Tại Sao Tôi Chống Công Giáo

Trần Chung Ngọc

http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN57a.php

02-Feb-2012

 

Tôi quan niệm, trong thời đại ngày nay, bất cứ một “sĩ phu Việt Nam”  nào đã đọc về lịch sử của một tôn giáo như Công Giáo, nhất là lịch sử du nhập của Công Giáo vào Việt Nam và những gì Công Giáo đã làm đối với nhân loại nói chung, đối với dân tộc Việt Nam nói riêng, từ ngày đầu cho đến ngày nay, thì tôi chắc cũng phải đi vào con đường như tôi mà thôi.  Lẽ dĩ nhiên, tôi không thể chỉ viết vu vơ, mà tôi sẽ cố gắng chứng minh từng nhận định như trên, và xin quý độc giả hiểu cho rằng, tôi không có cách nào có thể trình bày đầy đủ các chi tiết liên quan đến các điểm trên của một tôn giáo đã có 2000 tuổi đời.
Người Công Giáo, vì sống trong một “đức tin”, và vì sự hiểu biết của họ về Công giáo cũng như về thế giới bên ngoài vô cùng thiếu sót, cho nên không thể hiểu được là chẳng có ai  “chống Công Giáo” như họ nghĩ cả, mà chính Công Giáo đã chống Công Giáo.
Thật vậy, chính những tín lý ngụy tạo thuộc loại mê tín hoang đường đã lỗi thời của giáo hội; chính cái lịch sử ô nhục, đẫm máu của Giáo hội Công Giáo trong 2000 năm nay mà Giáo Hoàng John Paul II đã phải lên tiếng xưng thú 7 núi tội lỗi của Giáo hội ngày 12.3.2000 tại Vatican; chính những triều đại dâm loạn của một số không ít Giáo hoàng; chính cái định chế độc tài buôn thần bán thánh của Giáo hội;  chính cái chính sách liên kết của Giáo hội với các chế độ thực dân để đi truyền đạo ở các nước nghèo yếu; chính sự suy sụp đạo đức của giới chăn chiên, điển hình là các vụ đồi bại như Linh mục cưỡng bức tình dục một số nữ tu trong 27 quốc gia trên thế giới, rồi ép một số đi phá thai, vụ một số không nhỏ Linh mục ở Mỹ, khoảng hơn 5000 “Chúa thứ hai” cưỡng bức tình dục trẻ em và nữ tín đồ, bắt đầu nổ ra ở Boston năm 2002 v..v..; chính sự bao che các tội phạm Công giáo của Tòa Thánh v…v… đã là những thực tế “chống Công Giáo” mạnh mẽ nhất mà người Công Giáo không bao giờ nhìn thấy và chấp nhận vì đầu óc đã bị điều kiện hóa từ khi còn nhỏ.
Sự hiện hữu của hàng trăm tác phẩm mà các tín đồ Công giáo bình thường cho là “chống Công giáo” mà tác giả là chính các giới chức cao cấp trong Ki-tô Giáo: trong Công giáo như Tổng Giám Mục, Giám Mục, Linh Mục, Giáo sư đại học, chuyên gia về tôn giáo, và nhiều trí thức Công giáo, trong Tin Lành như các Giám mục, Mục sư và giới trí thức đã nói rõ hơn gì hết là chống Công giáo không phải là người ngoài.  Trong số sách thuộc loại này không hề có một cuốn nào của Phật Giáo hay của Cộng sảnĐiều này chứng tỏ Giao Điểm hay Sách Hiếm không đứng trên lập trường của Phật Giáo hay của bất cứ tôn giáo hay tổ chức chính trị nào, cũng như không nhân danh Phật tử để “chống Công Giáo”  mà chỉ dùng những tài liệu của Ki Tô Giáo để trình bày những sự thật về tôn giáo này. 
Về cá nhân, tôi cần có vài khẳng định.  Tôi không chống những người Công giáo chỉ vì họ tin vào một Thượng đế hay một người mà họ gọi là Chúa Jesus.  Nếu họ tin rằng tất cả những gì tốt đẹp xảy ra cho họ đều là do Thượng đế ban cho họ, nếu họ tin rằng sau khi chết sẽ được lên thiên đường để sống đời đời bên cạnh Chúa Jesus của họ, thì tôi không có gì để nói hay để chống.  Vì đây là quyền tự do của mỗi cá nhân.  Con người có quyền tin vào bất cứ cái gì: một thiên chúa, một đấng siêu nhiên, một thần cây đa, một bình vôi, một chú cuội trên cung Hằng, hoặc không tin vào bất cứ đấng thiêng liêng nào.  Nhưng vấn đề chính là ở chỗ, từ những niềm tin này, Công giáo đã làm gì đối với nhân loại và khi du nhập vào Việt Nam, đã làm gì đối với tổ quốc và đồng bào Việt Nam?  Như vậy, cái mà tôi chống không phải là niềm tin của bất cứ ai, mà là những hành động của họ bắt nguồn từ niềm tin đó.  Bởi vì những hành động bắt nguồn từ niềm tin Công giáo không chỉ thu hẹp trong cộng đồng người Công giáo mà còn có ảnh hưởng trên toàn thể xã hội.  Ở đây, tôi chỉ xin nêu ra hai lý do tại sao tôi chống Công Giáo:

  1. vì cái lịch sử tội ác của Ki-tô Giáo nói chung, Công Giáo nói riêng, đối với nhân loại, một lịch sử đã loại bỏ những lời tự nhận của Giáo hội Công giáo, như thánh thiện, tông truyền, cao quý, mang phúc lợi đến cho nhân loại.  Tôi chống Công giáo bằng cách đưa ra những sự thật bất khả phủ bác về Công giáo, để cho người dân, không chỉ người Công giáo, biết rõ về bản chất thật của Công giáo.
  2. vì những tác hại mà Công Giáo đã mang đến cho đất nước Việt Nam.  Tôi chống Công giáo vì lịch sử đã chứng tỏ là giáo dân Công giáo bị mê hoặc bởi những luận điệu lừa dối của các thừa sai ngoại quốc và các linh mục bản địa để phản bội quốc gia, và cho tới ngày nay vẫn coi giáo luật đứng trên luật pháp quốc gia v…v…

a)  Vài Nét Về Lịch Sử Những Tội Ác Của Công Giáo.
Theo định nghĩa tôn giáo (Religion) của Tây phương trong Tự Điển thì đó là một “Niềm tin và tôn kính vào một quyền lực siêu nhiên được biết là đấng sáng tạo và cai quản vũ trụ” (Belief in and reverence for a supernatural power recognized as the creator and governor of the universe);   hoặc “thái độ tâm linh và tình cảm của một người chấp nhận sự hiện hữu của một quyền lực siêu nhân” (The spiritual or emotional attitude of one who recognizes the existence of a superhuman power).  Ki Tô Giáo là tôn giáo đúng như định nghĩa này. 
Một tôn giáo thường có ba mục đích chính. “Thứ nhất, tôn giáo là để dạy và khuyến khích đạo đức cho con người.” (First, religion is there to teach and encourage morality.)  “Thứ nhì, tôn giáo hiện hữu như là một gia đình thứ hai để hỗ trợ cho nhóm người có cùng đức tin trong cách sống lành thiện” (Second, it exists as a extra familiar support group of people with similar, or at least compatible, beliefs in how to live life correctly.) Và “Thứ ba, tôn giáo giúp chúng ta khai sáng tâm linh” (Third, it helps us achieve spiritual enlightenment.)
Công Giáo không những không thực hiện ba mục đích trên mà còn làm trái lại. Thật vậy, lịch sử đẫm máu của Công Giáo đã chứng tỏ hơn gì hết Công Giáo, thay vì dạy và khuyến khích đạo đức con người, đã khuyến khích con người làm những việc đại ác như thiết lập những Tòa Án Xử Dị Giáo để tra tấn, giết chóc và cướp của của các nạn nhân, cùng chiến dịch săn lùng phù thủy thiêu sống vô số người vô tội, thiêu sống luôn cả khoa học gia Bruno, nạn nhân của sự ngu xuẩn của Giáo hội Công Giáo về vũ trụ học, nhưng lại nắm quyền sinh sát trong tay.   Tất cả những việc đại gian, đại ác như trên đều được thực hiện nhân danh đức tin vào một Thiên Chúa của Do Thái mà nền thần học Công Giáo đôn lên làm Thiên Chúa của cả loài người.  Thứ đến, khi Công Giáo du nhập vào Việt Nam, tôn giáo này đã mê hoặc được một lớp tín đồ thuộc thành phần thấp kém nhất của xã hội Việt Nam, nổi tiếng là “đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản dân tộc.”   Và sau cùng, một tôn giáo mà các con chiên phải tuyệt đối tuân phục các “bề trên” và được dạy để mà tin không cần biết, không cần hiểu, có nghĩa là một tôn giáo trong đó lý trí trở nên thừa thãi, thì không thể gọi là một tôn giáo giúp tín đồ khai sáng tâm linh. Và bây giờ, tôi xin đi vào vài chi tiết.
Ngày Chủ Nhật, 12 tháng 3, 2000,  trong một cuộc “Thánh lễ” công cộng tại "Thánh đường" Phê-rô, trước nhiều chục ngàn con chiên, người Chủ Chiên, Đức “Thánh cha” John Paul II, đại diện cho "hội Thánh" Công Giáo gồm gần một tỷ tín đồ, trong đó có khoảng 5 triệu tín đồ Việt Nam, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội lỗi” đối với nhân loại của Công Giáo, một tôn giáo tự nhận là “thiên khải”, “duy nhất”, “thánh thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “vương quốc của Thiên Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng của nhân loại” v…v…, và xin thế giới tha thứ cho những hành động tàn bạo đối với nhân loại của những con cái giáo hội Công Giáo "thánh thiện".  Những hành động này, như được nhắc tới hết sức đại cương trong những lời xưng thú 7 núi tội lỗi của Công Giáo như sau:
1.  Xưng thú “tội lỗi chung”.
2.  Xưng thú “tội lỗi trong khi phục vụ “chân lý”” [Xin hiểu là đã gây ra những cuộc Thánh Chiến, những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo, Săn Lùng Phù Thủy, làm tiền phong hay đồng hành với các thế lực thực dân Âu Châu để truyền đạo v..v.., tất cả đều nhân danh phục vụ “chân lý” của Công Giáo]
3.  Xưng thú “tội lỗi đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”.
4.  Xưng thú “tội lỗi trong sách lược bách hại dân Do Thái”.
5.  Xưng thú “tội lỗi trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”.
6.  Xưng thú “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”.
7.  Xưng thú “tội lỗi trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”.
Các tín đồ Công Giáo, nhất là tín đồ Công Giáo Việt Nam, bèn ca tụng hành động “xưng thú 7 núi tội lỗi” trên của Giáo Hoàng là một hành động can đảm chưa từng có trong giáo hội, theo luận điệu diễn giải của giới chăn chiên dạy các con chiên. Nhưng dù giáo hội có giải thích hành động xưng thú tội lỗi của giáo hoàng như thế nào đi chăng nữa, là hành động can đảm hay theo đúng tinh thần tự kiểm ăn năn thống hối của Công Giáo, là để thanh tẩy ký ức hay để tiến tới thánh thiện hơn v…v…, các tín đồ Công Giáo vẫn không thể nào giải đáp được thỏa đáng những câu hỏi như:
Tại sao một giáo hội do chính Chúa thành lập, thường tự xưng là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại",  là quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn" v...v... lại có thể phạm những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại như vậy?  trong khi các đạo khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị Ki Tô Giáo,  và ngay chính Giáo hoàng John Paul II trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”,  chụp cho cái mũ vô thần lên đầu, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương hại nào cho con người trong quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki Tô Giáo hơn 500 năm
Những trí thức Công Giáo, như các giáo sư như Nguyễn Gia Kiểng, Đỗ Mạnh Tri, Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên, TS Hồng Lĩnh, Vũ Linh Châu, Nguyễn Anh Tuấn, Chánh án Nguyễn Cần alias Lữ Giang, nhà văn Chu Tất Tiến v..v.., hay các linh mục nổi tiếng ở trong nước như linh mục Têphanô Chân Tín, Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Tađêô Nguyễn Văn Lý và Phêrô Phan Văn Lợi, và các linh mục ở hải ngoại như Vũ Đức, Đinh Xuân Minh v…v…, và ngay cả Giáo hoàng Benedict XVI đâu?  hãy trả lời trước thế giới và trước quốc dân Việt Nam những câu hỏi trên.  Tại sao và tại sao??
Những câu hỏi này sẽ luôn luôn ám ảnh những tín đồ Công Giáo có đầu óc, còn đôi chút lương tri và óc suy luận.  Vì một tôn giáo mà gây ra nhiều tội đại ác như tra tấn, tù đầy, thiêu sống v..v.., giết hại hàng chục triệu sinh mạng vô tội, gồm cả đàn bà và trẻ con, bất cứ vì lý do nào, thì không thể được coi là  một tôn giáo nữa.  Đó chẳng qua chỉ là một tổ chức núp sau bình phong tôn giáo, mượn danh thần thánh để mê hoặc đám tín đồ yếu kém, nhưng thực chất chỉ để duy trì những quyền lực thế tục và vơ vét của cải thế gian.  Lương tâm trí thức của họ bắt họ phải trực diện với sự thực này, nếu họ còn có đôi chút lương tâm.  Phải chăng họ đã bị lừa dối từ bao thế kỷ nay bởi một cái bánh vẽ trên trời mà không cần đếm xỉa gì tới vấn đề đạo đức, luân lý?  Phải chăng họ đã bị nhào nặn từ nhỏ để có một tâm cảnh vô cùng ích kỷ, chỉ ham hố một sự “cứu rỗi” tưởng tượng cho riêng mình mà không cần biết đến cái cộng đồng tôn giáo của mình ra sao? Phải chăng họ đã bị nhồi sọ từ nhỏ đến độ chỉ còn có thể tin một cách mù quáng, không còn khả năng suy nghĩ để tìm ra lẽ thật? v..v..
Hiển nhiên là tôi không thể đi vào chi tiết của tất cả 7 núi tội ác của Công Giáo.  Đọc giả nào muốn biết phần nào chi tiết về những núi tội ác của Công Giáo xin tìm đọc trên giaodiemonline.com [http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=55] loạt bài “Công Giáo Hắc Sử 1-5” (The Dark History of Catholicism] về 5 núi tội ác điển hình của Công Giáo.  Ở đây tôi chỉ xin trích dẫn một tài liệu của Tổng Giám Mục Peter de Rosa trong cuốn “Vicars of Christ, The Dark Side Of The Papacy”, Crown Publishers, Inc., New York, 1988, trg.162-166, nói về chỉ đạo của “Tòa Thánh” cho những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo:
Tòa hình án trong thời Trung Cổ có thể làm bất cứ điều gì . Những phán quan của tòa hình án [ những Linh Mục] thuộc dòng tu Đa Minh, được giáo hoàng bổ nhiệm, không ở dưới quyền bất cứ một ai ngoài Thượng Đế và giáo hoàng. Họ đứng ngoài vòng xét xử của các giám mục và luật dân sự. Trong những quốc gia thuộc quyền giáo hoàng họ chính là luật lệ, vừa đóng vai công tố viên vừa đóng vai quan toà xử án.  Nguyên lý chỉ đạo của họ là : Thà giết oan 100 người vô tội còn hơn là để cho một kẻ dị giáo được tự do."
Tra tấn được dùng thả dàn. Mới một trăm năm trước đây, người ta trưng bày trong cái nhà ở góc đường của giáo hoàng Cuốn Sổ Đen dùng làm chỉ đạo cho những quan tòa hình án. Cuốn sổ có đánh số trang này thuộc trách nhiệm của Đại Phán Quan. Cái tên phổ thông của nó là “Cuốn Sổ của Thần Chết.”   Sau đây là một phần được trích dẫn từ đó:
" Hoặc bị cáo thú tội và như vậy là có tội theo sự thú tội của chính hắn, hoặc hắn không thú tội nhưng vẫn là có tội dựa theo chứng cớ của các nhân chứng. Nếu một người nhận tất cả các tội đã gán cho hắn, đương nhiên hắn hoàn toàn có tội; nhưng nếu hắn chỉ thú nhận có một phần các tội trạng, hắn vẫn phải bị coi như là phạm tất cả các tội, vì phần mà hắn đã thú tội chứng tỏ rằng hắn có khả năng phạm tất cả các điểm khác trong bản cáo trạng...
Sự tra tấn thân xác đã chứng tỏ đó là phương cách có ích và hữu hiệu đưa tới sự sám hối tinh thần. Cho nên, sự lựa chọn một hình cụ tra tấn thích hợp nhất là trách nhiệm của quan toà hình án, ông ta sẽ quyết định dựa trên tuổi tác, phái nam hay nữ, và sự cường tráng thân thể của tội nhân. Nếu, trong trường hợp đã dùng đủ mọi cách mà con người xấu số kia vẫn không chịu nhận tội, phải coi hắn như là một nạn nhân của quỷ; và, như vậy, không được hưởng sự thương xót từ các kẻ tôi tớ của Thượng Đế ( các linh mục xử án ), hoặc sự thương hại hay khoan hồng nào của giáo hội Mẹ Thánh Thiện. Hắn là đứa con của sự đày đọa. Hãy để cho hắn chết rục cùng với những kẻ đã bị đày đọa vĩnh viễn xuống địa ngục."
Thật khó mà có thể kiếm được một văn kiện nào mà trái với những nguyên tắc công lý tự nhiên như vậy. Theo cuốn Sổ Đen, một đứa con phải phản bội cha mẹ, một bà mẹ phải phản bội đứa con. Không làm như vậy là một "tội lỗi đối với Toà Án Thánh" và đáng bị tuyệt thông, nghĩa là, không được hưởng các bí tích và, nếu không có tu chính án, không được lên thiên đàng."
[To the medieval Inquisition, everything was permitted.  The Dominican Inquisitors, being the pope's appointees, were subject to no one but God and his Holiness.  They were outside the juridiction of bishops and of civil law.  In the Papal States they were a law unto themselves, acting as prosecutors and judges.  Their guiding principle was: "Better for a hundred innocent people to die than for one heretic to go free."
Torture was freely used.  Only a hundred years ago, there was on display in the pope's House on the Corner the   Black Book,  or  Libro  Nero,  for  the  guidance  of  inquisitors.  This manuscript in folio form was the charge of the Grand Inquisitor.  Its popular name was the Book of the Death.  This is part of what it said:
Either the person confesses and he is proved guilty from his own confession, or he does not confess and is equally guilty on the evidence of witnesses.   If a person confesses the whole of what he is accused of, he is  unquestinably guilty of the whole; but if he confesses only a part, he ought still to be regarded as guilty of the whole, since what he has confessed proves him to be capable of guilt as to the other points of the accusation...
Bodily torture has ever been found the most salutary and efficient means of leading to spiritual repentance.  Therefore, the choice of the most befitting mode of torture is left to the Judge of the Inquisition, who determines according to the age, the sex, and the constitution of the party...If, notwithstanding all the means employed,  the unfortunate wretch still denies his guilt, he is to be considered as a victim of the devil: and, as such, deserves no compassion from the servants of God, nor the pity and indulgence of Holy Mother Church: he is a son of perdition.  Let him perish among the damned.
It would be hard to find any document so contrary to the principles of natural justice.  According to  the Black Book, a child must betray his parents, a mother betray her child.  Not to do so is a "sin against the Holy Office" and merits  excommunication, that is, exclusion from the sacraments and, if there is no amendement, exclusion from heaven...]
 Chúng ta thấy, “con cái phải tố cáo cha mẹ, cha mẹ phải tố cáo con, thà giết oan 100 người còn hơn là để cho một kẻ dị giáo được tự do, và dùng các hình cụ khủng khiếp nhất trong lịch sử để tra tấn các nạn nhân, nhiều khi đến chết, để cưỡng bách họ phải thú tội dù họ không có tội v..v..”   chính là “đặc sản” của Công Giáo trong thời Trung Cổ, đưa đến số nạn nhân bị chết vì tra tấn, vì thiêu sống v..v.. lên tới khoảng 10 triệu người.  Ai phủ nhận những sự  kiện lịch sử này, xin lên tiếng.  Đó là những “sự thật lịch sử” của Công Giáo, và những sự thật này đã chống Công Giáo hơn gì hết.  Những tín đồ Công Giáo, nhất là những tín đồ sống trong các ốc đảo ngu dốt (từ của Linh Mục Trần Tam Tĩnh) ở Việt Nam, bị bịt mắt bịt tai, nên không hề biết đến cái lịch sử đẫm máu này của Giáo hội Công Giáo.  Nhưng ngày nay, tuyệt đại đa số người dân Việt Nam có quyền biết đến những sự thật lịch sử này hay không?  Ai nói không, xin lên tiếng và cho biết tại sao không?
Có người chê trách chúng tôi là soi bói những chuyện cũ kỹ của Công giáo trong khi ngày nay Công giáo đã thay đổi, không còn giết người như trong thời Trung Cổ.  Họ không đọc lịch sử cận đại để biết rằng trong Đệ Nhị Thế Chiến Công giáo ở Croatia đã giết bảy trăm ngàn người (700000) Chính thống, Do thái và Gypsies.  Linh mục cắt cổ người ngoại đạo, làm chủ trại giam người ngoại đạo, cưỡng bách người ngoại đạo cải đạo, dồn người ngoại đạo vào nhà thờ rồi bít kín cửa thiêu sống cả tập thể ở trong nhà thờ v…v… Chế độ Công giáo Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam cũng giết 300000 (ba trăm ngàn) người  trong chính sách tố Cộng và cải đạo (Xin đọc “The Vatican’s Holocaust” của Bá Tước Avro Manhattan).  Hơn nữa,   Giáo hội ngày nay đâu còn những quyền lực thế tục như trong thời Trung Cổ mà giết người, trừ khi người Công giáo lên cầm quyền ở một địa phương nào đó như Pavelich ở Croatia, Franco ở Tây Ban Nha, và Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam.
Mặt khác, tưởng chúng ta cũng nên biết rằng, khi Giáo hoàng John Paul II chính thức xưng thú 7 núi tội ác của Công Giáo và xin thế giới tha thứ cho những tội ác của Công Giáo bằng những lời lẽ rất đại cương, thì ký giả Lewis Weinstein đã viết trong tờ Chicago Tribune ngày 16 tháng 3, 2000,  như sau:
"Hầu hết các tín đồ Công Giáo  không biết đến cái lịch sử (chứa đầy tội ác của Công Giáo) mà Giáo hoàng nói đến, và nếu, theo lời của Hồng Y John O'Connor, tổng giám mục địa phận New York, tín đồ Công Giáo phải "được sự thật giải phóng", thì họ phải biết sự thật đó như thế nào."
(Most Catholics are unaware of the history to which the pope alluded, an if, in the words of Cardinal John O'Connor, archbishop of New York, Catholics are to be "liberated by the truth", then they must know what that truth is.)
Vậy tại sao người Công giáo Việt Nam lại sợ sự thật lịch sử của Công giáo?  Mà lại cứ vu khống những người viết ra những sự thật này là soi bói chuyện cũ, báng bổ thần thánh, chống Công giáo v…v… hay ấu trĩ hơn nữa là “làm tay sai cho CS để chống đạo”.  Sự thật đó như thế nào?  Đọc kỹ lịch sử truyền đạo của Công Giáo, chúng ta có thể tóm tắt sự thật đó trong một câu ngắn gọn: 7 núi tội ác của Công Giáo đối với nhân loại nói chung, Việt Nam nói riêng, có thể mô tả như sau, mượn lời của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo:
Quyết Đông hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô;
Khánh Nam sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác.
(Độc ác thay, trúc rừng không ghi hết tội;
Dơ bẩn thay, nước bể không rửa sạch mùi.)
bởi vì, trong gần 20 thế kỷ, cả trăm triệu sinh mạng gồm già, trẻ, lớn, bé, nam, nữ, vô tội đã bị giáo hội, nhân danh phúc âm, chân lý của Chúa, bắt bớ, giam cầm, tù đầy, bạo hành, tra tấn cực hình, cắt cổ, chôn sống, thiêu sống v…v… chưa kể đến những hành động phá hủy đền thờ miếu mạo của các tôn giáo khác, cướp Chủa để xây nhà thờ, hoặc những hành động nhằm tiêu diệt các nền văn hóa phi Ki-Tô v..v… theo sách lược truyền đạo của Công Giáo trên thế giới.
Một cá nhân theo một tôn giáo nào đó có thể vì bản tính, cho nên đã có những hành động ác, vô đạo đức v.. v.. .  Nhưng một tôn giáo,  đúng nghĩa là một tôn giáo, như một tập thể, thì không thể có những chủ trương tàn ác, phi luân, vô đạo đức v..v.. trong kinh điển, giáo lý của mình.  Những tôn giáo Đông phương như Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, tuy không phải là những tôn giáo theo đúng định nghĩa tôn giáo của Tây Phương, đều chủ trương hòa bình, nâng cao phẩm giá, thăng tiến trí tuệ của con người.  Phật Giáo có “thiên kinh, vạn quyển”, nhưng chúng ta không thể tìm thấy trong đó bất cứ một lời lẽ độc ác nào, tất cả đều là “khuyến thiện, răn đe việc ác” và đề ra những phương pháp tu tập với mục đích phát triển trí tuệ, khai sáng tâm linh, đưa con người đạt tới một cảnh giới cao hơn.  Do đó, lịch sử truyền bá Đạo Phật trong hơn 25 thế kỷ không hề cưỡng bách bất cứ ai phải theo đạo Phật, không hề làm đổ một giọt máu vì truyền đạo, không hề có ý đồ xâm lăng văn hóa, và không hề khuyến khích con người đi vào một niềm tin mù quáng, không cần biết, không cần hiểu. Trái lại, trong Kinh Thánh của Ki-tô Giáo mà người Ki-tô cho đó là những lời mạc khải của Thiên Chúa của họ, lại chứa đầy những điều ác độc, vô luân, mâu thuẫn, sai lầm về thần học cũng như về khoa học.   Nhưng khổ thay, chính vì tin vào những điều trên trong Kinh Thánh mà Ki-tô Giáo đã trở thành một tôn giáo phạm nhiều tội ác nhất đối với nhân loại.  Ai không đồng ý, xin lên tiếng.  Tôi sẽ chỉ dẫn cho những đoạn không thể đọc được trong Kinh Thánh, những đoạn làm ô nhiễm đầu óc con người, những đoạn huyền hoặc mê tín mà vì tin vào chúng mà những người Ki-tô đã tạo nên một lịch sử đẫm máu của Công Giáo, và đã để lại cho nhân loại những dấu vết kinh hoàng nhất..  Đây là những sự kiện lịch sừ bất khả phủ bác.

b).   Những Tác Hại Công Giáo Mang Đến Việt Nam.
Chúng ta cũng không nên quên Công Giáo đã giữ một vai trò then chốt quyết định trong việc đưa Việt Nam vào vòng nô lệ của Pháp.  Lịch sử đã chứng minh: Sách lược truyền giáo của Công Giáo La Mã là một sách lược chủ trương xóa bỏ mọi nền văn hóa phi Ki-Tô, dùng bạo lực thắng công lý, dùng gian xảo, dối trá để lừa dối dân gian, dùng bả vật chất và mê tín dị đoan để chiêu dụ và giữ tín đồ, dùng những phép lạ ngụy tạo để huyễn hoặc làm mê mẩn đầu óc tín đồ v..v..  Một sắc thái đặc biệt nhất của Công Giáo là, bất cứ tôn giáo này truyền tới đâu là ở đó xảy ra những cảnh hỗn loạn, thù nghịch, chia rẽ v…v… trong gia đình, trong xã hội, thực hiện đúng lời của Chúa Giê-su trong Thánh Kinh, Matthew 10: 34-36:
“Chúa Ki Tô Mang Đến Sự Chia Rẽ:
 Đừng nghĩ rằng ta xuống trần để mang lại hòa bình trên trái đất.  Ta không xuống đây để mang lại hòa bình mà là gươm giáo.
 Vì ta xuống đây để làm cho con trai chống đối cha, con gái chống đối mẹ, và con dâu chống đối mẹ chồng.
 Và những kẻ thù của một người thì ở ngay trong nhà hắn.”
(Christ Brings Division:
Do not think that I came to bring peace on earth.  I did not come to bring peace but a sword.
For I have come to set a man against his father, a daughter against her mother, and a daughter-in-law against her mother-in-law.
And a man’s foes will be those of his own household.)
Lịch sử thế giới đã ghi rõ điều này, và kinh nghiệm cay đắng của Việt Nam đối diện với sự xâm nhập của Công Giáo còn ghi rõ trong sử sách.  Ở đây, sách lược truyền giáo của Công giáo đã đưa tới những cảnh bất hòa trong những gia đình nào có người bỏ tôn giáo truyền thống của gia đình, của dân tộc, để tin theo những lời dụ dỗ huyền hoặc của Công Giáo, từ bỏ không còn tôn trọng những lễ tiết truyền thống trong gia đình.  Công Giáo cũng đưa tới những cảnh Lương Giáo nghi kỵ, thù nghịch, tàn sát lẫn nhau như lịch sử đã chứng tỏ.  Chính Linh mục Lương Kim Định cũng phải thú nhận trong cuốn  Cẩm Nang Triết Việt, An Việt, Houston 1987, trang 57:
“Sự truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam…đưa đến sự chia khối dân tộc đang thống nhất thành hai phe Lương Giáo làm cho sự liên lạc giữa đôi bên trở nên nhức nhối đầy e dè nghi kỵ.  Đấy là một tai nạn lịch sử mà thời gian tuy có làm giảm đi, nhưng xem ra không sao xóa sạch được”
Thiên Chúa giáo ở đây chính là Công giáo chứ không phải là Chính Thống hay Tin Lành.  Sự phân biệt lương-giáo của ông cha chúng ta là có ý nghĩa sâu sắc.  Vì “lương” có nghĩa là tốt, lành, lương thiện, còn “giáo” chỉ các giáo dân, những người không “lương”.  Linh Mục Lương Kim Định đã thú nhận một ảnh hưởng tác hại của Công Giáo trên khối dân tộc Việt Nam: gây chia rẽ.  Tìm hiểu những nguyên nhân làm cho khối dân tộc đang thống nhất thành hai phe Lương Giáo, chúng ta có thể nêu lên vài điều.  Những  nguyên  nhân  này không bao giờ được các nhà viết sử thực dân hay tay sai Công Giáo bản địa nhắc tới.  Những nguyên nhân này là gì, hiện nay tài liệu có khá đầy đủ,  tôi có thể tóm tắt những nguyên nhân đó trong ba điều sau đây:
i). Các giáo sĩ thừa sai Công Giáo khi tới Việt Nam truyền đạo đã không giữ đúng vai trò truyền giáo thuần túy của mình.   Họ có những thái độ ngạo mạn, khinh rẻ chính quyền địa phương vì tự cho là văn minh tiến bộ trong khi bản chất của họ, ít ra là về phương diện tâm linh, luân lý, và đạo đức, thật là hẹp hòi và chậm tiến. Với tâm cảnh cuồng tín, tổng hợp của ngu dốt và huênh hoang, hợm hĩnh cộng với sự kiêu căng lố bịch, cho rằng đạo của mình là đạo "thiên khải" chân thật duy nhất, họ đã dùng những phương pháp truyền đạo gian xảo, xuyên tạc sự thật để mạ lỵ, xâm phạm tới toàn bộ tín ngưỡng, đạo đức, và cấu trúc văn hóa truyền thống của xã hội Việt Nam.  Điển hình là tên thừa sai Alexandre de Rhodes, đã viết cuốn “Hành Trình Truyền Giáo” trong đó kể những chuyện hoang đường để mê hoặc quần chúng với những điều mê tín bịp bợm của Công Giáo  [Xin đọc bài “Di Hại Của Nền Đạo Lý Thiên La – Đắc Lộ” trên trang nhà Giao Điểm: http://giaodiemonline.com/2008/07/dihai.htm, và viết cuốn “Phép Giảng Tám Ngày” trong đó hắn đã xuyên tạc mạ lỵ Đức Phật, Đức Khổng Tử và Lão Tử.  Họ đã trắng trợn can thiệp vào chính trị nội bộ của Việt Nam và trong nhiều trường hợp đã xúi dục nội loạn và gây nên sự chia rẽ, bất hòa, xáo trộn trong xã hội Việt Nam.
ii). Các giáo sĩ thừa sai Công Giáo đã giữ những vai trò then chốt trong việc thực hiện âm mưu phá hủy nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, vận động chính quyền Pháp xâm lược Việt Nam, tích cực đóng góp cho việc xâm lược Việt Nam,  và đào tạo một  đạo quân thứ   5 bản địa, biến những kẻ  tân tòng đần độn trong tầng lớp cặn bã của xã hội Việt Nam thành một đám nô lệ cho Vatican, coi thường luật lệ quốc gia và không ngần ngại phản bội quê hương.
iii).  Một số không nhỏ giáo dân Việt Nam đã hợp tác, tiếp tay với thực dân Pháp, đem nước ta vào vòng nô lệ Pháp để được hưởng những quyền lợi đặc biệt tôn giáo của một thiểu số cam phận làm thân trâu ngựa, phục tùng tuyệt đối các giáo sĩ ngoại quốc, bất kể đến sự đau thương của cả một dân tộc bị nô lệ ngoại bang.
Đó là những gì mà các thừa sai Công Giáo đã mang đến cho dân tộc Việt Nam với kết quả là, sau khi chế độ thực dân cáo chung, là để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản nghi kỵ nhức nhối giữa đại khối dân tộc và khoảng 5-7% dân số theo Công Giáo, trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, từ Công trường Phê-rô đến Bolsa ở Little Saigon, một di sản nhức nhối, nghi kỵ trong đại khối dân tộc, không biết tới bao giờ mới xóa sạch được, như linh mục Kim Dịnh đã nhận định. 
Sau đây là phần chứng minh 3 nhận định nêu trên qua các tài liệu. 
Chúng ta đã biết sách lược truyền đạo thiếu văn hóa của giáo sĩ Alexandre de Rhodes, chúng ta đã biết việc dính vào chính trị nội bộ của Việt Nam cùng việc tuyển mộ, chỉ huy một đoàn quân lính đánh thuê để giúp Nguyễn Ánh của Giám mục Bá Đa Lộc, và chúng ta cũng đã biết những hoạt động gián điệp của các Giám mục Gauthier, Retord, Huc, Pellerin, Puginier và các tay sai như Pétrus Ký, Nguyễn Trường Tộ v..v..  Những tài liệu sau đây sẽ cho chúng ta thấy rõ thực chất những hoạt động "truyền giáo" của các thừa sai Công Giáo ngoại quốc, tâm cảnh và hoạt động tiếp tay cho giặc của những giáo dân Việt Nam, và từ đó chúng ta có thể suy ra những nguyên nhân cấm đạo hay bách hại giáo dân.
Những tín đồ Công Giáo Việt Nam hợp tác và làm tay sai cho quân xâm lăng Pháp, ngay từ ngày đầu cho tới ngày cuối,  nay đã là những sự kiện lịch sử không ai có thể phủ nhận.  Một trí thức trong nước, ông Trần Xuân An, đã viết: “..trong suốt cả 131 năm chiến tranh, nước ta bị ngoại xâm và phải chống ngoại xâm (1858 – 1885 – 1930 – 1945 – 1954 – 1975 – 1989), không còn nghi ngờ gì nữa, Thiên Chúa giáo là một lực lượng phản quốc từ đầu đến cuối.”   Ông An viết không sai, chúng ta hãy đọc vài đoạn viết về vai trò của Công Giáo trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lược của Pháp, trong cuốn The Vietnamese Response to French Intervention: 1862-1874 của Giáo sư sử học Mark L. McLeod, trg. 45-47, dựa trên những tài liệu từ văn khố Pháp:
     "Vai trò của những tín đồ Công Giáo  trong cuộc xâm lược của liên quân Pháp - Tây Ban Nha là gì?  ..Sự thực là, theo những tài liệu lưu trữ trong văn khố Pháp thì, ngay từ tháng 9, 1858, nhiều toán tín đồ Công Giáo Việt Nam đã tới liên lạc với những đoàn quân chiến đấu của Tây phương.  Rigauld de Genouilly (tướng chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng; TCN) đã họp họ lại thành hai chi đội và huấn luyện họ trong một doanh trại ở Tiên Trà.  Một trong hai chi đội trên  chiến đấu sát cánh với quân Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng, còn chi đội kia di chuyển xuống miền Nam, dự phần chiếa đấu trong cuộc xâm lược "lục tỉnh" và họ đã dự trận Kỳ Hòa.  Sau trận Kỳ Hòa, những lính chiến đấu Công Giáo Việt Nam đã phục vụ những người Tây phương ở Đà Nẵng tiếp tục phục vụ người Pháp, làm lính chiến, thông ngôn, cu-li và thám báo,  trong  những vùng chiếm được ở miền Nam.  Vì những dịch vụ này, họ được Đô Dốc - Toàn Quyền  de la Grandière ban thưởng cho một số đất quanh vùng Sài-gòn.
Trong cuộc xâm lược của liên quân Pháp - Tây Ban Nha từ 1858 đến 1862, những biện pháp cấm đạo của Vua Tự Đức càng ngày càng khắc nghiệt và dễ hiểu.  Đó chính là vì Triều đình Huế tin rằng những tín đồ Công Giáo Việt Nam đã hỗ trợ những đoàn quân xâm lăng.  Những đạo Dụ trong thời chiến này thường nhằm mục đích ngăn cản những tín đồ Công Giáo Việt Nam liên lạc với những lực lượng Pháp - Tây Ban Nha.  Thí dụ, một đạo Dụ ban hành vào tháng 5, 1859, nêu rõ rằng, khi nghe tin thành Saigon thất thủ, những tín đồ Công Giáo Việt Nam ở miền Nam đã lợi dụng tình thế để khủng bố người "lương" hay "tốt"(nghĩa là, không phải là người Công Giáo)và đi làm "tay sai và mật thám cho Tây Dương "
(What was the role of the Vietnamese Catholics during the Franco-Spanish invasion?... In fact,  French  archival sources show clearly that, as early as September 1858, groups of Catholics began to reach the embattled European armies.  Rigauld de Genouilly formed the men into two indigenous detachments and trained them at a camp at Tien Cha.  One of these detachments fought alongside the Franco-Spanish soldiers at Da-nang; the other went southward to participate in the invasion of the "luc tinh" and fought in the battle of Ky Hoa.  After the battle of Ky Hoa, the indigenous Catholics militamen who entered the service of the Europeans at Da nang continued to serve the French in the occupied south as soldiers, interpreters, coolies, and guides.  They were rewarded for their services by Admiral-Governor de la Grandière, who granted them concessions of land in the Saigon area.
During the Franco-Spanish invasion of 1858-1862, the Tu Duc Emperor's interdictions of Catholicism grew increasingly severe and comprehensive.   This was primarily because the Hue court believed that the Vietnamese Catholics supported the invading armies.  The wartime edicts were thus largely directed to the problem of preventing the Vietnamese Catholics from communicating with the Franco-Spanish forces.   An edict of May 1859, for example, stated that, upon hearing of the fall of the Saigon citadel, the Vietnamese Catholics of the south were taking advantage of the situation in order to terrorize the "luong" or "good" (that is, non-Catholics) people and to serve as "lackeys and spies for the Westerners")
Đọc lại lịch sử Việt Nam trong giai đoạn Francis Garnier chiếm thành Hà Nội và các tỉnh lân cận như Phủ Lý, Nam Định, Hải Dương v..v.. chúng ta sẽ thấy sự thực về vai trò cộng tác, tiếp tay, hỗ trợ của giáo dân Gia Tô Việt Nam cho những đoàn quân xâm lăng ngoại quốc như thế nào.  Mark L. McLeod, Ibid.,  trg. 114-122:
"Bản chất và mức độ hỗ trợ những đoàn quân viễn chinh Pháp của những tín đồ Công Giáo là như thế nào?
Những thư từ liên lạc và phúc trình của Balny và Harmand, được Garnier phái đi chinh phục nhiều tỉnh lỵ và những điểm trọng yếu trong miền đồng bằng, cho chúng ta thấy một kiểu hỗ trợ đáng kể của những tín đồ Công Giáo bao gồm - nhưng không chỉ giới hạn ở - những nhiệm vụ hành chánh và quân sự.  ... Để giúp chúng ta hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xét tới những hành động của Balny tại Phủ Lý và Hải Dương và của Harmand ở Nam Định, và nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa Bộ Truyền Giáo Công Giáo và các lực lượng quân sự Pháp.   Sự phân tích những hành động này cho thấy, trong những cuộc tấn công vào những cứ điểm của chính quyền Việt Nam, quân đội Pháp đã nhận được một mức độ hỗ trợ rất đáng kể từ những thừa sai và những tín đồ Công Giáo Việt Nam.Hơn nữa, những phương pháp mà các sĩ quan Pháp và những cộng tác viên Công Giáo [Việt Nam] dùng tuyệt đối không thể coi là có đạo đức cao theo những tiêu chuẩn đương thời của ngay chính họ,vì những phái bộ truyền giáo Công Giáo đã dùng sức lao động (của tín đồ Công Giáo bản xứ; TCN), tài nguyên,tin tức tình báo, đổi lấy hậu thuẫn của Pháp để thực hiện sự tàn sát liên miên người "lương", mạo phạm những công trình xây dựng của Phật Giáo, thiêu hủy những làng mạc phi-Gia Tô, và cướp bóc những thành phố của nhà Vua.  Sự cộng tác với chủ nghĩa đế quốc Pháp của những tín đồ Công Giáo [Việt Nam]  thường không được các sử gia nhận biết đầy đủ, nhưng đó chính là một yếu tố đáng kể góp phần thắng lợi cho Pháp ở Bắc Kỳ."
(What was the nature and extent of the assistance that the Catholics brought to the French expedition?
The correspondence and reports of Balny and Harmand, who were dispatched by Garnier to obtain the submission of many of the provincial citadels and strongpoints of the delta, reveal pattern of significant Catholic assistance that included - but not limited to - formal administrative and military duty.  ...It is useful to consider Balny's actions at Phu Ly and Hai-duong and Harmand's at Nam-dinh with an emphasis on the relationship between Catholic Missions and the French forces.  The analysis reveals that the French were far from alone in their attacks on the loci of Vietnamese authority because the invaders received a significant level of support from the missionaries and the Vietnamese Catholics.  Moreover, the methods of the French officers and their Catholic collaborators could hardly be considered as evidence of a superior morality even by their own contemporary standards, for the Catholic Missions exchanged labor, resources, and information in return for French assistance in perpetuating summary executions, desecreations of Buddhist religious edifices, burning of non-Catholic villages, and pillaging of imperial citadels.  This Catholic collaboration with French imperialism has not been adequately recognized by historians, but it was a significant contributing factor to the French success in Tonkin.)
Trên đây là tài liệu nghiên cứu từ văn khố Pháp của Giáo sư sử học Mark L. McLeod.  Hiện nay, có rất nhiều tài liệu, rất nhiều chi tiết về sự cộng tác với thực dân Pháp của những tín đồ Công Giáo Việt Nam. Tuy nhiên, sau đây tôi chỉ xin trích dẫn hai tài liệu của chính những bậc lãnh đạo trong Công Giáo, một Việt và một Pháp. 
Tại sao trung tâm kháng chiến Ba Đình của Đinh Công Tráng bị thất thủ?  Tài liệu sau đây là của Linh Mục Trần Tam Tĩnh viết trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm:
"Cho tới khi chết ngày 25 tháng 4/1892, giám mục Puginier đã hoạt động không ngưng nghỉ ngày nào để củng cố địa vị của nước Pháp tại xứ ông đã nhận là quốc gia mới.  Người ta còn giữ được mấy chục bản ghi chú và những tin tức tình báo có mang chữ ký của ông trong những Văn Khố của Bộ Thuộc Địa.  Một phần nhờ vào các tin tức tình báo của giám mục mà quân Pháp có thể dẹp tan quân đội kháng chiến của Việt Nam.  Trung tâm kháng chiến khốc liệt nhất là ở Ba Đình, Thanh Hóa, dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng.  Đó là một làng được tăng cường bởi một vòng đai lũy tre, những ụ kháng chiến, những hầm trú ẩn, và một hệ thống hầm giao thông được xếp đặt một cách tinh vi.  Để "bình định" làng này, quân đội Pháp đã kéo tới 2,250 binh sĩ với 25 khẩu đại bác, 4 tàu chiến dưới sự chỉ huy của đại tá Metzinger.  Cuộc tấn công của Pháp ngày 18 tháng 12/1886 bị đẩy lui.  Quân Pháp bao vây  để  tìm  kiếm  một chiến thuật mới.  Sung sướng thay cho họ, một sĩ quan trẻ, đại úy Joffre (sau này trở thành thống chế nổi tiếng của Pháp trong đệ nhất Thế Chiến), đã nghĩ đến việc cầu sự trợ giúp của Trần Lục, cha xứ Phát Diệm và là Phó Tướng đặc trách bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tịnh.  Trần Lục, được giám mục Puginier ban phước lành, và mang 5000 giáo dân Công Giáo  đến giúp quân Pháp.  Và Ba Đình bị thất thủ."
Chúng ta đã thấy, Công Giáo Việt Nam đã giữ một vai trò tay sai quyết định để đưa nước nhà vào vòng nô lệ Pháp.  Điều này, chúng ta có thể thấy rõ ràng trong một văn kiện có tính cách  khẳng định sau đây của chính Giám mục Puginier, được trích dẫn trong cuốn Catholicisme et Sociétes Asiatiques của  Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi:
"Giám Mục Puginier viết rằng: "Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng.  Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ.   Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo [xin hiểu là Công Giáo], người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị đẩy vào  tình trạng không thể hoạt động  được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh chóng.  Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ,nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại."
(Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes.  La comparaison, pour être triviale, ne manque pas de justesse et de force.  En effet, sans les missionnnaires et les chrétiens, les Francais se verraient entourés d'ennemis; ils ne pouraient se fier à personne; ils ne recevraient que de faux renseignements, méchamment donnés pour compromettre leur situation; ils se trouveraient donc réduits à l'impossibilité d'agir et seraient rapidement exposés à des vrais désastres.  Leur position ici ne serait plus tenable, et ils ne verraient forcés de quitter un pays où leurs intérêts et leur existence même serait compromis.)
Từ những tài liệu dẫn chứng ở trên, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa là, nếu không có những hành động nội ứng, tiếp tay với một mức độ đáng kể của tín đồ Công Giáo Việt Nam thì chưa chắc Pháp đã lập nổi nền đô hộ ở Việt Nam trong gần 100 năm.    Thế mà ngày nay còn có một số trí thức Công Giáo vẫn tiếp tục ngụy biện là Công Giáo Việt Nam không có hợp tác với thực dân Pháp, không phản bội quê hương v..v..  Họ cố tình lờ đi những tài liệu của các nhà nghiên cứu sử học người ngoại quốc và của chính những người trong Công Giáo như Giám Mục Puginier, Linh mục Trần Tam Tĩnh, và Linh mục Lương Kim Định, và cố nêu cao sự đóng góp của Công Giáo cho Việt Nam, điển hình là vai trò của tên thừa sai gián điệp Alexandre de Rhodes trong việc sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ, mà không biết đến âm mưu của tập đoàn thừa sai Công Giáo, nghĩ ra loại Quốc Ngữ này để xóa bỏ nền văn hóa cổ truyền Việt Nam.  Còn ai cho rằng những tài liệu trên là của Giao Điểm hay của Cộng Sản để chống phá Ki-tô Giáo thì cứ việc lên tiếng, tôi sẽ không cãi lại. 
Đó là những chuyện tương đối xưa.  Thế còn ngày nay thì sao?  Trong thời kháng chiến chống Pháp trở lại Việt Nam, Giám mục Lê Hữu Từ cùng Linh Mục Hoàng Quỳnh, người nổi danh với câu “Thà mất nước chứ chẳng thà mất Chúa”, đã nhận lãnh vũ khí của Pháp để lập các khu tự trị (sic) Bùi Chu, Phát Diệm, săn lùng Việt Minh, chống lại kháng chiến, giết hại người “lương”.  Thời Ngô Đình Diệm, Công Giáo độc chiếm mọi quyền lợi, các linh mục, giám mục không khác gì các lãnh chúa một vùng, hà hiếp dân chúng, cướp đất của dân (Đinh Xuân Hải), cưỡng bách người ngoại đạo phải vào đạo, phá hủy đền chùa, lùng bắt giết chóc sư sãi, tiêu diệt các giáo phái ở trong Nam v..v..  vậy Công Giáo rõ ràng là một tôn giáo phản quốc từ đầu đến cuối, đâu có sai.
Trước những sự kiện lịch sử về Giáo hội Công Giáo hoàn vũ và về vai trò của Công Giáo Việt Nam trong cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, tôi xin đặt một câu hỏi với những người thường lên án tôi là chống Công Giáo:  Vậy thì sao?  Có phải là một tội không?  Hay đó là một trách nhiệm cần phải làm của người trí thức Việt Nam đã có ít nhiều hiểu biết về bộ mặt thực của Công Giáo, hoàn vũ cũng như Việt Nam?
Mấy người phải biết rằng, ngày nay, nói năng chống Công giáo, hay đúng hơn, nói lên những sự thật về Công giáo, không còn là một điều cấm kỵ và phải chịu đựng những sự bạo hành của Công giáo như trước. Đối với giới trí thức, đây là một bổn phận của những con người hiểu biết để giải hoặc quần chúng, giữ cho xã hội được lành mạnh.  Sự xuất hiện của hàng ngàn tác phẩm mà Công giáo mà những tín đồ Công giáo cuồng tín liệt vào loại “chống Công giáo” là một bằng chứng cụ thể nhất về sự tiến bộ trí thức của nhân loại.  Tác giả những cuốn sách này, trong đó có những giới cao cấp trong Ki-tô giáo, những giáo sư đại học, học giả, chuyên gia về tôn giáo v..v.. là những người đã nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt quần chúng thoát ra khỏi những mê hoặc và xiềng xích trí tuệ cũng như vật chất của Ki-tô giáo.   Sự hiện hữu của những tác phẩm này trong những xã hội Ki-tô mà không gây ra một sự bất hòa, hỗn loạn nào trong xã hội vì lý do tôn giáo là một bằng chứng khác về sự tiến bộ trí thức của nhân loại, ít ra là ở trong những xã hội văn minh tân tiến.  Vì không hiểu được những điều trên, hay cố tình không hiểu, cho nên “người ta” vẫn tiếp tục lên án những người viết ra những sự thật về Công Giáo là chống Công Giáo, làm như Công Giáo là cái gì không nên chống hay không được chống, và chống Công Giáo là một cái tội, hay là chuyện vô đạo đức.  
Thực ra, phải dùng danh từ “giải hoặc Ki-tô giáo” thì mới đúng, bởi vì Ki-tô Giáo có truyền thống mê hoặc giáo dân và quần chúng bằng những thông tin và tuyên truyền sai sự thực.  Riêng về Việt Nam, tôi cho rằng sự hiện hữu của những tác phẩm, những bài viết của Giao Điểm và Sách Hiếm về Công giáo thực sự hết sức cần thiết để lấy lại công bằng lịch sử, để mở mang dân trí.  Những cuốn về lịch sử Công Giáo, giáo lý Công Giáo, con người Giê-su lịch sử, và đặc biệt những tác phẩm nghiên cứu với đầy đủ tài liệu về sự hợp tác của Giáo dân Công giáo với thực dân Pháp để xâm chiếm Việt Nam, về những nhân vật Công Giáo như Trần Lục, Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Ký mà người Công Giáo thường tôn lên làm những nhà yêu nước, vĩ nhân của Việt Nam v..v.., không có mục đích gì hơn là viết lại lịch sử cho đúng với sự thật.
Xin đừng cho là những bài viết, tác phẩm trên là chia rẽ tôn giáo.   Hãy nhìn sang các nước Âu Châu và Hoa Kỳ mà Ki Tô Giáo là tôn giáo của đa số người dân, nhưng những cuốn nghiên cứu về lịch sử các giáo hội Ki Tô, về đời tư các giáo hoàng , hồng y, về những chuyện thâm cung bí sử trong Vatican, về các tín lý hoang đường đã lỗi thời, và ngay cả những chuyện hoang đường, tàn bạo độc ác, vô luân v..v.. trong Thánh Kinh Ki Tô Giáo, đều được phổ biến rộng rãi mà không gây ra một xáo trộn nào, vậy không lẽ Công giáo Việt Nam chỉ có 5-7% dân số, số tín đồ Tin Lành không đáng kể, mà lại sợ gây ra chia rẽ, xáo trộn xã hội hay sao.  Người Việt Nam lại có thể man rợ, cuồng tín đến độ không thể chấp nhận sự thật lịch sử, gây ra xáo trộn, bạo động trong xã hội hay sao?   
Điều đáng buồn là, vì hoàn cảnh đất nước từ khi Pháp xâm chiếm Việt Nam [với sự hỗ trợ đáng kể của Công Giáo Việt Nam], trí thức Việt Nam đã đi sau những trí thức Âu Mỹ cả nhiều thế kỷ trong nhiệm vụ “chống Công Giáo”, hay nói đúng hơn, theo tinh thần của Giao Điểm, “giải hoặc” Ki Tô Giáo nói chung, Công Giáo nói riêng..

   Sau đây tôi sẽ trình bày vài nét về ngày nay, tại sao Mỹ và Âu Châu chống Công giáo và đã chống như thế nào để những người Công giáo Việt Nam thấy rằng họ đã thiếu hiểu biết và vô lý như thế nào khi họ lên án những người Việt viết ra những sự thật về lịch sử Công giáo là “chống Công giáo” hay là “viết theo đơn đặt hàng của CS”.  Quý đọc giả nên tìm đọc thiên khảo cứu về nhiều quốc gia trên thế giới đã chống Công giáo như thế nào của Giáo Sư Nguyễn Mạnh Quang trên sachhiem.net. 

   Tại Sao Thế Giới Âu Mỹ Chống Công Giáo?

Theo nhà nữ thần học Rosemary Radford Ruether thì “chống Công Giáo” phản ánh sự xung đột nội bộ giữa những người tự cho mình là “chính thống Công Giáo” với những người Công giáo tiến bộ.  Từ “chống Công Giáo” được phe bảo thủ Công Giáo xử dụng với hàm ý là chỉ có họ là Công Giáo chính hiệu (to claim that they and they alone are “authentic” Catholics), và những người Công Giáo có tư tưởng tiến bộ không phải là Công Giáo, thù nghịch với Công Giáo chính thống, do đó, là những người “chống Công Giáo” (and Catholics that hold progressive views are not Catholics, are hostile to “authentic” Catholicism, and hence are anti-Catholic.).  Nói ngắn gọn, lên án “chống Công Giáo” là một chiến thuật đe dọa của Công Giáo cực đoan, được xử dụng để đàn áp những quan điểm tiến bộ Công Giáo (“anti-Catholicism” is being used as a scare tactic by the Catholic Right in the service of repression of progressive Catholic views.)  Chiến thuật này còn áp dụng đối với người ngoại đạo, vì người ngoại đạo nào mà nghe theo những quan điểm Công Giáo tiến bộ cũng là “chống Công Giáo” (non-Catholics who listen to the views of progressive Catholics are therefore also anti-Catholic.)  Nhưng ngày nay, thần quyền và thế quyền của Công Giáo đã không còn, bó củi và thanh gươm đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Giáo hội, vậy Công Giáo lấy gì để mà đàn áp và bịt miệng những tư tưởng tiến bộ trong Công giáo và của những người ngoại đạo?  Và người ngoại đạo có lý do gì để mà e sợ về những công việc thuần trí thức của mình?

     Bài viết này điểm qua những hành động, những tác phẩm văn chương, nghệ thuật “chống Công Giáo” ở Mỹ để quý độc giả có thể thấy nó khác với Giao Điểm và Sách Hiếm như thế nào, và sẽ thấy thật ra Giao Điểm và Sách Hiếm đã rất thận trọng, nghiêm chỉnh trong hoạt động văn hóa “giải hoặc” của mình, và không phải là không có cơ sở.  Xin đừng hiểu lầm là bài viết này có ý cải chính hay biện bạch cho Giao Điểm hay Sách Hiếm, vì tôi không ở trong tổ chức Giao Điểm hay Sách Hiếm, không có tư cách đại diện cho hai trang nhà này, và nhất là theo tôi, Giao Điểm và Sách Hiếm không có gì cần phải cải chính hay biện bạch. Đoàn lữ hành Giao Điểm và Sách Hiếm, và tôi, chỉ là một thân hữu viết bài để đăng trên Giao Điểm và Sách Hiếm,  cứ tiếp tục lững thững đi trên con đường đã chọn, không hề quan tâm đến những tiếng ồn ào bâng quơ hướng lên mặt trăng ở bên đường của bất cứ ai.

   Tôi đã từng viết: Công Giáo là một hiểm họa cho Việt Nam.  Đây không phải là câu viết vu vơ mà rất có cơ sở.  Không những chỉ là một hiểm họa cho Việt Nam, mà lịch sử đã chứng tỏ, Công giáo còn là một hiểm họa cho bất cứ quốc gia nào mà nó xâm nhập được và có quyền thế và suy rộng ra, còn là một hiểm họa cho cả nhân loại.

     Tại sao Công Giáo lại bị coi như một hiểm họa cho mỗi quốc gia nói riêng, cho nhân loại nói chung?  Chính bởi vì bản chất phi dân tộc của Công Giáo cùng với cấu trúc toàn trị của hệ thống quyền lực Công Giáo, kèm theo những tín lý, tín điều thuộc loại mê tín đã lỗi thời vẫn còn tiếp tục được sử dụng để nô lệ hóa đầu óc tín đồ, biến họ thành đám người cuồng tín mê mẩn, chỉ biết đến nước Chúa chứ không cần biết đến quốc gia dân tộc là gì, và cúi đầu “quên mình trong vâng phục” một định chế ngoại lai, một định chế tự cho là mình nắm trong tay chân lý mạc khải, quyết định luân lý, đời sống tâm linh và xã hội của nhân loại.  Và nhất là, kinh nghiệm 2000 năm lịch sử đen tối, tác hại của Giáo hội Công Giáo đối với nhân loại cho thấy Công Giáo La Mã đúng là một hiểm họa cho mọi quốc gia.

     Thật vậy, có lẽ chúng ta không nên quên, Pháp, Trưởng Nữ của Giáo Hội Công Giáo La Mã, trong cuộc Cách Mạng 1789, đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, đã tàn sát trên 17000 Linh Mục,  30000 Nữ Tu và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi Trường Dòng, Trường Học Công Giáo, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội v..v.. [Xin đọc The Decline and Fall of  The Roman Church của Linh mục Dòng Tên Malachi Martin, Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã phục vụ trong Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, trang 196: “France, “eldest daughter of the Church”, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops, abolished all seminaries, Catholic schools, religious orders, burned churches and libraries...”]

      Người đọc sử không thể không tự đặt cho mình một câu hỏi:  Nước Pháp vào thế cuối thế kỷ 18 có thể gọi là toàn tòng Công Giáo.  Nền giáo dục quốc gia nằm trong tay giới giáo sĩ.  Nếu Công Giáo thực sự là một lực lượng tinh thần của dân chúng, nếu Công Giáo là một “hội thánh” được chỉ đạo về luân lý đạo đức bởi các giới giáo sĩ và nữ tu, nếu Công Giáo thực sự mang phúc lợi đến cho quốc gia v..v.. , thì tại sao lại lại có thể xảy ra những vụ tàn sát như trên trong cuộc cách mạng 1789?  Câu trả lời thật là đơn giản.  Vì Công Giáo là một hiểm họa của quốc gia.  Chúng ta có thể nhận rõ hiểm họa này qua vài hành động của giới trí thức Pháp vào thời đó.

      Nhà đại văn hào Victor Hugo đã đưa ra nhận định: “Nền văn minh, ánh sáng này, có thể bị tắt đi bởi hai cách nhận chìm nó, hai sự xâm lăng nguy hiểm đối với nó: sự xâm lăng của các quân lính và sự xâm lăng của các linh mục.  Sự xâm lăng của các quân lính đe dọa mẹ chúng ta: tổ quốc; sự xâm lăng của các linh mục đe dọa con chúng ta: tương lai.” (La civilisation, cette lumière, peut être éteinte par deux modes de submersion, deux invasions lui sont dangereuses, l’invasion des soldats et l’invasion des prêtres.  L’une menace notre mère: la patrie; l’autre menace nos enfants: l’avenir)

     Các trí thức Pháp đã nhận thức được sự quan trọng của một nền giáo dục khai phóng, tiến bộ, yêu nước, cho nên họ đã cương quyết chống lại nền giáo dục của giáo hội Công Giáo mà họ cho là có mục đích dạy dỗ những đứa trẻ để chống lại tổ quốc của chúng và cản sự tiến bộ của chúng (Élever les enfants contre leur pays et contre leur temps); và họ đã thành công trong việc “Giật con em ra khỏi bàn tay giáo dục của những linh mục, vạch trần những sự đạo đức giả của Giáo hội.” (Arracher l’enfant au moine, dévoiler les hypocrisies de l’Église).

     Vậy mà, những giáo sĩ đến Việt Nam truyền đạo dám huênh hoang tuyên bố là đến để văn minh hóa dân tộc Việt Nam mọi rợ trong khi thực chất là làm tiền phong cho đoàn quân xâm lăng Pháp, và bản chất cái đạo gọi là văn minh của họ là man rợ, bạo tàn, mê tín, nếu chúng ta xét đến những cuộc Thập Ác Chinh, những Tòa Án xử dị giáo, những cuộc săn lùng phù thủy, những cuộc tàn sát người Do Thái v..v.., những vết nhơ không bao giờ có thể rửa sạch trên khuôn mặt của Giáo hội, dù ngày nay Giáo hội đã dùng mọi phương tiện để đánh bóng lại bộ mặt của mình.

     Không lạ gì, ở Pháp cũng như ở khắp Âu Châu hiện nay, Công Giáo chỉ còn là một tôn giáo truyền thống trên hình thức đến độ người ta đã cho rằng “Thiên Chúa đã quay lưng lại đối với Âu Châu” và các nhà truyền giáo Tin Lành cuồng tín đã cho rằng mảnh đất để truyền đạo ngày nay chính là Âu Châu, cái nôi của những tổ chức truyền đạo làm tiền phong hay theo gót thực dân khi xưa.  Với kinh nghiệm của nước Pháp như trên, chính quyền Việt Nam cần phải kiểm soát chặt chẽ chương trình giáo dục trong những trường học Công Giáo ở Việt Nam, không để cho con em Việt Nam trở thành những mầm mống chống lại tổ quốc như những bài học lịch sử về Công Giáo Việt Nam trong quá khứ đã chứng tỏ.  Trước khi cho phép mở một trường học Công giáo ở Việt Nam, Nhà Nước cần phải xét kỹ nguồn gốc tài chánh, thành phần giáo sư, khả năng chuyên môn của họ, chương trình giảng dạy có phù hợp với chương trình của Bộ Giáo Dục hay không v…v…

     Kinh nghiệm nước Mỹ cho thấy:

“Qua nhiều thế kỷ, người ta đã chống giới giáo sĩ Công giáo vì họ gây nguy hiểm cho trẻ con, hoặc cưỡng bách tình dục, hoặc tẩy não trí thức.
     Hầu hết người Mỹ chấp nhận quyền đồng ý của những cá nhân đã trưởng thành trong việc chọn lựa cho mình một đức tin, bất kể là tôn giáo đó có vẻ phi lý như thế nào.  Với quan điểm này, điều biện giải chính đáng và hợp lý nhất để ngăn cấm hoặc hạn chế sự hoạt động của một tôn giáo là tôn giáo đó là một sự nguy hại cho những người chưa đủ khả năng để có thể hoàn toàn đồng ý, nghĩa là, những đứa trẻ.
Những nhà phê bình coi các trường học của Công Giáo là những trung tâm tẩy não và bất khoan nhượng.”
(For centuries, Catholic clergy have been attacked for their danger to children, whether sexual (molestation) or intellectual (brainwashing).
Most Americans accept the right of consenting adult individuals to choose their own faiths, however unreasonable these creeds may appear.  From that perpective, the most plausible  justification for banning or restricting a religious group is to argue that it poses a threat to those who cannot give full consent, namely, children.

         Critics viewed parochial schools as centers for brainwashing and intolerance.)

   [Philip Jenkins, The New Anti-Catholicism: The Last Acceptable Prejudice, p. 30]

     [Đây là một vấn đề then chốt đánh thẳng vào thực chất quyền lực và đạo đức của giới Giáo sĩ Công Giáo, cùng lúc phê bình chính sách tẩy não của Giáo hội Công Giáo.  Thứ nhất, vì sách lược tẩy não của Giáo hội, tạo cho tín đồ tâm cảnh hoàn toàn tuân phục bề trên (các giám mục, linh mục) và coi “cha cũng như Chúa” nên mới có thể xảy ra vụ linh mục hiếp dâm nữ tu trên 27 quốc gia, đưa một số đi phá thai, và hàng ngàn vụ linh mục cưỡng bách tình dục trẻ con.  [Theo thống kê thì cho tới nay có hơn 5000 linh mục bị truy tố về tội cưỡng bách tình dục trẻ em vị thành niên, và đây mới chỉ là con số khiêm tốn bắt đầu.  Trong số trên 11000 nạn nhân tình dục của linh mục Công giáo thì 78% trong lớp tuổi từ 11 đến 17, 16% từ 8 đến 10 tuổi, và 6%  7 tuổi hay nhỏ hơn.] Người Mỹ đặt vấn đề: những linh mục trên là những kẻ cuồng dâm (sadists) hay là “Cha cũng như Chúa”?  Chúng ta nên nhớ, trong “bí tích” truyền chức Linh mục, Chúa Thánh Thần đã vào ngự trong người của Linh Mục và hướng dẫn mọi hành động của ông ta, và Linh mục Vũ Đức cũng khẳng định trước đám con chiên đã bị tẩy não: Linh mục chính là “Chúa thứ hai”.

     Thứ nhì, bí tích “rửa tội” trong Công giáo phi đạo lý.  Hãy khoan kể đến “rửa tội” là một điều mê tín đã lỗi thời, vì chính Giáo hoàng John Paul II cũng đã công nhận thuyết Tiến Hóa, hàm ý không làm gì có những nhân vật trong huyền thoại Adam và Eve, do đó không làm gì có cái gọi là “tội tổ tông” để mà rửa tội.  Bất kể ngày nay người ta giải thích bí tích rửa tội khác đi như thế nào, nhưng mang những đứa trẻ mới sinh, chưa đủ lý trí để áp đặt trên đầu chúng một ma thuật mê tín qua bí tích “rửa tội”, là một hành động cưỡng bách, vi phạm nhân quyền trắng trợn, vì những đứa trẻ đó không thể phản kháng, không thể có ý kiến. Và các bậc cha mẹ của những đứa trẻ này phải gánh một phần trách nhiệm trong hành động cưỡng bách này vì đã đồng lõa truyền lại cho con cháu điều mê muội của chính mình. 

     Nước Mỹ là một nước dân chủ, tôn trọng quyền tự do của con người, luôn luôn khuyến khích tiến bộ trí thức, củng cố chủ nghĩa dân tộc (nationalism) v..v.., do đó người Mỹ đã coi Công Giáo như là tôn giáo của sự đàn áp, ngu đần, là kẻ thù ngấm ngầm của dân chủ (Catholicism as the religion of represssion and ignorance, the implicit enemy of democracy.) Đối với đa số dân Mỹ, Người Công Giáo thuộc một định chế toàn cầu  không bao giờ cho phép tín đồ coi mình như là công dân của một quốc gia mà chỉ là con cái của Giáo hội.  Bản chất của Giáo hội Công Giáo là phủ nhận quyền độc lập tuyệt đối của quốc gia và chủ nghĩa dân tộc.” (Catholics belong to a global institution which could never allow its members to think of themselves primarily as citizens of a state rather than sons and daughters of the Church.  Of its nature, The Catholic Church denied the absolute claims of nations and nationalism.)  Và người Mỹ coi “người Công giáo Mỹ” như bất khả tương hợp với “công dân Mỹ”:  Từ khi bắt đầu thành lập Giáo hội Công giáo trên đất Mỹ, tất cả vấn đề là một “người Công giáo Mỹ” có vẻ như nói lên một sự mâu thuẫn, một sự thiếu đầu óc.  Làm sao mà một thần dân của một chế độ - đặc biệt là chế độ này tự tán dương là nắm thần quyền trong tay - lại đồng thời có thể là công dân của một chế độ khác?”  (From the first establishment of the Church on American soil, the whole issue being an “American Catholic” seemed to involve a contradiction, even an oxymoron.  How could the subject of one regime – especially with such exalted claims to divine authority – simultaneously be the citizen of another?) [Philip Jenkins, Ibid.]  Người Việt Nam nên học bài học này của Mỹ, lịch sử Công giáo Việt Nam chứng tỏ những đặc tín mô tả trên về Công giáo của người Mỹ là không sai.

     Tôi nghĩ người Việt Nam chúng ta cũng nên để tâm đến sự mâu thuẫn này:  Làm sao mà một người “Công giáo Việt Nam” có thể cùng lúc là “công dân Việt Nam”?, nếu họ còn nhất cử nhất động đều phải theo lệnh của Vatican?.  Họ không thể nói rằng, tôi theo đạo là vấn đề tín ngưỡng riêng tư, tôi vẫn là công dân của nước Việt Nam và cũng yêu nước như bất cứ ai.  Tại sao? 

Thứ nhất, vì lịch sử Việt Nam thời cận đại đã chứng minh trái ngược hẳn lại.  Cuộc hỗ trợ rất đáng kể của giáo dân Công Giáo trong cuộc Pháp xâm chiếm Việt Nam, như nhiều tài liệu lịch sử đã ghi rõ, là một bằng chứng rõ ràng nhất, và Công Giáo Việt Nam có những nhân vật nổi tiếng phi dân tộc và phản bội quốc gia nhất: Trần Bá Lộc, Nguyễn trường Tộ, Pétrus Ký, Nguyễn Thân, Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Thục, Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, Phạm Ngọc Chi, Lê Hữu Từ, Hoàng Quỳnh v..v..  Theo hệ thống chăn dắt giáo dân của Công Giáo thì người Công Giáo phải tuyệt đối tuân lệnh bề trên.  Do đó, nếu các bậc lãnh đạo Công giáo bản chất là phi dân tộc và phản dân tộc thì giáo dân, khi hành động theo lệnh của các bề trên, tất nhiên cũng trở thành phi dân tộc và phản dân tộc dù là hành động trong vô ý thức.  Sự kiện Linh mục Trần Lục dẫn 5000 giáo dân đi hỗ trợ quân xâm lược Pháp để hạ chiến khu Ba Đình là một bằng chứng điển hình và rõ ràng nhất.  Sự kiện những khu tự trị Bùi Chu, Phát Diệm dưới sự lãnh đạo của Giám mục Lê Hữu Từ và Linh mục Hoàng Quỳnh, người nổi tiếng với câu “Thà mất nước chứ không thà mất Chúa”, săn lùng, giết hại người Việt kháng chiến yêu nước là một bằng chứng thứ hai.  Và gần đây, những hành động cuồng tín phi luật pháp của các giáo dân, được các bề trên xách động, ở Tòa Khâm Sứ Hà Nội, cũng như ở Ấp Thái Hà v..v.. , đã cho chúng ta thấy bản chất phi dân tộc của những người Công Giáo.

     Thứ nhì, vì một sự trung thành nước đôi thì không thể gọi là trung thành.  Quyền lợi của Vatican không phải là quyền lợi của Việt Nam cũng như không phải là quyền lợi của bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới.  Trung thành với Vatican không hẳn chỉ là trung thành trong vấn đề tín ngưỡng, bởi vì Vatican bản chất là một định chế thế tục, muốn kiểm soát mọi khía cạnh của xã hội như chúng ta thấy vài nhận định sau đây của người Mỹ:

      “Công Giáo có ý chí và khả năng áp đặt những tiêu chuẩn và sở thích của mình trên quảng đại quần chúng.  Giáo hội Công Giáo không giới hạn ảnh hưởng của mình trên địa hạt tâm linh nhưng tự đề cao có quyền hành rộng rãi trên những vấn đề thế tục.  Trong hầu hết thế kỷ 20, những nhóm áp lực Công Giáo đã tạo được ảnh hưởng sâu rộng (trong đất Mỹ) trên những gì mà người phi-Công Giáo được đọc, phim ảnh được xem, và ngay cả những quyết định về kế hoạch gia đình.” 
(Catholics had both the will and ability to impose their tastes and standards on the wider population.
The Catholic Church was not prepared to limit its influence to a strictly defined spiritual sphere, but claimed wide authority over secular matters.  Through much of the 20th century, Catholic pressure groups had a profound effect on what ordinary non-Catholics could read, the film they could see, and even the decisions thery could legally make concerning family planning..) [Philip Jenkins, Ibid., p.42]

     Trong cuốn American Freedom and Catholic Power, tác giả Paul Blanshard cho rằng nước Mỹ đã phải đối diện với một sự xung đột căn bản về văn hóa và giá trị xã hội (America was facing a fundamental clash of culture and values).  Tác giả viết: Vấn nạn Công Giáo Mỹ là như thế này:  Chúng ta phải làm gì đối với một hệ thống quyền lực hoạt động trong thế kỷ 20 ở nước Mỹ dưới sự kiểm soát của Trung Cổ Âu Châu? (The American Catholic problem is this: “What is to be done with a hierarchy that operates in 20th century America under medieval European controls.”)  Và ông ta đã đưa ra đề nghị Phải có một phong trào đối kháng để ngăn ngừa hệ thống đó áp đặt những chính sách xã hội của họ trên những trường học, nhà thương, chính quyền và tổ chức gia đình của chúng ta. (A resistance movement designed to prevent the hierarchy from imposing its social policies upon our schools, hospitals, government and family organization.)

      Và David R. Boldt viết trong tờ Philadelphia Inquirer, 1990:

      “Chúng ta cần phải nhớ rằng, Giáo hội Công Giáo La Mã thật sự là một định chế không phải là của Mỹ. Định chế này không có tinh thần dân chủ.  Quan điểm của giáo hội về thủ tục hợp pháp và về địa vị phái nữ, chỉ kể hai vấn đề chính, thật là đối nghịch với luật pháp của xã hội thế tục Mỹ.  Và những chính sách chính yếu [của Giáo hội Công giáo Mỹ] đều được thiết lập ở Vatican, ở thành phố La Mã.
(The Roman Catholic Church, it needs to be remembered, is quite literally an un-American institution.  It is not democratic.  The Church’s views on due process and on the status of women, to name just a couple of key issues, are sharply at odds with those that inform the laws of American secular society.  And its principal policies are established by the Vatican in Rome.)

     Một trong những khía cạnh “chống Công giáo” khác là người Mỹ coi Công giáo La Mã như là một định chế tổ chức theo cấu trúc Kim Tự Tháp: một nhóm giáo sĩ ngồi trên đỉnh chóp, cai trị một cái đáy gồm đám đông tín đồ nghèo khổ và ngu dốt ở dưới.  Hiện nay hơn 70% tín đồ Công giáo thuộc các nước Phi Châu, Nam Mỹ , Phi Luật Tân ở Á Châu, và một số ốc đảo ở Việt Nam.  Vài nhận xét sau đây cho chúng ta thấy rõ vấn đề.

     Đối với giới ưu tú trong xã hội, Công Giáo hiển nhiên là tôn giáo của kẻ ngu dốt và cuồng tín, những khối dân dơ dáy thấy rõ ở Boston và New York.  Cho đến thế kỷ 20, chính người Công Giáo cũng không thể phủ nhận là số người nghèo khổ chiếm đa số trong Giáo hội Công giáo Mỹ.  Trong sách Giáo Lý xuất bản ở Baltimore, giáo dân Công Giáo được dạy để trả lời nhận định là “có quá nhiều người nghèo và ngu dốt trong Giáo hội Công Giáo”.  Giáo dân được dạy là chấp nhận sự kiện căn bản trên, nhưng diễn giảng nó thành một đức tính.  Giáo dân phải lý luận như sau: “Bảo rằng có nhiều người nghèo và ngu dốt trong Giáo hội Công Giáo là khẳng định đó là Giáo hội của Chúa Ki Tô; vì Chúa luôn luôn dạy người nghèo và ngu dốt, và chỉ thị cho Giáo hội phải tiếp tục công việc dạy dỗ người nghèo và ngu dốt.”
(For the social elite, Catholicism was evidently the religion of the ignorant and fanatical, the unwashed masses who were visibly annexing cities such as Boston and New York.  Well into the 20th century, Catholics themselves could scarcely deny that the very poor were overrepresented in the American Church.  In the Baltimore Catechism, ordinary Catholics are taught to answer the statement that “there are too many poor and ignorant people in the Catholic Church.”  In response, Catholics were told to concede the basic fact, but to make virtue of it.  They should go on to argue that “to say there are many poor and ignorant in the Catholic Church is to declare that it is Christ’s Church; for He always taught the poor and ignorant and instructed His Church to continue the work.”) [Philip Jenkins, Ibid., p. 29 = Baltimore Catechism, Question 514-15; http//bible.crosswalk.com/]

     [Điều hiển nhiên là người nghèo và ngu dốt thì không có mấy người có đủ đầu óc sáng suốt, đủ hiểu biết để mà phân biệt chân giả, cho nên rất dễ bị đưa vào vòng mê tín và cuồng tín.  Giáo Hội Công Giáo La Mã vẫn hãnh diện về số giáo dân đông đảo của mình, gần một tỷ người.  Và đây là một thành công nhất của Giáo hội.  Còn thực chất của giáo dân ra sao không phải là điều giáo hội quan tâm.  Ngu dân dễ trị vốn là tiêu chuẩn hành đạo từ xưa của tập đoàn chỉ đạo Công giáo La Mã, ngồi ở trên cai trị đám giáo dân ở dưới.  Nhưng không ai có thể phủ nhận bộ mặt đạo đức giả của Giáo hội Công Giáo La Mã, vì Giáo hội là một định chế giầu nhất thế giới, tài sản của Vatican lên đến hàng ngàn tỷ đô-la, và giáo hội Công giáo ở Mỹ đã phải bỏ ra trên 2 tỷ đô la để bồi thường cho những nạn nhân tình dục của giáo hội.  TCN]

     Cùng một ý tưởng, Bruce Bawer viết trong cuốn Stealing Jesus, Three Rivers Press, New York, 1998, p. 164:

     Trong thế kỷ 19, những người thuộc giai cấp cao, có học, và nhiều người thuộc mọi giai cấp, đã hàng loạt thôi không dự các lễ ở nhà thờ, để lại đàng sau một Giáo hội gồm hầu hết những kẻ ít học. Để xoa dịu tình cảm mê tín của những người còn lại này, Vatican đưa vào thêm những giáo lý mới về Mary đồng trinh, nghĩa là giáo lý về Thụ Thai Vô Nhiễm (1854) và Thăng Thiên của Mary (1950).  Cả hai ý tưởng này - đối với một tín hữu có đầu óc thì thật là vô nghĩa – không có căn cứ trên phúc âm mà chỉ là lòng mộ đạo dân gian.
(During the 19th century, members of the educated upper classes, and men of all classes, ceased attending service in droves, leaving behind a church composed mostly of the under-educated.  To appease these members’ sentimental superstitions, the Vatican added new doctrines about the Virgin Mary, namely the Immaculate Conception (1854) and the Assumption (1950).  Both ideas – “which, to a thingking believer, were meaningless – had their basis not in scripture but in folk piety.)

     Do đó, chúng ta không nên lấy làm lạ khi thấy tại sao trong nước Mỹ ngày nay, khoan kể đến trên toàn thế giới, vẫn còn có những phong trào “chống Công Giáo”?

     Trong tờ Slate, 13.3.2000, Jack Shafer viết: 

“Nếu “chống Công Giáo” vẫn còn mạnh ngày nay là vì nó liên hệ đến cách hành xử của Giáo hội Công Giáo trong quá khứ.  Mới cuối tuần này, Giáo Hoàng John Paul II đã thú nhận như vậy khi Ngài chính thức xin lỗi thế giới về 2000 năm đồi bại của Công Giáo (apologizing to the world for 2000 years of Catholic wickedness). Ông ta xin lỗi về những chuyện như cưỡng bách cải đạo (forced conversions), tàn sát trong các cuộc Thánh Chiến (murderous crusades), và những Tòa Án xử Dị Giáo (The Inquisition).  Tác giả so sánh Giáo Hoàng với những kẻ “gây thù hận” như Louis Farrakhan.”  (The author compared the Pope to “hate-mongers” like Louis Farrakhan.) [Farrakhan là một người Hồi giáo cực đoan, cuồng tín, luôn luôn phát biểu những ý kiến thù hận chống Âu Mỹ. TCN]
Trong thế giới Âu Mỹ ngày nay, Công Giáo được nhận biết rõ ràng như là một nguồn ác ôn ngoại lai, một sự đe dọa tàn khốc đối với những khái niệm Âu Mỹ về căn cước và độc lập quốc gia (Catholicism was clearly identified as a foreign evil, a dire threat to Anglo-American notions of national identity and independence.) [Philip Jenkins, Ibid., p. 25]

     Năm 1959, chính Tổng Thống Hoa Kỳ Harry Truman đã khẳng định là “khó có thể tin được người Công Giáo ở vị thế cao cấp nắm chính quyền vì người Công Giáo có nhiệm vụ trung thành với hệ thống quyền lực của Giáo hội.  Chúng ta không muốn bất cứ ai nắm giữ chính phủ Hoa Kỳ mà lại có một sự trung thành khác, tôn giáo hay bất cứ cái gì khác.”
(Speaking in 1959, Harry Truman himself asserted that Catholics could scarcely be trusted in the high office because Catholics have a loyalty to a church hierarchy.  You don’t want to have anyone in control of the government of the US who has another loyalty, religious or otherwise.)
[Paul Blanshard, American freedom and Catholic Power, p.3]

     Việt Nam nên nhớ kỹ câu này, và Quốc Hội Việt Nam nên ra một đạo luật tuyệt đối không bao giờ để cho người Công Giáo lên nắm chính quyền.  Gương Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu ở miền Nam Việt Nam, Franco ở Tây Ban Nha, Palevich ở Nam Tư v..v.. là những bài học lịch sử mà người Việt Nam không bao giờ nên quên.  Quên đi thì lịch sử lại có cơ tái diễn.

   Vài Nét Về Những Hành Động Chống Công Giáo Ở Tây Phương.

    Sau đây tôi sẽ đưa ra một số tài liệu “chống Công Giáo” theo từng đề mục:

I.-  Sách “Chống Công Giáo”:

     Trước hết, chúng ta hãy điểm qua vài cuốn sách “chống Công Giáo”. Lẽ dĩ nhiên không ai có thể kể ra hết những cuốn sách thuộc loại “chống Công Giáo” mà thực ra chỉ là những tài liệu lịch sử. Ở đây, tôi cũng không kể đến những cuốn sách của những tác giả ngoài Công Giáo, mà chỉ kể đến vài cuốn điển hình của những tác giả ở trong giáo hội Công Giáo.  Hi vọng qua vài cuốn sách này, chúng ta có thể nhận ra bộ mặt thật của Công Giáo.

1. Peter de Rosa, Vicars Of Christ: The Dark Side of The Papacy, Crown Publishers, Inc., New York, 1988:
Linh Mục dòng Tên Peter de Rosa nguyên là giáo sư Siêu Hình Học (Metaphysics) và Đạo Đức tại Trường Dòng Westminster, Khoa Trưởng khoa Thần học tại Trường Đại Học Corpus Christi ở Luân Đôn.  Năm 1988, ông xuất bản cuốn Những Đại Diện Của Chúa Ki Tô: Cái Mặt Đen Tối Của Những Triều Chính Giáo Hoàng (Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy) trong đó tác giả vạch trần cái mặt đen tối đã ngự trị trong nhiều triều chính Giáo hoàng, từ St. Peter (Phê-rô) đến John Paul II, như đồi bại, ngụy tạo tài liệu, loạn dâm, giết người, theo đuổi chính sách diệt chủng v..v.. (corruption, document-forgery, sex scandals, murder, genocide etc..).  Tác giả đã mở toang những khung kính màu (mẫu mực cửa sổ ở Vatican) và để lộ ra những điều “Giáo hội dạy rằng...”, thường là “hình thành bởi những ham muốn đồi bại, độc tài và cuồng tín của các Giáo hoàng (de Rosa opens the stained glass window and reveals that the Church’s teachings were too often “shaped by the whims of corrupt, despotic and fanatical Popes.”.  Cuốn sách đã được nhiều tín đồ Công Giáo đánh giá cao vì tính chất lương thiện và nghiêm túc của nó (The book was appreciated for its honesty and seriousness by many Catholics). de Rosa đã đưa ra nhiều tài liệu chứng minh rằng, ngay trong thế kỷ qua, các Giáo hoàng đã coi “tự do tôn giáo” là điên rồ, bầu cử tự do là vô Thiên Chúa, và tự do báo chí là vô thần (..Within the past century, Popes have called religious freedom madness, free elections godless, and a free press tantamount to atheism).  Người Công Giáo Việt Nam, lẽ dĩ nhiên, vẫn tin và luôn luôn khoa trương, đánh bóng bộ mặt tự do, dân chủ chưa từng có của Giáo hội.

2.  Linh Mục Charles Chiniquy, 50 Years in the “Church” of  Rome,  Chick Publications, CA 1985.
Linh mục Charles Chiniquy sống trong Giáo hội Công Giáo 50 năm, với 25 năm hành nghề Linh mục.  Từ bé, ông ta đã học thuộc lòng Thánh Kinh.  Trở thành Linh mục, ông ta đặt tất cả sự tin cậy vào Giáo hội, nhưng rồi nhận thấy Giáo hội đã luôn luôn nói một đàng, làm một nẻo. Trong vài lời đề tặng (dedication) ở đầu cuốn sách “50 Năm Trong Giáo Hội La Mã”,  Linh mục Charles Chiniquy viết như sau:

     “Hỡi những linh mục trung thành của Phúc Âm!  Tôi dâng cuốn sách này cho các ông để các ông có thể biết rằng cái Con Quỷ Giáo Hội La Mã đã làm đổ máu tiền nhân của các ông, vẫn còn tiếp tục ngày nay, ngay trên ngưỡng cửa của các ông, để xiềng xích dân của các ông vào chân những hình tượng của giáo hội.  Các ông sẽ thấy đời sống bên trong của chế độ giáo hoàng, từ nghệ thuật siêu đẳng mà Giáo hội dùng để trói buộc đầu óc trẻ trung và nhút nhát của giới trẻ, cho đến sự hạ thấp phẩm giá không thể nói lên thành lời của các linh mục dưới gót chân sắt của các giám mục.
     Những sự mê tín, những tiết lễ lố bịch và ô nhục, những sự đau khổ cùng cực về tinh thần và kín đáo của các nhà tu, nữ tu và linh mục, sẽ được trình bày cho các ông.  Những sự sai lầm của Công Giáo La Mã sẽ được thảo luận và bác bỏ một cách đơn giản và rõ ràng.
     Cuốn sách này cũng được hiến tặng cho các Giám mục, Linh mục và tín đồ Công Giáo La Mã vì lợi ích của những linh hồn bất diệt của quý vịVới lòng nhân từ của Thiên Chúa quý vị sẽ thấy quý vị đã bị lừa dối một cách độc ác như thế nào bởi cái truyền thống hão huyền và láo khoét của quý vị.
     Quý vị sẽ thấy rằng quý vị không được cứu rỗi bởi những lễ tiết, thánh lễ, xưng tội, nơi chuộc tội (hay luyện ngục), xá tội, nhịn ăn v..v..”     
(Faithful ministers of the Gospel!  I present to you this book that you may know that the monster Church of Rome, who shed the blood of your forefathers, is still at work today, at your very door, to enchain your people to the feet of her idols.  You will see the inside life of the popery from the supreme art with which the mind of the young and timid child is fettered, to the unspeakable degradation of the priest under the iron feet of the bishop.
The superstitions, the ridiculous and humiliating practices, the secret and mental agonies of the monks, the nuns and the priests, will be shown to you.  The errors of Romanism are discussed and refuted with clearness and simplicity.
To the bishops, priests, and people of Romanism this book is also dedicated for the sake of your immortal souls.  By the mercy of God, you will find, in its pages, how you are cruelly deceived by your vain and lying tradition.
You will see that you are not saved through your ceremonies, masses, confessions, purgatory, indulgences, fastings etc..)

Quý độc giả Giao Điểm chắc còn nhớ trước đây tôi đã viết một bài về “bánh thánh” trong đó tôi có kể câu chuyện “Thiên Chúa của La Mã bị chuột ăn” (The God of Rome eaten by rats) trong cuốn sách trên của Charles Chiniquy.

3. Linh Mục Emmett McLoughlin, Crime and Immorality in the Catholic Church, Lyle Stuart, New York, 1964.
Linh mục dòng Phan-xi-cô (Franciscan) Emmett McLoughlin, 40 năm trong giáo hội, 15 năm trong nghề linh mục, là tác giả của những cuốn sách nổi tiếng như “Linh Mục (Cha) của quần chúng” (People’s Padre) và “Nền Văn Hóa Mỹ và các Trường Học Công Giáo” (American Culture and Catholic Schools) trong đó ông ta đã vạch trần bô mặt thật của giới Linh mục, những lễ tiết đượm màu mê tín trong Công Giáo, và những tác hại của nền giáo dục Công Giáo trong xã hội Hoa Kỳ.  Nhưng cuốn sách nổi tiếng hơn cả là cuốn “Tội Ác Và Vô Luân Trong Giáo Hội Công Giáo” (Crime and Immorality In The Catholic Church).  Chúng ta có thể đọc vài dòng trong phần Dẫn Nhập của cuốn sách:

     “Sản phẩm quan trọng nhất của bất cứ giáo hội hay tôn giáo nào là luân lý..  Tôn giáo có nghĩa là hòa bình giữa các quốc gia, công lý giữa những cá nhân, từ thiện đối với những người kém may mắn.  Nó có nghĩa là đời sống gương mẫu của những giáo sĩ đã hiến thân cho đạo.  Nó có nghĩa là không được giết chóc, không được tấn công, không ăn cắp, không nói dối; nói tóm lại, là tuân hành những luật căn bản của xã hội.
     Mục đích của cuốn sách này là chứng tỏ Giáo hội Công Giáo La mã, trong nhiệm vụ tạo ra sản phẩm quan trọng nhất như trên là một sự thất bại.
     Trong tập thể các tín đồ Công Giáo, tội ác và vô luân thì nhiều hơn là trong số những người không ở trong giáo hội nào hay ở trong các giáo hội khác.  Bất cứ những gì khác Giáo hội Công Giáo La mã có thể làm ở “trên trời, dưới đất hay dưới địa ngục’, nó không thể,  chưa từng, làm cho đa số tín đồ tốt hơn, thánh thiện hơn..
Trước những sự kiện đã được chứng minh, một người đi tìm sự thật với đầu óc không có thiên kiến bắt buộc phải kết luận rằng chẳng có Chúa nào lập ra Giáo Hội Công Giáo La Mã.  Anh ta có thể suy ra rằng luân lý và một đời sống tốt đẹp hơn không phải là sản phẩm quan trọng nhất của Giáo hội.  Anh ta có thể trở thành hoài nghi và tự hỏi Công Giáo La Mã có thật sự là một tôn giáo hay không, hay có lẽ đó chỉ là một xí nghiệp không lấy gì làm cao cả, khôn khéo ngụy trang đàng sau cái mặt nạ tôn giáo?
     Cuối cùng, “bằng vào những việc mà chúng đã làm, chúng ta có thể biết rõ chúng” [Câu này trích từ Tân Ước ra.]
(The most important product of any church or religion is morality...Religion means peace among nations, justice among individuals, charity toward those down on their luck.  It means the good, living example of a dedicated clergy.  It means no killing, no assault, no stealing, and no lying; in short, the observance of the first laws of society...
The purpose of this book is to show that the Roman Catholic Church in its most important work is a failure.
Among its members crime and immorality are greater than among the unchurched or the members of other churches.  Whatever else the Roman Catholic Church may be able to do “in Heaven, on earth and under the earth”, it cannot, it has not, and it does not make the majority of its members better and holier..
In the face of the proven facts, an unbiased seeker after truth might be forced to conclude that the Roman Catholic Church was not divinely established.  He might reason that morality and the better life are not its most important product after all.  He might become rather cynical and wonder if Roman Catholicism be really a religion at all, or whether it is perhaps some less noble enterprise cleverly disguised under the masquerade of religion.
After all, “By their fruits you will know them” )

  1. Linh Mục Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, Girard, KS; Haldeman Julius, 1942:

     Linh mục Joseph McCabe là một học giả nổi tiếng về bộ sử 8 cuốn: A Complete Outline of History.  Bộ sử này được dùng trong các đại học Mỹ trong nhiều thập niên.  Nhưng nổi tiếng hơn cả là một bộ sách Thế Lực Đen Quốc Tế  “The Black International” (Chỉ Công Giáo La-Mã) gồm gần 20 cuốn, viết về mọi mặt của Công Giáo La Mã, trong đó có những cuốn điển hình như sau: #1: Tội Ác Sau Cùng (không phải là cuối cùng. TCN) Của Vatican: Thế Lực Đen Quốc Tế Đã Âm Mưu Chống Tự Do, Chủ Nghĩa Giải Phóng, và Dân Chủ Trên Thế Giới Như Thế nào?” (The Vatican’s Last Crime: How The Black International Joined The World-Plot Agaisnt Freedom, Liberalism, and Democracy); #11:  Cấu Trúc Toàn Trị Của Giáo Hội La Mã:  Giáo Hoàng (tác giả so sánh Giáo hoàng với Hitler mà người Đức Quốc Xã gọi là Fuehrer (lãnh tụ), trang 12: The Pope is an autocrat, a dictator, a Fuehrer in just the same sense as Hitler or Mussolini), Tổng Giám Mục (cai quản một giáo phận, được so sánh với Gauleiter, một quan chức lãnh đạo một vùng hay một miền dưới thời Đức Quốc Xã, Ibid., trang 18: Today in every country, the archbishops are the Gauleiter, the regional representatives of the Fuehrer, in the Nazi-Papal system, and their loyalty to the central caucus at Rome is easily secured today), Tổ Chức Linh Mục (so sánh với Gestapo của Đức Quốc Xã, Ibid., trang 20: The Roman Church has its Gestapo and other agents scattered over every country which it has conquered or hopes to conquer:  quarter of a million priests, a vast army of monks and nuns, and an immense body of “technical experts” (journalists, teachers, writers, paid agents, organizers etc..;  Each of these priests is, like the Gestapo men, a pocket edition of the head Dictator), Và Cơ Quan Kinh Tài của Giáo Hội ( The Totalitarian Church of Rome: Its Fuehrer, Its Gauleiter, Its Gestapo, and Its Money-Box); #13: La Mã Đặt Sự Phá Hoại Trên Văn Hóa: Giáo Hội La Mã, Nghèo Nhất Về Văn Hóa, Giầu Nhất Về Tội Ác (Rome Puts A Blight on Culture:  The Roman Church The Poorest in Culture and Richest in Crime); # 14: Giáo Hội La Mã, Kẻ Thù Của những Công Nhân:  La Mã Là Đồng Minh Đương Nhiên Của Mọi Giới Bóc Lột (The Roman Church The Enemy Of The Workers: Rome Is The Natural Ally Of All Exploiters) v..v..  Nhưng tác phẩm dài nhất và đầy đủ về cấu trúc của chế độ Giáo hoàng, Thực chất giới Linh Mục, Học thuật Công Giáo (Catholic Scholarship), Các lễ tiết, bí tích mê tín trong Công Giáo La mã v..v.. là cuốn Sự Thật Về Giáo Hội Công Giáo (The Truth About The Catholic Church).  Cuốn sách này gồm có hai phần: Phần đầu nói về Lịch sử Giáo Hội La Mã (The History Of The Roman Church), và Phần hai nói về Giáo Hội Ngày Nay (The Church Today).  Ngay chương đầu, Linh mục Joseph McCabe viết:

     “Trong tất cả những chuyện giả tưởng vẫn còn được ẩn núp dưới cái dù dột nát “Chân lý Công Giáo”, truyền thuyết về chế độ giáo hoàng được thành lập bởi Chúa và hệ thống giáo hoàng thật đúng là lì lợm và có tính cách tiểu thuyết nhất.  Chẳng có quyền lực thần thánh nào, mà chỉ là một chuỗi những ngụy tạo và cưỡng bách, những lừa đảo tôn giáo và tham vọng  ngỗ ngược, phạm phải trong một thời đại cực kỳ ngu si, đã dựng lên quyền lực của giáo hoàng, hệ thống giáo sĩ và tín ngưỡng.
     Từ “Giáo hội” chẳng có nghĩa gì trong thời của Giê-su và Phê-rô.  Không có từ đó trong tiếng Aramic.  Giê-su đã phải nói là “Giáo đường” [nơi tụ tập cầu nguyện của người Do Thái], và ông ta ghét những Giáo đường.”
(Of all the fictions which still shelter from the storm of modern criticism under the leaky umbrella of “Catholic Truth”, the legend of the divine foundation of the Papacy and the Papal system is quite the boldest and most romantic.  No divine force, but a pitifully human series of forgeries and coercions, of pious frauds and truculent ambitions, perpetrated in an age of deep ignorance, built up the Papal power, hierarchy and creed...
The word “church” had no meaning at all in the days of Christ and Peter.  There was no such word in Aramaic.  Christ would have had to say “synagogue”; and he hated synagogues.)

5.  Linh Mục James Kavanaugh, A Modern Priest Looks At His Oudated Church, Pocket Books, New York, 1968.
Trước đây, trang nhà Giao Điểm đã đăng bài Huyền Thoại Cứu Rỗi (The Salvation Myth) mà tôi lược dịch từ một chương trong cuốn Sự Sinh Ra Của Thiên Chúa (The Birth of God) của Linh mục James Kavanaugh.  Nhưng cuốn sách bán chạy nhất và được nhiều người Công Giáo đọc nhất là cuốn Một Linh Mục Hiện Đại Nhìn Vào Cái Giáo Hội Đã Lỗi Thời Của Mình (A Modern Priest Looks At His Outdated Church) trong đó ông ta đã thẳng thắn phê phán những giáo luật độc tài phi lý của Giáo hội Công giáo, phân tích con người Công Giáo (The man who is a Catholic) qua các vấn đề như còn đắm mình vào trong những sự mê tín như tin vào phép lạ Lộ Đức (Lourdes), Fatima v..v.., bị mất nhân vị (The loss of Personalism), bị đối xử vô nhân đạo trong việc cưới hỏi và ly dị, ngừa thai v..v..  Linh mục Kavanaugh viết rất thành thực và thẳng thắn đến độ một phê bình gia đã kết luận: nếu ông ta viết cuốn sách này trước đây vài trăm năm thì ông đã bị đưa lên giàn hỏa thiêu sống. (In an earlier day, I believe he would have been burned at the stake).  Cuốn sách đã được nhiều trăm ngàn tín đồ Công Giáo cũng như Tin Lành đọc nghiến ngấu, những người đang tìm kiếm một ý nghĩa của cuộc đời, chấm dứt một cuộc sống ràng buộc bởi những luật lệ  ấu trĩ [của Giáo hội Công Giáo] (eagerly devoured by hundreds of thousands of Catholics – and an equal number of non-Catholics- who are searching for a meaning of life and an end to childish rule-bound living).  90% hồi ứng của độc giả ở trong cũng như ở ngoài Giáo hội Công giáo tán thán công trình và sự ngay thẳng trí thức của ông ta.  Kết quả là Linh mục James Kavanaugh được mời đi thuyết trình ở nhiều trường đại học, lên nhiều đài truyền hình và đài phát thanh để phổ biến những tư tưởng của ông cho đại chúng. 

6.  Đức Ông Luigi Marielli,  The Vatican Mis À Nu, Traduit de l’Italien par Pierre-Émmanuel Dauzat, Edition Robert Laffont, Paris, 2000.
     Cuốn sách này là bản dịch sang tiếng Pháp của bản gốc tiếng Ý: VIA COL VENTO IN VATICANO.  Bản dịch tiếng Anh có tên Gone With The Wind In The Vatican mà có người Việt Nam dịch là Cuốn Theo Chiều Gió Ở Vatican.  Bản tiếng Anh không thấy bán trong các tiệm sách nhưng có thể đặt mua trên Internet.  Tôi mua được bản tiếng Pháp ở Paris, hè 2002.  Bản tiếng Pháp không dịch mà đặt tên khác: Lột Trần Vatican (Vatican Mis À Nu). Đúng là lột trần vì độc giả sẽ thấy một hình ảnh Vatican mục nát, không mũ mãng, quần áo lòe loẹt trang trí bên ngoài. Cuốn sách này là con dao mổ xẻ của tác giả đã đâm ngập vào một vết thương sâu (ce livre est un bistouri plongé dans une plaie profonde) với hi vọng có thể cắt bỏ những máu mủ độc hại trong đó.  Tác giả đã vạch trần bộ mặt vô tín vô luật (sans foi ni loi) trong trung tâm chỉ đạo của Giáo hội Công giáo La Mã (Curie Romaine) gồm hầu hết những kẻ chạy chọt làm áp-phe, chạy theo chức tước, đồng giống luyến ái, tranh chấp phe đảng, và những công cụ để được thăng chức nhanh chóng... (Affairisme, carriérisme, homosexualité, la course aux postes, la lutte des clans, des instruments de promotion accélérée...)
Chúng ta hãy đọc vài lời nơi trang bìa sau:

     Ngày 16 tháng 7, 1999, Đức Ông Luigi Marielli,  một giáo sĩ cao cấp trong tập đoàn chỉ đạo của giáo hội La Mã, bị gọi đến trước tòa án vủa Vatican để giải thích về việc xuất bản một cuốn sách mà người ta đồn ông là tác giả.  Cuốn sách này, bị mọi nhà xuất bản ở bán đảo Ý từ chối, cuối cùng được phát hành bởi một nhà xuất bản nhỏ chống giới giáo sĩ, xuất phát từ một nhóm viên chức cao cấp của Vatican, “Les Millénaires” [nhóm người hi vọng một thời kỳ tốt đẹp, thịnh vượng và công bằng hơn], những người chọn con đường không tuân luật im lặng.  Và nếu tòa Thánh ước mong cuốn sách này không được bán, thì chính tòa Thánh đã lên án một cách độc hại sự đồi bại tinh thần và vật chất trong hệ thống lãnh đạo của giáo hội.  Sự xuất hiện của Đức Ông Marielli đã đẩy mạnh cuốn sách lên hàng bán chạy nhất.
     Người  ta không biết được cái gì ở đàng sau nhóm “Les Millénaires”, ngay cả khi người ta xì xào là có một Hồng y trong đó. Điều chắc là, đây là lần đầu tiên, tấm màn (che dấu những sự đồi bại) đã được kéo lên từ bên trong, để lộ hệ thống lãnh đạo rất tối tăm của Giáo hoàng...Làm áp-phe, chạy theo chức tước, đồng giống luyến ái, tam điểm:  bức tranh mà nhóm “Les Millénaires” phác họa triều chính Giáo hoàng thật là dễ sợ, tất cả với rất nhiều chi tiết chứng tỏ một sự hiểu biết sâu đậm về hậu trường của trung tâm chỉ đạo của Giáo hội Công Giáo La Mã.  Phải chăng Vatican sẽ nằm trong tay của một băng đảng của những kẻ chạy theo chức tước, vô tín vô luật.
(Le 16 Juillet 1999, Mgr Luigi Marielli, un prélat de la curie romaine, est convoqué devant un tribunal du Vatican pour s’expliquer sur la publication anonyme d’un livre dont la rumeur lui attribute la paternité.  Cet ouvrage, refusé par tous les éditeurs de la Péninsule, finalement publié par une petite maison anticléricale, serait l’émanation d’un groupe de hauts dignitaires du Vatican, “Les Millénaires”, qui aurait choisi de briser la loi du silence.  Et si le Saint-Sìege souhaite le voir retiré de la vente, c’est qu’il dénonce avec virulence la corruption morale et physique régnant dans le gouvernement de l’église.  La comparution de Mgr Marielli propulse l’ouvrage en tête des best-sellers..
On ne sait toujours pas qui se cache derrière “Les Millénaires”, même si l’on murmure qu’un cardinal en ferait partie.  Ce qui est certain, c’est que pour la premìre fois, le voile a été levé, de l’intérieur, sur le très opaque gouvernement pontifical...Affairism, carriérisme, homosexualité, franc-maconnerie: le tableau que “Les Millénaires” brossent de la cour du Pape est effarant, le tout avec un luxe de détails qui trahit une connaissance approfondie des coulisses de la curie.  Le Vatican serait-il aux mains d’une coterie de carriéristes sans foi ni loi? )

 Linh Mục Abbé J. Turmel, Comment J’ai Donné Congé Aux Dogmes, Aux Éditions de l’Idée Libre, Herblay (Seine-et-Oise)  [Cuốn này đã được Giuse Phạm Hữu Tạo dịch ra tiếng Việt: “Tại Sao Tôi Bỏ (Những) Giáo Điều (Tín Lý??) Công Giáo”, 2005.

  Chúng ta thấy, trong khi thế giới bên ngoài đã tràn ngập những tác phẩm về bộ mặt thực của Vatican, thì ở trong nước và ở hải ngoại, người Công giáo vẫn mù mờ tin bướng tin càn. Thật vậy, sách viết về Công Giáo thì có rất nhiều, nhưng riêng về Vatican thì tôi đề nghị giới chăn chiên con chiên Việt Nam cũng như các con chiên trí thức Việt Nam hãy đọc ít nhất là những cuốn sau đây về Vatican để thấy mình đang ở dưới quyền của một tổ chức tôn giáo hay thế tục như thế nào. Quý vị “đừng sợ”, không có ai đọc sách mà phải xuống hỏa ngục đâu, vả chăng Giáo hoàng John Paul II của quý vị đã khẳng định trước thế giới là chẳng làm gì có hỏa ngục cả.

- “Vatican Mis À Nu” của Đức Ông Luigi Marinelli
- Những cuốn “The Vatican’s Mafia”; “Vatican Exposed: Money, Murder, and the Mafia”; “The Vatican’s Finances”; “The Antichrist in the Vatican”; “The Lies of Pope John Paul II” v..v.. của Đức Ông Rafael Rodríguez Guillén.
- “The Secret Archives of the Vatican” của Maria Luisa Ambrosini & Mary Willis
- “The Vatican and Zionism” của Sergio I. Minerbi.
- “The Love Affairs of the Vatican or The Favorites of the Popes” của Dr. Angelo S. Rappoport
- “In the Vatican: The Politics and Organization of the Roman Catholic Church” của Thomas Reese
- “Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy” của Giám mục dòng Tên Peter de Rosa
- “The Vatican’s Holocaust” của Baron Avro Manhattan
-  “In the Vatican” của Peter Hebblethwaite
- “The Vatican Empire”“The Incredible Book of Vatican Facts and Papal Curiosities” của Nino Lo Bello
- “O Vatican: A slightly wicked view of the Holy See” của Paul Hofmann
- “The Vatican Connection” của Richard Hammer
Tôi tin rằng quý vị không thể ngờ được là trong cuốn The Vaticans Mafia của Đức Ông Rafael Rodríguez Guillén lại có những chương mục như sau, và xin quý vị biết rằng cuốn sách đã được phổ biến rộng rãi và quý vị có thể download hoặc mua cuốn này từ trên Internet để mà đọc. Tôi tin rằng, trong tương lai, bằng cách này hay cách khác, cuốn sách này sẽ được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam trong chiều hướng tiến bộ trí thức của người Việt, và quý vị không có cách nào có thể ngăn chận được chiều hướng này.


....
3 - PERSONAGES OF THE SACRED MAFIA OF THE VATICAN
4 - THE VATICAN MAFIA IN THE CATHOLIC CHURCHES
5 - THE GANGSTERS OR THE VATICAN'S SACRILEGIOUS MAFIA
6 - THE CONNECTION OF THE VATICAN IN THE COUNTERFEITING OF BILLIONS OF DOLLARS
7 - THE VATICAN AND HER CONNECTIONS WITH THE CRIME SYNDICATE
8 - THE ARCHBISHOP MARCINKUS AND THE VATICAN'S MAFIA
9 - THE VATICAN'S MURDEROUS MAFIA
11 - THE VATICANS ALLIANCES WITH THE INTERNATIONAL MAFIA
12 - THE HOLY MAFIA
13 - THE INTELLECTUAL, POLITICAL AND SACRED MAFIA
15 - THE TERRORIST MAFIA OF THE VATICAN
16 - THE VATICAN AND HER ROMAN LEGIONS CONNECTED WITH THE MAFIA
20 - THE HOLY MAFIA OR THE OPUS DEI
21 - WRITERS AND HISTORIANS WHO PROVE THE VATICAN'S MAFIA

   Trên đây chỉ là vài cuốn sách “chống Công Giáo” điển hình trong rừng sách “chống Công Giáo” được phổ biến rộng rãi trong thế giới Âu Mỹ.  Tôi cho rằng những cuốn sách thuộc loại này, viết bởi chính những người trong cấp lãnh đạo Giáo hội Công giáo, cần phải dịch ra và phổ biến rộng rãi ở Việt Nam.  Ngoài mục đích mở mang dân trí, hi vọng những cuốn sách này còn có thể khai sáng đầu óc những người Công Giáo Việt Nam, giúp họ thoát ra khỏi tình trạng nô lệ tâm linh và thế quyền Vatican.  Người Tây phương đã thoát ra khỏi cảnh tối tăm trí thức (intellectual darkness) của ý thức hệ Công Giáo La Mã (Romanism), tại sao Nhà Nước không thể giúp 7% dân chúng của mình thoát ra khỏi những xiềng xích tâm linh để cho họ trở về với dân tộc, đất nước, đặt nặng tinh thần quốc gia trên hết?

II.    “Chống Công Giáo” Trong Báo Chí.

     Trên nước Mỹ không phải chỉ có những sách “chống Công Giáo” mà trên báo chí chúng ta cũng thường xuyên thấy những bài báo “chống Công Giáo”.  Sau đây chỉ là vài đoạn lượm lặt trên một số nhỏ báo chí Mỹ.

a.   Tờ New Republic, Jan. 21, 2002,  có đăng một bài về vai trò của Giáo hoàng triều trong đệ nhị thế chiến, trong đó lên án Giáo hoàng Pius XII đã trực tiếp phục vụ kẻ Chống Chúa.
(“New Republic” published an article on the wartime role of the papacy, in which Pope Pius XII was charged with directly serving the Anti-Christ.)
 b.   Trong tờ Nation, Nov. 9, 1998, Tony Kushner loại Giáo hoàng John Paul II như là một “kẻ nói láo giết người”, một kẻ “ủng hộ giết người”, và “các Giám mục Công Giáo là những Pilate đội mũ mãng, áo thụng tế lễ”[Pontius Pilate là Thống Đốc La Mã trong thời Giê-su bị đóng đinh trên thập giá].
(Tony Kushner dismissed Pope JPII as a “homicidal liar” who “endorses murder”, “Catholic Bishops are “mitred, chasubled and coped Pilates”)
 c.  Thái độ chống Giáo hội Công Giáo tất nhiên đưa đến sự coi thường những người tin và thực hành Công Giáo mà đức tin của họ phản ánh tình cảm yếu kém, dồn nén nội tâm, hoặc tuân phục quyền hành một cách không bình thường.  Tờ National Lampoon có lần đăng một bài nhại một cuộc thi trong đó có một câu hỏi “Chỉ có người rất _____ mới tin vào đạo Công Giáo”.  Có 4 sự lựa chọn, từ a tới d, để điền vào chỗ trống, cả 4  đều chỉ có một chữ: ngu đần”.
(Anti-church sentiment leads naturally to contempt for practicing or believing Catholics, whose faith must reflect emotionally weakness, internal repression, or unnatural subservience to authority.  The National Lampoon once featured a parody of multiple-choice exams, in which one question read “only a very ____ person believes in Catholicism”.  There were four possible answers, a through d, all of which offered the same word to fill the gap, stupid. [Philip Jenkins, Ibid., p.6]
d.  Geoffrey Chaucer, khi tường thuật xã hội Anh trong thời Trung Cổ, có quan điểm là linh mục các dòng tu Công giáo thì lười biếng, tham lam, dâm đãng và đạo đức giả.  Ngoại trừ vài biệt lệ thánh thiện, các giáo hoàng, giám mục không những có cùng những tính xấu trên, mà còn chất chứa đầy người những tội lỗi của quyền lực như tham lam, độc tài và có một tâm lý bệnh hoạn về những ảo tưởng hão huyền về quyền lực hay toàn năng [megalomania].  Trong quan điểm “chống Công giáo”, giới giáo sĩ không chỉ xấu xa bản thân, mà còn là kẻ thù của sự an sinh công cộng và tiến bộ xã hội.
(Geoffrey Chaucer’s accounts of medieval English society.  In this view, priests, monks and friars are idle, greedy, lascivious, and hypocritical.  With a handful of saintly exceptions, popes and bishops not only demonstrate the same faults, but compound them with sins of power such as greed, despotism, and megalomania.  In the anti-catholic view, the clergy are not just wicked in themselves, but the enemies of public welfare and of social progress.)[Jenkins, Ibid., p.10]
e.   John McGreevy, trong tờ Journal of American History 84, 1 (1997) đã nêu lên truyền thống trí thức Mỹ qua những tư tưởng khai phóng của John Dewey và Walter Lipmann về “đầu óc người Mỹ” (American mind) và “định nghĩa rõ ràng nền văn hóa Mỹ là chống ý thức hệ Công Giáo: Đầu óc người Mỹ không phải là đầu óc Công giáo và, theo luận lý, Công Giáo không phải là của Mỹ.  Giáo hội Công giáo là một hệ thống bao cấp, độc đoán, ngoại lai, Âu Châu, và thù nghịch đối với sự tìm hiểu khoa học - lẽ tất nhiên, vì nó được xây dựng trên một hệ thống siêu nhiên. (...defined American culture explicitly against Catholicism: the American mind was not Catholic and, logically, Catholicism was not American.  The Church was hierarchical, authoritarian, foreign, European, and hostile to scientific inquiry – naturally, since it was founded upon a supernaturalistic system.)

     Năm 2000, khi ra tranh cử, ứng cử viên Tổng Thống Mỹ George W. Bush đã được mời đến đại học Bob Jones ở South Carolina.  Việc này làm cho báo chí trong nước xôn xao phê bình.  Tại sao?  Vì đại học Bob Jones là một đại học Tin Lành cực đoan, chống Công giáo và đạo Mormon, cho rằng hai đạo này là những tôn giáo thuộc loại thờ cúng (Cults), không liên hệ gì tới Ki Tô Giáo chân thật (genuine Christianity).  Bob Jones Jr. đã từng “mô tả Giáo hội Công Giáo như là một đạo “dập theo Satan”, một sự chuyên chế của giới giáo sĩ trên linh hồn con người, không phải là mang sự cứu rỗi đến cho tín đồ mà buộc chặt họ trong tội lỗi và quẳng họ xuống hỏa ngục vĩnh hằng. Đó là con điếm già trong sách Khải Huyền – “Mẹ của các con điếm”..  Giáo hội say sưa với máu của các Thánh của Thiên Chúa mà Giáo hội đã quấy nhiễu và bạo hành, cầm tù, giết hại và hủy diệt. Luôn luôn thay đổi những mặt nạ của mình nhưng không bao thay đổi bản chất, Giáo hội đã xâm nhập vào những nơi nào mà nó không thể cầm quyền, và sống một cách thích nghi khi nó không thể buộc người khác phải theo những quan điểm và tiêu chuẩn của Giáo hội.”
(Bob Jones Jr. describes the Catholic Church as “a Satanic counterfeit”, an ecclesiastic tyranny over the souls of men, not to bring them salvation but to hold them bound in sin and to hurl them into eternal damnation.  It is the old harlot of the book of Revelation – “the Mother of Harlots”... She is drunk with the blood of the saints of God whom she has harassed and persecuted, imprisoned, massacred and destroyed. Constantly changing her masks but never her nature, she has infiltrated where she could not command and adapted when she could not enforce.)  [“News Analysis: Bush and Bigotry”, www.uspolitics.about.com]

     Trên Internet cũng có nhiều trang nhà “chống Công Giáo”.  Quý độc giả có thể vào trang nhà Giao Điểm và đọc mục “Giao Điểm Onlines” hoặc vào Website www.StopthePope.com trong đó có một trang nối kết với rất nhiều trang nhà “chống Công Giáo” khác (Huge anti-Catholic Links Page).

III.   Chống Công Giáo” Trong Vài Hành Động Của Tín Đồ Công Giáo:

     Không ai có thể kể ra hết những hành động “chống Công Giáo” của chính những tín đồ Công Giáo.  Hầu hết những hành động “chống Công Giáo” của giáo dân là về những vấn đề xã hội mà Giáo hội xía vào, tự cho mình cái quyền kiểm soát, không những đời sống tâm linh của tín đồ mà còn về mọi khía cạnh trong đời sống hàng ngày của tín đồ.  Người Công Giáo Việt Nam nên ý thức được rằng: tuyệt đối tuân lệnh Vatican về những vấn đề xã hội là phá hoại xã hội nói riêng, cộng đồng thế giới nói chung.  80% tín đồ Công Giáo Mỹ phản đối Thông Tư Humanae Vitae của Giáo hoàng Paul VI, cấm dùng thuốc ngừa thai. Giáo dân Mỹ đặt vấn đề: quyền lực ngoại lai ở La Mã lấy căn bản hợp pháp nào để áp đặt trên giáo dân Mỹ (questioning the legitimacy of foreign, Roman authority over American believers?) và tại sao mấy ông già độc thân lại phải dạy những tín đồ thông thường về đời sống tình dục của họ (Why celibate old men presume to tell ordinary men and women how to regulate their sexual lives?) [George A. Kelly, The Battle for the American Church Revisited, Ignatus Press, San Francisco, 1995].  Giới truyền thông Mỹ cho rằng Sắc lệnh Humanae Vitae là một sự sỉ nhục một cách nhẫn tâm đối với phụ nữ, đặc biệt là đối với phụ nữ trong thế giới thứ ba. (The shock caused by Humanae Vitae, which the media presented as a callous insult to women, especially those in the Third World). Ở khắp nơi, mỗi khi Giáo hoàng đi đến đâu, Mỹ hay trong thế giới thứ ba, ông ta cũng bị một số giáo dân của ông biểu tình phản đối, mang những biểu ngữ với nhiều lời lẽ rất cực đoan.  Sở dĩ có những vụ phản đối này vì, theo tổ chức ACT UP: chính Giáo hội đã làm cho những cuộc phản đối này xảy ra khi giáo hội quyết định “xía vào những vấn đề công cộng (the church itself invited the protests when it decided to “meddle in public affairs”)  Khi Giáo hoàng John Paul II đến Mỹ năm 1987, một số đông phụ nữ Mỹ biểu tình phản đối Giáo Hoàng trước Tòa Đại Sứ của Vatican ở Washington,với biểu ngữ Hãy để  chuỗi hạt mân côi của ông ở  ngoài buồng trứng của chúng tôi (Keep your rosaries off our ovaries); Ở California, trong một cuộc biểu tình phản đối Giáo hoàng John Paul II, một giáo dân đã giả mặc áo của phụ nữ có thai, tay bồng ba con búp bê nhỏ, và trên áo có viết hàng chữ: Tử cung của tôi: tài sản của Vatican (My uterus, property of the Vatican)  [Los Angeles Time, Sep. 18, 1987].  Năm 1993, khi Giáo hoàng thăm viếng Hoa Kỳ,  những người phản đối ở Denver mô tả ông ta như là kẻ chống đồng giống luyến ái hạng nhất trong thế giới và lên án Giáo hội Công Giáo phạm tội kỳ thị phái nữ, chống đồng giống luyến ái, và lạm dụng quyền thế” (When the Pope visited the US in 1993, protesters in Denver described him as “the biggest homophobe in the world” and accused the Catholic Church of “sins of sexism, homophobia, and abuse of power”)

     Những cuộc biểu tình phản đối trên đã đưa đến những hành động có thể nói là “chống Công Giáo” cực đoan, quá khích mà tôi chắc không có người Á Đông nào, nhất là người Việt Nam, dám làm.  Vì, một phần là do tinh thần nô lệ Vatican của người Công giáo Việt Nam, và dù sao, nền Văn Hóa Á Đông cũng là nền văn hóa  trung dung, đạo đức.  Sau đây là vài thí dụ điển hình.

1.    Năm 1989, nhiều ngàn người đã biểu tình chống đối “thánh lễ” mi-sa ở nhà thờ St. Patrick ở New York.  130 tín đồ biểu tình ngay trong nhà thờ, làm ngưng cuộc lễ và làm cho Hồng Y O’Connor phải bỏ bài giảng.  O’Connor bị tố cáo là một kẻ “cuồng tín” và là một “tên sát nhân”.  Những người biểu tình nằm trong nhà thờ, giả chết, và các bao cao su (để ngừa thai) được tung ra.  Trong những khẩu hiệu mà những người biểu tình hô, có câu: “Các ông nói, đừng có làm tình” “Chúng tôi nói, đ...m...các ông” [You say, don’t fuck”; “We say, fuck you”] , và “Hãy ngừng giết chúng tôi! Hãy ngừng giết chúng tôi!.  Chúng tôi không còn chịu đựng được nữa.”  Nhiều biểu ngữ viết: “Hồng Y nói láo với giáo dân”.  Một người biểu tình lấy một cái bánh thánh - đối với tín đồ đó là thân thể thực của Chúa Ki Tô – và ném xuống sàn nhà.
(In 1989, several thousand protesters led by the AIDS activist group ACT UP demonstrated during a mass at New York’s St Patrick Cathedral. 130 protesters demonstrated in the church itself, stopping mass and forcing Cardinal John O’Connor to abandon his sermon.  O’Connor was loudly denounced as a “bigot” and a “murderer”.  Demonstrators fell down in the aisles to simulate death, while condoms were thrown.  Among the slogans chanted by protesters were “you say, don't fuck"; “We say, fuck you", and “Stop killing us! Stop killing us!.  We’re not going to take it anymore.”  Placards read “The Cardinal lies to his parishioners”.  One protester grabbed a communion wafer – to a believer, literally the body of Christ – and threw it to the floor.) [Robert Goss, Jesus Acted Up, SanFrancisco; HarperSF, 1993]

     Những người chống đối lệnh cấm giáo dân dùng thuốc ngừa thai đã chỉ trích Hồng Y O’Connor là Từ bục giảng ở nhà thờ St.Patrick, O’Connor đã góp phần trong sự truyền bệnh AIDS đưa đến diệt chủng (Cardinal O’Connor has contributed from the pulpit of St. Patrick’s Cathedral to the genocidal spread of AIDS)

 2.  Năm 2000, một nhóm 20 phụ nữ đã làm gián đoạn thánh lễ Mi-sa ở nhà thờ “Marie, Reine du Monde” ở Montréal, Canada.  Họ xịt sơn lên nhà thờ câu Tôn Giáo – Cái Bẫy Những Kẻ Ngu Đần (Religion – A Trap of Fools), xịt sơn lên cả bàn thờ những câu phản đối quyền hành của Giáo hội. 
Những người biểu tình treo trên tường và những bức tranh của nhà thờ những băng vệ sinh dơ của phái nữ, ném những bao cao su khắp thánh đường, và hô những khẩu hiệu ủng hộ phá thai.  Họ cũng còn phá hủy hoặc cướp đi hàng trăm cuốn thánh ca hoặc sách kinh dùng trong lễ Mi-sa.
(Demonstrators stuck used sanitary napkins on pictures and walls, threw condoms around the sanctuary, and shouted pro-abortion slogans.  They also destroyed or removed hundreds of hymn books or missals.)  [Mark Steyn, American Spectator, May 2000]

IV.  Chống Công Giáo” Trong  Nghệ Thuật.

      Nếu chúng ta theo dõi tin tức trên báo chí hàng ngày thì chúng ta không thể quên được những  trường hợp “chống Công Giáo” liên quan đến nghệ thuật, hội họa, phim ảnh v..v..  Sau đây tôi xin kể vài trường hợp với tính cách thông tin và xin miễn phần phê bình.

 1.  “Năm 1996, sinh viên Christine Enedy ở Penn State University tổ chức một cuộc triển lãm  25 cái quần lót của phái nữ, ngay chỗ kín trên mỗi quần có khâu một “thánh giá”, tượng trưng cho 25 năm trinh tiết theo sự xui khiến của Công Giáo.”
(In 1996, student Christine Enedy of Penn State University mounted an exhibit featuring 25 pairs of panties, each with a cross sewn over the crotch, symbolizing her 25 years of Catholic induced chastity.)

2.   Năm 1999, Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Brooklyn (New York) có cuộc triển lãm tranh với đề tài “Sensations: Young British Artists from the Saatchi Collection” trong đó có một bức tranh  “The Holy Virgin Mary” của họa sĩ Christ Ofili, trang trí bởi những bụm phân voi và những hình cơ quan sinh dục của phái nữ cắt ra từ những báo khiêu dâm.  Theo quan điểm của những tín đồ Công Giáo da trắng, bức tranh trên là một sự xúc phạm lớn đối với một hình tượng thờ phụng của Giáo dân. Lẽ dĩ nhiên, nhiều nhóm Công Giáo lên tiếng phản đối và họ có một đồng minh, Thị Trưởng New York, Rudolph Giuliani, một tín đồ Công Giáo.  Giuliani nổi giận,  phản đối, và định cắt quỹ của Viện Bảo Tàng trong năm tới. Nội vụ đưa ra tòa và Giuliani thua.  Tòa khẳng định sự quan trọng của quyền tự do trong nghệ thuật và ra lệnh cho  Giuliani không được trừng phạt viện bảo tàng khi đó cũng như trong tương lai.”  (The court asserted the importance of artistic freedom and ordered the city not to penalize the museum then or in the future.) [Philip Jenkins, Ibid., p. 126].  Lý do?
“Ofili là một tín đồ Công Giáo thuộc dân tộc Igbo ở Nigeria, một dân tộc hầu như toàn tòng Công Giáo.  Trong nhiều nền văn hóa Phi Châu, phân voi có ý nghĩa bao hàm quyền lực, sức mạnh và màu mỡ, có khả năng sinh sản, và trang trí bà Mary đồng trinh với phân bò không có gì là hạ thấp những uẩn hàm mà người Tây Phương nghĩ về việc trét phân lên Đức Mẹ Đồng Trinh.  Những họa sĩ Tây phương thường vẽ bà Mary mặc áo xanh da trời, màu tượng trưng cho thiên đường.  Tương tự, trong một nền văn hóa hoàn toàn khác biệt, người Phi Châu có thể dùng phân voi.”
(Ofili identifies himself as a Catholic and derives from Nigeria heavily Catholic Igbo people.  In many African cultures, elephant dung has connotations of power, strength and fertility, and surrounding the Virgin with this material has nothing like debasing implications that a Westerner would find in smearing excrement.
European artists traditionally painted the Virgin’s robe blue, because that is the color of the sky, and therefore of heaven; using a quite different cultural analogy, an African might use elephant dung.) [Philip Jenkins, Ibid.]

     Sự chống đối của người Công Giáo da trắng có tính áp đặt, muốn rằng bất cứ ai, thuộc sắc dân nào, cũng phải có cùng một quan niệm về bà Mary như người da trắng.  Kết quả là một phản ứng ngược chiều.  200000 người đã kéo đến xem cuộc triển lãm tranh ảnh trên.

3.  Năm 2001, Renee Cox cũng trưng bày ở Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Brooklyn một bức hình chụp cô ta trần truồng, đóng vai Chúa Giê-su trong bữa ăn chiều cuối cùng (The last Supper),   hai bên có 12 tông đồ người da đen.  Bức hình đề “Yo Mamma’s Last Supper.”  Nhiều nhóm tín đồ Công giáo cũng như thị trưởng Rudolph Giuliani lên tiếng phản đối nhưng cũng chẳng đi đến đâu.  Renee Cox tự biện: Là một người Công Giáo, tôi có quyền chỉ trích Công Giáo (As a Catholic I have the right to critique it). Ý tưởng sau bức hình là phản đối sự kỳ thị phái nữ của Công Giáo. 

 4. “Một cách biện giải tương tự khi nghệ sĩ Andres Serrano trưng bày bức hình “Ki Tô Đi Tiểu”, một bức hình chụp một cây thánh giá ngập trong một bình nước tiểu của chính Chúa Ki-Tô:  Theo các diễn giải khác nhau thì bức hình này, hoặc là một sự tấn công thô bạo tôn giáo, hoặc là một biểu tượng của sự đau khổ và tình trạng bị làm nhục của Chúa Ki-Tô.”
(A similar defense was heard when artist Andres Serrano displayed his “Piss Christ”, a photograph of a crucifix submerged in a jar of his own urine.  According to different interpretations the image represented either a gross attack on formal religion or a symbol of Christ’s suffering and humiliation (Philip Jenkins, Ibid., p. 120)

     Bất cứ khi nào mà một tác phẩm nghệ thuật làm cho người Công Giáo nổi giận, bất kể là nó có tính xúc phạm như thế nào, giới truyền thông Mỹ cũng lên tiếng bênh vực và lên án những kẻ phản đối (The automatic response of the news media is to defend the art and condemn the critics.)  Lý do là quyền kiểm duyệt không được người Mỹ chấp nhận.

 5.  Về kịch nghệ thì năm 1998 McNally tung ra kịch bản Corpus Christi.  Nội dung là một kịch thời Trung Cổ kể những chuyện về cuộc đời Chúa Giê-su (Mystery Play), trong đó Giê-su là vai Joshua ở Corpus Christi, một thị trấn nhỏ ở Texas. 
“Tuy nhiên, ông Giê-su này là một người đồng giống luyến ái, thích phô trương và lăng nhăng bừa bãi.  Tất cả các tông đồ của ông cũng đều đồng giống luyến ái (gay).  Trong một cảnh, Joshua hôn Judas một cách nồng nhiệt.  Trong một cảnh khác, Giê-su ban phép lành cho hai tông đồ lấy nhau.  Nghe những kẻ thù (trong kịch bản) trích dẫn Kinh Thánh lên án đồng giống luyến ái , Joshua trả lời, viện dẫn một khía cạnh tích cực hơn trong Thánh Kinh: “Và Thượng đế thấy tất cả mọi loài mình tạo ra thật toàn hảo” [Sáng Thế 1:31.  TCN]: Phủ nhận một Giê-su có thể đồng giống luyến ái là giới hạn những ý định của Thượng đế.  Một Thượng đế như vậy thì chẳng phải là Thượng đế, vì ông ta đã riêng biệt đối với những gì ông tạo ra.  Như vậy ông ta nhiều nhất là Thượng đế của Công Giáo La Mã, và là một Thượng đế đầu óc rất hẹp hòi.”
(This Jesus, however, is homosexual, flamboyant and promiscuously so.  Equally gay are all his apostles and associates.  In one scene, Joshua passionately kisses Judas, in another, he blesses a marriage between two of his apostles.  Hearing enemies cite the biblical texts condemning homosexuality Joshua responded by deploying another and far more positive scripture: “And God saw everything that he had made and behold, it was very good.”  To deny the possibility of a gay Jesus would be to restrict the idea of God. “Such a God is no God at all, because he is exclusive to His members.  He is a Roman Catholic at best, and a very narrow-minded one at that.”) [McNally, Corpus Christi]

     Tôi cũng cần phải thêm rằng, trong vài cuộc triển lãm khác, thí dụ như ở Seattle, bang Washington, hay ở Napa, California, có những bức hình tục tĩu, có tính cách xúc phạm nặng nề đến Công Giáo mà tôi không thể trình bày ở đây.  Quý vị nào tò mò muốn biết có thể đọc Chương 6, Catholics and the News Media, trong cuốn sách của Philip Jenkins.

V.   “Chống Công Giáo” Trong Phim Ảnh Và TV:

     Về đề mục này, Philip Jenkins viết, trang 158:

    Trong mấy thập niên này, nhiều phim đã mô tả sự lãnh đạo của Giáo hội Công Giáo như là một băng đảng chỉ biết đến lợi ích riêng của mình, bạo tàn, của những kẻ mưu đồ chẳng khác gì mấy một gia đình có tổ chức để làm tội ác.  Nhiều phim khác đã đưa lên hình ảnh các linh mục và giới giáo sĩ như là những con người đạo đức giả, thường xuyên phản bội lời nguyện độc thân của mình, đôi khi trắng trợn lợi dụng giới trẻ cho vấn đề tình dục của mình.  Một phim như là Stigmata đưa lên hình ảnh cả Giáo hội Công Giáo như là nói láo vì lợi ích riêng của mình và chỉ sống còn qua sự lừa dối và bạo hành.
(In these years, several films have treated the Church’s leadership as a band of cynical, violent conspirators little different from a stereotypical organized crime family.  Several more have portrayed priests and clergy as hypocrites who routinely betray their vows of celibacy, sometimes as ruthless sexual exploiters of young people.  A film such as Stigmata portrays the whole of Catholicism as a cynical lie that survives only by deceit and violence)

     Sau đây tôi xin liệt kê vài cuốn phim điển hình, những cuốn phim này đều có thể thuê trong các tiệm cho thuê phim trên đất Mỹ.

     Cuốn phim Monsignor (1982), và Agnes of God (1985) khai thác sự đạo đức giả che dấu đàng sau những bộ mặt thánh thiện.  “Monsignor” tả một Hồng Y đồng minh với Mafia và liên hệ đến những vụ gian lận tiền bạc.  Agnes of God mô tả một nữ tu bị nhiễu loạn về vấn đề tình dục và đã giết đứa con sơ sinh của mình.
Cuốn phim nổi tiếng The Thorn Birds (1979) mô tả liên hệ tình dục giữa một nhân vật cao cấp trong giáo hội với một cô gái đáng tuổi con.
Cuốn phim Anh The Life of Brian (1979) châm biếm không những giáo hội mà còn cả những lời của Chúa Giê-su.  Một cảnh đặc biệt là một ban đồng ca bị đóng đinh trên thập giá và hát “Luôn luôn nhìn vào mặt sáng đẹp của đời sống” (Always look on the bright side of life”.)
Cuốn phim The Third Miracle mô tả một Linh mục phá bỏ những chuyện lừa đảo về phép lạ và mơ tưởng đến quan hệ tình dục với phái nữ.
Cuốn phim Anh “Priest” (1995) là chuyện của hai linh mục, một già, một trẻ.  Cả hai đều vi phạm lời nguyện độc thân.  Linh mục già với một người đàn bà, và linh mục trẻ là đồng giống luyến ái.
Cuốn phim The Boys of St Vincent’s kể lại chuyện lạm dụng tình dục (có thật) ở trường mồ côi ở Newfoundland.
Trên TV cũng có nhiều chương trình mà nội dung không ít thì nhiều chống Giáo hội Công Giáo.  Chúng ta phải kể chương trình Nothing Sacred trong đó các nhân vật, linh mục cũng như nữ tu, đều là những người có tư tưởng tự do, chống lại những giáo điều của Giáo Hội.  Và chương trình Sister Mary Explains It All, trong đó một “Sơ” giảng cho các gia đình tín đồ Công Giáo quan niệm của bà ta về đức tin, về vũ trụ, tội lỗi mà nội dung bác bỏ mọi điều “Giáo hội dạy rằng...”.  Những bài giảng ngụ ý là Công Giáo là để cho những người ngu, chưa trưởng thành về tình cảm, bị ức chế và cuồng tín.. (A nun lectures to Catholic families about her view of faith, the universe and sin, which emerges as a broad and dismissive parody of every aspect of the Catholic religious framework.  Catholicism, it is suggested, is for the stupid, the emotionally immature, the repressed, and the fanatical)[www.oobr.com/]

     Các vụ đồi bại trong Giáo hội Công Giáo như vụ Linh mục cưỡng bức tình dục một số nữ tu trong 27 quốc gia trên thế giới, vụ Linh mục loạn dâm nổ ở Boston năm 2002 v..v.., đã gây lên một làn sóng phẫn nộ trong giới tín đồ Công Giáo chưa từng thấy, và khắp nơi trên nước Mỹ chúng ta thấy xuất hiện những tổ chức Công Giáo chống chính sách bao che của Giáo hội Công Giáo.  Các nhà nghiên cứu đặt vấn đề là với cái đà này, Công Giáo có thể còn tồn tại qua thế kỷ 21 hay không, xét đến sự suy thoái của Công Giáo trên khắp thế giới.  Vài con số thống kê cho chúng ta thấy rõ vấn đề hơn.
Chỉ có 1/3 tín đồ tin rằng bánh thánh là thân thể và máu của Giê–su.  2/3 cho rằng sự hiện diện của Giê-su chỉ có tính cách tượng trưng.  Năm 1965 có 994 tín đồ vào nghề Linh mục, năm 1995 chỉ có 552.  Số nữ tu giảm từ 180000 năm 1965 xuống 80000 năm 2000.  Trong 10 năm, từ 1966 đến 1976, 50000 nữ tu bỏ tu viện.  Ngày nay một nửa số nữ tu trên đất Mỹ có tuổi 68 hay cao hơn.  100000 Linh mục đã rời bỏ giáo hội về lấy vợ trong 20 năm qua - Cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn một linh mục ra đi.

Vài Lời Kết.

Viết bài này, đưa ra những tài liệu “chống Công Giáo” như trên không có nghĩa là tôi ủng hộ những lời lẽ hoặc những hành động quá khích, vượt mức, “chống Công Giáo” của chính những tín đồ Công Giáo mà chỉ có tính cách thông tin trung thực, và nhất là muốn nói lên một điều: Công việc nghiên cứu về Công Giáo của các tác giả viết cho Giao Điểm tương đối rất là nghiêm túc, chỉ tập trung vào những tài liệu lịch sử và những công cuộc của giới trí thức khảo cứu về Ki Tô Giáo, không ngoài mục đích mở mang dân trí về Công Giáo. Đôi khi, tôi cũng có trích dẫn của người khác, thường ghi rõ xuất xứ,  một vài câu có tính cách xúc phạm về Công Giáo, về Chúa Giê-su, nhưng xét ra, những câu đó chẳng qua chỉ là dịch sát nghĩa từ những tài liệu dẫn chứng, và chẳng thấm vào đâu so với những tài liệu tôi đưa ra trong bài này.

     Nói theo thuật ngữ Phật Giáo thì việc làm văn hóa của Giao Điểm chẳng qua chỉ là thực hành  hạnh “vô úy thí” trong hạnh bố thí của Phật Giáo.  Vô úy thí là làm cho tha nhân mất đi cảnh sợ sệt và được an tâm.  Thí dụ: một người già sợ sệt không dám bước qua đường xe chạy.  Khi chúng ta giúp bà ta qua đường là cất bỏ sự sợ sệt trong lòng bà ta và bà ta sẽ an tâm đi cùng ta qua đường. Đối với các tín đồ Công Giáo, họ ở trong một cấu trúc tôn giáo với sách lược nhồi sọ các tín đồ từ thuở nhỏ nên các tín đồ đều có tâm cảnh sợ sệt một ông mà họ gọi là Thiên Chúa, do Giáo hội bày đặt ra vì thực ra ông Thiên Chúa này chỉ là một vị Thần của Do Thái, rồi do chính sách nhồi sọ của Giáo hội, trở nên sợ sệt các bề trên, từ Giáo Hoàng cho tới các Linh mục, phải tuyệt đối tuân hành “đức vâng lời” để mong có được cái mà Mục sư Ernie Bringas gọi là cái bánh vẽ trên trời (A-pie-in-the-sky) sau khi chết..  Nay, nếu vì những thông tin chính xác về Giáo hội Công giáo, về Thiên Chúa, về vai trò “cứu rỗi” của Giê-su, về thực chất và đạo đức của các Giáo hoàng, Linh mục  v..v.., biết đâu họ có thể thoát ra khỏi cảnh sợ sệt. Vậy những tác phẩm về Công Giáo của Giao Điểm thật ra cũng không ngoài hạnh “vô uý thí”. 

     Chúng ta cũng có thể thấy rõ vấn đề này trong cuốn Freedom From God: Restoring The Sense of Wonder, Amador Publishers, Albuquerque, NM, 2002, của Mục Sư Harry Wilson.  Viết cuốn sách trên, Mục sư Harry Wilson cũng không ngoài mục đích giúp cho các tín đồ Ki Tô Giáo vứt bỏ gánh nặng Thiên Chúa trên bờ vai của mình và lấy lại khả năng nhận thức những sự kỳ diệu trên thế gian mà không cần đến một Thiên Chúa.  Harry Wilson, tốt nghiệp trường Thần Học Princeton, là  Mục sư truyền giáo (Missionary-pastor) trong 8 năm ở New Mexico, rồi từ bỏ chức vụ của mình vì đã nhận thức được Ki Tô Giáo đã giam hãm đầu óc của tín đồ. Ông ta viết trong lời tựa:

“Hãy nghĩ là Thiên Chúa đã đi vào một “lỗ hổng đen” (Black hole) trong thập niên 60 và đã chết.  Không kể những người bảo thủ Ki Tô Giáo, vì không có sự suy tư trong đám người này. Đây là một cuốn sách đi thông suốt vào cái lỗ hổng đen kia và đi ra đầu kia – trong sự giải thoát.  Sự thách đố này là để cho những người có thể đọc và thích suy nghĩ, và vẫn có thể nhận thức được những sự kỳ diệu trên thế gian.  Bầu không khí trong sạch thật là kỳ diệu.
     Sự giải thoát của chính tôi thật là quá kỳ diệu.  Nó thúc đẩy tôi quay lại với những người còn đang bị giam hãm trong ngục tù và nói: “Các bạn cũng vậy, Các bạn có thể được tự do!  Các bạn có thể bác bỏ cái quyền hành đó, và gỡ bỏ những ngón tay đang bóp chặt yết hầu các bạn.  Các bạn có thể thở tự do! Đối với những người thực sự muốn thở thay vì bị nghẹt thở, tôi muốn nói rằng: Các bạn không cần phải cảm thấy khó chịu vì “phản bội” cái đã giam giữ các bạn trong ngục tù.  Hãy vui vẻ và hãnh diện là các bạn đã được tự do.”
     Đối với những bạn nào không bị giam giữ trong ngục tù, không bị ngăn cản, cản trở, làm khập khiễng, què quặt, hay ngăn chặn bởi “Thiên Chúa” – hãy coi như không có tôi.  Các bạn là những người may mắn, và các bạn có thể sống theo ý mình mà không do dự. Tôi để ý đến những bạn muốn sổ lồng, muốn thoát ra khỏi, muốn bay, chạy, nhảy, hát, và nói lên những điều mình suy nghĩ, nói lên tiếng “Không” để từ chối, vì đó là điều lương thiện phải nói”
(Thinking about God went into a Black Hole in the sixties with “God is Dead”.  Fundamentalism doesn’t count, because there’s no thinking in there.  Here’s a book that goes all the way into that Black Hole and comes out the far end – into liberation.  This challenge is for persons who can read and like to think, and can still sense wonder.  The fresh air is wonderful
My own liberation now seems like such a marvellous wonder that it impels me to turn back to those still imprisoned and say, “You, too, can be free! You can repudiate that authority, and remove those fingers at your throat.  You can breathe!”  To those who have instinctively insisted on breathing rather than choking, I want to say, “You don’t need to feel bad about “betraying” that which held you prisoner.  Be glad and proud that you’re free.    
All of you who are not imprisoned, hindered, hampered, hobbled, hamstrung, or wing-clipped by “God” – ignore me.  You’re the lucky ones, and you can go your way without hesitation.  I am looking for those who want loose, who want out, who want to fly, to run, to sing, to dance, to say what you’re thinking, to say,  “No!” because that’s the honest thing to say. [Harry Wilson, Ibid., p.17]

     Phải chăng Mục sư Harry Wilson, cũng như bao nhiêu tác giả khác, không làm gì khác ngoài thực hiện hạnh “vô úy thí” của nhà Phật?  

      Nếu đối với Thiên Chúa mà Mục sư Harry Wilson còn khuyên tín đồ Ki Tô Giáo hãy vứt bỏ gánh nặng Thiên Chúa ra khỏi bờ vai của mình, thì những gánh nặng của Giáo hoàng, Hồng Y, Tổng Giám mục v..v.. trên vai các tín đồ Công Giáo còn phải dứt khoát vứt bỏ hơn nữa, bởi lẽ những chức sắc tôn giáo trên chẳng qua chỉ tiếm vị Thiên Chúa, nếu có một Thiên Chúa, mang Thiên Chúa ra làm con ngoáo ộp [Mục sư Harry Wilson gọi là “Ogre-Father God”] để đưa tín đồ vào vòng nô lệ tâm linh, bóp nghẹt hơi thở và đầu óc của tín đồ.  Đây chính là một thông điệp mà tôi mong những người Công Giáo Việt Nam hãy để tâm suy nghĩ.  Các bạn hãy nhìn lại thực chất cái “hội thánh” của mình, hãy suy tưởng về những tín lý, tín điều đã không còn giá trị trong thời đại ngày nay mà giáo hội đã cấy vào đầu óc các bạn trong bao năm qua, và hi vọng các bạn có đủ can đảm để cất bỏ một gánh nặng trên vai, thoải mái tự do “tung cánh chim tìm về tổ ấm”.  Tổ ấm đây là Tổ Quốc Việt Nam, là nền văn hóa nhân bản và nhân chủ trong truyền thống dân tộc Việt Nam, là bàn thờ ông bà tổ tiên, và là tinh thần hòa đồng giữa các tôn giáo dân tộc, những tôn giáo chưa từng  lệ thuộc bất cứ một tổ chức hay quyền thế tôn giáo nào ở ngoài đất nước. 

   Với một lịch sử đẫm máu nhơ nhớp như vậy, với thực chất đạo đức thấp kém, từ Giáo hoàng cho tới các bậc chăn chiên như hồng y, giám mục, linh mục, xuống tới các tín đồ nghe theo bề trên để có những hành động phi dân tộc, vô đạo đức tôn giáo v..v.. mà tại sao một số người Công giáo Việt Nam vẫn hãnh diện khoe khoang là Công giáo có nhiều tín đồ nhất và vẫn có thể tồn tại trên thế gian và càng ngày càng có nhiều tín đồ (sic).  Một số đông thuộc loại mê muội thì có giá trị gì so với một số ít tỉnh thức.  Sự tồn tại của Công giáo chẳng có chi là lạ.

Cách đây hơn 1 thế kỷ, Robert G. Ingersoll đã giải thích điều này. [Robert G. Ingersoll được coi như là một nhà hùng biện và tư tưởng gia vĩ đại nhất của nước Mỹ (A celebrated orator and free thinker of 19th century America).  Ông ta là bạn của 3 Tổng Thống Hoa Kỳ, là người đã có công nhất trong việc làm nở rộ quyền tự do tư tưởng ở Hoa Kỳ. (A personal friend of three U.S. presidents, the individual most responsible for the flowering freethought in the United States.). Bức tượng của ông, ghi công ông, nay được đặt ở Periora, Illinois.  Edgar Lee Master, một thi sĩ, đã đưa ra nhận xét: "Đối với những người yêu chuộng tự do ở khắp nơi,  nhất là đối với giới trẻ ở Hoa Kỳ không biết đến Robert G. Ingersoll, hãy nhớ rằng ông ta đã giúp để cho quý vị được tự do." (To the lovers of liberty everywhere, but chiefly to the youth of America who did not know Robert G. Ingersoll, remember that he helped to make you free.)]  Ingersoll đã nói thẳng trước một cử tọa đông đảo mà mỗi người phải bỏ ra $2 (năm 1890) để nghe ông diễn thuyết (Joseph Lewis, Ingersoll: The Magnificient, p. 140):

   Ca-tô Rô-maGiáo thật sống dai.  Điều này chứng tỏ cái gì?  Nó chứng tỏ rằng quần chúng thì dốt nát (ignorant) và các linh mục thì xảo quyệt.[cunning]
[Roman Catholicism dies hard.  What does that prove?  It proves that the people are ignorant and that the priests are cunning.]


Các bài về tôn giáo cùng tác giả

Trang Trần Chung Ngọc