|
18 tháng 2, 2011 |
Người Việt đi du lịch
thường nghĩ đến Athenes, Bangkok, Beijing, London, Moscow,
Paris, Roma…thanh lịch và văn minh, thiêng liêng và trí tuệ.
Nhưng vĩ đại quá nên không thuộc về ai.
Châu Úc “riêng một góc
trời” rón rén lùi lại đằng sau. Nhưng chính ở đấy, nhiều
tuyệt vời vướng chân khách lữ hành. Những con chim đùa
nghịch giấu mỏ hôn nhau, tóc vàng tươi gót khua vang phố
Rocks, khăn lụa trên vai tường vi cài áo tràn ngập nhà hát
con sò Opera House, bên trái hương nồng ngày nắng Stadium
bên phải cánh rừng Tràm rợp mát, bộ ngực tròn trên bãi Bondi
cát đẫm lưng gió cuốn mùi em thơm theo sông chảy tuôn ra bể
…
Sydney cuối mùa hoa,
Jacaranda man mác tím đẹp như giấc mơ của khách lữ hành.
Người Úc vẫn giữ lấy cảnh quang ngày 29/4/1770 khi thuyền
trưởng James Cook 42 tuổi rời con tầu Endeavour đặt chân lên
lục địa. Nơi ông đến, một bãi biển vắng bóng người, vô số vỏ
sò hoá vôi và những nhánh rong biển như chuỗi ngọc bích vắt
ngang hốc đá sóng biển soi mòn. Một đài nhỏ trên bờ nơi bước
chân James Cook đặt lên, ghi tên ông. Những cây bạch đàn
thân trắng dọc theo lối đi quanh co. Bao la và im lặng. Điều
kỳ diệu nhất nếu du khách cảm được trong không gian là tính
mạo hiểm của người da trắng và từ đó chạnh lòng khao khát
thêm nhiều chuyến viễn du. Theo vết chân James Cook, người
Anh nhoài ra khỏi thành phố lạnh lẽo sương mù, lướt trên đầu
ngọn sóng đi xây dựng một lục điạ, ngoại trừ tì vết đối xử
sai trái với thổ dân, còn thì cái gì cũng đẹp như vỏ sò
Nautilus dù phơi mình trên cát vẫn ôm ấp niềm bí mật của
biển khơi.
Khác
Nautilus, người Úc không giữ bí mật. Viện Bảo Tàng Quốc Gia
Canberra trưng bày những tấm ảnh chụp năm 1909 xích thổ dân,
chưng cả xiềng xích lẻng xẻng đã từng xâu cổ dẫn họ đi như
súc vật. Những thổ dân này, theo sách vở, cùng 1 chủng với
ngươì Hòa Bình ở VN. Một trăm năm trước, còn đen đúa như
thế, thì sáu ngàn, mười ngàn năm trước, không biết diện mạo
con người thế nào? Nếu thấy “tổ tiên” mình xấu xí thế, không
rõ mấy nhà sử học có nhận không, hay chỉ nhận trống đồng
Đông Sơn.
Người Úc cũng giữ lại tên
điạ phương, mà âm thanh là lạ làm đôi chân ưa chuyện mạo
hiểm phải ghé thăm. Từ ngàn năm, thổ dân có riêng con đường
Burrawang xuyên qua nơi bây giờ là Kamay Botany Bay National
Park. Mảnh rừng đó cung cấp đồ ăn, dược thảo, dụng cụ và nơi
trú ẩn cho thổ dân Gweagal, cây điạ phương là Banksia,
Eucalyptus và Illawarra.
Illawarra
còn có tên Christmas tree, gần đến ngày giáng sinh lá hoa và
quả một màu đỏ rực. Viễn khách mải đếm những ngôi nhà bằng
gạch nung màu đỏ, mái ngói cũng đỏ thấp thoáng dưới hoa, tự
hỏi mái nhà ấy đã ấp ủ bao mảnh đời ly xứ, bao chuyện tình
đổi trao, để từ một nơi nhốt tù, Úc trở thành một lục địa an
bình nhất trên thế giới? Nơi nào khí hậu cho phép cả hai cây
rụng lá và trổ hoa một lượt, người Úc trồng xen kẽ Illawarra
và Jacaranda, mỗi năm từ tháng 10 đến tháng 12, thiên nhiên
tô hai màu đỏ và tím, một tương phản vô cùng diễm lệ in trên
nền trời xanh trong vắt, một trời chỉ mù mịt khói khi có
cháy rừng. Các chuyên viên thời tiết say công việc như say
huyền thoại tình yêu, thường xuyên báo tin về cấp gió, cấp
bão, nồng độ Carbon monoxide, Nitrogen dixoxide…đôi khi cũng
bối rối vì trời đất Sydney cũng giống phụ nữ: một ngày hè
nhưng có tới bốn mùa, thoắt lạnh thoắt ấm, thoắt nắng thoắt
mưa, cách vài km nắng chang chang, trên núi có tuyết rơi.
Trời cho xứ Úc cây bạch
đàn Eucalyptus, cho luôn hai em kangaroo và kaola ăn lá
Eucalyptus. Hai con vật này tuy vậy không được kể như chó
mèo. Người Úc hiếm thi sĩ nên không có anh trai khói lửa nhớ
nhà dắt chú kangaroo lang thang châm điếu thuốc khói um
đường phố. Họ thực tế, biến kangaroo thành kỹ nghệ du lịch
và lấy thịt. Thịt kangaroo gần giống thịt bò, sớ mềm nhưng
hơi kém vị, dẫu vậy kangaroo-steak cũng giúp đời di tản đỡ
buồn khi bận bịu nhai nuốt. Không ai nói tới ăn thịt kaola,
chắc tại nó nhỏ xíu dễ thương dành cho mấy cô bé dưới 10
tuổi hôn môi chụp hình, cả hai đứa cười toe toét. Không thấy
các cô lớn hôn kaola. Chắc các cô dành đôi môi san hô cho
người khác. Miền Nam mình gọi bạch đàn là khuynh diệp, loại
làm dầu Bác Sĩ Tín trước 1975, có lẽ lúc đó trồng tại thành
phố sư tử-Singapore. Ở VN giờ không rõ có trồng làm cây kỹ
nghệ chưa? Dầu BS Tín phổ biến tới nỗi nhà nào cũng có vài
lọ. Báo hại quí bà quí cô nhè Channel số 5 cũng theo thói
quen quẹt ngang mũi. Về sau này có dầu gió xanh “hiệu Con Ó”
rất phổ biến ở VN, cũng làm từ Eucalyptus Singapore, leo lên
xe đò về miền Tây nực mùi dầu con Ó giống như vào nhà bảo
sanh.
Nhà thảo mộc học Joseph
Banks, người Anh, đến Australia một lượt trên tàu Endeavour
với James Cook năm ông 27 tuổi. Joseph Banks và Daniel
Solander, người Thụy Đìển, liệt kê/phân loại tới 132 loại
cây trong đợt đổ bộ Kamay Botany Bay, đặc biệt giới thiệu
với phương Tây cây Eucalyptus, Mimosa, Acacia và Banksia. 11
năm sau, Banks đuợc trào đình Anh phong nam tước. Người Úc
có vẻ ái mộ Banks, nên ngoài đặt tên cho cây Banksia, Sydney
còn có Bankstown, Café Banksia, Banksia Adventures, Banksia
Railway Station…Người xa nhưng hoa lá còn ở lại, vài cánh
hoa khô, lá ép của họ còn trưng bày ở National
Herbarium/Sydney. Banksia chiụ được khô hạn, mọc chen với đá
tảng. Ở Úc, vào mùa khô, nắng rọi lá khô làm thành cháy tự
nhiên, hạt Banksia nhờ cháy, nứt mầm cho thêm những cây con.
Hạt khô Banksias là nguồn thức ăn cho chim, thỏ, sóc, dơi,
ong…Cành Banksia ở tiệm hoa cho những bó hoa mạnh khoẻ nhờ
nhiều mầu chói lọi và thân cứng.
Ngươì Úc có thói quen tốt
cuả ngươì da trắng: đánh giá và giữ gìn những gì thuộc về
môi trường hay quá khứ. Năm 2000, công trình Olympic Stadium
đang xây dựng phải ngưng ngang và chuyển hướng vì khám phá
ra một hồ nước có loài Green Frog, đang trên đà tuyệt chủng,
sinh sống. Hồ đuợc khoanh vùng, bảo vệ cẩn mật. Nước hồ thức
ăn cỏ hoa tạo điều kiện sinh thái cho mấy chú chàng Green
Frog chỉ chuyên viên mới đuợc phép xuống. Trên mặt hồ, du
khách tò mò dạo trên Ring Walk, có vòng tròn 550 mét cao hơn
mặt hồ 18 mét, nhìn xuống dưới hồ tìm kiếm vô vọng mặt nước
xao động may ra có 1 chú nhái màu xanh.
Tính giữ gìn bản sắc của
người Việt ở Úc tỉ mỉ và sâu lắng ăn vào kẻ tóc chân tơ, có
thể chính người trong cuộc cũng bất ngờ, không hề đặt câu
hỏi xem lòng mình đã biến tan chưa hay vẫn giữ làn hơi ấm
cũ. Tượng Phật, tranh Đông Hồ, tranh sơn mài, vài cụm bạc hà
dấp cá ngò gai tía tô húng quế húng cây… Cây ăn trái không
bưởi cũng chanh không hồng cũng khế dù lâu lâu dối dá qua
loa về VN nếm khế ngọt khế chua nhà hàng xóm.
Khu Cabramatta-Little Asia
có nhiều cửa tiệm người Việt. Đủ thứ hoa quả như chợ Long
An. Nếu rau trái có linh hồn sẽ hết sức vui khi hiểu ra có
những người lái xe gần tiếng đồng hồ chỉ đến ngó màu xanh
khổ qua, màu tím trái cà, màu đỏ trái ớt… Không hay trong lòng
có nỗi nhớ không tên gượng cười “nấu bậy tô canh ăn cho nó
mát”. Xoài chín hột vịt lộn chuối sứ hiệp màu tô đậm bức
“Quê Nhà”. Quầy bán chè đủ món cứ như má nấu ở nhà, chè đậu
chè chuối cốm dẹp nước dừa cho những tấm tha hương mượn chút
ngọt ngào. Ở Cabramatta, tiệm ăn Hương Xưa có món Mì Quảng
ngon hơn Mì Quảng Đà Lạt, bánh dẻo rau thơm nước dùng ngọt,
có lẽ vì tôm cua tươi.
Những thức ăn tưởng là lặt
vặt nhưng sắm vai cây Tràm cây Đước thời khai sinh Nam Bộ,
Sơn Nam mô tả trong Hương Rừng Cà Mau, lãnh trọn khó khăn
giữ đất bồi nơi nước ngọt nước mặn gặp nhau khó cây nào sống
nổi. Ở Cà Mau hiện nay, “rừng Tràm vàng” biến thành “rừng
Tràm nghèo”: vỏ cây Tràm xuất cảng sang Trung Quốc làm giấy
giá rẻ rề, nông dân mình trồng Tràm bậm môi nuốt nước mắt
thay cơm. Cây Mangrove/Tràm ở Úc vừa làm kiểng vừa giữ gìn
môi sinh, giữ vững bờ biển, nguồn cung cấp cá nước lợ. Gìữa
lòng Sydney Olympic Park, con đường Tràm thơ mộng Mangrove
Boardwalk quanh co bên sông Parramatta, in hệt mấy lối mòn
lá nâu vàng miền Mid-West bên Mỹ cuối thu.
Giữa xanh thẳm Mangrove
ngàn chim nước ríu rít cất khúc thanh ca, vỗ về tâm hồn bận
rộn mấy giọt nghỉ ngơi. Chim chóc xứ Úc còn giữ tánh nguyên
sinh, dạn dĩ tới sát xin ăn. Chim đủ màu, đầu và gáy màu đen
ngực đỏ chói cánh xanh. Chim chào mào rủ nhau tắm nắng, chim
sáo dắt tay nhau chạy dưới mưa. Có loài chim tên Laughing
Kookaburra, dài tới 42cm, chuyên viên bắt cá, tiếng kêu như
tiếng cười cốt nhắc nhở mấy bồ khác về không phận “xin miễn
oanh tạc, vượt qua binh sĩ sẽ nổ súng”.
Biển Úc nước ấm, mỗi năm
cá mập trốn lạnh tung tăng cả trăm con không mấy xa bờ. Cá
sông cá biển, ăn ở nhà hay nhà hàng đều ngon hơn cá… đông
lạnh. Miếng cá chắc, ngọt và không có vướng mùi tanh. Tôm
Sydney tươi rói, làm món pò pía gỏi ngó sen hay gỏi cuốn ăn
đâu mát đấy. Tiệm ăn Úc thịnh hành món Fish & Chips chiên
bột giòn tan. Món này bị tuyệt chủng ở Mỹ. Dân Mỹ khoái thịt
bò, tay cầm thuốc cao máu tiểu đường rưng rưng hai hàng lệ
thảm tay kia bốc hamburger nhanh như gió cuốn. Sydney tháng
12, giá tôm càng lobster đang từ $40/kg, thình lình xuống
20, rồi 15, vì Trung quốc khi không xoá hợp đồng nhập cảng.
Anh Hai chi tiền lâu lâu làm khó bà con. Hèn chi mấy nước có
buôn bán với Trung quốc lo canh chừng thị trường, lờ béng
món nhân quyền, thỉnh thoảng bấm nút cho sinh viên non tay
ấn hay nghị viên dân biểu mỵ dân, biểu tình cho vui đời …
dân chủ-khoa học giả tưởng. Anh Hai không mua chừng nửa năm,
ắt bỏ mạng sa tràng lấy kho đâu mà chứa, chưa kể ảnh hưởng
dây chuyền. Đi đến đâu cũng nghe tin vui giữa giờ tuyệt
vọng. Tinh thần ăn uống lên cao. Nhà nhà gọi nhau mời mọc,
tình lân lý nghĩa… tôm càng. Quí ông tử vi có sao Nấu Nướng
chiếu mạng nhân dịp trổ tài “tay ngọc bếp hồng”. Ngọc thật
hay ngọc giả, lobster vẫn ngon như chưa ngon thế bao giờ.
Người Việt ở Sydney có đôi
điều hơi khác. Ở California, quí bà lái xe quí ông ngồi cạnh
tỉnh bơ là thường. Ở Sydney, “ông lái bà la”, chỉ trỏ khan
tiếng, nhưng quí ông không bao giờ mất mặt ngồi cho đàn bà
lái. Mà họ lái rất giỏi, có nghĩa không làm người ngồi bên
nghiến răng ken két vì sợ hãi, dù đường sá
Sydney lái bên trái, vòng vèo như sắp leo lên lề, khiến lâu
lâu tái xế đi lạc nẻo niết bàn, vòng tới vòng lui như Lục
Vân Tiên cõng mẹ đi ra đụng phải cột nhà cõng mẹ đi vô. Quan
sát bãi đậu xe, thấy đa số bác trai thuộc chi chủng “Thong
Thả Đi Ra Cửa”. Chàng xuống xe, rút chìa khóa đút túi, anh
dũng đi thẳng một lèo “đường ta ta cứ đi nhà ta ta cứ xây
ruộng ta ta cứ cầy…” Không mở/đóng cửa xe, không cầm tay,
không chờ đợi, không ngừng lại, không dắt qua đường, không
giúp khoác áo, không để tay lên eo ếch, không bỏ valise
lên/xuống xe, cũng không quay laị xem có cần giúp vợ/đào/chị
em/bạn gái/con gái khiêng vác bao lớn bao nhỏ. Nhiều khi đi
xuống thang cuốn, quay lại không thấy khúc xương suờn chạy
theo, chàng cũng không nhăn nhó. Ung dung chàng nhịp chân
hát hết liên khúc mùa thu; hay vừa thiền vừa ngó tóc vàng
nhún nhảy trên hè phố mà không cần phải đến thiền viện mắc
mỏ như ở California. Quí ông đóng tròn vai chủ gia đình
lương hảo, “family man”, sửa gara sửa nhà lót gạch thay ngói
sơn tường… Không biết ít nhiều có giống quí Việt kiều bên
Mỹ, đa số thuộc đại chủng “Đang Sửa Lăn Ra Ngủ.”
Nếu quí ông hồn nhiên
thiền, quí bà tự tin qua cách ăn mặc còn vương nét “y phục
xứng kỳ đức”. Trang điểm nhẹ nhàng, giờ nào áo đó, không
thấy đeo kim cương 2 carat ra hồ bơi, hay xách ví Louis
Vuitton 3 ngàn đi chợ mua mắm tôm mắm ruốc. Sự đơn giản này
có thể do môi trường sống: Sydney quen tiết kiệm. Chỉ được
tưới cây 2 ngày 1 tuần; nhà nào cũng có giây phơi quần áo;
chỉ dùng máy sấy khi trời mưa liên tiếp; chính phủ đang tài
trợ chương trình Solar System dùng năng lượng mặt trời, bàn
cầu có 2 nút, nhấn phân nửa hay toàn thể số lượng nước tuỳ
nhu cầu. Ý kiến này tuyệt hay, không hiểu sao những tiểu
bang khô hạn như California, Arizona, Las Vegas… ở Mỹ thích
xài đã điếu, rồi cha con mếu máo khai vỡ nợ, dân biểu nghị
sĩ hy sinh làm thinh cho chắc.
Người Huê Kỳ ưa làm nhiều
quả bất ngờ làm dân Úc bảo thủ ngạc nhiên. Tháng 11, ngoại
trưởng Hillary Clinton qua thăm Melbourne. Bà làm con sò
Opera House trố mắt khi nhận xét về Vegemite, món bơ mặn
người Úc ăn mỗi ngày “Các bác trét Vegemite vô chi cho hư cả
bánh mì”. Tháng 12, Oprah Winfrey cùng tùy tùng từ Mỹ sang
Sydney hô hào bà con du lịch Úc Châu. Oprah ký ngay chi
phiếu $250.000 tặng gia đình Kristian Anderson bị ung thư.
Oprah còn tuyên bố sẽ cung cấp máy computer cho toàn thể học
sinh thầy giáo. Nói về tính bảo thủ, không thể không nhắc
tới đầu thế kỷ 20, tiêu chuẩn được làm công chức của Úc vẫn
phải là “da trắng/theo Tin Lành” (White Anglo-Saxon
Protestant, viết tắt là WASP). Cho đến những năm 1960, giới
"thượng lưu" hầu hết là WASP. Người theo Ki-tô La Mã bị kỳ
thị trong ngành hành chính và nhiều ngành khác. Từ 1940-50,
chính phủ (liên bang/tiểu bang) mới bắt đầu tuyển người
Ki-tô Irish làm công chức. Đảng Lao Động/đa số thành viên
Ki-tô giáo lần đầu cầm quyền năm 1910. Từ 1970-80, nhiều sắc
dân nhập cư khiến nước Úc có bộ mặt “đa văn hóa”. Nhiều luật
chống kì thị ra đời, các ngành nghề không phân biệt chủng
tộc, tôn giáo, giới tính…Tuy vậy, ở Sydney không thấy đón
giáng sinh tưng bừng. Cuối tháng 12, thấy mỗi một căn nhà
trang hoàng giăng mắc đèn đóm.
Sự bảo thủ còn thấy ở đám
học sinh tiểu học trung học mặc đồng phục hết sức dễ thương,
quần xanh aó trắng, váy trắng áo hồng… có thêu huy hiệu từng
trường. Lên đại học, các em gái nhí nhảnh mới mặc váy
mini/maxi-sandal La Mã, thiên thần trên trời thở dài muốn
xuống làm người trần gian. Các nữ sinh viên Sydney có vẻ nữ
tính hơn sinh viên những thành phố bên Mỹ, ngay cả Boston,
ưa quần Jeans, trông bụi đời nhưng thiếu vẻ mềm mại.
Dùng xe điện đi Pitt
Street Mall, du khách tấp nập. Chỉ một đọan đường ngắn có
tới 600 cửa hàng lộng lẫy. Trước đây đa số du khách Á Châu
là người Nhật. Nay người Trung Hoa thay thế, mua sắm linh
đình. Trong tủ kíếng nữ trang bày một viên ngọc trai cực
lớn, khoảng 16mm, màu vàng đậm cực hiếm như vàng 22 karat,
loại Golden South Sea Pearl, ngọc trai nước mặn tỏa màu ngũ
sắc nước bóng êm như lụa có thể soi như soi kiếng. Ngọc màu
vàng được cấy từ loaị sò Gold-Lipped Pinctada Maxima. Viên
ngọc trai này có thể từ Broome, trại nuôi sò rất nổi tiếng
của Úc nhưng trên thị trường ít nghe tên. Giá có thể từ
$6,000-10,000 nếu do sò tự nhả nước dãi - trong phản ứng tự
vệ chống lại vật lạ (tức là một hạt xà cừ 6 hay 8mm) do
người ta cấy vào thịt chúng - trong vòng từ 10 đến 12 năm,
hoặc $300 nếu được các chuyên viên trong phòng thí nghiệm
sơn bằng tay cũng với nước dãi con sò, đại khái giống như
quí bà sơn móng tay, lớp này chồng lên lớp khác.
Xuân thì mua sắm nữ trang
thích chọn Mikimoto, Tahitian Pearl và South Sea Pearl. Tất
cả là ngọc nhân tạo. South Sea Pearl thường màu trắng, lớn
hơn 10mm, do năm nguồn cung cấp: Úc-Indonesia-Myanmar
(Burma)-Philippines và Papua/New Guinea). Úc cung ứng nhiều
nhất, với doanh số bán AUS$200 triệu/1 năm. Úc và Bahrain
(vịnh Ba Tư) là hai nơi cuối cùng trên thế giới còn tìm thấy
ngọc trai thiên nhiên. Năm 1930, nước vịnh Ba Tư bị kỹ nghệ
dầu hoả làm ô nhiễm, tiêu diệt cả loài sò. Vì vậy, Úc là nơi
duy nhất còn có ngọc trai thiên nhiên. Nhưng trong hàng trăm
hay ngàn con sò, may ra mới có 1 con có ngọc. Quí bà nội trợ
mua sò làm món ăn nên coi kỹ, biết đâu! Dù không đủ tiêu
chuẩn làm nữ trang, cũng là một bất ngờ lý thú. Nếu bị nấu
sôi, viên ngọc trai hư hoàn toàn không cứu chữa được.
Museum khoe Opal là loại
đá quí được Úc công nhận là đá quốc gia. Opal có độ cứng
Mohs từ 6-6.5, so với kim cương 10. Opal đặc biệt hơn hết
thẩy gemstones ở chỗ có đủ màu sắc vô cùng lộng lẫy, từ xanh
như Jade, tím như Amethyst, trắng như Moonstone, đỏ như
Ruby, xanh như Saphir, từ trong suốt đến đặc. Tuy nhiên,
hình như người Việt không có duyên với opal, cho rằng …xui.
Một suy nghĩ rất huyền bí Đông Phương, có nghĩa… miễn bàn.
War
Memorial ở Canberra không chỉ là một bức tường ghi tên tử sĩ
như ở Washington DC. Nơi đây trưng bày hình ảnh của quân
nhân Úc tham chiến cạnh Đồng Minh suốt từ Chiến Tranh Lạnh
1946 đến bây giờ… Địa đạo, súng đạn, tóc bết máu, tập vở
rách nát, dao nĩa gẫy gục… Một bức tượng gây xúc động, ngườì
lính mình mẩy toàn bùn, tạm nghỉ bên chiến hào gục đầu vào
hai tay. Đôi bàn tay tạm sạch nhờ rửa vào vũng bùn đặc quánh
kế bên. Kích thước bằng người thật, nhọc nhằn cũng thật và
hy sinh cũng thật. Từ Flanders, chiến trường và nghĩa trang
tử sĩ biên giới Pháp/Bỉ thế chiến I, những bông hoa poppy
màu đỏ thắm nở đầy. Tin rằng hoa thắm máu người vừa giã từ
vũ khí, Đồng Minh chọn poppy cho ngày tưởng nhớ. Người lính
John McCrae chứng kiến cái chết đồng đội 22 tuổi, lặng lẽ
khóc bạn, bài thơ “In Flanders Fields” viết tay nắn nót
trong tập vở. Xin dịch thoát “Bạn ơi, từ tối đêm khuya đến
đầu sương sớm-Mình đã sống. Rồi mình sẽ mãi nằm xuống nơi
bến Flanders-Dù mình đang yêu và cũng được yêu”. Có 520 quân
nhân Úc tử trận tại chiến trường VN từ 1962-1975.
Ở VN, tính
cho đến ngày hôm nay, đài Kỷ Niệm Chiến Sĩ Trận Vong do quân
nhân Úc dựng tại đồn điền cao su Long Tân là đài duy nhất
còn được VN lưu giữ, dù ở đâu cũng vậy, chỉ lính là người
mỏi mệt nhất và chết đúng nghĩa “hy sinh” nhất. Nobel Văn
Chương 2005 Harold Pinter đau đớn hỏi “ hôn xác chết,
có ai vuốt mắt cho xác chết, có ai chôn xác chết?” Trả lời
ông, trên hồ nước, một ngọn lửa loang loáng cháy suốt ngày
đêm, tượng trưng linh hồn tử sĩ không bao giờ diệt.
So ra trong trăm ngàn gặp
mặt rồi chia tay, trên bến nước nhân gian nghiêng mình ngắm
nghía kẻ ở người đi tô vẽ trăm điều não nuột. Sao không đơn
giản yêu lấy cả hạnh ngộ lẫn chia ly? Để dành “Con thuyền
ngọn gió chia phôi. Bạc đầu sóng bạc đầu người ra đi” cho
những người chiến sĩ.
Tạm biệt Sydney. Tạm biệt
Jacaranda. Hẹn ngày này. Năm nao? Ai nào biết?
Trần Thị Vĩnh-Tường Cuối
mùa hoa Jacaranda tháng 12/22/2010, Sydney
© http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Trần Thị
Vĩnh-Tường