 |
29 tháng 11, 2009 |
Lời người dịch
Ai ai cũng muốn lên thiên đường, nhưng
chẳng ai muốn chết cả
[1]
Câu hát đó đập vào tôi ngay lần nghe đầu
tiên, cách nay đã rất lâu, nên đến giờ đã quên mất cả tên người
hát, và cũng quên cả các phần sau. Một nghịch lý của các tôn
giáo phương Tây: Chết và Thiên đường. Phải chết xong đã, mới
thấy cánh cửa vào đất Hứa. Thế nên Thiên đường vẫn là một hoài
nghi – vì chưa chết nên không thể biết thực hư, nhưng chết rồi,
thực hư không thể nói, mà cho cùng, với người chết, biết còn
chăng chuyện thực hư. Vậy nên, thiên đường chỉ là để cho người
sống bàn bạc, mơ tưởng, và nhất là rao giảng.
Nếu chỉ là giấc mộng đêm của con người như
phương Đông nhìn lên trăng, mơ chốn Thiên thai, hay Bồng lai,
tiên cảnh, có sáo trúc êm, có dáng hằng tuyệt mỹ, ...nó vô hại,
nên thơ, đẹp đẽ, và lại còn đầy hứng cảm nghệ thuật.
Nhưng lớn mạnh hơn mộng đêm, đến những khát
khao bản năng của tranh sống ngày, là mộng ngày; ở trong không
gian của những hữu hạn nên thèm ước cái không gian khác chứa đầy
vô hạn, nghèo khó nên ước giàu sang, xấu xa nên ước đẹp đẽ, khổ
đau nên ước hạnh phúc,… mộng ngày là khát khao bản năng nên
thường chỉ tìm đến số, đến lượng để thỏa mãn đói khát, bỏ quên
hay coi nhẹ giá trị phẩm chất. Thế nên chúng ta nghe kể thiên
đường có vô tận những cái này, vô hạn những thứ kia, vô cùng
những điều nọ. Mọi thứ đều đong bằng “bao nhiêu là…”. Con người
khát quá, thèm quá, muốn quá, tự nhiên đấy thôi. Nhưng những ước
ao tự nhiên và thơ ngây đó của con người đã bị những phù thuỷ
tôn giáo vẽ vời thành một Thiên đường dẫn dụ. Và bức tranh mới
vụng về làm sao, đầu đuôi bất nhất. (Đọc bài này của Michael
Martin) Tựa những lời hứa dỗ dành con trẻ, nay thế này, mai thế
khác, sau cùng có ai ngắm kỹ lại, với chút suy nghĩ thấy ngay
bức tranh Thiên đường rách bươm, vá víu, chắp nối, có rất nhiều
lúc vội vàng nên điều hứa sau đã trái nghịch với lời hứa hấp tấp
trước. Thiên đường có lẽ chẳng có thể ví được với một bức tranh,
tôi có rộng rãi quá chăng? Ở chính phương Tây này, người ta
chẳng vẫn gọi nó trần trụi là một cái bánh vẽ trên trời đó sao.
Là bánh thì không, nhưng có là tranh đi nữa, nhưng chấp vá, nên
có bao giờ thoả được dẫu một chút mộng chân thực con người.
Nhưng vì không thoả, chỉ ôm, thật chặt, nên
giấc mộng Thiên đường là một giấc mộng chết người, giáng không
biết bao nhiêu tại hoạ cho những kẻ sống ở trần gian.
Chỉ ở Việt Nam, tôi biết – giấc mộng hão ấy
khởi mạnh đi từ hội mang tên “hội thừa sai Paris”, trăm phương
nghìn kế bền bỉ muốn đem nó sang quê hương chúng ta. Những người
truyền thì chân thực quá đỗi nên cuồng tín vô cùng, những người
nhận thì khờ dại, khốn khó đáng thương, nên dốc sạch lòng đóng
xuống niềm tin, vốn vừa được nâng lên thành một đức hạnh - đức
tin, nên bất chấp cả cái chết – vì nếu cái chết biến họ thành
thánh [2]- có nghĩa
đã ôm chặt một thông hành lên thiên đường, cái chết nào có nghĩa
gì với cánh cửa Thiên đường hứa hẹn sắp mở? Bức tranh vá víu ấy
đã đủ dán kín, mù mắt để họ chỉ thấy giữa tối đen - chập chờn
như thực, những thiên thần nghe kể trong Phúc âm - vẫy cánh chào
đón. Hẳn nhiên, còn ai xứng hơn họ nữa? Những người đã “được
chọn” và đã có dấu đóng chứng nhận vượt qua thử thách – dấu máu
trên thân, dấu cháy của sắt nung đỏ ấn cháy da thịt trên trán.
Và bắt đầu như thế, giấc mộng thiên đường
đẩy quê hương chúng ta – vào một thời kỳ không giống thời kỳ nào
có trước đó của lịch sử dân tộc: Vũ đài chính trị dậy bão, các
triều đại xụp đổ nhanh chóng. Thuở ấy, người phương Tây vào Việt
Nam không chỉ thương nhân, giáo sĩ, mà cả gián điệp, quân đội
trong ngoài. Khi Gia Long vào Phú xuân, đất nước về một mối,
nhưng chưa bao giờ nông dân nổi loạn nhiều như vậy. Hỗn loạn,
cùng quẫn và đói khổ, và những kẻ đợi dịp săn mồi đã lâu - với
giấc mộng Thiên đường, nên sắt cháy, máu đổ, và lửa đốt, là
những bước khởi đầu. Đến khi Văn thân dựng cờ “bình tây sát tả”
là gươm vung đã trong vô vọng. Bàng hoàng, sững sờ, trước Nam,
sau Bắc, chúng ta mất nước!
Cũng không quên nhắc lại, một giấc mơ thiên
đường khác, bản chất là một mô phỏng của thiên đường “linh
thiêng” này – thiên đường trần gian
[3]– nhưng may mắn là
nó đã không thọ, chẳng sống dài lâu, tuy bùng lên rất mạnh,
nhưng tàn mau.
Thế nên đã hơn trăm năm qua, hết ngoại xâm,
thuộc đia, đến chiến tranh, ly tán,...vẫn chưa nguôi. Lần đó,
dân tộc ngã quị, đến nay đứng lên, vẫn như chưa vững chãi.
Và còn giấc mộng Thiên đường trên kia, ở
sau cái chết.
Nó chưa chết ở quê hương chúng ta.
Mặc dù ở phương Tây, người ta đã dần từ bỏ,
tôi kết thúc với một bài hát khác, quen thuộc hơn:
Tưởng tượng không có thiên đường – Dễ
thôi, bạn thử đi,
Dưới chúng ta không hoả ngục – trên
chúng ta chỉ trời xanh.
[4]
Nhân đọc bài viết này của M. Martin
Lê Dọn Bàn
(Noel-2009)

Thiên đường dậy sóng hoài nghi
Dẫn nhập
Tin có Thiên Đường là phần thiết yếu của các tôn giáo độc
thần lớn như đạo Do Thái, đạo Kitô, và đạo Islam. Các nhà thần
học nổi tiếng đã viết về nó và các người hữu thần bình thường hy
vọng đến chốn ấy sau khi chết. Đáng tiếc, những người có quan
điểm vô thần đã không nói gì nhiều về Thiên đường mặc dầu một
vài bài viết của họ có nhắc nhở gián tiếp
[5]. Thế nhưng, khái
niệm về Thiên đường không rõ ràng và không phải là không có vấn
đề. Như tôi sẽ trình bày trong những trang sau đây – có những
vấn đề nghiêm trọng với khái niệm Thiên đường. Thứ nhất, khái
niệm Thiên đường thiếu chặt chẽ, không đồng nhất. Thứ nhì, Không
chắc những người theo quan điểm hữu thần có thể xóa được các mâu
thuẫn giữa tính chất tuyệt vời của Thiên đường với những phản
biện khuôn mẫu bảo vệ Luận chứng về Tà Ác
[6]
như luận thuyết Bảo vệ Tự do Ý chí
[7] Thứ ba, Thiên
đường không công bằng và, như thế, nó mâu thuẫn với lòng tốt của
Gót
[8]
Lý thuyết truyền thống
Lý thuyết truyền thống về Thiên đường có thể khai triển thành
những thuật ngữ trong các luận thuyết sau đây
[9][9]:
1. Luận thuyết thưởng công (The reward thesis):
Mục đích của Thiên đường là để thưởng công cho những người có
đời sống và hành vi xứng đáng ở trần gian.
2. Luận thuyết vĩnh cửu (The permanence thesis): Một
khi đã ở thiên đường, người ta không rời.
3. Luận thuyết bất phổ quát (The anti-universalism
thesis): Có những người sẽ không lên Thiên đường.
4. Luận thuyết ngoại tại cá nhân hiện hữu (The
individual external existence thesis: Thiên đường là chốn có
ý thức cá nhân.
Tất cả những lý thuyết này, trên nguyên tắc có thể bị chính
những người hữu thần đặt vấn nạn và, trong thực tế, đã từng có
dăm ba. Lấy thí dụ, một vài người Kitô đã phủ nhận (1) và đã chủ
trương Thiên đường là phần thưởng của lòng Gót yêu thương và
hoàn toàn không dựa trên công trạng. Có những người Kitô khác đã
phủ nhận (3) và đã cãi ngược lại rằng rốt cùng mọi người đều
được cứu rỗi và tất cả đều lên thiên đường. Tôi không biết có ai
phủ nhận luận đề (2), nhưng chắc chắn có thể giữ luận điểm là
một người sau khi lên Thiên đường cũng có thể tạo hành sai trái
ở chốn ấy và bị giáng truất, thí dụ xuống Hell (hoả ngục)
[10]. Cuối
cùng, mặc dù hiếm khi có chuyện phủ nhận (4) trong những tín đồ
theo truyền thống hữu thần Tây Âu, nhưng trong những tín đồ các
tôn giáo phương Đông
[11] và chủ nghĩa
phiếm thần, họ cãi rằng Thiên đường gồm có một sự hợp nhất với
Gót, qua đó ý thức cá nhân mất đi - là phổ thông.
Lý thuyết về Thiên đường tôi đã lược kê có ít nhất ba biến
thái. Trong biến thái phổ thông nhất, linh hồn vô hình, phi vật
chất của một người – không phải thân xác – lên Thiên đường chóng
vánh sau khi chết. Trong dạng biến thái này, thiên đường được
xem như “một chỗ”, nhưng không nằm trong thời gian và không
gian.Trong biến thái thứ nhì, xác của người chết lại “sống dậy”
chóng vánh sau khi chết, nhưng trong biến dạng ở vài không gian
khác – một không gian hoàn toàn cắt đứt với không gian loài
người hiện giờ đang sống – và được thưởng công ở đấy
[12]. Trong
biến thái thứ ba – nhiều học giả tin đây là quan điểm nguyên
thuỷ của đạo Kitô – Thiên đường hiện giờ chưa có, nhưng sẽ có
trong tương lai với lần Chúa xuống thế thứ nhì (the Second
Coming). Lúc ấy, xác chết sẽ “cải tử hoàn sanh” trong dạng sửa
đổi và được thưởng công ngay trong không gian chúng ta đang sống
đây.
Sự mạch lạc của Thiên đường
Cả ba dạng biến thái của lý thuyết về thiên đường, về mặt
nhận thức đều có những vấn đề về khái niệm rất trầm trọng, tác
động trên nhận thức về chúng. Lấy dạng nói về linh hồn phi vật
chất xét thử. Cứ tưởng tượng dù thô thiển sơ sài đến đâu cũng đã
khó - về một thân xác nằm ngoài không gian và thời gian, nó ra
làm sao? Rồi linh hồn đó di chuyển từ chỗ này sang chỗ kia ra
sao? Linh hồn nhận ra linh hồn khác thế nào? Linh hồn không xác
làm gì suốt ngày dài, vì đã giả định là linh hồn không cần ngủ?
Khó khăn thành không sao vượt qua được nữa khi gộp nó với ý
tưởng thiên đường nằm ngoài không gian và thời gian. Tất cả các
khái niệm ý thức chúng ta có – lấy thí dụ - suy nghĩ, sẵn lòng,
thèm khát – đều là khái niệm có tính thời gian, chúng cần thì
giờ để tạo động và xảy ra ở một thời điểm nào đó. Suy nghĩ và
ước muốn phi thời gian là không khái niệm được. Vậy nhưng, trong
dạng biến thái này, các linh hồn suy nghĩ và ước muốn phi thời
gian tính.
Hai dạng biến thái có xác sống dậy, có lẽ
lúc đầu có ít vấn đề hơn dạng hồn không xác, nhưng chúng có
những vấn đề của chúng về mặt nhận thức. Có hai vấn đề về nhận
thức với ý niệm khi người ta chết, thân thể họ được cải tử hoàn
sinh ngay (dù có biến dạng) ở một không gian khác – một không
gian hoàn toàn tách biệt với không gian chúng ta, thành ra theo
nguyên tắc, không sao có thể từ nơi chúng ta di chuyển đến đó
được. Thật khó có nghĩa lý một không gian như thế. Mặt khác, làm
sao có thể có hai không gian về vật lý tách biệt nhau? Không
gian với nguyên tắc là cắt đứt hết mọi du hành không gian? Mặt
khác, nếu không gian có xác dựng dậy, không là không gian vật
lý, vậy nó là thứ không gian gì vậy? Thứ nhì, tại sao giả định
xác ở không gian khác này là xác của người chết trong không gian
chúng ta, hơn là một “bản sao” của người này? Giả định, ông X
chết và xác này – chúng ta hãy gọi xác này là B1- đem chôn. Lại
cũng giả thử một xác B2 khác dựng dậy ở một không gian khác. Có
nền tảng nào để tin rằng B2 là ông X chứ không phải chỉ là một
bản sao của ông X? Thế nhưng, chỉ trừ khi nào chúng ta có lý do
vững chãi để tin B2 là xác (của ông X) chứ không chỉ là bản sao
của ông X, trong biến thái này chúng ta không có được lý do nào
để tin thiên đường là phần thưởng cho đời sống trần gian của
chúng ta.
Xét dạng biến thái thiên đường hiện giờ chưa có, nhưng sẽ có
trong tương lai, khi xác người trong dạng sửa đổi được dựng dậy,
nhưng ở cùng không gian như chúng ta biết đây. Ở đây chúng ta
không có những vấn đề liên quan đến thuyết thiên đường dạng biến
thái thứ hai: thiên đường ở trong không gian vật lý của chúng
ta, và chỉ có một xác cho mỗi người chết. Nhưng vẫn còn có những
vấn đề. Xác chôn đã thối rữa và các nguyên tử của chúng có thể
đã phân tán. Thực vậy, có những nguyên tử trong đám này, tính
cho cùng, đã thành ra trong thân xác của những người bây giờ
đang sống. Và nếu xác chết hoả táng, cũng đúng như thế. Nhìn
những vấn đề như vậy, các nhà triết gia hữu thẫn, chẳng hạn như
Peter Van Inwagen
[13] đã cãi, dẫu
đến một Gót toàn năng cũng không thế dựng dậy một xác thân đã
hoàn toàn tan rã. Nhưng xác con người quả thật bị tan rã, và đây
là vấn đề.
Van Inwagen đã đề nghị một giải pháp cho vấn đề này thật quái
đản đến nỗi, phải như không vì vị thế của ông trong học giới, ý
tưởng đó không đáng được nhận xét nghiêm chỉnh
[14]. Ông đã đề
nghị rằng, dù trái nghịch với những gì chúng ta thấy, thân xác
con người không phân rã! Mà đúng ra, Gót bảo quản thân xác
(thực) của chúng ta – có lẽ là ngay lúc chết – và đưa thay vào
đó là một “bản sao” – bản sao này mới là thân xác chúng ta thấy
– hoặc tan rã, hoặc hỏa táng
[15] Không may cho
ông, đề nghị này lại đưa ra một vài vấn đề liên hệ với dạng biến
thái thứ hai. Tại sao phải nên giả định xác tan rữa hay xác hoả
thiêu là các bản sao mà không chính các xác được bảo quản mới là
bản sao? Thêm nữa, các xác bảo quản ở đâu? Nếu nói rằng chúng
được giữ ở một tinh cầu nào xa lắm, hay một không gian khác với
của chúng ta, vấn đề khởi lên ngay. Khả năng sau (không gian)
đưa ra vấn đề giống dạng biến thái thứ hai. Đề nghị trước (tinh
cầu), mở ngỏ khả năng trong tương lai có chứng nghiệm thực
nghiệm, cách ấy, thám hiểm không gian có thể, trên nguyên tắc,
tìm tinh cầu nơi Gót giữ xác người.
[16]
Độc lập với những sự quái đản trong bản chất và những điều
ngụ ý đầy vấn đề, còn vài điều hoang mang về những đề nghị của
Van Inwagen. Tại sao Gót lại phải đi lòng vòng đến xa xôi như
thế với chuyện xem ra là người ta mất đi vào hư không hoàn toàn?
Van Inwagen đề nghị rằng nếu thân thể đã không tan rã, hoặc biến
mất bí ẩn sau khi chết, điều này chắc sẽ là bằng chứng có một uy
quyền siêu nhiên. Tác giả này nói mặc dầu Gót muốn chúng ta tin
vào Gót, Ông đã không làm hết tất cả những gì Ông có thể làm
được, để đưa ra cho chúng ta những bằng chứng không thể chối
cãi. Van Inwagen kết luận bằng câu nói “có lẽ chẳng có gì là khó
khăn để nghĩ ra những lý do tốt đẹp cho chính sách như thế (của
Gót).”
[17]
Có lẽ, quả thực có khó khăn hơn là Van Inwagen đã giả thử.
Theodore Drange
[18] đã đưa ra một
luận chứng rất hùng hồn trình bày rằng – những luận chứng quen
thuộc vẫn bào chữa chuyện Gót không đưa các bằng chứng mạnh mẽ
ra cho chúng ta tin vào sự hiện hữu của Ông ta – các luận chứng
như thế rất yếu.
[19] Thí dụ, một
người không thể biện hộ – nếu đưa ra bằng chứng hùng hồn sẽ gây
trở ngại cho ý chí tự do của người ta, vì tự do chọn lựa thì
ngang ngửa với có bằng chứng hùng hồn
[20] Trong trường
hợp nào đi nữa, nếu đã như có ai thấy xác người không thối rã,
hay không mất đi sau khi chết, điều này khó mà có thể nói là
bằng chứng không chối cãi được của phe hữu thần chủ trương có
Gót, vì trạng thái của những chuyện như vậy tương đồng với nhiều
cách giải thích của phái vô thần, thí dụ, một quỉ thần ma quái
muốn làm chúng ta bẽ mặt!
Vấn đề về đặc tính siêu phàm kỳ diệu của
Thiên đường
Một khía cạnh của thiên đường tôi vẫn chưa xem xét đến, tạo
nên những khó khăn cho nỗ lực rất nổi tiếng nhằm giải quyết
Vấn nạn về Tà Ác như lý thuyết “Bảo vệ qua Ý chí Tự do”
(FWD - Free Will Defense). FWD thông thường được dùng để
giải thích số lượng quá lớn những tà ác về diện đạo đức trong
thế giới. Tuy vậy, nếu cư dân của thiên đường giả thiết là có ý
chí tự do, nhưng sao thiên đường lại cũng giả thiết là sạch
trơn, tuyệt không có tà ác về diện đạo đức? Sự hiện hữu của
thiên đường ném tấm màn nghi ngờ lên FWD.
Mặc dù giới hữu thần tin các linh hồn phi thể hoặc các con
người “sống lại, trong một vài diện nào đó, có khác nhau với
những con người trần gian, họ phải tin những đối tượng này có tự
do về chọn lựa. Chọn lựa như thế, theo giới hữu thần, là một yếu
tính của bản chất con người. Hơn thế nữa, người ta có khuynh
hướng nói, bằng vào định nghĩa, hiện hữu ở thiên đường thì tốt
đẹp hơn của ở mặt đất. Tốt đẹp hơn như thế nào, trong chiều
hướng chính xác nào, thì hoàn toàn mù mờ, nhưng sự tiến bộ chắc
chắn phải bao gồm được giải phóng khỏi tất cả, hay ít nhất hầu
hết khỏi những khó khăn và tà ác của hiện hữu trần gian. Sau
hết, thiên đường giả định là một cực lạc. Nghĩa là nó không còn
tử, bệnh, khổ và tàn hại của lão nữa. Giả thiết là sự giải thoát
khỏi – hay ít nhất cũng giảm thiểu đến cùng – những xấu ác của
hiện hữu trần gian trong đó có các xấu ác về diện đạo đức. Thiên
đường khó mà gọi là cực lạc được nếu còn nghĩa là có giết người,
tra tấn, hiếp dâm, độc ác, và những thứ tương tự, dẫu có với bất
kỳ lượng nào cảm nhận được.
Câu hỏi đặt ra là tại sao thiên đường lại hoàn toàn không còn
tà ác đạo đức. Một số trả lời có thể loại ngay. Giả thiết không
phải người nào lên thiên đường cũng là thánh cả. Thực thế, ít
nhất có trong một vài liệt kê – đến còn không xem tư cách đạo
đức của một người có quan hệ với sự cứu rỗi. Thế nên, ít nhất
trong một cách diễn giải của đạo Kitô, một người được cứu rỗi
bằng lòng tin vào Jesus và không bằng hành động đạo hạnh. Thêm
nữa, không rõ ràng là tư cách của mỗi người rồi có chuyển đổi ở
thiên đường không. Dẫu người xấu xa không lên thiên đường, người
ta có thể giả định là những người đã lên đấy có thể có hành động
sai trái lúc ở trên ấy – họ có thể phạm các lỗi lầm đạo đức, sa
ngã, bị cám dỗ mua chuộc, và nữa nữa,..Nhưng nếu trên thiên
đường họ có ý chí tự do mà lại không làm gì sai trái, người ta
phải tự hỏi - tại sao cuộc sống trần gian này lại không theo
cũng đồng bộ như thế nhỉ?
Có thể đề nghị một giải thích về sự thiếu vắng tà ác trên
thiên đường – là sự thay đổi về khả năng cơ thể, không phải
trong cá tính nhân cách. Giả định các hiện hữu phi thể không có
khả năng thân xác, thí dụ, để giết người, hiếp dâm và tra tấn.
Hơn thế nữa, ngay nếu như những cư dân thiên đường có thân hình,
thân thể họ có thể không là đối tượng của cùng những luật vật lý
như thân thể trên mặt đất chúng ta. Tuy nhiên, những đề nghị này
tạo một vấn đề mới. Vì nếu con người với ý chí tự do có thể hiện
hữu trong một thể dạng (không thân hay có thân) như thế, với
những kết quả là bớt xấu ác luân lý, nếu thế tại sao con người
đã không được tạo với thể dạng này trong đời sống trần gian?
Nhắc lại rằng theo FWD, một thế giới có ý chí tự do là chốn
tốt đẹp hơn chốn không có. Lý thuyết FWD đưa ra một giải thích
tại sao có quá nhiều xấu ác luân lý: con người xử dụng ý chí tự
do và tạo xấu ác. Gót không can thiệp vào những chọn lựa này –
vì nếu làm thế sẽ là can thiệp vào ý chí tự do. Tuy nhiên, các
triết gia như John Mackie
[21] đã
thuyết phục rằng có thể có một thế giới, nơi ấy con người tự do,
nhưng ấy thế họ lại luôn luôn làm những gì hợp luân lý đạo đức.
Bởi vì Gót đã có thể hiện thực được một thế giới như thế nhưng
lại không làm, Mackie kết luận FWD thất bại. Phe hữu thần phản
bác bằng cách chủ trương, dẫu có thể có một thế giới như thế,
nhưng đến ngay Gót cũng không thực hiện được
[22]. Thế nhưng, giả định của giới hữu thần về thiên đường
đã thừa nhận Mackie có thể gần với cái đúng hơn là các phê phán
đối lập. Nếu Gót đã có thể hiện thực một thế giới có ý chí tự
do, trong ấy phần thiết yếu là thiên đường, thật khó khăn để
thấy tại sao Gót đã không hiện thực một thế giới, với ý chí tự
do, có thiên đường trong nó toàn thể.
Một lý do có thể đưa ra về – tại sao có rất ít, hay không có
xấu xa về đạo đức trong thiên đường, nhưng có quá nhiều trên mặt
đất – có liên hệ với một biện hộ danh tiếng khác đối với biện
chứng về tà ác. Bảo vệ bằng Sự tạo lập Linh hồn (SMD - The Soul
Making Defense), thuyết này chủ trương cái Xấu Ác là điều kiện
cần thiết để tạo cá tính con người! Có lẽ lý do có Xấu Ác trong
đời sống trần thế của chúng ta là để tạo ra các chướng ngại cho
chúng ta vượt qua – chướng ngại cần thiết cho sự tạo lập linh
hồn con người. Một khi linh hồn tạo trong đời này đã xong, không
cần có thêm Xấu Ác nữa trên thiên đường, và như thế, Gót xếp đặt
những điều để sao con người có ý chí tự do, nhưng không làm điều
xấu trên thiên đường. Ít nhất có một vấn đề rất trầm trọng với
sự trả miếng này, dù cách nào, Xấu ác không nhất thiết là cần
thiết để tạo chướng ngại thử thách, vì còn có Xấu ác trong Tự
nhiên. Khổ đau và những kết quả hủy hoại của bệnh tật, rồi sóng
thần, bão tố và núi lửa động đất,… quá đủ để tạo chướng ngại.
Thế nên, hệ luận là sự không cần thiết đến xấu ác để giải thích
là hậu quả của tự do chọn lựa con người.
Tính chất bất công của Thiên đường
Theo quan điểm thông thường về thiên đường, có số người được
gửi đến đấy như một sự thưởng công cho điều gì đó họ thực hiện ở
đời sống trần gian. Trong một biến thái của quan điểm của phái
bất phổ quát đã nhắc trước đây, thiên đường là quà tặng của Gót,
hoàn toàn không dựa trên công trạng. Trường hợp nào đi nữa, sự
kiện là có người lên thiên đường và có người không, xem không
công bằng.
Về biến thái thiên đường là quà tặng, xem ra tuỳ tiện và bất
công. Một người cha phát quà – không dựa trên công trạng – cho
vài đứa con của ông mà lại không cho vài đứa khác – sẽ phải xem
là không công bình và tuỳ tiện. Chắc chắn cũng có thể nói như
thế về Gót nếu Ông làm tương tự giống thế. Nhưng cứ giả thử,
chúng ta chấp nhận quan điểm lên thiên đường dựa vào công trạng
xứng đáng. Nó vẫn xem ra không công bình. Giả thử thiên đường là
phần thưởng cho lòng tin, lấy thí dụ, tin Jesus là vị Cứu thế.
Hàng triệu người không vì lỗi tự họ, chưa từng nghe danh Jesus,
hay ít nhất chưa có cơ hội biết Phúc âm. Không lòng tin của
những người này - khó có thể là nền tảng trừng phạt, nghĩa là
rút mất phần thường.
Thêm nữa, ngay cả nếu người ta có cơ hội nhưng thất bại không
tin, tại sao họ lại phải bị trừng phạt. Nhiều người không tin;
phủ nhận thông điệp Phúc âm, vì lý do đúng là có bằng chứng chỉ
ra sự khó-có-thể của nhiều chủ thuyết của đạo Kitô: Chúa sống
lại, Sinh nở nhưng còn trinh, và hiện thân của Chúa.
[23] Ngay nếu như các chủ thuyết này đúng và không phải là
khó-có-thể xảy ra theo hướng nhìn các chứng cớ, với người có óc
duy lý chắc chắn chứng cớ ấy không lay chuyển được họ. Phải đi
vượt quá những gì chứng cớ chỉ ra – nếu là không phản lại các
chứng cớ - để chấp nhận Jesus là “con trai” của Gót. Xa hơn nữa,
ngay cả khi các người không tin, họ có tính toán sai lầm về các
chứng cớ và nó dẫu thực có đưa ra một nền tảng vững chắc để tin
tưởng, nhiều người không tin đã thành thực tin là chứng cớ thiếu
xót. Tại sao một Gót tốt lành lại giữ quà tặng thiên đường với
những người chân thực không tin, họ có thể khiếm khuyết không có
được đủ sáng xuốt, kiến thức, hoặc khả năng phân tích để thẩm
giá đúng các chứng cớ?
Giả thử, phần thưởng thiên đường không dựa trên đức tin,
nhưng trên hành xử đạo đức. Như thế này cũng vẫn bất công. Hàng
triệu người đã không có cơ hội biết đến giảng dạy đạo đức của
kinh Thánh. Họ không sống theo như tiêu chuẩn của kinh Thánh –
không phải lỗi tự họ. Thêm nữa, ngay cả với những người có cơ
hội biết kinh Thánh có thể tìm thấy thông điệp đạo đức của nó
không thể chấp nhận được trên những nền tảng đạo đức. Gót, như
diễn tả trong Cựu ước, thường ác độc và tuỳ tiện, và trong Tân
ước, ngay cả Jesus đã chân dung như có một tư cách đạo đức khiếm
khuyết [24]. Hơn
thế nữa, ngay cả với những người chấp nhận kinh Thánh, câu hỏi
là ứng xử nào là xứng đáng được được ban thưởng? Những gì kinh
Thánh dạy về đạo đức là đối tượng nhiều cách diễn giải trái
ngược nhau. Thế nhưng cho công bằng – làm sao Thiên đàng có thể
là một phần thưởng vì tuân theo một tiêu chuẩn đạo đức đúng đắn
của Phúc âm – mà nó lại không minh bạch diễn tả?
Mặt khác, phủ nhận thuyết bất phổ quát và bênh vực thuyết phổ
quát cũng có những vấn đề của nó. Thiên đường để làm gì nếu cuối
cùng rồi ai ai cũng lên hết trên đó? Thế cái gì là ý nghĩa của
sự sống trần gian với những đau thương, thử thách và khổ ải của
nó? Mặc dù trong trường hợp này (ai cũng lên thiên đường) có lẽ
không còn phàn nàn là bất công, người ta có thể phàn nàn về sự
vô nghĩa của cuộc sống trần gian
[25]. Hiện hữu con người hiển nhiên trở thành phi lý và một
bí ẩn sâu xa. Sau rốt, Tại sao chúng ta lại có một đời sống trần
gian (như bước trung gian) làm gì nữa nhỉ? Tại sao không bắt đầu
đời sống với ngay trạng thái thiên đường cho xong? Nếu phái hữu
thần muốn tránh gánh nặng bất công, hay gánh nặng vô bổ phi
nghĩa, họ phải nghiêm trọng xét lại lý thuyết của họ về thiên
đường.
Kết luận
Sự nương dựa tin cậy của giới hữu thần vào
khái niệm Thiên đường nêu lên nhiều vấn đề quan trọng. Trước
hết, khái niệm con người hiện hữu trên thiên đường –có thân xác
hay không thân xác – là khái niệm hoàn toàn không thể hiểu được.
Thứ hai, vẫn còn là một bí mật – làm sao cư dân ở đấy có thể có
ý chí tự do và lại giả định họ ít phạm sai trái về đạo đức. Thứ
ba, sự hiện hữu của thiên đường như một vương quốc ở đó con
người hiện hữu, nhưng lại tương đối không có các tà ác về đạo
đức, làm yếu đi sự biện hộ truyền thống dùng ý chí tự do để bào
chữa cho luận chứng về Tà ác. Cuối cùng, thuyết bất phổ quát là
bất công trong khi thuyết phổ quát xem ra vô bổ.
Michael Martin
Lê Dọn Bàn tạm dịch- bản nháp thứ nhất
(Nov/2009)
https://chuyendaudau.blogspot.com/
https://chuyendaudau.wordpress.com
Tác giả : Michael Martin (1932 -),
Ph.D. (Harvard) - Triết gia, học giả, giáo sư emeritus (hưu trí
danh dự), dạy triết học và triết học tôn giáo tại Boston
University.
Các chú thích trong bài của tác giả, như
trong nguyên văn – bản Anh ngữ - xin đọc nguyên văn ở đây:
Michael Martin - Problems with Heaven (1997)
Những chú thích khác của tôi - có phụ ghi
là chú thích người dịch - (CTND) – như nhận lỗi, nếu có, về
người dịch.
[1] Một bài
hát bình dân, rất phổ thông tại Bắc Mỹ - Everybody
Wants to Go to Heaven, but Nobody Wants to Die.
(CTND)
[2]
Cũng nên nhắc lại – Suốt hai nghìn năm lịch sử
triết học, tôn giáo nước Tàu, chỉ có một mình Khổng khâu
được tôn xưng là thánh. Cao đồ như Nhan Hồi, Tử Cống,
hay hậu duệ như Mạnh tử (thình thoảng cũng may mắn được
gọi là á thánh) , tất cả chỉ được các nhà nho cung kính
gọi là thày, thày Nhan, thày Mạnh. Ngay cả Khổng Khâu
cũng thường khi chỉ được gọi là thày – thày Khổng - vì
bình sinh, học trò của ông cũng chỉ gọi ông là “thày’
(phu tử).
Từ “thánh” trong văn hoá
phương Đông, cao quí và hiếm hoi như thế. Thế nên, trong
trường hợp những người có kẻ không biết viết, biết đọc,
mà được dạy cho nếu chết vì đạo thì thành “thánh” -
thánh tử đạo – martyr - ắt hẳn phải có tác động tinh
thần không nhỏ.
Đây là những chiến sĩ trước
khi ra trận, biết chắc sẽ không trở lại, nhưng cũng
không nghi ngờ gì về sự kiện mình sẽ được gắn huân
chương cao quí nhất dưới này –kèm với phần thưởng cao
quí nhất - ở trên kia.
Thế nên, không lấy làm lạ, dù
đến tận 1988, John Paul II – từ Vatican – phải nhất định
thêm 117 tên tuổi nữa vào danh sách “thánh”, họ vốn đã
chết từ trăm năm trước trên đất nước VN, để nuôi sống
niềm tin vào Thiên đường cho người đang sống mà thôi.
(CTND)
[3]
Xem Bertrand Rusell -
The Practice and Theory of
Bolshevism – ông so sánh chủ nghĩa Cộng sản
(Marxism-Leninism) như một tôn giáo. Cũng xem thêm bài
viết ngắn nhưng quan trọng của ông -
Tôn giáo có thể chữa được các khó khăn của chúng ta
không? Tôi dịch và giới thiệu – đế thấy
ông so sánh Vatican và Kremlin.
Chỉ một cái nhìn vội - chúng
ta thấy các cơ quan và tổ chức đi của hai bên đi song
song – Vatican/ Kremlin, giáo hoàng/ bí thư thứ nhất,
hội đồng các hồng y/ hội đồng trung ương đảng, tống giám
mục,/xứ uỷ, giám mục/ tỉnh uỷ, … cuối cùng là các linh
mục xã,/xã uỷ, khóm trưởng/trùm đạo,... Các tổ chức quần
chúng: Thiếu nhi thánh thể/ thiếu nhi quàng khăn đỏ, đạo
binh đức mẹ/đoàn phụ nữ,…tổ chức hành chính: xóm đạo,
giáo xứ.Trong quân đội: chính uỷ, linh mục tuyên uý.,
cho đến cuối cùng mỗi đảng viên có thể coi như một tín
đồ, một bên viện dẫn Thánh kinh, bên kia viện dẫn Marx
và Engels.
Nên Russell kết luận : “(nếu)
nhìn chủ nghĩa Cộng sản như một cái gì rất khác biệt với
đạo Kitô. Điều này với tôi là một sai lầm hết sức sâu xa
- Chính là những sự tương tự giống nhau giữa đạo Kitô
và chủ thuyết Cộng sản làm chúng xung khắc đối kỵ
với nhau.” (CTND).
[4] Imagine
- John Lennon (the Beatles) : Imagine
there's no Heaven - It's easy if you try - No hell below
us- Above us only sky,… (CTND)
[5] Thí dụ,
Phê bình của Antony Flew về những khái niệm khác nhau
của bất tử - có liên hệ với những gì bàn ở đây. Xem
Antony Flew,
God, Freedom and Immorality, (Buffalo, NY:
Prometheus Books, 1984).
[6] Argument from Evil : luận chứng đưa ra – vì sự xấu
ác trần gian là thật, như thế nó mâu thuẫn với giả định
có một Gót hay làm cho sự hiện hữu của Gót thành khó có
thể có thể là đúng thật – Đây là luận chứng của giới vô
thần - xưa nhất và mạnh nhất (CTND)
[7] Free
Will Defense: Phản biện lại Luận chứng về Tà ác- Tà
ác là hậu quả của Tự do về ý chí con người, nên không
thể “đổ tội” cho Gót.
[8] Phiên âm
từ God – thay vì dịch vì từ Thượng đế - thường
dịch - không hoàn toàn đúng nguyên nghĩa của từ God. Xem
thêm Russell -
Có God hay không? (CTND)
[9] Cf.
Jonathan L. Kanvig, "Heaven and Hell," in
A Companion to the Philosophy of Religion,
ed. Philip L. Quinn and Charles Taliaferro, (Oxford:
Blackwell Publishers, 1997), pp. 562-68.
[10] Có
thể đề nghị – Satan là một nhân vật trước kia sống ở
Thiên đường, sau bị trục xuất vì có những hành vi bất
xứng. Tuy nhiên, theo truyện kể truyền thống, Satan
không có phần thưởng Thiên đường nhưng chỉ có giáng
truất. Thêm nữa, Satan không phải là người, nhưng là
thiên thần sa ngã, nên vị này có những khả năng siêu
phàm.
[11] Thí
dụ Ấn giáo, hữu thần – Tiểu ngã nhập vào Đại ngã
(Brahman)
[12] Quan
điểm này đã gắn với John Hick. Xem John Hick, "Theology
and Verification," The Logic of God, ed. Malcolm L.
Diamond and Thomas V. Litzenburg, Jr. (Indianapolis: The
Bobbs-Merrill, Company, Inc., 1975), pp. 188 - 208.
[13] Peter
van Inwagen (1942-) Giáo sư triết đại học Notre Dame
(US). Ông nghiên cứu về Siêu hình, Triết lý luận lý,
Triết ly thần học, và lý thuyết bảo vệ Kitô (Christian
apologetics) - (CTND)
[14] Giải
pháp của ông có thể xem như một biến thái thứ tư của lý
thuyết Thiên đường, hoặc khác hơn, như một giải thích
không chính thống của biến thái thứ ba.
[15] Peter
Van Inwagen, "The Possibility of Resurrection,"
Philosophy of Religion, ed. Louis Pojman
(Wadsworth Pub. 1994), pp. 389-92.
[16] Tuy
nhiên, với vũ trụ quá bao la, thất bại đi tìm một tinh
cầu như thế không nghiêng về phủ nhận hiện hữu của nó.
Lý thuyết mà nói, giả thuyết “ Có một hành tinh nơi ấy
Gót bảo trì các xác người đã chết từ địa cầu” là một
mệnh đề phi hạn-chế về hiện hữu, và bằng chứng quan sát
không chứng minh nó sai.
[17] Ibid., p. 392.
[18]
Theodore Michael Drange (1934—) Triết gia về tôn giáo
hoc, giáo sư đại học West Virginia University. Là người
vô thần, ông có tác phẩm nổi tiếng Nonbelief and
Evil: Two Arguments for the Nonexistence of God
(1998) - (CTND)
[19] Xem
Theodore Drange, "The Argument From Nonbelief,"
Religious Studies, 29, 1993, pp. 417-432, và "The
Arguments From Evil and Nonbelief," 1996,
https://www.infidels.org/library/modern/theodore_drange/aeanb.html
[20] Tác
giả muốn nói – nếu Gót đưa ra hai năm rõ mười bằng chứng
là có Gót đâu đấy, người ta sẽ không còn dám có ý chí tự
do nữa - nói theo triết học, sự hiển nhiên về sự hiện
hữu của Gót tỉ lệ nghịch với ý chí tự do con người, vả
lại phải “mập mờ ẩn hiện” như vậy để thử thách lòng tin
con người, nếu không thì còn gì nữa mà phải dựng nên các
tổ chức đông đảo, hùng hậu, đa dạng, khắp nơi,.. để rao
giảng, hết chuyện! - (CTND)
[21] John
Mackie (CTND)
[22] Xem
thêm các bàn luận về những vấn đề này trong - Michael
Martin,
Atheism: A Philosophical Justification
(Temple University Press, 1990), Chapter 15
[23] Xem
Michael Martin,
The Case Against Christianity (Temple
University Press, 1991).
[24] Xem
The Case Against Christianity, Chapter 6.
[25] Tôi
viết "có lẽ" bởi vì câu hỏi về công bằng cũng còn có thể
nêu lên với thuyết phổ quát nữa: Có công bằng không nếu
tất cả mọi người đều được cứu rỗi, mặc dù có kẻ đã sống
tàn ác không thể tưởng được, trong khi có những người
khác lại sống hoàn toàn một đời thánh thiện tuyệt vời?
nguồn https://www.infidels.org/library/modern/michael_martin/heaven.html