|
ngày 08 tháng 5, 2008 |
Mậu Tý 2008, một niềm hân hoan vinh hạnh cho toàn dân
Việt Nam: Việt Nam là quốc gia được vinh dự gánh trách nhiệm đứng ra tổ chức Đại
Lễ Vesak Tam Hợp Liên Hiệp Quốc. Đây là một biến cố trọng đại cho lịch sử Việt
Nam, xác định chỗ đứng của Việt Nam trong cộng đồng thế giới.
Chúng ta biết rằng, Đại Lễ Vesak Tam Hợp Liên Hiệp
Quốc là một sinh hoạt văn hóa và tôn giáo của Liên Hiệp Quốc, đề ra cách đây 9
năm, để kỷ niệm cùng lúc ba biến cố trọng đại trong cuộc đời của Đức Phật: Đản
Sinh, Thành Đạo, và Nhập Niết Bàn. Liên Hiệp Quốc đã chọn ngày Đức Phật Đản
Sinh để tổ chức Đại Lễ Tam Hợp, và coi ngày đó là Ngày Văn Hóa và Tôn Giáo
Thế Giới, để kỷ niệm và tôn vinh Đức Phật, một vĩ nhân văn hóa và tâm
linh của nhân loại, một bậc Đại Giác đã để lại cho hậu thế một giáo lý nhân
bản, vị tha, từ bi trong tinh thần hòa hợp, hòa bình, những điều mà thế giới
vô minh hỗn loạn đầy tranh chấp ngày nay cần đến hơn bao giờ hết.
Ngày 29-5-2007, trong lễ bế mạc đại lễ Vesak LHQ ở
Thái Lan, Hoà thượng Dharmakosajarn đã căn cứ vào Hiến chương đại lễ Vesak Liên
Hiệp Quốc, công bố trước hơn 500 đoàn đại biểu Phật giáo thuộc 62 quốc gia rằng
Việt Nam là nước đăng cai Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc 2008, và Tiến sĩ Lê
Mạnh Thát, Phó viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành Phố Hồ Chí Minh
làm Chủ Tịch Uỷ ban Tổ chức Quốc tế (viết tắt là IOC = International Organizing
Committee). Đây là một sự kiện có nhiều ý nghĩa đối với Việt Nam.
Trước hết, sự kiện trên đã khẳng định Việt Nam là
một nước Phật Giáo. Bởi vì, chỉ có các nước Phật Giáo mới được cái vinh dự
tổ chức Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc. Thử hỏi, nếu quốc gia Vatican, hay Ý,
hay Pakistan đăng cai Đại Lễ Phật Đản thì có được hay không? Tuy nhiên, Việt
Nam là nước Phật Giáo không có nghĩa Phật Giáo là tôn giáo duy nhất ở Việt Nam.
Việt Nam là nước Phật Giáo vì Phật Giáo là tôn giáo chính ở Việt Nam và có đại
đa số người dân theo, và vì truyền thống văn hóa Phật Giáo có thể nói cũng là
truyền thống văn hóa của Việt Nam. Cũng như Ki Tô Giáo không phải là tôn giáo
duy nhất ở Mỹ hay ở một số nước Tây phương, nhưng những nước này vẫn tự coi là
những xứ Ki Tô Giáo. Nếu ngày “Lễ Tạ Ơn” của Mỹ được coi như là ngày Quốc Lễ,
tuy rằng có nhiều người, nhất là dân da đỏ, không tạ ơn, thì Đại Lễ Phật Đản đối
với người Việt nam có thể coi như là một Quốc Lễ của Việt Nam, tuy rằng không
khỏi có những người vì vô minh, ghen tị ganh ghét, hay ngu ngơ chống Cộng đến
chiều, sẽ phát dị ứng với Đại Lễ, và xuyên tạc ý nghĩa của Đại Lễ Vesak. Tại
sao? Vì những người này không hiểu rằng Đại Lễ Vesak là ngày văn hóa và tôn
giáo của Liên Hiệp Quốc, và chỉ có những quốc gia xứng đáng mới có thể đăng cai
và được Phật Giáo thế giới chấp thuận để tổ chức Đại Lễ Vesak chung cho khối
Phật Giáo thế giới. Họ cũng không hiểu rằng giáo lý của Đức Phật là một giáo lý
vượt thời gian và không gian, và lẽ dĩ nhiên vượt ra ngoài phạm vi của một tôn
giáo, hay phạm vi chính trị. Một giáo lý nhân bản, vị tha, từ bi, hòa bình, hòa
hợp là của chung cho mọi người trên thế gian, chứ không là của riêng của Phật
tử. Cũng vì vậy mà Liên Hiệp Quốc, trong tất cả các nhân vật tôn giáo lớn trên
thế gian, không chọn ai khác mà lại chọn Đức Phật làm biểu tượng của văn hóa,
tâm linh, và tinh thần hòa hợp, hòa bình của cả nhân loại.
Chúng ta nên hiểu rằng, Liên Hiệp Quốc tôn vinh Đức
Phật không phải vì Phật Giáo có nhiều tín đồ như Ki Tô Giáo hay Hồi giáo hay Ấn
Độ Giáo, cũng không phải vì Phật Giáo là một tổ chức tôn giáo giàu có như Ca-Tô
Giáo Rô ma, bởi vì đó chỉ là những giá trị phiến diện thu hẹp, không phải là
những giá trị phổ quát cho thế giới. Liên Hiệp Quốc tôn vinh Đức Phật vì những
giáo lý nhân bản và những giá trị văn hóa và tâm linh có tính phổ quát của
Người. Chúng ta có thể kể vài thí dụ để chứng minh điều này.
Bất cứ khi nào Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết Pháp ở đâu
chúng ta đều thấy nhiều chục ngàn người đến nghe, và những người này hầu hết
không phải là Phật tử, mà ở trong mọi tôn giáo khác. Gần đây Ngài thuyết Pháp ở
Seattle có đến 50000 người đến nghe mà đa số là ở trong các tôn giáo khác. Khi
xưa tôi còn dạy ở Đại học Wisconsin – Madison, mỗi khi Đức Đạt Lai Lạt Ma được
nhà trường mời đến thuyết Pháp, thì Ngài phải thuyết Pháp ở sân vận động
(Stadium) vì nhà trường không có giảng đường nào đủ chỗ cho hàng ngàn sinh viên
và dân chúng đến nghe. Chúng ta không thấy hiện tượng này đối với các bậc lãnh
đạo tôn giáo khác.
Thiền sư Nhất Hạnh có đệ tử ở khắp năm châu và không
phải tất cả đều là Phật tử. Các đệ tử đến với Thiền sư từ nhiều nền văn hóa,
tôn giáo khác. Và trong một bài thuyết Pháp trước đây ở San Francisco, có cả
những chính khách và nguyên thủ quốc gia thuộc nền văn hóa và tôn giáo khác đến
nghe và học Thiền với Thiền sư. Sau vụ 9/11 Thiền sư thuyết Pháp ở New York
cũng có rất đông người Mỹ đến nghe. Chúng ta cũng không thấy hiện tượng này đối
với các bậc lãnh đạo tôn giáo khác, kể cả Giáo hoàng của Ca-Tô giáo Rô-ma, có
nói gì thỉ chỉ có con chiên của ông ấy nghe mà thôi.
Vì vậy chúng ta thấy rõ ràng Phật Giáo thực sự có
những giá trị nhân bản, văn hóa, tâm linh chung cho tất cả mọi người, không phân
biệt chủng tộc, không phân biệt tôn giáo, và đây chính là những giá trị mà thế
giới ngày nay cần đến để giảm thiểu những xung đột chiến tranh, tranh chấp tôn
giáo. Vì những giá trị này mà chúng ta không lấy làm lạ khi thấy Phật Giáo càng
ngày càng phát triển mạnh mẽ trên khắp thế giới, nhất là trong thế giới văn minh
tiến bộ Tây phương,.
Thật vậy, sự phát triển của Phật Giáo trong thế giới
Tây phương có nhiều nguyên nhân, nhưng tất cả có thể thu về một mối. Đó là:
nhân loại đã nằm trong một quá trình tiến hóa liên tục, một quá trình thiên
nhiên trong vũ trụ, không một thế lực nào có thể ngăn chận được. Sự tiến hóa về
mọi mặt của con người, nhất là về mặt trí tuệ, tất nhiên đưa đến sự thoái hóa
của những quan niệm, lý thuyết và cả những niềm tin tôn giáo đã lỗi thời trong
xã hội loài người. Điều này đã xảy ra rất rõ rệt trong thế giới Tây phương.
Tây phương đã thức tỉnh, và càng ngày Tây phương càng nhận ra chân giá trị của
Phật Giáo. Đây là một điểm rất đặc biệt mà chúng ta cần ghi nhận, vì nếu Phật
Giáo không có chân giá trị thì không thể nào đi vào thế giới Tây phương, nơi đây
sự tiến bộ trí thức đã tạo nên truyền thống đặt nặng tinh thần khoa học, thực
dụng, lôgic, và quyền được thắc mắc, nghi ngờ và chất vấn, một truyền thống
không xa lạ gì với Phật Giáo. Và nếu Phật Giáo không có chân giá trị thì Liên
Hiệp Quốc không thể nào lại chọn Đức Phật làm tiêu biểu cho văn hóa, tâm linh và
tinh thần hòa bình của cả thế giới.
Thật ra thì sự thức tỉnh của Tây phương không phải
trong thời đại này mới xảy ra mà đã bắt nguồn từ sự tiến bộ trí thức của con
người ít ra là từ cuộc Cách Mạng Khoa Học (The Scientific Revolution) vào đầu
thế kỷ 17, từ Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason) vào thế kỷ 18, Thời Đại Khai
Sáng (The Age of Enlightenment) vào thế kỷ 19, và Thời Đại Phân Tích (The Age of
Analysis) vào thế kỷ 20. Những thời đại này đã kéo con người Tây phương ra khỏi
Thời Đại Của Đức Tin (The Age of Faith), một thời đại mà sự thống trị của Ca-Tô
Giáo Rô-ma đã đưa Âu Châu vào 1000 tăm tối được biết dưới tên Thời Đại Trung Cổ
(The Middle Ages), hay Thời Đại Tăm Tối (The Dark Ages), hay Thời Đại Của Sự Man
Rợ Và Đen Tối Trí Thức (The Age of barbarism and intellectual darkness).
Tuy thức tỉnh ra khỏi những mê tín của thời bán khai,
nhưng Tây phương không có cơ hội tiếp xúc với Phật Giáo cho nên chưa thể dứt
hẳn, vẫn luẩn quẩn không có lối thoát trong những giá trị tâm linh đã ngự trị ở
Tây phương qua mười mấy thế kỷ. Hơn nữa, ý thức hệ Ki-tô độc tôn của Âu Mỹ đồng
hành với chính sách thực dân đã khiến cho Tây phương không cần tìm hiểu về Phật
Giáo trừ một số nhỏ học giả. Tuy Phật Giáo đã được Tây phương biết đến từ
hậu bán thế kỷ 19 với Paul Carus và người ông bảo trợ, Daisetz T. Suzuki, rồi
sau đó với những bậc trí thức nổi danh trong xã hội Tây phương về những công
cuộc nghiên cứu Phật Giáo như Edwin Arnold, Rhys Davids, Edward Conze, Christmas
Humphreys, Theodore Stcherbatsky, Sangharakshita v..v.. nhưng Phật Giáo hầu như
chỉ được biết tới trong giới trí thức có thể nói là rất giới hạn. Phải sang thế
kỷ 20, biến cố Tây Tạng khiến cho Đức Đạt Lai Lạt Ma cùng đoàn tùy tùng phải
chọn con đường lưu vong, rồi chiến tranh Việt Nam với cuộc tranh đấu của Phật
Giáo, đưa đến cao điểm là Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu để thức tỉnh lương tâm
nhân loại và chính quyền Ngô Đình Diệm, thế giới mới biết nhiều đến Phật Giáo.
Và từ đó Phật Giáo bắt đầu nở rộ và ngày nay đang phát triển mạnh mẽ khắp năm
châu. Lý do phát triển rất đơn giản, vì ngoài những giáo lý nhân bản, từ bi đặc
thù của Phật Giáo, trên bình diện cộng đồng thế giới, có một nhận xét ngắn của
một học giả Ca-Tô về đạo Phật có thể nói lên phần nào lý do Phật Giáo đang phát
triển mạnh trên thế giới:
Joseph L. Daleiden, trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng
(The Final Superstition), xuất bản năm 1994, sau khi phân tích và đánh giá cái
gia tài Do Thái - Ki Tô (A Critical and Evaluation of the Judeo-Christian
Legacy), đã đề nghị những Tín Ngưỡng Khác Thay Cho Thần Giáo
(Alternatives to Theism). Về Phật Giáo tác giả viết, trang 424:
Lời giới thiệu hay nhất về Phật Giáo là, giống
như Khổng giáo, hệ thống tín ngưỡng này đã hiện hữu trong 25 thế kỷ mà không hề
có một cuộc Thánh Chiến, một Tòa Án Xử Dị Giáo, hay một toan tính đế quốc nào
nhằm xâm chiếm và phá hủy nền văn hóa của một dân tộc khác.
(The best recommendation for Buddhism is that, like
Confucianism, this belief system has existed for twenty-five centuries without a
single Crusade, Inquisition, or imperialist attempt to invade and destroy the
culture of another people.)
Sự kiện Nhà Nước Việt Nam và Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam đăng cai Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc 2008 không chỉ thu hẹp trong vai trò
tổ chức, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới, nhất là trong xã hội Việt
Nam ngày nay. Trên bình diện quốc tế, Việt Nam đã xác định Việt Nam là một xứ
Phật Giáo, có một thế đứng được tôn trọng trên thế giới, và có thể đóng góp vào
nền tảng văn hóa và tâm linh cho nhân loại. Trên bình diện quốc nội thì đây là
một bước đi ngoạn mục để nêu cao tinh thần hòa hợp, chủ trương hòa bình, đẩy
mạnh sự cải tiến, xây dựng đất nước, và khôi phục giá trị tâm linh, đạo đức
trong xã hội.
Sau bao năm chiến tranh, trong thời gian đó đau
thương xảy ra trên khắp đất nước làm cho nhân tình chia rẽ, vết thương thù hận
chưa lành trong đám người vô minh, nay đã đến lúc Việt Nam phải quên đi những sự
thù nghịch trong quá khứ và đi đến sự hòa hợp dân tình. Mặt khác, đây là cơ hội
để người dân Việt Nam nhìn lại cái gia tài văn hóa đạo đức của dân tộc mình mà
trong vài thập niên gần đây, vì hoàn cảnh khắc nghiệt của đất nước, chúng ta đã
phần nào lơi là, không tích cực vun đắp cái gia tài văn hóa quý báu của dân tộc
này.
Sau cuộc chiến, đất nước kiệt quệ, vì nhu cầu mở
mang đất nước để cho người dân đủ ăn đủ mặc, chính quyền coi chính sách mở mang
kinh tế là ưu tiên, nhưng có phần nào lơi là trong việc vun đắp đạo đức xã hội
và xây dựng truyền thống văn hóa tâm linh. Đi vào nền kinh tế thị trường thì
tất nhiên không thể tránh được sự xâm nhập của những giá trị vật chất phiến
diện. Từ đó sinh ra những tệ đoan xã hội, kéo theo sự suy thoái đạo đức. Và
tình trạng xã hội ngày nay cho thấy đã đến lúc những nguy cơ trên cần phải đối
trị để phục hưng quốc gia. Chắc chắn là Nhà Nước đã nhìn thấy như vậy. Nhưng
Nhà Nước khó có thể đơn phương giải quyết. Cho nên Nhà Nước cần sự hỗ trợ của
Phật Giáo, một tôn giáo mà trong suốt dòng lịch sử đã đóng góp cho đất nước
không ít trong những vấn đề văn hóa xã hội như giáo dục, trau giồi đạo đức, tinh
thần yêu nước v…v… Chúng tôi rất hi vọng Nhà Nước nhìn ra khả năng này của Phật
Giáo để có thể có một chính sách hợp tác nhằm mục đích khôi phục những giá trị
đạo đức và truyền thống tâm linh trong đất nước. Mặt khác, chúng tôi cũng hi
vọng Nhà Nước hãy tiếp tay với Phật Giáo để thanh lọc những phần tử xấu, đạo đức
thấp kém, hoặc liên kết với những tổ chức chống đối bên ngoài để phá Phật Giáo,
hay lợi dụng Phật Giáo để hoạt động cho những mưu đồ chính trị đen tối.
Đại Lễ Vesak 2008 là một cơ hội không những để cho
Việt Nam trao đổi những giá trị tâm linh với Phật Giáo thế giới, mà còn là cơ
hội để chấn hưng tinh thần Phật Giáo Việt Nam. Trước sự phát triển của Phật
Giáo vào các xã hội tân tiến Tây phương, và trước sự chấp nhận của Tây phương
đối với những giá trị tinh thần, nhân bản của Phật Giáo, người Việt Nam nên
hãnh diện về cái "đạo dân tộc" của mình. Đất nước của chúng ta quả thật đã may
mắn vì đã được thấm nhuần tinh thần Phật Giáo, một tinh thần chủ lực xây dựng
nước và giữ nước như đã được chứng minh trong nhiều giai đoạn thăng trầm của
lịch sử. Và do đó, chúng ta phải có bổn phận gìn giữ, phát huy tinh thần Phật
Giáo trong mọi tầng lớp dân chúng ở trong nước. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam
nhìn lại và trân quý các di sản văn hóa Phật Giáo, xây dựng nền tảng đạo đức
trong xã hội, tạo một thế đứng vững chắc trong cộng đồng thế giới cho Việt Nam.
Tôi có rất nhiều hi vọng là những mục đích xây dựng
đất nước và phát huy tinh thần Phật Giáo nêu trên sẽ được thành tựu khi nhìn
thấy hình ảnh bàn dân thiên hạ ở Việt Nam nô nức treo cờ, trang hoàng từ tư gia
đến các nơi công cộng để sửa soạn đón mừng Đại lễ Phật Đản 2008,. Đây là một
dấu hiệu khẳng định lại tinh thần Phật Giáo đã thấm nhuần trong lòng dân tộc
Việt Nam. Tôi cũng có nhiều hi vọng là Đại Lễ Phật Đản 2008 sẽ thành công mỹ
mãn trên mọi phương diện: giới thiệu với thế giới bên ngoài một nước Việt Nam
yêu chuộng hòa bình và trân quý nền độc lập của mình, thấm nhuần từ giáo lý nhân
bản, bình đẳng, từ bi v.. v.. của Đức Phật; thức tỉnh người dân tìm lại những
giá trị truyền thống tâm linh của mình làm căn bản giữ nước; và phát huy đạo đức
gia đình và xã hội để xây dựng một nước Việt Nam lành mạnh trên con đường phát
triển đi đến thịnh vượng phú cường.
Để kết luận tôi xin thành thực chúc cho Đại Lễ Phật
Đản 2008 ở Việt Nam được hoàn toàn thành công và có vài lời chúc đất nước Việt
Nam như sau:
Địa Cửu Thiên Trường. Đoan Vi Việt Nam Chúc Hòa Bình
[To Last As Long As Heaven And Earth. Expressly For
Việt Nam We Pray For Peace]
Các bài về tôn giáo cùng tác giả
Các bài về Vesak 2008