BAO CHE TU SĨ KHI TỘI ÁC CỦA HỌ
BỊ ĐƯA RA TRƯỚC CÔNG LUẬN VÀ CÔNG LÝ
NHỮNG BIỆN PHÁP BƯNG BÍT
VA BAO CHE
Tiên liệu những cuộc sống
sa đọa và phóng đãng của giới giáo sĩ tu sĩ của Giáo Hội sớm muộn thế nào
cũng bị phơi bầy ra ánh sáng công luận và đưa ra trước công lý, Giáo Hội
quyết định tìm ra biện pháp bưng bít, bịt miệng, che giấu và bao che cho họ.
Biện pháp nhồi sọ:
Biện pháp này là ra lệnh cho cán bộ và chính quyền đạo phiệt tay sai
cố gắng tối đa trong việc nhồi sọ tín đồ phải ghi tâm khắc cốt rằng, các Cha
hay các đáng bề trên là những người mang chức thánh, là đại diện cho Chúa.
Do đó, giáo dân phải coi trọng các Cha và các đấng bề trên như là Chúa thực
sự. Tất cả những lời nói, cử chỉ, việc làm của các cha sở tại và các đấng bề
trên khác đều là nói (phát biểu) và làm (hành động) theo ý Chúa. Nếu các
Cha hay các đấng bề trên có nói hay làm điều gì sai quấy thì đã có Chúa phán
xét. Là con chiên hay tín đồ ngoan đạo của Giáo Hội, không ai được phê bình
(nói hành nói tỏi) những hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ hay việc làm của các Cha
mà mình cho là sai quấy. Nếu phê bình hay xúc phạm đến các Cha hoặc các đấng
bề trên khác là xúc phạm đến Chúa. Như vậy là đắc tội với Chúa. Lời dạy lưu
manh này được tất cả các Nhà Thờ Vatican ở bất cức nơi nào phải luôn luôn
nhắc đi nhắc lại cho chiên nhập tâm. Thực trạng này được nhà văn con chiên
Nguyễn Ngọc Ngạn ghi lại rõ ràng trong cuốn Xóm Đạo rằng:
“Người ngoan đạo có bổn
phận “phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật xẩy ra trong giáo
xứ, không
nên để cho người ngọai đạo được biết.”.Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo
(Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr. 320.
Biện pháp kỷ luật:
Đây là biện pháp trừng phạt tín đồ hay nhân dân dưới quyền có ngôn ngữ
hay hành động bị coi là xúc phạm đến các ngài mang chức thánh hay đến Giáo
Hội. Biện pháp này được thay đổi tùy theo thời thế và hoàn cảnh. Trong thời
tiền Cách Mạng Pháp 1789, những người loan tin không tốt hay phê bình các
Cha hoặc các đấng bề trên khác thì bị cho là "chống Chúa" hay "tà giáo" hoặc
"rối đạo" và sẽ bị Tòa Án Dị Giáo hỏi thăm và xử lý. Sau thời Cách Mạng Pháp
1789, tại các nước nằm dưới ách thống trị của chế độ đạo phiệt Da-tô, chính
quyền có trách nhiệm phải ban hành những luật lệ trừng phạt những người
loan tin có phương hại đến uy tín của các Ngài mang chức thánh, hoặc có hại
đến uy tín của Giáo Hội hay của đạo Kitô. Thí dụ như thời Vua Louis XVIII
(1814-1824) và Vua Charles X (1824-1830 ) ở nước Pháp, chi9 quyền cho ban
hành những đạo luật "bịt miệng" (gag laws) theo kiểu này. Sự kiện này đã
được trình bày đầy đủ ở Chương 4, trong sách Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam
Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004), xin ghi lại đây để quý
vị dễ dàng kiểm chứng:
"Họ dám ban hành một đạo luật trừng phạt những người bị
kết tôi là "phạm thượng"hay "xúc phạm thần thánh" với những hình
phạt hết sưc là tàn ác dành cho những người nào bị cho là làm rối lọan hay
phá vỡ các cuộc lễ lạc tôn giáo hay báng bổ thần thánh, dù rằng đạo luật này
khó có thể thi hành được. ...."
Nguyên văn: “They dared to
promulgate a law against "sacrilege" that fixed harsh penalties for anyone
who disrupted religious ceremonies or profaned "sacred vessels."[1]
Không ai chối cãi được
rằng loại luật pháp "bịt miệng" (gag law) như trên là do giai cấp thống trị
làm ra để phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị
đây là Giáo Hội La Mã cùng với giới tăng lữ và tín đồ Da-tô người Pháp có
thế lực vào lúc bấy giờ.
Tương tự như trên, trong
thời chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm, kẻ nào phê bình các Cha hay có ấn
phẩm trong đó có điều gì bất lợi cho uy tín của Giáo Hội thì sẽ bị công an,
mật vụ theo dõi và được ghi vào sổ đen, bị coi như là Cộng Sản nằm vùng. Bản
văn của một nạn nhân là học giả Nguyên Hiến Lê dưới đây nói lên tình thực
trạng này:
"Đầu niên khóa 1954-55 trong chương trình Trung Học Đệ Nhất Cấp có thêm
môn Lịch- sử Thế-giới dạy trong 4 năm. Ông Thiên Giang lúc đó dạy sử các lớp
đệ lục, đệ ngũ. Tôi bàn với ông soạn chung bộ sử thế giới càng sớm càng tốt
cho học sinh có sách học, khỏi phải chép "cua" (cours). Ông đồng ý. Chúng
tôi phân công: tôi viết cuốn đầu và cuốn cuối cho lớp đệ thất và đệ tứ; ông
viết hai cuốn giữa cho lớp đệ lục và đệ ngũ. Chúng tôi bỏ hết công việc
khác, viết trong 6 tháng xong; tôi bỏ vốn ra in; năm 1955 in xong trước kỳ
tựu trường tháng chín. Bộ (Lịch-sử Thế-giới) đó khá chạy, sau tôi nhường cho
nhà Khai Trí tái bản. Một chuyện đáng ghi là vì bộ (sử) đó mà năm 1956 bị
một độc giả ở Cần Thơ mạt sát (tôi) là "đầu óc đầy rác rưởi" chỉ vì chúng
tôi nhắc qua đến thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người. Chẳng cần nói ai
cũng biết độc giả đó là người Công Giáo. Sau đó lại có một linh mục ở Trung
yêu cầu bộ Giáo Dục cấm bán và tịch thu hết bộ (lịch sử thế giới) đó vì
trong cuốn II viết về thời Trung Cổ, chúng tôi có nói đến sự bê bối của một
vài ông Giáo-hoàng. Bộ phái một viên bí thư có bằng cấp cử nhân tiếp xúc với
tôi. Ông này nhã-nhặn khen tôi viết sử có nhiệt tâm, cho nên đọc hấp dẫn như
đọc bộ sử Pháp của Michelet; rồi nói rằng sách của tôi được bộ Thông Tin cho
phép in, lại nạp bản rồi, thì không có lý gì tịch thu, cấm bán được, chỉ có
thể ra thông cáo cho các trường đừng dùng thôi: cho nên ông ta chỉ yêu cầu
tôi bôi đen vài hàng trên hai bản để ông ta đem về nộp bộ, bộ sẽ trả lời
linh mục nào đó, còn bán thì tôi cứ bán, không ngại gì cả. Tôi chiều lòng
ông ta. Ông ta lại hỏi lớp mẫu giáo của tôi đã được phép của bộ chưa. Tôi
đáp: Đơn nộp cả năm rồi, giấy tờ đủ cả, tôi đã nhắc Sở Giáo Dục thành phố,
mà người ta cứ làm thinh, không cho phép mà cũng không cấm. Ông ta chỉ gật
đầu. Hồi đó bộ Lịch Sử Thế Giới của tôi chỉ còn một số ít. Tôi hỏi các nhà
phát hành, được biết có lệnh cấm các trường ngoài Trung dùng nó, trong Nam
thì không. Chỉ ít tháng sau bộ đó bán hết. Tôi không tái bản. Công Giáo thời
đó lên chân như vậy. Nghe nói một ông tỉnh trưởng ở miền Tây không dám cho
hội Phật Giáo cất chùa trong thị xã và bảo: "Công Giáo cất nhà thờ, bây giờ
Phật Giáo cũng xin cất chùa, bộ các người muốn kình với Công Giáo hả?" Một
hôm bà láng giềng của tôi cho hay: "Ít lâu nay tôi thấy ngày nào cũng có một
hai người ngồi ở quán cà phê bên kia đường nhìn về phía nhà thầy và nhà tôi
như rình cái gì. Hôm qua một người vào nhà hỏi tôi: "Ông Lê ở nhà bên lúc
này đi đâu mà không thấy?" Tôi đáp: "Ông ấy đau, nằm ở trong phòng, chứ đi
đâu? Thầy cứ vô mà hỏi. Rồi họ đi". Vậy là mật vụ rình tôi mà tôi không
biết. Vì tôi là công chức thời Pháp mà tản cư lâu quá, về lại không hợp tác
với chính phủ Diệm, hay vì bộ Lịch Sử Thế Giới mà họ theo dõi như vậy? Có lẽ
cả hai. Hơn một chục năm sau, một giáo sư ở Huế vào thăm tôi, hỏi: "Tại sao
hồi đó ông không làm đơn trình bày rằng ông đã dùng sách nào để viết về các
ông giáo hoàng thời Trung Cổ đó, rồi xin cho bộ sử của ông được dùng trong
các trường?" Tôi đáp: "Không khi nào tôi làm việc xin xỏ đó". Sau ngày
30-4-1975, giáo sư đó lại thăm tôi nữa, bảo: "Tôi phục tư cách của ông từ
hồi đó".
[2] .
Chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô
Đình Diệm không những để cho các ông linh mục tác oai tác quái như trên,
không những dùng công an mật vụ để phục vu cho quyền lợi của Giáo Hội La Mã
như trên, mà còn ban hành những đạo luật, sắc luật và quyết định nhằm để
phục vụ cho quyền lợi của Giáo Hội La Mã. Bằng chứng chính quyền này dựa vào
là quyết định thi hành Du Số 10 (đã do chính quyền bù nhìn Bảo Đại ban hành
vào ngày 6 tháng 8 năm 1950), để ban hành quyết định không cho Phật Giáo
tậu mãi bất động sản. Sự kiện này được Linh-mục nói rõ trong cuốn Thập Giá
và Lưỡi Gươm với nguyên văn như sau:
“Trước tiên là chỉ thị
số 10 của Phủ Tổng Thống, lấy lại các sắc chỉ của chế độ thuộc địa, nói
rằng:“Tất cả các hiệp hội tôn giáo, văn hóa, thể dục, chỉ trừ Công Giáo, đều
không được quyền mua các bất động sản, nếu không có phép riêng của Phủ Tổng
Thống.” Bản văn đạt Công Giáo ra ngoài và hạ Phật Giáo xuống hàng các hiệp
hội văn hóa và thể thao.”
[3]
Hợn thế nữa, chính quyền
này còn (1) ra lệnh không cho Phật Giáo treo cờ Phật Giáo (vào tháng 5 năm
1963), (2) ký giấy cho Giám-mục Ngô Đình Thục độc quyền khai thác gỗ rừng
thuộc tỉnh Long Khánh, (3) ban hành quyết định dùng tài nguyên quốc gia và
nhân sự chính quyền vào việc để tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu và tháng 2 năm
1959 để dâng nước Việt Nam cho Tòa Thánh Vatican với danh nghĩa là Đức Mẹ Vô
Nhiễm, v.v… (Sẽ nói rõ trong các Mục XIX, XX và XXI, Phần VI trong bộ
sách này).
Sự việc chính quyền Ngô
Đình Diệm hạn chế, không cho dạy môn sử thế giới từ thời Thượng Cổ đến thời
Cách Mạng Pháp 1789, và dùng mật vụ để khủng bố những người cầm bút dám viết
lên những sự thật không tốt đẹp có liên hệ Giáo Hội La Mã hay có liên hệ
đến các ông tu sĩ Da-tô đã khiến cho hồi đó tại Miền Nam Việt Nam không còn
sách, báo hay tài liệu lịch sử nào liên hệ đến những hoạt động của Giáo Hôị
La Mã được phép lưu hành. Bất kỳ ai can đảm dám viết lên những sự thật của
lịch sử đều không thể tránh khỏi cảnh bị mật vụ "theo dõi và đe dọa"
như trường hợp của học giả Nguyễn Hiến Lê.
Ngoàii việc chính quyền
đạo phiệt sử dụng công an mật vụ để khủng bố các nhà viết sử chân chính như
trên, Giáo Hội còn nhồi sọ tín đồ của Giáo Hội khiến cho họ cảm thấy là họ
có nhiệm vụ phải khủng bố những thành phần có uy tín thuộc các tôn giáo
khác và những văn thi sĩ có ấn phẩm nói đến những việc làm bất chính, bất
nhân, đại gian và đại ác của Giáo Hội La Mã hay của các chế độ đạo phiệt
Da-tô tay sai của Giáo Hội. Hậu quả của việc làm tàn ngược và độc ác này của
Giáo Hội còn để lại di lụy trong tâm tư tín đồ Da-tô người Việt ở trong cộng
đồng người Việt lưu vong tại hải ngọai ngày nay. Cái di lụy này vẫn thường
thể hiện ra bằng những hành động của họ mà chúng ta đã được chứng kiến ở
ngay tại các nước dân chủ tự do như ở Bắc Mỹ và Tây Âu. Bất chấp cả luật
pháp, bất chấp cả hiến quyền của người dân, bọn con chiên người Việt cuồng
nô vô tổ quốc này đã và đang sử dụng bạo lực để đe dọa và khủng bố những
người viết sử nếu họ viết lên "những sự thật không đẹp trong quá khứ có liên
hệ đến Giáo Hội La Mã và chính quyền Ngô Đình Diệm". Cũng vì thế mà hiện
nay, trong các cộng đồng người Việt hải ngọai, các ông tu sĩ và bọn con
chiên ngoan đạo người Việt vẫn còn triệt để áp dụng biện pháp này đối với
người Việt để bịt miệng thiên hạ.
Trường hợp họ khủng bố cụ
Lê Hữu Dản bị khủng bố là điển hình. Cụ Dản sinh vào năm 1923 tại một nơi kế
cận với cố đô Huế. Với cái tuổi ngoài 80, cụ là người chứng kiến không biết
bao nhiêu thăng trầm của đất nước. Bản thân cụ cũng như thân nhân và bằng
hữu của cụ đã chứng kiến những việc làm của anh em ông Ngô Đình Diệm trong
suốt 9 năm bạo trị. Huế cũng là nơi chứng kiến không biết bao việc làm bất
chính, bất nhân, bất nghĩa và thất đức của bạo chúa Ngô Đình Thục, hung thần
Ngô Đình Cẩn và bè lũ tay sai Phan Quang Đông, Dương Văn Hiếu, Đặng Sỹ cùng
với những việc làm ngang tàng, hống hách và tham lam của Bà Cả Lễ và Mụ
Luyến. Huế cũng là nơi diễn ra thảm cảnh do bạo quyền Da-tô Ngô Đình Diệm ra
lệnh cho tên Thiếu Tá Da-tô cuồng tín Đặng Sĩ đem xe tăng của biệt đội mang
tên là Ngô Đình Khôi và lực lượng cảnh sát võ trang đến tàn sát đồng bào
Phật tử tập trung trước Đài Phát Thanh vào đêm ngày 8 tháng 5 năm 1963. Cái
hình ảnh dã man có một không hai trong lịch sử dân tộc Việt Nam vẫn còn ám
ảnh trong tâm hồn cụ cho đến ngày nay. Mặc dù, hiện nay cụ đang lưu vong
sống ở thành phố Fremont, California mà cụ cũng vẫn không thể nào quên đuợc
những hình ảnh kinh hoàng của những hành động cực kỳ man rợ của anh em ông
Ngô Đình Diệm và tập đoàn Cần Lao Công Giáo. Cũng vì thế mà khi thấy ông con
chiên Nguyễn Văn Chức cho trình làng cuốn sách có cái tên là Việt Nam Chính
Sử, cụ liền viết bài lên án cuốn sách quái đản của con người tiêu biểu và
đại diện cho tập đoàn cuồng nô vô tổ quốc tôn vinh tên bạo chúa Tam Đại
Việt Gian Ngô Đình Diệm lên hành anh hung dân tộc.
Không phải chỉ có cụ Lê
Hữu Dản là nạn nhân của bọn cuồng nô vô tổ quốc con chiên người Việt ở Bắc
Mỹ này. Rất nhiều văn nghệ sĩ và các nhà viết sử chân chính khác ở hải ngoại
cũng đã trở thành nạn nhân của bọn “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”
này. Dưới đây là một số trong hàng vụ mà chúng đã làm:
1.- Phá thối buổi ra mắt cuốn sách Đối Thoại Với Giáo Hoàng
John Paul II do anh em trong nhóm Giao Điểm tổ chức ở Wesminster,
California vào ngày 19/8/1995.
2.- Mưu đồ biểu tình và phá thối buổi hội thảo văn hóa của
anh em văn nghệ sị Bắc Mỹ do Tiến-sĩ Vũ Ngự Chiêu và người viết tổ chức tại
Seattle, Washington vào ngày 20/12/1997.
3.- Vụ biểu tình và bao vây ngôi chùa Đức Viên ở San Jose
khởi đầu vào buổi chiều ngày 18/5/1998 và kéo dài trong nhiều ngày, khi
Đại Lão Hòa Thượng Thích Dũng từ Việt Nam qua Hoa Kỳ tham quan và lưu trú
tại đây.
4.- Vụ biểu tình thị uy và khủng bố của tiệm Video của ông
Trần Trường trong nhiều này vào năm 1998(?) khi ông này trưng hình ông Hồ
Chí Minh và lá cờ đỏ sao vàng ở trong cửa tiệm của ông tại thành phố
Wesminster, Califirnia.
5.- Năm 2001, Bà Minh Anh Hodge, Giám đốc Chương Trình ESL.,
Ngoại Ngữ và Tiểu Học tại Nha Học Chánh Tacoma, Washington cũng trở thành
nạn nhân của chúng chỉ vì khi được mời thuyết trình về đề tài Người Việt Tị
Nạn Ở Washington vào cuối tháng 4/2000 tại Trường Tacoma Community College
(kỷ niệm 25 năm của nguời Việt tị nạn), bà đã cho trình chiếu nhiều tấm hình
về cuộc chiến Việt Nam trong đó có tấm hình Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự
thiêu, hình Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đang nhắm bắn một tù nhân hai tay bị
trói ké quặt lại sau lưng và hình em bé Kim Phúc bị cháy phỏng bởi bom lửa
(Napalm) với thân hình trần truồng vừa chạy vừa khóc trong kinh hoàng. (Độc
giả có thể kiểm chứng sự kiện này bằng các tiếp xúc với bà Minh Ah Hodge
hay các nhân viên trong bang giảng huấn ESL hay nhân viên văn phòng ESL và
Ngoại Ngữ tại Sở Học Chánh Tacoma).
6.- Vụ con chiên Nguyễn Xuân Tùng chỉ huy đoàn người đồng
đạo mà họ gọi là Diến Đàn Kitô Hữu đến bao vây ngôi Chùa Việt Nam của thày
Thích Pháp Châu ở Garden Grove hai lần: Lần thứ nhất vào 27/10/2002 và lần
thứ hai kéo dài 55 ngày kể từ ngày 24/4/2004 cho đến ngày 31/5/2004 trong
đó có ngày đại lễ Phật Đản vài ngày 30 5/2004). (Độc giả có thể kiểm chứng
sự kiện này bằng các tiếp xúc với thày Pháp Châu ở ngôi chùa này).
7.- Tháng 7 năm 2003, cựu
Đại Tá Phạm Văn Liễu tổ chức ra mắt cuốn sách Trả Ta Sông Núi của ông ở San
Jose, California cũng bị bọn người cuồng nô vô tổ quốc biểu tình, khủng bố
và phá thối.
8.- Nhà văn Nguyễn Ngọc
Ngạn, MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên, các ca sĩ như Hương Lan, Ái Vân, Băng Kiều,
Thanh Tuyền, Thanh Lan, Ngọc Huyền, Hồng Nhung, Trần Thu Hà, v.v... cũng đã
trở thành nạn nhân của bọn người cuồng nô vô tổ quốc này. Tệ hai hơn nữa, cả
những người ái mộ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng bị ghét cay ghét đằng và bị
chụp mũ là thân Cộng Sản và Cộng Sản nằm vùng.
Biện pháp thuyết phục và mua chuộc:
Ở Việt Nam cũng như ở hải ngọai, hoàn cảnh lịch sử đã thay
đổi cho nên những biện pháp đàn áp như thời xưa hay như thời còn có chính
quyền trong tay không thể áp dụng được nữa. Ở Bắc Mỹ, Tây Âu, Úc Đại Lợi và
Nhật Bản, v.v.. trình độ giáo dân đã tiến bộ, không còn ở trong tình trạng
ngu dốt và chậm tiến, lại được sống trong chế độ dân chủ tự do, trong đó có
điều khỏan "tôn giáo phải tách rời chính quyền" được ghi rõ trong
hiến pháp, và nhân quyền cùng các quyền tự do căn bản của người dân đều được
hiến pháp và luật pháp triệt để bảo vệ, do đó Giáo Hội phải uyển chuyển.
A.- Đối với con chiên
người Việt:
Đối với con chiên người Việt, một mặt Giáo Hội vừa tiếp tục
triệt để thi hành chính sách nhồi sọ để kìm hãm họ mãi mãi ở trong tình
trạng ngu dốt, chỉ biết "tuyệt đối tin tưởng vào những gì Giáo Hội dạy
dỗ" và nếu các ngài đại diện Chúa có sờ mó, làm tình với con cái hay với
người vợ thân thương của họ, thì đó cũng là "ý Chúa" và "Chúa đã
an bài như vậy", vừa bưng bít, che giấu, không cho phổ biến hay loan
truyền những tin tức về hành động xấu xa ghê tởm này của các Ngài. Sự thật
này đã được nhà văn con chiên Nguyễn Ngọc Ngạn kể lại cho chúng ta nghe như
đã nói ở trên. Mặt khác, Giáo Hội ra lệnh cho các cơ quan truyền thông (báo
chí, các đài truyền thanh và truyền hình mà đa số là con chiên ngoan đạo của
Giáo Hội làm chủ) tìm cách bóp méo những sự thật và ngụy biện theo sách lược
"vo tròn bóp mép, ăn không nói có, quanh co, quay quắt, lặt léo và lươn
lẹo". (Xin xem lại Chương 11 ở trên). Với biện pháp này, Giáo Hội đã
thành công rất nhiều trong đó có một số những vụ dưới đây:
1.- Biến hóa bà Jeanne d'
Arc (1412-1431) từ một thiếu nữ anh hùng dân tộc của nước Pháp thành một con
mụ phù thủy với đủ mọi thứ tội ác xấu xa để xử tử bà bằng cách trói bà vào
một cái cọc, cho chụm củi khô ở xung quanh rồi châm lửa thiêu sống bà cho
đến chết. Thế rồi gần 500 năm sau, thấy rằng dân tộc Pháp vẫn liên tục vinh
danh bà là nữ anh hùng nước Pháp, năm 1920, Giáo Hội lại phong thánh cho bà.
2.- Chính Giáo Hội có chủ
trương chống lại và cấm đoán mọi việc phổ biến tất cả mọi sáng kiến, phát
minh và phát triển khoa học cũng như các tư tưởng học thuật tiến bộ giúp cho
nền văn hóa và văn minh nhân loại càng trở nên phong phư hơn và đa dạng hơn.
Bằng cớ cho nhưng hành động bạo ngược và phản tiến hóa này là:
a.- Cấm, không cho nhà bác
học Galileo Galilei (1562-1642) phổ biến phát minh khoa học của ông:
Trong
mấy năm đầu thập niên 1610, nhà bác học này đưa ra bài tham luận chứng minh
rằng lý thuyết về vũ trụ cho nhà khoa học Kopernik (1473-1543) là đúng và lý
thuyết về vũ trụ của nhà khoa học Ptolemy (thế kỷ 2). Giáo Hội cho rằng lý
thuyết của ông Kopernik mâu thuẫn với thánh kinh và đòi phải cấm không cho
lưu hành cuốn lý thuyệt về vũ trụ của nhà khoa học Kopernik.Nhưng
Hồng Y Giáo Chủ Robert Bellarmine, nhà thần học cột trụ của Giáo Hội, không
thể nào nhận thức được tầm quan trọng của các lý thuyết mới về khoa học. Ông
Hồng Y này bám chặt lấy quan niệm cũ, cho rằng các giả thuyết về toán học
không có gì liên hệ với thực tế trong ngành vật lý. Hồng Y Robert Bellarmine
thấy cái nguy hiểm của sự xấu xa này là nó có thể phá hoại đạo Kitô La Mã
trong cuộc chiến chống lại Đạo Tin Lành. Do đó, ông Hồng Y này quyết định
tuyên bố lý thuyết về vũ trụ của nhà thiên văn học Kopernik là ”sai lầm
và không đúng với sự thật”. Ngay sau đó, Tòa Thánh La Mã ban hành Sắc
Chỉ ngày 5-3-1616 theo đó thì cuốn sách của nhà thiên văn Kopernik bị đình
chỉ, không được lưu hành. Đồng thời, ông Galileo cũng bị cấm, không được
”giữ” và cũng không được ”biện minh” cho lý thuyết Kopernik.
Năm 1632, được phép của
các nhà kiểm duyệt, ông cho ấn hành tác phẩm Dialogue Concerning the Two
Chief World Systems. Tác phẩm này được giới trí thức khắp nơi trong lục địa
Âu Châu ca tụng như là một kiệt tác về văn chương và triết học. Điều khôi
hài là tác phẩm của ông càng được giới trí thức ca tụng bao nhiêu thì lại
càng bị Giáo Hội La Mã, nhất là các ông tu sĩ Dòng Tên, chỉ trích thậm tệ.
Các ông tu sĩ Dòng Tên cho rằng hậu quả tai hại của tác phẩm mới này đối
với đạo Kitô La Mã còn tệ hơn hậu quả của việc rao giảng cả hai lý thuyết
Luther và Calvin gom lại. Giáo Hoàng nổi lôi đình ra lệnh truy tố ông ra
trước Tòa Án Giáo Hội về tội tà giáo.
Tháng 2 năm 1633, bất kể là ông đã
lớn tuổi và đang lâm bệnh, Giáo Hội bắt buộc ông phải thân hành đi La Mã để
cho Toà Án Giáo Hội xử ông về tội dám viết và công bố tác phẩm Dialogue
Concerning the Two chief World Systems. Việc xét xử kéo dài đến ngày 21-
6-1633, ông bị Tòa Án Giáo Hội kết tội đã ”tàng trữ và giảng dạy” chủ
thuyết Kopernik, và ra lệnh cho ông phải từ bỏ không được làm như vậy nữa,
và phải lập đi lập lại định thức trong đó ông phải “thề bỏ, nguyền rủa và
ghê tởm” những lỗi lầm của ông trong quá khứ. Tòa án của Giáo Hội xử
giam ông vào trong ngục, nhưng sau đó ông được Giáo Hoàng cho về quản thúc
tại một căn nhà nhỏ ở Arcetri gần Florence. Ông bị giam ở đây liên tiếp cho
đến khi ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 8 tháng 1 năm 1642.
Mục đích của Giáo Hội
La Mã là dùng Tòa Án của Giáo Hội để bịt miệng giai cấp trí thức, khiến cho
họ phải câm miệng, không còn dám hoài nghi về Thánh Kinh và thắc mắc về
những việc làm bất chính, bất nhân và bất nghĩa của Giáo Hội, đặc biệt nhất
là những sản phẩm ”phép mầu” của Giáo Hội phịa ra đã được ăn
khách ở hầu hết các quốc gia Tây Âu và đang được quảng cáo rầm rộ để xuất
cảng sang Phi, Mỹ và Á Châu.
Cung cách Giáo Hội La
Mã xử vụ Án Galileo và các nhà trí thức khác làm người ta nhớ đến cái cung cách Triệu
Cao thị oai đe dọa Lý Tư thời Tần Thủy Hoàng ở Trung Hoa.
Lý Tư là người có tài học vấn, theo phò Tần Vương Chính từ khi Lữ Bát Vi còn nắm quyền thừa tướng. Trong khi đó Triệu Cao chỉ là một tên thị thần vô danh tiểu tốt. Sau này nhờ ”có công nhắc Tần Hoàng rút kiếm để đối
phó với Kinh Kha” mà sau đó Triệu cao được tin dùng, và Triệu Cao bắt đầu lộng hành. Khi Tần Thủy Hoàng
băng hà, Thái Tử Hồ Hợi lên ngôi nhưng quyền chính hoàn toàn lọt vào tay
Triệu Cao.
Tuy Lý Tư không còn
quyền hành gì nữa, nhưng Triệu Cao vẫn sợ rằng ông sẽ chống lại những việc
làm bất chính của mình. Để bịt miệng Lý Tư, Triệu Cao nghĩ ra một cách để ”ra
oai” khiến cho Lý Tư phải câm miệng cúi đầu tuân phục và cũng là ”cú
đánh phủ đầu đánh vào những người thế lực đương thời còn hục hặc chưa chịu
cúi đầu.” Như đã xếp đặt sẵn, vào
một buổi đẹp trời, Triệu Cao
chỉ con nai mà bảo với Hồ Hợi là con ngựa và bắt Lý Tư phải xác nhận là con
ngựa.
Biết rõ ”con thú đó là con nai”, nhưng trong cái thế
nằm dưới sức ép của cường quyền, Lý Tư vẫn phải chối bỏ sự thật mà nói chiều
theo ý của tên cường gian Triệu Cao rằng ”con nai đó là con ngựa”.
Nếu không nói như vậy, Lý Tư sẽ mất mạng như chơi. Y hệt như vậy,
So sánh chuyện "con nai" của Triệu Cao với chuyện ”Giáo Hội La Mã ra lệnh cho Galileo phải
công nhận rằng mặt trời quay chung quanh trái đất” ta thấy nó giống hệt
nhau y như đúc.
Biết rõ là
”trái đất quay chung quanh mặt trời”, nhưng đứng trước bạo lực của
Giáo Hội La Mã, nhà khoa học Galileo vẫn phải cúi đầu chiều theo ý muốn của
Giáo Hội mà bảo rằng ”mặt trời quay chung quanh trái đất”. Nếu không
nói như vậy thì ông sẽ bị đưa lên giàn hỏa thiêu và bị thiêu sống như hai
ông John Huss và Giordano Bruno trước ông không bao lâu.
Hai sự việc xẩy ra
vào hai thời điểm cách nhau cả gần một ngàn năm và ở cách xa nhau cả một nửa
địa cầu mà giống nhau như bóc. Thực ra, Giáo Hội còn lưu manh và bạo ngược gấp triệu
lần tên quyền thần Triệu Cao.
Trên đây là chính sách
khủng bố đối với giai cấp trí thức để cho họ không còn dám ho he hoài nghi
những điều phi lý trong Thánh Kinh, và không còn dám thắc mắc về các ”phép
lạ” trong tín lý do Giáo Hội đưa ra. Còn đối với khối đại đa số không
phải là trí thức và cũng không tin theo Thánh Kinh, tín lý và giáo lý của
Giáo Hội La Mã thì sẽ họ sẽ bị đối xử như thế nào? Đối với khối dân này,
Giáo Hội cho họ là những quân tà giáo, và ra lệnh cho bọn vua chúa cuồng đạo
nằm trong vùng ảnh hưởng của Giáo Hội cưỡng bách họ phải theo đạo Ki Tô La
Mã, nếu không tuân hành, thì hoặc là sẽ bị đuổi cổ (trục xuất) ra khỏi nước,
không cần biết họ sẽ đi đâu và sống chết ra sao, hoặc là tàn sát cho họ sớm
đi ”lên Thiên Đường thẳng rò ro” như bạo quân Ngô Đình Diệm đã giúp
cho ông Ba Cụt [Hùynh Văn Cao. Một Kiếp Người. (Chantilly, VA: Thu
Minh Hùynh, 1993), trang 52] và hơn 300 ngàn lương dân ở các tỉnh Thừa
Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Khánh Hòa [Chu Bằng Lĩnh. Đảng
Cần Lao (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1993), trang 133]. Những việc làm
tàn nhẫn, bất nhân và phản chúa này đã được các nhà cầm quyền ngoan đạo của
Giáo Hội như Hoàng Đế Ferdinand V (1452-1516), Nữ Hoàng Isabella I
(1451-1504) và Hoàng Đế Philip II (1527-1598) của nước Tây Ban Nha, Nữ Hoàng
Mary I (1516-1588) của nước Anh, Louis XIV (1638-1715) của nước Pháp và bạo
chúa Ante Pavelich của nước Nam Tư (cha đẻ ra nước Croatia the đạo Kitô La
Mã ngày nay) trong thời Đệ Nhị Thế Chiến triệt để thi hành trong thời gian
họ tại vị
b.- Cấm không cho đưa
vào chương trình học lý thuyết tiến hóa của nhà bác học Charles Robert
Darwin (1809-1882). Bản văn của nhà viết sử Nguyễn Hiến Lê trích dẫn ở trên
nói lên sự thật này. Không những thế mà ngay tại Hoa Kỳ này, trong Tu Chính
Hiến I của Hiến Pháp đã ghi rõ ràng là “Quốc Hội sẽ không ban hành luật nhằ
thiết lập môt tôn giáo này và cũng không cấm đoán việc hành xử tôn giáo của
nhân dân” (Congress shall make no law respecting an establishment of
religion, or prohibiting the free exercise thereof;….” Điều khoản này thường
được hiểu là “tác rời tôn giáo ra khỏi chính quyền”. Ấy thế mà Nhà Thờ
Vatican và các thành phần bảo thủ cúa các hệ phái Ki-tô khác (Tin Lành, Anh
Giáo) vẫn luôn luôn tìm cách vận động các nhà hữu trách tại các chính quyền
địa phương lọai bỏ thuyết tiến hóa ra khỏi chương trình học ở bậc trung học
và thay thế vào đó bằng thuyết “Thiết Kế Thông Minh” (Intelligent Design),
một danh xưng khác của Thuyết Sáng Tạo (Creationism).
Muốn biết rõ họ chống
đối thuyết tiến hóa của nhà bác học Charles Robert Darwin như thế nào, xin
đọc bài viết “Ít Nhiều Nhận Định Về Thiên Chia Giáo” của bác-sĩ Nguyễn Văn
Thọ nơi các trang 12-79 trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa – Tuyển Tập I
(Spring, TX: Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo, 1994).
c.- Cấm, không cho tín
đồ đọc những tác phẩm của các đại tư tưởng gia, đặc biệt là những tác phẩm
của các đại tư tưởng gia từ khi Chủ Nghĩa Nhân Bản (Humanism) xuất hiện vào
đầu thế kỷ 14 cho đến ngày nay. Sự kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi
lại trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm với nguyên văn như sau:
“Ngọai trừ các cụm nhà
thành thị dân chúng sống lẫn lộn, người Công Giáo thường được tập trung lại
thành làng xóm riêng, tách rời khỏi người lương, sống chen chúc quanh tháp
nhà thờ xây theo kiểu Tây, chọc lên trời, cao vượt khỏi lũy tre. Bị đóng
khung và được đoàn ngũ hóa bởi hàng giáo sĩ, họ trở thành một lực lượng
quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ khi cha
xứ kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà thờ.
Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn
giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào, thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ
điều gì không được Giáo Hội chính thức phê chuẩn, chẳng hạn sách
Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ điển của Việt Nam, hoặc các tài liệu
cách mạng đều bị cho là ngược với đạo. Cac sách của Voltaire, Montesquieu,
khỏi nói tới Các Mac, vừa bị nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị giáo luật khai
trừ, nhưng ngay cuốn sách thánh đã dịch ra tiếng bản xứ mà cũng chẳng ai
được biết đến (có một bản sách thánh in bằng hai thứ tiếng La Tinh và Việt
ngữ, khổ lớn, nằm trong thư viện các chủng viện và một vài cha xứ, còn giáo
dân thì không thể rờ tới.…”
[4]
Trên đây mới chỉ là vài ba trường hợp điển hình mà thôi. Có cả hàng rừng chuyện tương tự như vậy. Bộ
mặt thật của Giáo Hội La Mã ghê tởm là như vậy! Ấy thế mà bộ máy tuyền
truyền của Giáo Hội La Mã cũng như các ông tu sĩ và đám con chiên người
Việt vẫn bô bô cao rao rằng “Đạo Công Giáo là đạo của khoa học mang ánh sáng
văn minh đến soi sang và khai hóa các dân tộc man di …” Miệng lưỡi của họ
là như thế đó! Quả thật là không còn có giói người nào vô liêm sỉ như họ!
3.- Lịch sử Giáo Hội cho
biết có tới cả mấy chục ông giáo hoàng và không biết bao nhiêu vị chức sắc
trong giáo triều Vatican có những thái độ, ngôn ngữ và hành động giống như
loài súc sinh như đã được trình bày trong các Chương12, 13, 14 (Mục V) ở
trên. Ấy thế mà con chiên người Việt vẫn mù quáng, không biết gì cả. Thảng
hoặc nếu có một số người biết rõ sự thật này thì họ lại cho rằng. "đó là
ý Chúa" và "Chúa đã an bài như vậy."
4.- Tất cả những việc làm
tội ác của Giáo Hội La Mã chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam đều có ghi
rõ ràng trong sách sử như
(a) Tội ác: Giáo Hội chủ tâm đánh chiếm Việt Nam
làm thuộc địa khai thác tài nguyên và cưỡng bách nhân dân ta theo đạo làm nô
lệ cho Giáo Hội đúng theo tinh thần sắc lệnh Romanus Pontifex được ban hành
vào ngày 8 tháng 1 năm 1454 trong thời Giáo Hòang Nicholas (1447-1455), rồi
chính Giáo Hội đã ba lần cho người sang tới tận kinh thành Paris đề uốn lưỡi
Tô Tần vận động chính quyền Pháp liên kết với Giáo Hội và xuất quân chinh
phục Việt Nam như lịch sử đã chứng minh . Xin xem các Chương 18, 19, 20, 21,
22, 23 (Mục VII và Mục VIII, Phần III ở sau, và các Chương 3, 4, 5 (Phần II)
trong sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam,
(b) Tội ác: các giáo sĩ Da-tô
trong các vai trò gián điệp thi hành các điệp vụ thâu thập tin tức tình báo
gửi về cho Tòa Thánh Vatican và xúi giục giáo dân người Việt bất tuân lụât
pháp và chống lại triều đình nhà Nguyễn trong thời các vua Minh Mạng
(1820-1480), Thiệu Trị (1840-1847) và Tự Đức (1847-1883) cũng như sự hiện
diện của họ trong các đạo quân viễn chinh Pháp trong các chiến dịch tấn
chiếm Việt Nam. Ấy thế mà cả giáo dân người Việt không biết gì về những
hành động tội ác này của Giáo Hội đối với dân tộc ta. Không những thế, ông
con chiên Nguyễn Gia Kiểng còn viết ra những lời lẽ xấc xược ngược ngạo
trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn với nguyên văn như sau:
"Việc bách hại người
Công Giáo đã là một vết nhơ khó tẩy xóa trong lịch sử Việt Nam, chứ không
phải một đoàn quân xâm lược nào, đã tàn sát một số lớn những người Việt Nam
hoàn toàn vô tội. Thảm kịch còn lớn hơn nữa vì nhà nước biết họ vô tội nhưng
vẫn giết họ.
Điều đáng ngạc nhiên là cho tới nay chưa có một chính quyền nào, nhân
danh sự liên tục của quốc gia, tổ chức một ngày để xin lỗi những người Công
Giáo về sự sai lầm kinh khủng đó."[5]
Rõ ràng đây là một hành
động vừa ăn cướp vừa la làng.
5.- Con chiên Ngô Đình
Diệm thuộc một gia đình có tới bốn đời nối tiếp nhau làm Việt gian bán nước
cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp - Vatican và chính bản thân Ngô Đình Diệm có những thành tích với cả rừng tội ác đối với dân tộc
Việt Nam cũng được bàn tay phù thủy của Giáo Hội biến hóa khiến cho hầu hết
bọn con chiên người Việt tin rằng tên Việt gian phản thần đại gian này là
một "chí sĩ yêu nước', một "anh hùng dân tộc".
Những thành tích vừa ăn cướp vừa la làng,
lươn leo, quanh co, ăn không nói có như vậy, nếu muốn
nói cho hết thì phải dùng đến hàng trăm ngàn trang giấy cũng chưa đủ. Một
số những thành tích này đã được trình bày đầy dủ và khá rõ ràng ở Chương 11
ở trên. Ở đây, người viết chỉ xin ghi lại nguyên văn mấy lời nhận xét của
học giả con chiên Phan Đình Diệm ở trong bài viết "Những Lời Bàn" về "Mea
Culpa Bài 3" (Giáo Hội Công Giáo Roma La-tinh Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn Năm vào
ngày Chủ Nhật 12/3/2000) để độc giả dễ dàng nhìn thấy rõ miệng lưỡi ăn gian
nói dối của Giáo hội La Mã:
"LỜI TÁM: Trong 7
Chương tội mà Giáo Hội Công Giáo Roma La-tinh cáo thú, có nhiều tội danh
phải kể là "vượt tội" mang cấp số cộng hay cấp số nhân. Ví dụ: Giáo Hội phạm
tội A, muốn giấu kín và bưng bít tội A, Giáo Hội nhắm mắt phạm thêm tội B để
bảo vệ tính bí nhiệm của tội A. Giáo Hội bị cuốn hút vào quy luật đổ giây
chuyền của những con bài dominos, Giáo Hội phạm thêm tội C để bảo vệ các tội
A và tội B... Thử tưởng tượng từ ngày Giám-mục Pierre Cauchon (đồng âm với
con heo) thiêu sống Bà thánh Jeanne d' Arc, cho đến ngày Bà được phong thánh
là hơn 400 năm, các tòa giảng của Giáo Hội trên khắp cõi Âu Châu phẳi ăn
gian nói dối và vu oan giá họa cho Bà bao nhiêu lần? Giết Bà cũng một tay
Giáo Hội, phong thánh cho Bà cũng một tay Giáo Hội, nhưng có mấy ai được may
mắn như Bà. Hầu hết các trọng tội mà Giáo Hội phạm tại các "Tòa Điều Tra Dị
Giáo" là tội đẻ ra tội theo cấp số cộng và cấp số nhân."[6]
[5]
Nguyễn Gia Kiểng, Tổ Qiốc Ăn Năn (Paris: TXB, 2001), tr 187
[6] Phan Dình Diệm. "Mea Culpa Bài 3 - Giáo Hội Công Giáo Roma La Tinh Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn Năm" http://
www.kotohoc.com/Bai/Net066.html. Ngày 19/9/2000.