Hậu Quả Của “ Cái Chết ” Của Tôi
Nguyễn Đắc Xuân
http://sachhiem.net/NDX/NDX020.php
ngày 27 tháng 1, 2011
Một ngày vào năm 1970, cơ sở của Thành uỷ ở Huế gởi
báo cáo ra cho biết Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn vừa trao cho nhà
văn nữ Nhã Ca một giải thưởng lớn dành cho cuốn Bút ký Giải Khăn Sô Cho Huế
- cuốn sách nói xấu lục lượng cách mạng trong tết Mậu thân. Đặc biệt chương
7 Chuyện Từ Thành Nội viết xuyên tạc các hoạt động cách mạng của anh em
Hoàng Phủ Ngọc Tường - Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, và các vị nhân
sĩ trí thức trong Liên minh các LLDTDC và HB Thành phố Huế .v.v. Anh Tống
Hoàng Nguyên-phụ trách an ninh của Thành uỷ cho tôi mượn cuốn sách, tôi đọc
thấy ở Chương 7 viết về nhân vật Đắc “là một sinh viên trẻ trung, hăng
hái..Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại
Huế lập những phiên toà nhân dân, kêu án tử hình hàng loạt người, rồi đích
tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố
để xử tử”. Bài ghi chép xem Đắc như một dẫn chứng về tội ác nhồi sọ trí
thức của Cộng sản .
Biết Nhã Ca viết ám chỉ mình, nhưng đọc
xong chương sách tôi không hề giận tác giả, chuyện phục vụ tâm lý chiến rẻ
tiền, cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca phụ trách nguyên cả một chương trình
của đài Tự Do của Mỹ tôi còn lạ gì. Chỉ buồn cười thôi.
Các hoạt động của
tôi ở Huế dân Huế biết, các đồng chí đồng sự của tôi hiện còn đang sống đều
biết rất rõ. Giữa một cuộc chiến đấu lớn lao, đông đảo như thế, tôi xử ai và
tôi giết ai tôi không thể làm một mình và chắc chắn 30 năm qua những đối
tượng ấy không thể làm thinh trước dư luận báo chí trong và ngoài nước. Tôi
đã mở toà án ở đâu và xử ai ? Đến nay ở nước ngoài có lẽ Nhã Ca có thể viết
rõ ra để chứng minh tính chân thực của cuốn sách được Nguyễn Văn Thiệu trao
giải năm nào. Còn tôi,-một sinh viên Phật tử mới thoát ly chưa đầy một năm
rưởi, không có quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những việc như Nhã Ca viết
thì cũng không thể làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ý làm, làm sao
tôi có thể thoát được sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt là
những người sau nầy không còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa. Những
chuyện Nhã Ca bóp méo sự thật vẽ rắn thêm chân chẳng quan hệ gì với tôi.
Nhã Ca hay Trần Thy Nhã Ca là bút hiệu của cô
Thu Vân. Thu Vân học một lớp với bà chị họ Nguyễn Thị Xuyến của tôi. Tôi gặp
Thu Vân ở nhà chị tôi ở đường Chi Lăng nhiều lần. Cô không đẹp, khuôn mặt
hơi nặng nên bọn em trai của chị tôi cùng thế hệ với cô lúc ấy ít người để ý
đến cô. Năm cô đang học đệ Tam hay đệ Nhị gì đó ở trường Đồng Khánh cô có
làm một bài thơ nhan đề Quê ngoại (hay Quê mẹ ?) và gởi cho báo Văn nghệ
Tiền Phong- một tờ báo lá cải ở Sài Gòn lúc ấy. Bài thơ chưa được đăng thì
cô nhận được thư của một người mang tên Hoài Nam - nhân danh một người có
quyền ở báo Văn Nghệ Tiền Phong, báo cho cô biết bài thơ cô đã bị vứt sọt
rác, nhưng may mắn Hoài Nam nhặt được, đọc thơ thấy tác giả là một cô gái
Huế có tâm hồn nên đã đưa bài thơ lên báo. Hoài Nam trở thành ân nhân
của Thu Vân.
Từ đó Thu Vân và Hoài Nam có quan hệ tình cảm với nhau. Tôi
không nhớ rõ vào năm 1959 hay 1960 gì đó, Thu Vân hồ hỡi lên ga Huế đón bạn
Hoài Nam ra thăm người yêu ở Huế. Tàu đến, cô hồi hộp vô cùng. Nhưng quái
lạ, trong những khách đi tàu xuống ga cô không thấy có người nào để cô có
thể nhầm đó là Hoài Nam được cả. Cô nữ sinh Thu Vân thất vọng đứng nép mình
bên sân ga. Bỗng nhiên cô thấy có người đàn ông đi sau cùng, tay xách cái
túi con, mặt rỗ, tóc đỏ bù xù trước mặt. Thấy Thu Vân, người đó hỏi:” Cô có
phải là Thu Vân không ?”. Vượt quá sức tưởng tượng của mình, Thu Vân đáp :”
Không. Tôi không phải là Thu Vân”. Hai người lặng lẽ ra ga, mỗi người đi về
mỗi ngã. Thu Vân về nhà ở Bến Ngự. Người khách chính là Hoài Nam về nhà Ngô
Đức Chương-một người làm thơ ở với mẹ già tại một ngỏ hẹp của đường Ngô Đức
Kế trong Thành Nội. Nhà chật có khách thơ, Chương mượn tôi[1][1] cái giường
bố cho Hoài Nam nằm.
Hằng ngày Hoài Nam viết truyện ngắn hay làm thơ đăng
trên nhật báo Công Dân của Lê Trọng Quát kiếm tiền độ nhật. Về sau, có lẽ
hối hận về hành động phủ phàng của mình, Thu Vân đã tìm đến với Hoài Nam
và hai người đã yêu nhau thật sự ngay trong nhà Ngô Đức Chương. Sau đó Thu
Vân bỏ học vào nam với Hoài Nam và hai người có hai bút hiệu mới là Trần
Dạ Từ và Trần Thy Nhã Ca. Trong những năm Huế luôn có những phong trào đấu
tranh chống Mỹ Thiệu Kỳ, ở Sài Gòn Trần Dạ Từ viết cho mấy tờ báo của Chu Tử
thân chính quyền Sài Gòn và có quan điểm chống Cộng rất gay gắt. Trần Dạ Từ
có nhiều bài viết xuyên tạc phong trào đấu tranh ở miền Trung, xúc phạm đến
nhiều bậc đáng tôn kính ở Huế. Do đó mùa hè năm 1966, Trần Dạ Từ ra Huế tiếp
tục nói xấu phong trào miền Trung đã bị anh em Sinh viên Quyết tử chận lại
tại sân bay Phú Bài và buộc anh phải rời miền Trung.
Sau đó tôi quá bận với
việc đối phó với những lời đe doạ “ làm cỏ” phong trào miền Trung của Thiệu
Kỳ, tôi không theo dõi được những bài viết của Trần Dạ Từ về miền Trung nên
không rõ anh đã có ý nghĩ về tôi như thế nào. Còn tôi, lúc ấy chuyện quan
điểm đấu tranh bất bình với nhau là chuyện bình thường. Không riêng gì những
người tay sai Mỹ-Thiệu Kỳ có quan điểm khác chúng tôi, ngay trong hàng ngũ
sinh viên tranh đầu chúng tôi vẫn có những chuyện không chịu nhau và sát
phạt nhau. Nhưng khi hết tranh đấu rồi lại chơi với nhau bằng tình bè bạn.
Những quan điểm trái ngược nhau trong lúc đấu tranh trở thành những kỷ niệm.
(Dĩ nhiên những người tôi nói đây thuần túy sinh viên, trí thức, không thuộc
phe nhóm đảng phái chính trị nào). Tôi đã nghĩ và đã sống suốt những năm
sinh viên như thế.
Sau 1975 về lại Huế, trong các chiến dịch
“chống văn hoá độc hại của Mỹ ngụy” (3.1976) nhiều người đặt bài cho tôi
viết lên án Nhã Ca. Tôi từ chối. Lý do: Thứ nhất, sách của Nhã Ca có nêu
đích danh tôi đâu mà tôi phải lên tiếng. Thứ hai, dù sao Nhã Ca cũng là bạn
của chị tôi, nỡ nào tôi lại “đánh” người dưới ngựa bạn của chị mình.
Nếu sau giải phóng tôi viết bài đả kích Nhã Ca, ngành nội chính sẽ có thêm
căng cứ để kéo dài thời gian học tập của cô lâu hơn. Như vậy nó trái với
con người của tôi. Tôi không viết.
Bẵng đi mấy năm không còn có dịp nhắc đến Nhã
Ca nữa. Rồi đến một dạo trước năm 1980 (tôi không còn nhớ đích xác năm nào)
tôi vào TP HCM, được anh Phương Hà ở báo Đại Đoàn Kết cho mượn một chiếc xe
đạp để đi tìm mua tài liệu cũ về Huế xưa. Nhà anh ở trên tầng cao của cái
Building ngay ngã tư Đồng Khởi-Lê Thánh Tôn. Khi gởi xe cho người giữ ở tầng
trệt xong, tôi thả bộ dọc đường Đồng Khởi tìm mua cho con anh Phương Hà một
gói bánh. Cách đó khoảng năm sáu gian phố gì đó tôi thấy có cái quán giải
khát vắng vẻ, bên ngoài kê một cái tủ kính bên trên có mấy thẩu bánh (ga-tô
hay bánh thuẫn ? ). Nhìn vào trong không thấy khách chỉ có một người đàn bà
với nét mặt nặng và buồn, mái tóc thề tóc cắt ngắn ngang vai. Tôi hỏi:” Chị
làm ơn bán cho mấy cái bánh !”. Người đàn bà đến mở nắp thẩu lấy bánh cho
tôi. Khi tay cô vừa chạm vào mấy cái bánh trong thẩu thì như bị điện giật cô
rút tay ra và chụp cái nắp nhôm xuống miệng thẩu kêu một cái cốp rồi quay
lưng vô nhà. Tự nhiên tôi kêu lên :
-” Thu Vân ! Tại sao thấy moa, toa
lại bỏ đi ?”.
Người đàn bà quay lại nét mặt thảng thốt:
-” Tôi nghe người ta nói anh đang tìm tôi để
giết tôi nên sợ quá ...!”.
-” Vì chuyện nhân vật Đắc toa viết trong giải
Giải Khăn Sô Cho Huế phải không ?” Tôi hỏi và nói tiếp
-” Chuyện của nhân vật
Đắc có liên quan gì đến moa mà moa tìm giết toa ! Mà làm sao moa có thể giết
toa dễ dàng đến vậy !”
Nghe thế có lẽ Nhã Ca thấy đúng là con người
thật của tôi khác với con người cô tưởng tượng sau khi tôi tham gia kháng
chiến, cô lấy lại tư thế bình thường. Cô không mời nhưng tôi vẫn vào kéo ghế
ngồi. Nhã Ca miễn cưỡng ngồi vào ghế đối diện tiếp tôi. Tôi không gọi cô là
Nhã Ca, không nói chuyện sách vở mà gọi cô là Thu Vân và chỉ nói về chuyện
chị Xuyến tôi vừa vượt biên qua Úc. Thu Vân cho biết Hoài Nam đang còn học
tập chưa về, cô được về sớm để chăm sóc các con. Hoàn cảnh cô đang rất khó
khăn. Khó nhất là không ai có sổ gạo. Đến khi câu chuyện trở nên thân tình
tôi hỏi thật cô:
- Vì sao năm 1968 Thu Vân lại viết về nhân vật
Đắc để ám chỉ tôi như thế ?
Thu Vân trả lời rất thành thật :
- Lúc đó ai cũng nói anh chết rồi, chớ ai ngờ
...
- Sao Thu Vân lại nỡ dựng chuyện ác cho em của
một người bạn mình như thế ? - Tôi hỏi với giọng trách móc.
- Như anh biết đó - Thu Vân giải thích- viết ký
thì phải có những con người bằng xương bằng thịt mình biết rõ ràng mới hay,
chứ anh nghĩ lính giải phóng ở miền Bắc vào tôi nào có biết ai đâu ?
- Té ra như vậy.
Sở dĩ có chuyện không tốt ấy xảy ra là vì nhiều
người tin tôi đã chết. Hồi tháng 10.1996, trong một bữa cơm thân mật ở nhà
chị Trà My-anh Phạm Doãn Để ở quận 18 Thủ đô Paris tôi kể lại chuyện gặp lại
Nhã Ca trên đường Đồng Khởi trên đây, hai anh chị cười vang :
- “Thế mà bao năm nay anh chị cứ trách Xuân !”.
Vâng, không phải chỉ có anh chị trách mà còn
nhiều người nữa.
Người ta nói tôi đã chết không phải vì ghét tôi
hay bịa ra để có chuyện nói với những người thích bày chuyện. Ngay những
người rất thương tôi “đã có đầy đủ chứng cứ về cái chết” của tôi.
Sau ngày giải phóng 1975, tôi vào Nha Trang
thăm một người bạn vong niên ở 12 Bến Chợ - nhà thơ cổ điển Quách Tấn. Lúc
đó mắt anh đã yếu, tôi bước vào nhà rồi mà anh vẫn không nhận ra tôi. Thấy
anh ngồi bên cạnh cái bàn thờ kê giữa nhà, tôi mừng quá gọi lớn :
- “Thưa anh, anh vẫn khoẻ chứ ?”.
Quách Tấn ngước mắt nhìn tôi đầy vẻ kinh ngạc
:
- “ Ai mà nghe quen quen đó ?”.
-“ Em đây ! Nguyễn ...- người được anh hướng
dẫn để nghiên cứu về Bích Khê và Đào Tấn thuở nào đây !”.
Quách Tấn hốt hoảng:
-” Chú Xuân, chú là người hay là ma hiện về
đó ?”
Tôi đâm ngạc nhiên :
- ” Em là Xuân đây chứ sao lại là ma !”.
Giọng đoan chắc, Quách Tấn nói tiếp:
-“ Chú chết rồi mà ! Tôi đã cúng cơm cho chú
nhiều lần rồi mà ! “
Tự nhiên tôi khóc. Quách Tấn cũng khóc. Hai
anh em ôm nhau. Quách Tấn nói trong nước mắt:
- “Chú chết rồi làm sao chú có thể sống lại
và về thăm tôi đây ! Tôi không thể nào hiểu được”.
Sau cái phút bàng hoàng đó, Quách Tấn kể
chuyện anh đã nhận được tin tôi đã chết như thế nào :
Năm ấy, sau khi lực lượng giải phóng rút ra
khỏi Huế, một người học trò cũ của anh là sĩ quan, trong lúc chỉ huy quân
đội dọn dẹp những đổ nát trong Thành Nội, thì phát hiện trong một ngôi nhà
sập ở đường Âm Hồn có mấy xác chết đã sình thối, bên cạnh có một tay nải
may bằng vải dù bọc cái ví da đựng 200$ bạc Sài Gòn, một Thẻ Sinh viên mang
tên Nguyễn Đắc Xuân, một số thư từ, trong đó có thư của l.m.N.N.L. gởi cho
Nguyễn Đắc Xuân từ tháng 7.1966 và một xấp nhật ký. Anh sĩ quan nầy vốn là
học trò cũ của Quách Tấn nghĩ cái tay nải nầy là của một trong những người
đang nằm chết đây. Người sĩ quan liền giấu cái ví và đem về Nha Trang bí
mật khoe với thầy. Biết chuyện ấy Quách Tấn đã khóc và không dám nói với
người học trò cái tay nải nầy là của chính một người bạn vong niên của mình.
Quách Tấn giấu gia đình dẹp một góc bàn thờ bên cạnh chỗ anh đang ngồi hôm
nay đặt một chén cơm cúng tôi. Kể đến đó anh lại ôm tôi :
-“ Không ngờ chú vẫn sống và nhớ vào thăm tôi.
Đời sao mà có chuyện lạ kỳ đến vậy ! Làm sao chú có thể sống được, chú kể
cho anh nghe coi !”.
Nghe đến đó tôi hiểu ra ngay. Chuyện thật đơn
giản.
Hôm đó có lẽ quân giải phóng đã chiếm Huế
trên mười ngày rồi. Suốt ngày làm việc, đêm ngủ dưới hầm đất, thân thể chúng
tôi đứa nào cũng bẩn như hủi. Nhân một buổi trưa vắng tiếng súng tôi theo
chân cô Đoan Trinh - con cụ Nguyễn Đoá, về nhà cô ở đầu kiệt 2 đường Âm Hồn
xin nước giếng tắm. Tôi mới vào phòng tắm, vừa cởi cái tay nải ra khỏi thắc
lưng treo lên cửa thì pháo Mỹ rót ầm ầm xuống khu vực chúng tôi đang có mặt.
Nhà cụ Đoá sập, một vài bộ đội tự vệ đang trú trong nhà chết và bị thương
nặng. Tôi hoảng hốt chui ra khỏi nhà chạy thụt mạng vào phía Đại Nội. Và từ
đó chiến trường quá ác liệt, tôi không còn có dịp trở lại kiệt 2 Âm Hồn để
tìm cái tay nải nữa. Không ngờ nó đã văng đến cạnh một người nào đó đã chết
và cuối cùng lọt vào tay người sĩ quan học trò cũ của anh Quách Tấn.
Quách Tấn ở tận Nha Trang Khánh Hoà mà còn biết
chuyện tôi đã “chết “ cụ thể đến thế huống chi Nhã Ca lúc đó đang ở Huế ?
Và không riêng gì Nhã Ca, có một sinh viên lúc ấy tưởng tôi “chết” thật đã
ung dung “mượn” cái luận văn tốt nghiệp của tôi ở Đại học Sư phạm Huế về Hát
Bội để chế biến lại làm luận văn Cao học của mình và vẫn được chấm đậu như
thường. Sau 1975, gặp tôi ở trường Âm nhạc Huế, anh Hoàng Hữu Pha- người anh
con ông bác ruột của Hoàng Phủ Ngọc Tường, báo cho tôi biết chuyện ấy,
không những tôi không buồn mà ngược lại tôi đã bảo anh Pha :
-” Tôi không còn cần cái luận văn ấy nữa, có
người đã biết sử dụng nó như thế cái công làm luận văn của tôi không đến nỗi
không có ích”.
Cuộc đời tưởng đã chết mà lại sống, ôi có gì quý
hơn nữa đâu !
Nhân đây tôi cũng ghi lại chuyện anh Trần Mậu Tý
(T.M.T.) gặp tôi trong Tết Mậu thân.
T.M.T. là một sinh viên hoạt động rất
tích cực khi thành lập Đoàn sinh viên Quyết tử. Trong 3 đại đội của Đoàn,
T.M.T. làm đại đội trưởng Đại đội 1. Đại đội nầy vừa “ra trường Văn Thánh”
là vào Đà Nẵng hoạt động ngay. Tôi phụ trách đoàn nên phải ở lại Huế tiếp
tục huấn luyện cho Đại đội 2 và 3. Đại đội 1 có một tiểu đội “tác động tinh
thần” phụ trách phát thanh, báo chí. Phần lớn những ngưòi trong tiểu đội là
bạn thân tôi và về sau tôi được biết nhiều người trong tiểu đội là cơ sở của
giải phóng.
Một buổi chiều đang ở Đông Hà tôi được anh Lý Văn Nghiên (sinh
viên Hán Học) điện thoại gọi tôi vào để giải quyết khó khăn của Đại đội. Tôi
vào ngay Đà Nẵng, tôi đến “bản doanh” của Đại đội tại trường Bồ Đề, T.M.T.
đi vắng, anh em phản ảnh cho biết mấy hôm nay không hiểu sao chiều nào
T.M.T. cũng say và có nhiều hành vi khó hiểu. Ví dụ như trong một đêm anh em
đang ngủ, T. M.T. cho người lăn một cái thùng phuy rỗng trên đường Quang
Trung ầm ầm, rồi hô hoán là “xe tăng địch”, gọi anh em dậy xả súng bắn tơi
bời, làm náo động cả Thành phố Đà Nẵng.
Lực lượng ly khai ở Đà Nẵng (do đại
tá Đàm Quang Yêu, thiếu tá Tôn Thất Tương, thiếu tá Tôn Thất Trai đứng đầu)
lên án sinh viên Quyết tử làm loạn, đòi giải giới sinh viên. Tôi mời họp Đại
đội ở cái phòng đầu tiên của dãy lầu xây thẳng góc với đường Quang Trung.
Họp được một lúc thì T. M.T. chân thấp chân cao về. Thấy tôi đang ngồi ở bàn
thầy giáo chủ trì cuộc họp, T.M.T. rút dao găm đeo bên hông ném thẳng vào
mặt tôi, anh em đội viên hét lên, tôi cúi đầu kịp và cây dao oan nghiệt cắm
sâu vào cái bảng đen sau lưng tôi. Anh em bắt T.M.T. giam lại và bầu Lý Văn
Nghiên thay T.M.T. làm Đại đội trưởng. Sau đó Lý Văn Nghiên đưa Đại đội vào
Tam Kỳ rồi Quảng Ngãi hoạt động. Hôm Đại đội từ Quảng Ngãi về, T. M.T. đến
Tổng hội sinh viên đòi phục chức Đại đội trưởng. T. M.T. doạ sẽ bắn chết
những ai không nghe lời T.M.T. Dĩ nhiên là chẳng có ai sợ và cũng chẳng có
ai nghe theo lời T.M.T. Từ đó T.M.T. trở thành một người đối lập với sinh
viên tranh đấu, sinh viên làm gì T. M.T. cũng tìm cách quậy phá. Một buổi
tối sinh viên tuyệt thực ở bùng binh Morin, để bớt căng thẳng chúng tôi tổ
chức hát và ngâm thơ. Tôi đọc một bài thơ mới. Khi mới đọc đến câu:
“ Đã
bảy lần tham gia tranh đấu
Bảy
lần phải đổ máu, mồ hôi
Dân
tộc nầy chưa có hoà bình,
tôi
vẫn còn tranh đấu mãi không thôi ...”
Đang nằm với anh em sinh viên tuyệt thực, T.liền
đứng dậy rút súng lục chĩa sau lưng tôi:
-” Không tranh đấu nữa, câm mồm ngay không thôi
tau bắn nát óc !”.
Thật kinh khủng. Nhưng cho đến lúc đó tôi vẫn cho
rằng T.M.T. không được làm Đại đội trưởng nên bất mãn, uống rượu say làm bậy
thôi. Khi cuộc tranh đấu bị đàn áp, T.M.T. ở lại không bị hề hấn gì trong
lúc nhiều sinh viên chỉ tham gia tranh đấu sơ sơ cũng đều bị tù đày. Thế mới
biết T.M.T. là người của ai. Những người am hiểu tình hình đảng phái ở Huế
lúc đó cho tôi biết T.M.T. là đảng viên đảng Đại Việt, anh ta được chỉ đạo
tham gia tranh đấu để loại trừ ảnh hưởng của Giải phóng và lái phong trào
theo đường lối chính trị của đảng Đại Việt. Đến khi không lái được thì quay
qua phá hoại. Chuyện đó cũng dễ hiểu. Trong những năm trước đã xảy ra một số
trường hợp tương tự như thế rồi. Sau khi chúng tôi lên rừng, T.M.T. bộc lộ
rõ ý đồ chính trị của mình, anh lên án chúng tôi là “ăn cơm quốc gia thờ ma
cộng sản”.
Đến tết Mậu thân, hình như đến ngày mồng ba mồng
bốn gì đó, đội công tác thanh niên chúng tôi đang đào hầm trú ẩn cá nhân
trước sân một ngôi nhà ở kiệt 1 đường Âm Hồn, vào lúc xế chiều, có người
dẫn độ T. vào gặp tôi. Thấy tôi đang đứng trước thềm nhà, T.M.T. hồ hỡi phấn
khởi giang hai tay đến ôm tôi và nói:
- “ Bọn tự vệ bắt mình, mình nói là bạn với X.
nên họ đưa mình qua đây !”
Nghe T.M.T. nói như vậy anh tự vệ dẫn độ T.M.T.
giang ra. T.M.T. đặt tôi vào một hoàn cảnh rất khó xử. Giả như tôi không
giận T.M.T. mà sau lưng tôi là anh Hoàng Kim Loan- Thành ủy viên, chính trị
viên của đội công tác thanh niên, một người rất am hiểu tình hình tranh đấu
ở nội thành và chung quanh tôi có nhiều sinh viên đã biết rất rõ hành vi
chống đối sinh viên tranh đấu của T.M.T., tôi cũng không thể tỏ ý thân thiện
với T.M.T. lúc nầy được. Nếu tôi không thể hiện rõ về lập trường quan điểm
chính trị của mình tôi sẽ bị tình nghi “quan hệ với địch” và sẽ bị tống cổ
lên rừng ngay, hậu quả sẽ không lường hết được. Bản năng tự vệ trong tôi
buột tôi phải la lên:
- “ Tao mà là bạn của mày được sao !”- Tôi chỉ cái
hầm cá nhân đang đào dang dở trước sân nói tiếp- “ Chuyện chi còn có đó.
Xuồng ngồi dưới cái hầm cá nhân đó !’.
Trong cuộc chiến tranh nhân dân vừa qua,
đảng viên của những đảng phái chống Cộng nếu họ bị bắt giữa lúc giao tranh
thì họ khó lòng sống được. Trường hợp của T.M.T. dễ chết như không. Nhưng
không hiểu sao, anh Hoàng Kim Loan lại giao T.M.T. cho tôi quản lý giống như
các anh đã giao hoạ sĩ Lê Văn Tài cho Đội công tác thanh niên ngay lúc lực
lượng giải phóng mới chiếm được Huế. Các anh muốn thử thách người quần chúng
Phật tử nầy chăng? Thật khó cho tôi. Cuối cùng tôi đã có một giải pháp. Bên
cạnh chỗ tôi đóng quân có nhà của ông nhạc nhà báo Vĩnh Tháp. Vĩnh Tháp ở Vỹ
Dạ lên nhà vợ ăn tết gặp lúc chiến sự xảy ra anh tham gia với chúng tôi. Tôi
đưa cho T.M.T. một xấp giấy manh và bảo qua nhà anh Vĩnh Tháp ngồi tường
thuật những hành động phá hoại phong trào sinh viên của T. M.T. T.vâng lời.
Chúng tôi gởi cho Vĩnh Tháp một ít tiền lo chuyện ăn uống cho T. Nhưng sau
đó chúng tôi bị căn cứ Mang Cá rót đạn cối vào nhà, phải di chuyển ngay chỗ
ở. Và tôi cũng không còn có dịp gặp lại T. nữa.
Sau Tết Mậu thân nhiều
tháng, chúng tôi bị Mỹ rượt chạy lên tận miền tây ở biên giới Lào, mất hẵn
liên lạc với Huế cho nên tôi cũng không biết tình hình Huế sau khi chúng tôi
trở lại rừng xanh ra sao. Hơn một năm sau tôi mới nghe tin T.đã chết trong
tết Mậu thân. Những khi gặp những người quen biết T., chúng tôi thường đưa
ra mấy giả thiết về trường hợp T.chết như sau: Một : sau khi khu vực nhà ông
nhạc của anh Vĩnh Tháp bị bom đạn, T. đã trốn ra bên ngoài rồi bị bom đạn
lạc giết chết ở dọc đường, hai : T. ra ngoài chạy loạng quạng bị tự vệ hay
bộ đội bắn chết; ba: cũng có thể, sau khi T.được tôi gởi qua nhà anh Vĩnh
Tháp, những người lãnh đạo lực lượng vũ trang trong Thành nội lúc ấy cho bắt
lại và “giải quyết” theo lời phán xử của ông thần chiến tranh. Rất tiếc sau
nầy có nhiều lần gặp lại anh Vĩnh Tháp, tôi hỏi anh lúc ấy T. đã chết như
thế nào, anh bảo : “Lúc đó ác liệt quá mình mình cũng không còn nhớ.” (Hiện
nay anh Vĩnh Tháp còn khoẻ mạnh ở Vỹ Dạ Huế).
Tôi thoát ly đúng vào lúc cuộc chiến tranh
chống Mỹ diễn ra ác liệt nhất. Có biết bao đồng chí đồng đội của tôi đã ngã
xuống nhưng ít có cơ hội để tôi viết về họ. Cái chết của T. cũng thế. Nhưng
vì Nhã Ca đã viết không đúng với sự thực, nếu tôi không viết thêm đoạn nầy
thì người đọc trong các thế hệ sau sẽ khó có được một tư duy đúng đắn về sự
kiện nầy.
Lịch sử rất khách quan, không ai vu khống
được và cũng không xuyên tạc được. Những ai cố tình xuyên tạc, vu khống lịch
sử là tự mình gởi lại tương lai một tội lỗi không thể bào chữa được.
Nguyễn Đắc Xuân
ĐDTB , ngày 17/6/06