|
đăng ngày 20 tháng
5, 2007
|
T
hế là Thầy Nhất Hạnh cùng Tăng thânđạotràngMai
thônvà Đoàn
Phật tử Quốc tế
đã về tới sân
bay Tân Sơn Nhất
– Thành phố Hồ
Chí Minh, Việt
Nam, vào lúc 15
giờ ngày mùng 04
Tết, năm Đinh
Hợi (20 tháng 02
năm 2007).
Phái đoàn của
Thầy Nhất Hạnh
sẽ phối hợp với
Phật Giáo trong
nước, lẽ dĩ
nhiên với sự
thỏa thuận của
chính quyền, để
tổ chức ba
Đại
Trai Đàn Chẩn Tế
Giải Oan
ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Đây chỉ là một lễ tiết rất
đơn giản, thuộc
truyền thống
Phật Giáo, phù
hợp với tín
ngưỡng dân gian
ở Việt Nam về
cầu siêu, cúng
cô hồn v..v..
Nhưng có vẻ như có một số người trong đầu óc không có
loại “gen” thích
hợp để có thể
hiểu như vậy nên
sinh ra nhiều
chuyện ngộ
nghĩnh.
Có một chuyện rất ngộ nghĩnh là trước khi Thầy Nhất
Hạnh đưa ra ý
kiến Phật Giáo
Việt Nam đứng ra
tổ chức ba
Đại
Trai Đàn Chẩn Tế
Giải Oan
ở ba miền Bắc Trung Nam thì chẳng có ai đưa ra ý kiến
này, nhưng sau
khi ý kiến này
được Làng Mai
phối hợp với
Phật Giáo trong
nước đưa ra thì
những ý kiến về
những Đại Trai Đàn
Chẩn Tế Giải Oan
này không biết
ở đâu mà mọc ra lắm thế. Nhưng đặc biệt là những ý
kiến này đều
thuộc loại không
phải là ý kiến,
vì chẳng có mấy
ai hiểu về ý
nghĩa của
Đại
Trai Đàn Chẩn Tế
Giải Oan,
mục
đích không ngoài
việc siêu độ
vong linh cho
những người đã
chết trong cuộc
chiến tranh vừa
qua và làm nhẹ
bớt sự đau khổ
của những người
còn sống, mà hầu
như những cái
gọi là “ý kiến”
mới mọc này đều
phát xuất từ đám
con chiên cuồng
tín và những
người chống Cộng
đến chiều. Cho
nên những “ý
kiến” cất lên từ
trong những hàng
rào bên đường,
hoặc từ những
miền hoang mạc,
phần lớn là
thuộc loại liên
kết tôn giáo với
chính trị chống
Cộng thời thượng
một cách ấu trĩ,
đã trở thành ngộ
nghĩnh tức cười
trước những hình
ảnh Phật tử Việt
Nam, từ các cụ
già đến các em
còn để tóc trái
đào, tay cầm cờ
Phật Giáo, hân
hoan đón phái
đoàn của Thầy
Nhất Hạnh ở phi
cảng Tân Sơn
Nhất.
Cái “ý kiến” ngộ nghĩnh nhất là của ông con chiên Vũ
Quang Ninh, viết
rằng trong Công
Giáo cũng có lập
Trai Đàn Chẩn Tế
Giải Oan, vì thế
cho nên ông viết
để tranh công
đầu cho một
người đã chết từ
lâu rồi, cho nên
phải chờ đến
ngày phán xét,
nếu có, mới có
thể sống lại để
mà cải chính có
thực là như vậy
hay không:
“Đã
từ lâu, Đức Cố
Hồng Y Nguyễn
Văn Thuận .. đã
nêu rõ ý định
cầu nguyện và
lập Trai Đàn
Chẩn Tế Giải
Oan, không phải
đợi đến bây giờ
thiền sư Nhất
Hạnh mới về nước
tổ chức.”
Bỏ qua
câu văn trên
viết tiếng Việt
không ra tiếng
Việt vì vô
nghĩa, có điều,
ông con chiên Vũ
Quang Ninh quên
rằng ông và Lữ
Giang, và những
bậc trí thức
Công Giáo nổi
danh ngày nay,
đã sống trong
một định chế cha
truyền con nối,
hơn 400 năm dẹp
bỏ bàn thờ tổ
tiên
[từ 1533 khi
Công Giáo bắt
đầu xâm nhập
Việt Nam cho đến
công đồng
Vatican II vào
thập niên 1960,
khi được Vatican
cho phép
thờ cúng lại],
hàng ngày đọc
kinh nhật khóa
[Xin đọc “Công Giáo Trên
Bờ Vực Thẳm”
của Charlie
Nguyễn]
để cầu được
về quê
thật, hiệp làm
một với Vua
David trong
huyền sử Do Thái
mà thực chất chỉ
là một tên tướng
cướp gian dâm vô
độ, giết thuộc
hạ để cướp vợ
v..v..
[Xin đọc Cựu
Ước: 1 Samuel và
2 Samuel],
và tin thờ một
người Do Thái
khác có tên là
Giê-su, đã coi
những người
không phải là
người Do Thái là
đồ chó
[Xin đọc tân
ước: Matthew 15:
21-28],
và đã chết cách
đây 2000 năm
nhưng lại có khả
năng làm cho xác
chết của mình
sống lại, tái
hợp với linh hồn
của mình đang
được giữ trong
một kho chứa, để
cho một số nhỏ,
vô cùng nhỏ
(Xin đọc sách
Khải Huyền),
được lên thiên
đường trong ngày
phán xét mà
không ai biết
bao giờ mới đến,
để sống cùng ông
ta trong vinh
quang vĩnh
cửu.. Vũ Quang
Ninh viết lấy
được, vừa viết
vừa phá bỏ chính
đạo của mình vì
kém hiểu biết mà
không biết là
mình kém hiểu
biết.
Không kém hiểu biết sao được vì đồng đạo Lữ Giang
của ông đã cho
chúng ta biết,
theo lời giải
thích của Thư
Viện Hoa Sen thì
“Trai
Đàn Chẩn Tế Giải
Oan
hay còn gọi là
Trai Đàn
Thủy Lục
là một pháp hội
cúng
chay và cầu siêu
cho những vong
hồn người chết
không có ai thờ
tự, không có nơi
nương tựa,
đang sống vất
vưởng ở dưới
nước và ở trên
cạn.“ Viết
như Vũ Quang
Ninh thì rõ ràng
là linh hồn
những người Công
Giáo đã chết
đang sống vất
vưởng, không có
nơi nương tựa
[điều này trái
với giáo lý Công
Giáo], do đó gây
khó khăn cho
Chúa, vì Chúa
biết đi đâu mà
kiếm những linh
hồn của giáo dân
trong ngày phán
xét, giả
thử là có Chúa
và có ngày phán
xét.
Cho nên Cố Hồng
Y Nguyễn Văn
Thuận mới phải
nhờ Phật Giáo
lập Trai Đàn
Chẩn Tế Giải
Oan, một truyền
thống của Phật
Giáo, để giải
oan cho những
người Công Giáo
đã chết mà linh
hồn còn đang
sống vất vưởng,
không có nơi
nương tựa. Dù
ông Vũ Quang
Ninh không nói
rõ là Cố Hồng Y
Nguyễn Văn Thuận
đã nêu rõ ý định
lập Trai Đàn
Chẩn Tế Giải Oan
khi nào, trong
trường hợp nào,
và ở đâu mà
không bị Tòa
Thánh ra vạ
tuyệt thông,
nhưng chuyện ông
Vũ Quang Ninh
viết về Hồng Y
Nguyễn Văn Thuận
cũng là một
chuyện vui, cũng
đáng đọc tuy hơi
lố bịch.
Một chuyện ngộ nghĩnh khác trong bài nói về cuộc
phỏng vấn Sư Bà
Chân Không của
đài BBC tôi đọc
được câu: Từ khi có tin
về sự kiện
này đã có
nhiều ý kiến
ở hải ngoại
đặt câu hỏi
vì sao chỉ có
Làng Mai được
nhà nước cho
về làm lễ,
trong khi chính
Giáo hội Phật
giáo Việt Nam
Thống
(GHPGVNTN) nhất
hiện ở trong
nước, lại
không được.
Và Sư Bà
đã trả lời là có
mời tất cả nhưng
mấy ông Thống
Nhất ở hải ngoại
không dám ra mặt
đi chính thức,
có lẽ vì với
tinh thần vô úy
của Nhà Phật nên
úy kỵ mấy ông
chống Cộng ở hải
ngoại. Nhưng
thật ra, câu hỏi
này hỏi chỉ để
mà hỏi bởi vì
đối với người
hiểu biết thì
không ai hỏi như
vậy. Tại sao?
Thứ nhất, thực
chất vị thế, uy
tín hiện nay của
Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam
Thống Nhất ở
Việt Nam là như
thế nào. Thứ
hai, nghe nói
Hòa Thượng Huyền
Quang năm 2000
cũng đã đưa ra ý
kiến tổ chức Đại
Trai Đàn Giải
Oan với chính
quyền nhưng
không được chấp
thuận. Lẽ dĩ
nhiên vì
GHPGVNTN đang
chống chính
quyền và đang
tích cực tranh
đấu để cho Giáo
Hội được phục
hoạt dưới sự chỉ
đạo của Võ Văn
Ái ở Paris. Thứ
ba, tại sao chỉ
có Làng Mai được
Nhà Nước cho về
làm lễ? Vậy thì
ở hải ngoại,
ngoài Làng Mai,
đã có bao nhiêu
tổ chức nào khác
đã công khai lên
tiếng đề nghị
lập các Đại Trai
Đàn Giải Oan ở
Việt Nam. Thứ
tư, Làng Mai về
làm lễ thì có
vấn đề gì, vấn
đề với ai, tại
sao phải đặt một
câu hỏi có tính
cách chụp mũ và
chia rẽ như
vậy?. Ký giả
này còn hỏi một
câu ngớ ngẩn
khác là Các Đại
Trai Đàn Chẩn Tế
Giải Oan tạo
chia rẽ hay đoàn
kết. Tôi xin
giải đáp câu hỏi
này trong phần
cuối, lẽ dĩ
nhiên, theo ý
kiến riêng.
“Ý kiến” năng nổ, hơi ít giáo dục nhất về các Đại
Trai Đàn Giải
Oan là của Lữ
Giang trong bài
“Mượn Trai
Đàn Giải Oan”
để mạ lỵ,
xuyên tạc và
chụp mũ Thầy
Nhất Hạnh bằng
những luận điệu
cũ kỹ ngớ ngẩn
mà giới độc giả
đã cho rằng
không có một giá
trị trí thức nào
vì đều thuộc
loại “phịa”,
một thủ đoạn
quen thuộc của
Lữ Giang mà Giáo
sư Nguyễn Mạnh
Quang, tôi, cũng
như một số độc
giả khác đã vạch
ra từ lâu. Cho
nên, tôi nghĩ
không nên mất
thì giờ để phê
bình một bài
viết rất lếu láo
này của Lữ
Giang, alias Tú
Gàn, alias
Nguyễn Cần. Duy
có một điều rất
rõ trong bài là
có vẻ như Lữ
Giang không chỉ
đánh phá Thầy
Nhất Hạnh mà còn
đánh phá cả Phật
Giáo bằng những
luận điệu cũ kỹ
vô giá trị. Để
làm gì? Để chạy
cái tội bán
nước, làm tay
sai cho ngoại
nhân của Công
Giáo từ ngày đầu
cho đến ngày
cuối
[Xin đọc cuốn
“Công Giáo Trên
Bờ Vực Thẳm” của
một trí thức
Công Giáo:
Charlie Nguyễn].
Ngày nay mà Lữ
Giang và một số
người có đầu mà
không có óc,
thuộc loại CCCĐ,
CCCB, CCCC
v..v.. còn lôi
những chuyện gọi
là “phản chiến”
của Thầy Nhất
Hạnh ra mà tố
khổ. Có muốn
chống thì cũng
phải chống cho
thông minh một
chút chứ? Ai
phản chiến và
phản chiến thì
sao? Đâu có
phải chỉ có mình
Thầy Nhất Hạnh
mới phản chiến.
Tôi đã mấy lần
nêu rõ những ai
là phản chiến mà
Lữ Giang et al..
vẫn không chịu
mở mắt ra. Đây
này, những ai là
người phản
chiến? Tôi nhắc
lại:
Đó là giáo hoàng Paul VI, người đã
tuyên bố ở giữa
hội trường Liên
Hiệp Quốc:
Hãy ngưng
ngay cuộc chiến
(ở Việt Nam).
Đừng có chiến
tranh nữa, không
bao giờ có chiến
tranh nữa
(Stop the war.
No more war,
never again war)
Đó cũng là Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Thant,
sau khi quan sát
tình hình, đã
tuyên bố:
Cuộc
chiến chênh lệch
giữa kỹ thuật
Hoa Kỳ và một
nước nhỏ kém mở
mang (VN) là một trong những cuộc chiến "man rợ nhất" của lịch
sử.
(The
Secretary of the
United Nations,
U Thant, was
driven by his
observations to
call this
mismatch between
the United
States and a
small
underdeveloped
nation one of
the "most
barbarous" wars
in history)
Đó cũng là 2700 mục sư, linh mục, tu sĩ Do
Thái
(Rabbi) đã ký
tên dưới một bức
thư gửi Tổng
Thống Johnson,
đăng trên tờ The New York
Times ngày
4 tháng 4 năm
1965 kêu gọi: "Nhân
danh Thiên Chúa,
Hãy ngưng ngay
chiến tranh"
(In the Name of
God, STOP IT).
Đó cũng là 65 giáo sư đại học Saigon,
ngày 16 tháng 1,
1968, với bản
tuyên ngôn kêu
gọi "Các phe
hiếu chiến hãy
kéo dài vô thời
hạn cuộc ngưng
chiến vào dịp
Tết và đàm phán
với nhau ngay để
có một dàn xếp
hòa bình."
(We appeal to
all the
belligerent
parties to
extend
indefinitely the
Tet cease fire
and to negotiate
immediately a
peaceful
settlement).
Và đó cũng là những bậc trí thức vang danh
thế giới như
Bertrand Russel,
Jean Paul
Sartre, hàng
trăm giáo sư đại
học trên khắp
thế giới, hai
anh em cùng là
linh mục Công
giáo Daniel và
Philip Berrigan,
chưa kể đến hàng
trăm ngàn sinh
viên đại học Mỹ
đã thường xuyên
xuống đường
"phản chiến".
Vậy "phản chiến"
thì sao? Ai có
quyền "kết tội"
những người
"phản chiến"?
Chỉ có những kẻ
cuồng tín tôn
giáo khát máu
mới muốn kéo dài
một cuộc chiến
“man rợ nhất”
của lịch sử.
Nhưng
chuyện đáng tức
cười hơn cả là
Lữ Giang mang
cái đầu óc con
chiên mụ mị của
mình ra để phê
bình những tác
phẩm của Thầy
Nhất Hạnh:
“Chúng tôi đã đọc khá nhiều sách do Thiền sư
Nhất Hạnh viết,
chúng tôi thấy
đa số lấy cảm
hứng trong bộ
thiền luận của
Daisetz
Teitotaro
Suzuki, nhưng
mỗi nơi mỗi
mãnh, chưa hệ
thống hóa được
nên chưa có thể
trở trành môn
phái. Đọc các
bài thuyết pháp
của Hòa Thượng
Thích Thanh Từ ở
Việt Nam hay của
Hòa Thượng Thích
Chơn Thành ở
Garden Grove,
chúng tôi thấy
có căn bản vũng
vàng hơn và sâu
sắc hơn.”
Tôi có thể nói ngay rằng Lữ Giang chưa bao giờ đọc bộ
Thiền Luận của
Suzuki cũng như
chưa bao giờ đọc
“khá nhiều sách”
của Thầy Nhất
Hạnh, vì đã đọc
rồi thì không
thể viết bậy như
trên. Tôi cũng
có thể nói ngay
rằng, Lữ Giang
viết để mà viết
với mục đích hạ
thấp uy tín của
Thầy Nhất Hạnh,
một thủ đoạn
thuộc loại đội
đá vá trời, vì
ánh sáng lập lòe
của một con đom
đóm trong bóng
tối tâm linh làm
sao có thể so
được với ánh
sáng của vầng
Thái Dương.
Ngoài Lữ Giang
ra không ai có
đủ khả năng đánh
giá những tác
phẩm của Thầy
Nhất Hạnh hay
sao? Thầy Nhất Hạnh
đã viết bao
nhiêu cuốn sách,
và sách của Thầy
đã được dịch ra
bao nhiêu thứ
tiếng, tại sao
vậy, vì nội dung
của sách hay chỉ
vì tên Nhất
Hạnh?
Hay vì sách
viết không hợp
với đầu óc thuộc
loại khuyết tật
của Lữ Giang?
Hỏi tức là đã
trả lời. Nói
cho vui mà
nghe, bao giờ
trong người Lữ
Giang không còn
cái “gen” của
Thượng đế nữa,
thì Lữ Giang hãy
đọc sách Thầy
Nhất Hạnh và may
ra, nhờ hồng ân
thiên chúa, mới
hiểu được..
Rồi lại có một tên phản đồ ở Paris mà tôi không muốn
nêu tên ở đây,
sợ làm bẩn mắt
độc giả. Nhưng
ai cũng biết tư
cách của hắn,
hàng năm lãnh
tiền của CIA/NED
để dựng đứng
những sự kiện,
ngụy tạo những
bản văn, thông
điệp nói từ
trong nước gửi
ra nhưng chỉ có
hắn là nhận
được, có nghĩa
là hắn ngụy tạo
xong rồi tự gửi
cho hắn, chỉ để
xuyên tạc, bịa
đặt, chống phá
chính quyền cũng
như Giáo Hội
Phật Giáo Việt
Nam nằm ngoài sự
thao túng của
hắn ở hải ngoại
trước đám người
ngây thơ, vô
minh. Chuyện hắn
phản Thầy Nhất
Hạnh trước đây
thì ai cũng biết
nhưng vô liêm sỉ
đến độ xuyên tạc
láo lếu dòng tu
Tiếp Hiện cũng
như chuyến về
Việt Nam hoằng
Pháp của Thầy
Nhất Hạnh năm
2005 thì không
có lời nào thích
hợp để mà tả
nữa. Những hình
ảnh xung quanh
chuyến về Việt
Nam năm 2005 của
Thầy Nhất Hạnh
cũng như cảnh
đón tiếp Thầy
vừa qua ở phi
cảng Tân Sơn
Nhất đã như là
một cái tát vào
mặt những người
cố tình xuyên
tạc mục đích của
Thấy Nhất Hạnh
và Tăng thân
Làng Mai và phái
đoàn Phật Giáo
Quốc tế.
Sau khi bị vạch trần bộ mặt gian manh, quỷ quyệt,
bịa đặt, xuyên
tạc, vu khống
v..v.. trong một
cuốn sách xuất
bản năm 2005 bởi
Đông Dương Thời
Báo, cái con
người vô liêm sỉ
này không biết
hối cải mà ngày
nay còn trơ tráo
nói bậy y như
hồi 2005, trước
khi Thầy Nhất
Hạnh về hoằng
Pháp ở Quê Hương
lần đầu tiên:
“Tôi nghĩ rằng
nhà cầm quyền Hà
Nội điều khiển
chuyến đi của Sư
ông Thích Nhất
Hạnh nhằm che
giấu các cuộc
đàn áp Giáo hội
Phật giáo Việt
Nam Thống nhất
và cố tạo ra ảo
ảnh tự do tôn
giáo tại Việt
Nam.”
Cái xảo trá của tên này, nhưng lừa bịp được những
người kém đầu óc
như hắn, là cho
rằng vài bậc
lãnh đạo Giáo
Hội Phật Giáo
Thống Nhất khi
xưa, nay có thể
đang gặp khó
khăn ở bên nhà
vì lý do chính
trị, chính là
Phật Giáo, còn
bao nhiêu triệu
người dân hàng
ngày, hàng tuần
tự do đi lễ
Chùa, tự do làm
Phật sự, tự do
đón tiếp phái
đoàn của Thầy
Nhất Hạnh v..v..
thì không phải
là Phật Giáo và
không phải là tự
do tôn giáo.
Nhưng người dân
trong nước cũng
như mỗi năm có
hàng trăm ngàn
người ở nước
ngoài về thăm
quê hương thì đã
biết thế nào là
tự do tôn giáo
và thế nào là
chính trị thời
thượng của bọn
đầu cơ chính
trị, tay sai của
ngoại quốc, hay
cuồng tín tôn
giáo.
Cuối cùng, trong bài phỏng vấn Sư Bà Chân Không, ký
giả đài BBC Việt
Nam đã đặt một
câu hỏi khá ngớ
ngẩn là Đại Trai
Đàn Chẩn Tế Giải
Oan gây ra chia
rẽ hay đoàn
kết. Một lễ
tiết theo truyền
thống Phật Giáo
và phù hợp với
tín ngưỡng dân
gian mà có tính
chất chia rẽ hay
đoàn kết hay
sao? Tại sao
lại khoác cho
truyền thống vị
tha này một bộ
áo chính trị
thời thượng.
Chẳng hiểu ký
giả này trình độ
hiểu biết ra sao
và có đọc Thông
Bạch của Đạo
Tràng Mai Thôn
hay không. Tinh
thần đoàn kết
không phân biệt
đã thể hiện rõ
trong đoạn văn
sau đây:
“Xin kính mời
đồng bào Công
Giáo và Tin Lành
cũng thiết lập
bàn thờ, và thay
vì văn bản Tam
Quy và Ngũ Giới,
quí vị có thể sử
dụng văn bản
Mười Điều Răn
(the Ten
Commandments) và
bài Thuyết Giảng
Trên Núi (the
Sermon on the
Mountain). Đồng
bào Cao Đài và
Phật Giáo Hòa
Hảo nếu không sử
dụng văn bản Tam
Quy Ngũ Giới thì
xin sử dụng
những văn bản
tương đương
trong truyền
thống mình. Đồng
bào tin theo chủ
nghĩa Mác Xít
cũng xin thiết
lập một bàn thờ
như thế và sử
dụng một văn bản
tương đương
trong truyền
thống Mác
Lê-nin.” Đoạn văn trên thật là tuyệt hảo, hô hào sự đoàn kết
của mọi tôn giáo
trước một lễ
tiết hợp với tâm
tư của người
Việt Nam. Vậy
tôi xin khai
triển một chút
để quý độc giả
thấy rõ hơn vấn
đề.
Làng Mai biết rõ rằng, sau hơn 400 năm bị cấm không
được thờ cúng tổ
tiên, Công Giáo
hoàn vũ đã đổi
mới và cho phép
Công Giáo Việt
Nam được thờ
cúng tổ tiên trở
lại, nên ngày
nay, có lẽ trong
nhà
hầu hết
người Công Giáo
cũng có một bàn
thờ cúng vong
linh, và nếu
chưa có thì hãy
thiết lập một
cái, cho nên mới
hô hào đoàn kết
như trên. Thú
thực là tôi mù
tịt về các
truyền thống Cao
Đài, Hòa Hảo, và
Mác Lê-nin, nên
không thể nói gì
về những truyền
thống này.
Nhưng về Phật
Giáo và Ki Tô
Giáo thì thật
quả tôi có biết
chút đỉnh. E
rằng có nhiều
người theo Phật
nhưng chưa hề
Quy Y, và có
nhiều người theo
Chúa nhưng chưa
hề đọc Mười Điều
Răn hay Bài
Giảng Trên Núi,
khoan nói đến
chuyện áp dụng
những điều trong
đó, tôi xin phép
được nhắc lại
Tam Quy, Ngũ
Giới và vài điều
trong Mười Điều
Răn và Bài Giảng
Trên Núi để giúp
số người trên.
Về Phật Giáo thì Tam Quy là:
-
Con nương theo
Phật, cầu cho
chúng sanh, tin
chắc Đạo cả,
phát lòng vô
thượng.
-
Con nương theo
Pháp, cầu cho
chúng sanh, thấu
rõ Kinh Tạng,
trí huệ như
biển.
-
Con nương
theo Tăng, cầu
cho chúng sanh,
kính tín hòa
hợp, tất cả
không ngại.
Và Ngũ Giới là:
-
Con xin giữ giới
không sát sinh
-
Con xin giữ giới
không trộm cắp
-
Con xin giữ giới
không tà dục
-
Con xin giữ giới
không nói sai sự
thật
-
Con xin giữ giới
không uống rượu
say sưa, không
dùng các chất ma
túy.
Về Công Giáo cũng như Tin Lành thì trong Thánh Kinh,
Cựu Ước, có 10
điều răn, trong
đó có vài điều
giống như ngũ
giới của Phật
Giáo như “chớ
giết người”
[giết súc vật,
nhất là chó ở
Việt Nam, thì
được], chớ phạm
tội tà dâm, chớ
trộm cướp, chớ
làm chứng dối.
Nhưng có vài
điều khác rất
tuyệt vời để đọc
trước bàn thờ
cúng vong linh
những người chết
như sau, trích
từ cuốn Bible,
King James
Version, Exodus
20, và bản dịch
sang tiếng Việt
của tôi, nếu có
dịch sai xin quý
độc giả sửa
lại:
-
You shall have
no other gods
before me.. You
shall not bow
down to them nor
serve them. For
I, the Lord your
God, am a
jealous God,
visiting the
iniquity of the
fathers on the
children to the
third and fourth
generations of
those who hate
Me, but showing
mercy to
thousands, to
those who love
Me and keep My
commandments.
[Trước mặt ta ngươi chớ có thần khác.. Ngươi chớ quì
lạy trước các
hình tượng đó,
và cũng đừng hầu
việc chúng nó.
Vì Ta, Thiên
Chúa của các
ngươi, là một
Thiên Chúa ghen
tuông, nhân tội
của ông cha sẽ
mang sự độc ác
và bất công
[iniquity] đến
ba bốn đời con
cháu những kẻ
nào ghét Ta,
nhưng sẽ tỏ lòng
khoan dung nhân
từ cho đến ngàn
đời những kẻ nào
yêu mến Ta và
giữ các điều răn
của Ta.]
-
Remember the
Sabbath day, to
keep it holy.
Six days you
shall labor and
do all your
work, but the
seventh day is
the Sabbath of
the Lord your
God. In it you
shall do no
work: you, nor
your son, your
daughter, nor
your manservant,
nor your
maidservant, nor
your cattle, nor
your stranger
who is within
your gates. For
in six days the
Lord made the
heavens and the
earth, the sea,
and all that is
in them, and
rested the
seventh day.
Therefore the
Lord blessed the
Sabbath day and
hallowed it.
[Hãy nhớ ngày Sa-bát và coi như là ngày Thánh. Ngươi
hãy làm hết công
việc của ngươi
trong sáu ngày,
nhưng ngày thứ
bảy là ngày nghỉ
của Thiên Chúa
các ngươi.
Trong ngày này,
ngươi, con trai
con gái ngươi,
tôi tớ trai gái
của ngươi, trâu
bò của ngươi,
khách lạ trong
nhà ngươi, đều
không được làm
gì hết. Vì
trong sáu ngày
Chúa các ngươi
đã dựng lên trời
đất, biển cả, và
tất cả những gì
ở trong đó, và
nghỉ ngày thứ
bảy. Do đó Chúa
các ngươi ban
phúc cho ngày
thứ bảy và
thiêng liêng hóa
ngày đó.]
Tôi nghĩ trong 10 điều răn, để tiết kiệm thì giờ, và để
khỏi trùng hợp
với Ngũ Giới bên
Phật Giáo, chỉ
cần đọc hai điều
đặc biệt này
cũng đủ rồi. Bây giờ chúng ta hãy sang đến
Bài Giảng Trên Núi.
Bài Giảng Trên
Núi còn tuyệt
vời hơn nữa,
tuyệt vời vì đó
là lời của
Chúa. Lời của
Chúa thì chỉ có
thể bình luận ở
một nơi khác,
thí dụ như trong
cuốn “Chúa
Giê-su Là Ai?
Giảng Dạy Những
Gì”, Giao
Điểm xuất bản
trước đây, năm
2002, chứ không
thể bình luận ở
đây, vì được
dùng trong các
tư gia Ki Tô
Giáo nhân dịp
các Đại Trai Đàn
Chẩn Tế Giải Oan
được tổ chức ở
ba miền. Cho
nên tôi chỉ có
thể liệt kê vài
điều tuyệt vời
trong Bài Giảng
Trên Núi, còn có
tên là Phúc Thật
Tám Mối, để cống
hiến quý độc
giả, và để giúp
các đồng bào Ki
Tô của tôi đọc
trước bàn thờ
của họ nếu họ
chưa biết đến
những câu này:
1.
Mathhew 5:3: Phúc cho kẻ có
tinh thần yếu
kém, vì nước
thiên đàng thuộc
về họ.
(Blessed are the
poor in spirit,
For theirs is
the kingdom of
heaven).
2.
Luke 6: 20: "Phúc cho các
con đang nghèo
khổ, vì Nước
Trời thuộc về
các con"
(Blessed are you
poor, For yours
is the kingdom
of God); Luke 6:
24: "Nhưng khốn cho
các con đang
giàu có,
vì các con đã
được an ủi rồi"
(But voe to
you who are
rich, For you
have received
your
consolation)
3. Luke 6: 21: "Phúc cho các con đang
đói,
rồi các con sẽ
no"
(Blessed are you
who hunger
now, For you shall be filled.); Luke 6:25:
"Khốn
cho những kẻ
đang no,
Vì các ngươi sẽ
bị đói" (Voe to you who are full, For you
shall hunger)
4. Luke 6: 21:
"Phúc cho các con đang than khóc,
rồi các con sẽ
vui cười"
.(Blessed are
you who weep now, for you shall laugh.); Luke 6:25:
"Khốn
cho những kẻ
đang cười, vì
các ngươi sẽ than khóc."
(Woe to you who
laugh now, For
you shall mourn
and weep).
Viết bài này, tôi không biết nên khóc hay nên cười.
CHẤM
HẾT.
Các bài về tôn giáo cùng tác giả