phải là xong đâu – không phải là đứng mãi trên bờ
này yên ổn đâu, nhưng sẽ bị đày hỏa ngục - ở đó sẽ bạn sẽ bị đốt
cháy vĩnh viễn, đến đây, kẻ đang nói chuyện thương yêu, chuyển
giọng sang chuyện trừng phạt, hành hạ tra tấn một cách tự nhiên,
còn tự nhiên hơn giọng điệu thương yêu!
Tin lành, Phúc âm toàn những ý cao đẹp, thánh thiện, chứa
chan lòng thương người cả - nhưng với kẻ không
tin, không theo, hay ngay cả theo mà không
đúng cách chính thống;
tuyệt không phúc,
chẳng lành,
nhưng chỉ tội ngập
đầu, họa hết
đời và trừng
phạt vĩnh viễn! Bạn
chỉ có ngần ấy vật chất, - các nhà bác học
nói nếu phân tích thân thể hữu cơ này của chúng
ta, kết quả là thành nước gần tất cả mà thôi
– nếu có tàn ác đến đâu nghĩ ra trò quái đản – loại như vừa đốt,
lại vừa ngừng, lại đốt tiếp, lại ngừng... lập
đi lập lại, hành hạ người chết ở cõi âm - nếu
có - lâu đến mấy thì lâu, cho là đến hàng trăm nghìn triệu triệu
năm, nhưng vẫn cũng không thể nào gọi là “vĩnh viễn” được! Thôi
cứ hiểu là ý nghĩa tượng trưng, hình ảnh tưởng tượng. Như một thi
sĩ của chúng ta – khi viết về nàng chinh phụ chia tay với chồng
trước khi phải ra trận – đã “bước đi một
bước giây giây lại dừng” – nhưng cuối cùng vẫn phải chia tay!
Kéo dài thời gian bên nhau, đi rồi ngừng, đi
rồi ngừng - Trí tưởng tượng của nhà thơ chúng
ta sáng đẹp biết bao; Nhưng hãy nghĩ đến người nói
đi nhắc lại về hình phạt đốt người trong vĩnh viễn đó,
đốt rồi ngưng, đốt tiếp rồi ngừng,…trong tưởng
tượng của kẻ đó chỉ có sự tàn ác - sự tàn
ác là có thực ở trong tưởng tượng đen tối
của kẻ đó – chắc chắn không ở những con quỉ
- nếu có - thi hành lệnh đốt người đã chết
chốn hỏa ngục với lửa sáng tưởng tượng không
chắc có thực!
Cuối cùng – như một người tự mình đưa cổ cho cha con hai kẻ
lạ tròng gông vào – rồi cuối cùng đâm vào cảnh phải quì lạy,
cầu xin và tôn thờ chính cha con hai kẻ đó – vì người cha làm
gông, con nắm chìa khóa hứa hẹn cởi gông cho bất kỳ ai, dẫu làm
gì ghê gớm đến đâu cũng không mấy quan trọng – chỉ miễn là phải
hết lòng tin cha con ông! Lòng tin đây như một thứ tiền bạc cực
kỳ giá trị, hết sức màu nhiệm, nó làm ra cả phép lạ! - dĩ nhiên
là phải khác với thứ tiền cô gái mĩ miều kể trên kia - đã đòi
bạn! (và sau đó, một tổ chức thần kỳ ép buộc hay lừa lọc, chuyên
sống bằng nghề đi bán gông cho thiên hạ, vốn chỉ vỏn vẹn có
một quyển sách cũ, được ủy quyền thay mặt “trên cao kia”, nhưng
vơ vét tiền bạc, uy quyền dưới trần thế này - lời rất nhiều! người
ta vẫn thường tấm tắc khen những kẻ bán hàng tài giỏi - bán tủ
lạnh cho cả dân sống ở vùng Bắc cực - nhưng bỏ quên những người
bán gông này - Họ mới thật là những kẻ bán hàng siêu việt! – Nhưng
thực ra không phải chỉ có tài miệng lưỡi, nhưng vì có sức mạng
của bạo lực xử dụng trong cách quyết liệt, tàn ác nhất, hãy nhìn
lịch sử dù chỉ vội vàng - những chiến tranh khốc liệt với núi
xương sông máu – thành đổ, nước mất khắp nơi; nhưng thê thảm là
có những những dân tộc tuy còn, nhưng dân chúng là những hồn
ma phách quế vì văn hóa định tính đã bị những người bán gông
này xóa tuyệt dấu khỏi mặt đất) – không-ai khác cứu được, vì không
ai có được chìa khóa, - gông trên cổ đã đóng trên con người thành
hết sức tinh xảo, do chính hai kẻ tài ba đứng trước mặt đã tuyệt
vời làm ra!
Chính đề: Bị đánh ngã bằng một vũ khí tinh thần (khái niệm tội
lỗi)
Phản đề: Nạn nhân được chính kẻ đánh
ngã đó nâng dậy (khái niệm thương yêu/cứu
rỗi)
Hợp đề: Dựng lên một thần linh
mới - nhưng giết chết ngay + cho
sự cứu chuộc.
Đó là mô hình “con nợ/chủ nợ” - hay mô hình “chủ nhân
và nô lệ” tinh thần, hay mô hình “Gót cứu thế và con người
tội lỗi” ở phương Tây, của Nietzsche. Mô hình siêu việt này
– cuối cùng đã đem lại cho tín đồ thêm một thần linh mới: Một
thần linh nào đó, đã cũ nên có nhiều tính chất tương tự như những
thần linh đã xuất hiện trước đó, nhưng thương yêu con người (Cha)
– Vị này yêu thương con người (con nợ, có tội, nạn nhân)
hơn cả chính con trai ruột thịt của mình (tâm lý con người thời
bắt đầu có từ thời định cư canh nông) – và đi đến một màn kịch
bi thảm - chuyển động lòng người - dưới mắt con người - một thần
linh mới (Con) đã phải chết, phải đem giết, lấy máu để chứng minh
cho con người thấy lòng “thương yêu” đó. Để chết và máu của một
con người nhưng không là tầm thường, nhưng linh thiêng cao quí,
vô giá, đến cứu chuộc được loài người, với tất cả tội lỗi từ muôn
xưa cho đến nghìn sau – người chết đó – người thanh niên mới
ba mươi tuổi đó cũng phải là một thần linh– nên sau đó được
đặt lên bàn thờ, cạnh “Gót-cha” - là Gót cứu thế - “Gót-con”,
dù người ta vẫn nói trước sau chỉ có “một-Gót” (bàn thờ đó ngày
càng đông, ngày nay thực tế xem ra đã có thêm vị Gót-mẹ -
loài người đã vượt thời nông nghiệp, sang thời kĩ nghệ, địa vị
phụ nữ được tái lập, người mẹ trở lại trên bàn thờ nhân loại).
Thương yêu và Cứu rỗi xoay quanh Máu và Chết, và
đã tượng trưng là một giá gỗ chữ thập (đẫm máu –vì nếu giá gỗ đóng
đinh tội nhân đó vẫn gọi là thánh giá! – thì chỉ vì có nhuốm máu thần
linh); vốn là công cụ tàn độc nhất của đế quốc Lamã đã từng
sáng chế, để giết người, đe dọa người. (Một lần trong lịch sử Lamã,
Spartacus cùng sáu nghìn gladiator nô lệ đã bị đóng đinh
trên giá gỗ chữ thập đẫm máu như thế - suốt dọc hai bên đường từ
Rome đến Capua, sau khi cuộc nổi loạn của họ thất bại).
Ở chương trước – tôi đã dẫn một đoạn văn của Nietzsche – cho thấy
thái độ của ông với đạo Kitô, vốn là một chủ đề chính yếu trong
tư tưởng của ông – Có thể nói toàn bộ triết lý của ông chủ yếu là
phê bình về đạo đức – và toàn bộ phê bình đạo đức của ông xoay quanh
tôn giáo – và tôn giáo ông nhìn thấy, hiểu biết tường tận nhất,
là đạo Kitô của chính ông, đọc lại những giòng ông viết, sẽ thấy
những gì tôi diễn dịch trên kia – chỉ là khai triển theo ý ông:
“Khi nghe chuông nhà thờ cổ vang rền một sáng chủ nhật, chúng ta
tự hỏi: Có thật thế được không! Chuyện một người Dothái, bị đóng
đinh trên giá chữ thập hai ngàn năm trước, người nói mình là con
của Gót? Bằng chứng cho một tuyên xưng như thế thì khiếm khuyết.
Chắc chắn đạo Kitô là một cổ sự đã phóng chiếu vào tận thời đại
chúng ta từ thuở lịch sử còn xa thẳm mù mờ; và sự kiện là tuyên
xưng này được tin theo – trong khi người ta về mặt khác lại rất
khắt khe khi xét định những kỳ vọng tự phụ khoe khoang – thì có
lẽ là cái mảnh cổ xưa nhất của di sản này. Một vị gót sinh con với
một người đàn bà trần gian; một người khôn ngoan kêu gọi người ta
thôi đừng làm việc nữa, đừng kiếm dành thu thập gì thêm nữa, nhưng
hãy tìm những dấu hiệu của sự tận cùng của thế giới sắp xảy đến
trước mắt; một công lý chấp nhận kẻ vô tội như một hy sinh thay
thế; một ai đó là người ra lệnh cho học trò của mình hãy uống máu
mình; hãy cầu nguyện cho những can thiệp huyền diệu của phép lạ;
có tội lỗi đã gây ra chống lại một gót, đã được chuộc tội bằng một
vị gót; sợ hãi về một bên kia đằng sau ngưỡng cửa của cái chết;
hình dạng của giá gỗ chữ thập như biểu tượng trong một thời đại
không còn biết vốn nó đã dùng làm gì và sự đê tiện đáng kinh tởm
khinh bỉ của thập giá. – ma quái thứ ma cà rồng hút máu ghê tởm
biết chừng nào tất cả những điều này chạm vào chúng ta, như thể
đã từ một cổ mộ từ quá khứ thái cổ nguyên sinh! Có thể nào tin rằng
những điều loại như thế vẫn còn được người ta tin tưởng?”(Nietzsche, Human, all too Human).
[17] Plato,
“fixed ideas”, những “ý tưởng bất động” – hay
còn gọi là “thể dạng,” chúng hiện hữu toàn
hảo và bất biến trong vĩnh cửu. Theo Nietzsche
như thế chúng cũng chết cứng, bất động, không
còn sự sống, và không phản ảnh được sự sống
vốn luôn luôn chuyển dịch – đi đến tận cùng
khái niệm Gót cũng là một lý tưởng, khái niệm
khô cứng đã chết.
http://chuyendaudau.blogspot.com/2012/09/nietzsche-ve-lai-lich-cua-ao-uc-12.html