Ngày thứ ba, 19 tháng
4, 2005, các hồng y của Ca-tô Giáo Rô-ma đã bầu xong một giáo hoàng
mới: Hồng Y người Đức Joseph Ratzinger. Ratzinger lấy danh
hiệu giáo hoàng là Benedict XVI. Các tín đồ Ca-tô rất hân hoan
vì giáo hoàng John Paul II, vị đại diện của Chúa trên trần, mới chết
đi, nay họ đã có ngay một giáo hoàng mới, một vị đại diện của Chúa
mới, để chăn dắt họ, và cho họ được hiệp thông với Chúa ở trên thiên
đường.. Hân hoan, tuyệt đối tuân phục Giáo hoàng, xưng tụng
giáo hoàng “muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ” là cái quyền
duy nhất mà các tín đồ Ca-tô được hưởng. Lẽ dĩ nhiên, thường
thì họ chẳng biết Giáo hoàng là người như thế nào. Đặc biệt là
giáo dân Việt Nam, với truyền thống mà một “bậc trí thức Ca-tô Việt
Nam” đã nhận định: “Vatican có đánh rắm cũng khen thơm”, thì cứ là
giáo hoàng thì phải quỳ lạy, ca tụng, khen thơm, có thế thôi. Kể
cũng lạ, một ông giáo hoàng chết đi, bầu một ông khác trong giáo hội
làm giáo hoàng, đó là chuyện dĩ nhiên, nhưng người ta vẫn reo mừng,
có người khóc sướt mướt vì cảm động, như là chứng kiến một chuyện lạ
chưa từng thấy trên thế gian. Thật là khó hiểu. Phải chăng họ sợ
nếu không có giáo hoàng thì không có ai cho họ được hiệp thông với
Chúa trên thiên đường?
Về phương
diện học thuật (scholarship) trong giới trí thức, vấn đề có khác.
Người ta muốn biết giáo hoàng mới là người như thế nào, đạo đức ra
sao, có chủ trương như thế nào, vì dù sao với gần một tỷ tín đồ,
Giáo hoàng của Ca-tô Giáo Rô-Ma cũng có ảnh hưởng ít nhiều trong
cộng đồng thế giới. Bài này chỉ có mục đích đưa lên vài nét về vị
tân giáo hoàng mà tôi tin chắc là tuyệt đại đa số tín đồ Ca-tô, đặc
biệt là tín đồ “mít”, không hề biết đến.
Tờ The
Australian đã tóm tắt về cuộc đời và đức tin của Ratzinger như
sau:
“Ông ta có cùng quan điểm với giáo hoàng
người Ba Lan (John Paul II): rằng chỉ có một Giáo hội Ca-tô thống
nhất với những giá trị tuyệt đối mới có thể chống lại chủ thuyết
toàn trị và những toan tính của chủ thuyết vật chất của Tây phương.
Hồng y (Ratzinger) bị “sốc” bởi những cải cách của Công Đồng Vatican
II trong thập niên 1960, khi những đoan quyết cổ xưa phải nhường chỗ
cho sự tranh luận trí thức và tranh luận thần học... Hồng y
(Ratzinger) cũng đã mạ lỵ Phật Giáo, Ấn Giáo và các tôn giáo Đông
phương khác là đưa ra niềm hi vọng sai lầm qua “con đường tâm linh
tự thỏa dâm”, lên án giới truyền thông là phóng đại xì-căng-đan linh
mục loạn dâm với trẻ con trong giáo hội (Ca-tô) ở Bắc Mỹ và khuyến
khích trở lại dùng tiếng La-Tinh trong lễ mi-sa”
(He shares the view
of the Polish Pope ... that only a united Catholic Church with
absolute values can stand against totalitarianism and the
temptations of Western materialism. The cardinal was shocked by the
reforms of the Second Vatican Council in the 1960s, when the old
certainties gave way to intellectual and theological debate. ... The
cardinal has also condemned Buddhism, Hinduism and other Eastern
religions as offering false hope through "auto-erotic spirituality",
accused the media of exaggerating the extent of the pedophilia
scandals in the North American Church and encouraged a return to the
Latin Mass.)
Tại sao hồng
y Joseph Ratzinger lại có thể thốt ra những lời phê bình thô tục có
thể nói là hạ cấp, vô giáo dục, phi đạo đức tôn giáo, về Phật Giáo
như vậy? Cái cốt đạo đức tôn giáo của nhiều vị lãnh đạo Ca-tô Giáo
Rô-ma nó là như vậy. Từ xưa, Ca-tô Giáo đã coi các tôn giáo khác là
thấp kém, thờ ma quỷ, và đã đồng hành với các thế lực thực dân Tây
phương, tự ban cho nhiệm vụ mang niềm tin mù lòa tin bướng tin càn
vào một người Do Thái của Ca-tô Giáo để đi “văn minh hóa” các dân
tộc mọi rợ. Ngày nay, chúng ta hẳn còn nhớ giáo hoàng John Paul II
đã lên tiếng phê bình các mục sư Tin Lành truyền đạo ở Nam Mỹ là
“Những con chó sói đói mồi.” Đạo đức tôn giáo của vị chủ chăn
Ca-tô (JPII) và phụ tá đắc lực của ông, Joseph Ratzinger, người nắm
chức vụ Bộ Trưởng “Bộ Giáo Lý Đức Tin” (Congregation for the
Doctrine of the Faith), hậu thân của Tòa Án xử dị giáo (formerly
known as the Holy Inquisition), của Ca-tô Giáo Rô-ma, là như vậy.
Động lực chính khiến cho vị chủ chăn JPII cũng như phụ tá Ratzinger
thốt ra những lời phi đạo đức tôn giáo mà không ai có thể chấp nhận
như trên là vì sự nở rộ của Phật Giáo trong thế giới văn minh Âu Mỹ,
và sự suy thoái của Ca-tô Giáo trên khắp thế giới, đặc biệt là ở Nam
Mỹ trước sự tấn công của Tin Lành. Vì thiếu căn bản đạo đức và giáo
dục tôn giáo cho nên hai vị chủ chăn Ca-tô đã phải xử dụng đến loại
ngôn từ hạ cấp để xuyên tạc và hạ thấp các tôn giáo khác.
Các tín đồ
Ca-tô mít khen thơm Joseph Ratzinger là đã có bằng Tiến Sĩ Thần Học
khi mới có 26 tuổi, và ông ta đã là giáo sư môn Thần Học tại đại học
nổi tiếng Tubingen, từ 1966 đến 1969, và sau đó là giáo sư thần học
và tín lý tại đại học Regensburg. Nhưng họ không biết rằng, phần
quan trọng trong luận án tiến sĩ của Ratzinger đã bị bác bỏ, khiến
cho ông ta phải viết lại và chỉ trình cho ban giám khảo phần lịch sử
trong luận án lúc đầu (Theo tài liệu trong “Courrier de Rome”
trên Internet: This degree (Doctor of Theology) he obtained Feb.
21, 1957, at nearly 30 years of age, but not without controversy.
The “critical” part of his thesis was, in fact, rejected, in such a
way that he was obliged to truncate and edit it, and present to the
committee just the “historical” part of the original..). Họ cũng
không biết rằng, ở đại học Tubingen, Ratzinger đã bị các sinh viên
trẻ, có đầu óc cởi mở, tiến bộ, chất vấn về nền thần học và các tín
lý Ca-tô mà ông ta không thể dùng để thuyết phục họ, cho nên ông ta
phải bỏ đại học đó để về dạy thần học và tín lý ở đại học thủ cựu
Regensburg.
Nhưng hiển
nhiên là cái bằng Tiến Sĩ Thần Học không bảo đảm cho đạo đức tôn
giáo của ông ta, vì thật ra Thần Học trong Ca-tô Giáo chỉ là một môn
học nhằm mục đích đào tạo những người có nhiệm vụ nhồi sọ tín đồ
bằng những ngụy biện hoang đường về sự hiện hữu của một Thiên Chúa.
Tất nhiên, cái bằng Tiến Sĩ Thần Học này rất có giá trị đối với đám
tín đồ thấp kém, ít hiểu biết, đã được nhào nặn từ khi mới sinh ra
đời để hoàn toàn tuân phục bề trên. Ngoài Ki-tô Giáo ra, cái bằng
Tiến sĩ Thần Học có giá trị gì trong những xã hội phi-Ki-tô? Tại
sao? Chúng ta hãy đọc vài tài liệu sau đây:
Giáo
sư David Voas, đại học New Mexico, Hoa Kỳ, tác giả cuốn sách khảo
cứu Tân Ước nổi tiếng: Cuốn Thánh Kinh Mang Tin Dữ: Cuốn Tân Ước,
đã viết trong phần dẫn nhập như sau:
Thần học, đã một thời như là bà hoàng của các khoa học, ngày nay
có vẻ chỉ còn là bà hoàng của các tu viện, vẫn đàm tiếu về cùng
những chuyện cổ xưa sau khi các em nhỏ hát Thánh ca đã trưởng thành
và bỏ đi lâu rồi. Thật là đáng xấu hổ... Thần học - chấp
nhận như là môn học về Thiên Chúa - bị coi là không có chủ đề nào,
hoặc ít nhất là không có chủ đề nào chúng ta có thể nghiên cứu. Đó
là ngành học duy nhất với những chuyên gia thực sự không biết mình
đang nói cái gì.
Vì không có chất liệu cho chủ đề, các nhà Thần học phải xử dụng đến
hai lãnh vực kỳ quặc: óc tưởng tượng và Giáo quyền... Ngày nay,
các tư tưởng gia Ki Tô có nhiệm vụ chứng tỏ Thánh Kinh có ý nghĩa,
nhất quán, và có vẻ như là có thể biện hộ cho vấn đề luân lý đạo đức
trong đó. Điều này có thể thật là khó khăn.
(David Voas, The Bad News Bible: The New Testament,
Introduction: Theology, once queen of the sciences, now seems merely
queen of the cloisters, still gossiping about the same old stories
long after the choir boys have grown up and moved on. It's a
shame... Granted, theology - the study of God - suffers from the
suspicion that it has no subject, or at least none we can study. It
is the only field with experts who don't know what they are talking
about. Their subject matter being inaccessible, theologians must
resort to the odd couple of imagination and authority... Christian
thinkers now have the job of showing that scripture makes sense, is
consistent, and appears morally defensible. This can be difficult.)
Ngoài ra, H. L. Mencken (1880-1956), một Văn hào Mỹ, đã viết:
"Thần học: một nỗ lực để giải thích cái không thể biết được bằng
cách đặt sự giải thích vào những cái không đáng biết"
(Theology: an effort to explain the unknowable by putting it into
terms of the not worth knowing.)
Và
Alfred North Whitehead (1861-1947), một nhà Toán học và Triết gia Mỹ
cũng đưa ra nhận định:
Tôi coi nền thần học Ki Tô Giáo như là một trong những tai họa lớn
của nhân loại.
(I
consider Christian theology to be one of the great disasters of the
human race)..
Trong thực
tế, ngày nay đã không còn ai coi môn Thần Học có giá trị nữa, vì mọi
luận cứ Thần Học để “chứng minh” sự hiện hữu của một Thiên Chúa đều
đã bị dứt khoát bác bỏ trước những khám phá của khoa học về vũ trụ
nhân sinh. Cũng vì vậy mà phe bảo thủ Tin Lành không dám dùng thần
học để chứng minh sự sáng tạo của Thiên Chúa, mà phải tạo ra danh
xưng khác như “khoa học sáng tạo” (creation science) để cố nhồi nhét
vào đầu óc các học sinh Trung Học niềm tin vào sự sáng tạo của Thiên
Chúa như được viết trong Cựu Ước. Nhưng rồi, pháp viện tối cao Hoa
Kỳ quyết định “thuyết sáng tạo” không phải là khoa học, nên đã bác
bỏ danh xưng ngụy biện này. Và Tin Lành lại phải nghĩ ra một danh
xưng khác là “thiết kế thông minh” (Intelligent design) để chỉ công
cuộc sáng tạo của Thiên Chúa Tin Lành. Cho tới ngày nay, thuyết
“thiết kế thông minh” cũng không được phép dạy trong các trường
Trung Học song song với thuyết Tiến Hóa. Và trong giới truyền thông
điện tử Việt Nam hải ngoại, chúng ta cũng chỉ thấy lác đác vài người
như Lê Anh Huy, NNLan là còn cố gắng làm ô nhiễm đầu óc người Việt
bằng cách chống phá thuyết Tiến Hóa và quảng cáo cho cái thuyết
“thiết kế thông minh” rất thiếu thông minh của họ. Tôi sẽ bàn về
thuyết này trong một bài riêng.
Khi được bầu làm
Giáo hoàng, bộ mặt giả dối, đạo đức giả của Joseph Ratzinger đã để
lộ khi ông ta đứng trong khung cửa sổ ở Vatican, tự nhận trước quần
chúng tín đồ mình là một “người làm vườn đơn giản và khiêm cung
trong vườn nho của Chúa” (a simple and humble worker in the vineyard
of the Lord). Không có gì sai sự thực hơn. Vì trước những hành
động của ông trong quá khứ, người đời đã gọi ông qua nhiều danh hiệu
không lấy gì làm đẹp cho lắm. Danh hiệu nổi tiếng nhất của ông là:
“Hồng Y Thiết giáp” (Panzerkardinal), vì ông ta có những
hành động liều lĩnh, vô trí tuệ, nói năng bừa bãi, giống như một
khối sắt biết di chuyển, chuyên nghề xung kích, và qua lời tuyên bố
trước đây của ông về Phật Giáo: “Buddhism is a kind of spiritual
auto-eroticism” thì dường như ông ta không có mấy giáo dục và đạo
đức tôn giáo của ông ta là một dấu hỏi lớn. Danh hiệu thứ hai là
“The Vatican’s Enforcer”, có nghĩa là người bắt buộc mọi
người khác phải tuân theo luật lệ của Vatican dù những luật lệ này
đã lỗi thời. Và danh hiệu thứ ba, suy diễn từ danh hiệu thứ hai,
là, theo Đào Viên trên trang nhà Giao Điểm, tháng 4, 2005: “Hồng
Y Ratzinger là một người bạo mồm, mạnh miệng, do đó đã được báo chí
tặng cho cái hỗn danh là “the God’s Rottweiler” (Rottweiler
là một giống chó giữ nhà rất hung tợn). Được nhà báo phỏng vấn về
phản ứng đối nghịch của Phật giáo trước cuốn Bước qua Ngưỡng Cửa Hy
Vọng, mà ông là người viết chính, ông đã nói: Theo ông “Buddhism is
a kind of spiritual auto-eroticism”. Câu trả lời khiếm nhã này đã
nói lên tác phong thấp kém, đầy ác ý đối với Phật giáo..” Ngoài
ra, Ratzinger còn được biết dưới vài danh hiệu khác như “Người
canh chừng bảo vệ giáo lý chính thống” (The Watchdog of
orthodoxy) và “Đại Phán Quan” (The Grand Inquisitor) [vì các
biện pháp truy tố, đàn áp nhiều nhà thần học Ca-tô có những điểm
không đồng ý với Vatican. TCN]
Cũng như Giáo hoàng
tiền nhiệm John Paul II mà Mac Kher trong
www.nycny.com đã gọi là một con người đạo
đức giả và cố ý lừa dối tệ mạt nhất (This is hypocrisy and duplicity
at its worst) [vì ngày hôm trước Giáo Hoàng nói về đối
thoại, sự hiểu biết, và sự đoàn kết giữa các tôn giáo. Ngày hôm
sau, ông ta nói ngược lại, nhấn mạnh Ki-tô Giáo là tôn giáo chân
thật duy nhất, và kêu gọi tín đồ đi cải đạo Á Châu...], Joseph
Ratzinger, trong cuộc phỏng vấn của Jean Sévillia, tờ Le
Figaro, khi được hỏi là những nhiệm vụ chính của giáo hoàng triều
tiếp theo là gì (What will be the great tasks of the next
pontificate?), đã trả lời trong đó có đoạn: “Và còn Hồi Giáo và
cả Phật Giáo nữa, hai sự thách thức lớn cho thế giới Tây phương.
Cần phải đi vào cuộc đối thoại với họ, tìm một con đường để hiểu
biết lẫn nhau mà không mất đi ánh sáng lớn đến với chúng ta từ khuôn
mặt của Dê-su Kờ-rít.” (And then there are Islam and also
Buddhism, the two great challenges for the Western world. It is
necessary to set up a dialogue with them, to find a way of
understanding each other without losing sight of the great light
that comes to us from the figure of Jesus Christ.)
Phê bình Phật Giáo
bằng loại ngôn từ hạ cấp như trên có phải là đi vào con đường đối
thoại tôn giáo hay không? Và chúng ta không nên quên là ngày 5
tháng 9, 2000, Joseph Ratzinger, với sự chấp thuận của John Paul II,
đã tung ra bản tuyên ngôn “Dominus Jesus” trong đó có hai điểm trịch
thượng đối với mọi tôn giáo khác như sau:
1. “.. như là
một phương tiện đưa đến sự cứu rỗi, những tôn giáo phi-KiTô thiếu
sót một cách trầm trọng” (..non-Christian religions are gravely
deficient as a means of salvation)
2. “Giáo hội
Công Giáo La Mã là phương tiện duy nhất đem đến sự cứu rỗi cho toàn
thể nhân loại” (The Roman Catholic Church is the only instrument
for the salvation of all humanity)
Cũng
vì vậy mà Giáo sư Thần học Ca-tô nổi tiếng trên hoàn cầu, Hans Kung,
đã đưa ra một nhận định về bản tuyên ngôn “Dominus Jesus” là “một
sự pha trộn của tính chất lạc hậu thời Trung Cổ và Tâm Lý Bệnh Hoạn
về Những Ảo Tưởng Hão Huyền về Quyền Lực hay Toàn Năng của Vatican”
(A mixture of medieval backwardness and Vatican megalomania).
[Megalomania = A psycho-pathological condition in which fantasies
of wealth, power or omnipotence predominate]
Tin
mới nhất cho biết, trong lễ mi-sa đầu tiên, giáo hoàng Benedict XVI,
alias Josepth Alois Ratzinger, đã trở giọng hòa hoãn (conciliatory
tone), và sẽ đến với những tôn giáo khác (reach out to other
religions), nhưng chúng ta hãy coi chừng, vì không thể nào tin được
những lời nói của ông ta, thường là nói một đàng làm một nẻo.
Ôn cố
tri tân, chúng ta hãy điểm qua vài nhận định về Ratzinger. Ngoài
những lời phát biểu hạ cấp đối với Phật Giáo, và những lời trịch
thượng đối với mọi tôn giáo khác trong bản tuyên ngôn “Dominus
Jesus”, Ratzinger đã có những hành động như thế nào? Những hành
động và biện pháp đàn áp trí thức của Ratzinger cũng như thực chất
con người của ông ta đã được ghi trong nhiều cuốn sách của chính
những tín đồ Ca-tô, thí dụ như Louis Baldwin với cuốn “The Pope
and The Mavericks” trong đó tác giả viết nguyên một chương về
Ratzinger, từ trang 105 đến trang 115; Garry Wills với cuốn “Why
I Am A Catholic”, trong đó tác giả viết về chủ trương độc tài
giáo trị của Ratzinger như sau, trang 258: “Ratzinger chủ trương
là các giám mục phải một mình cai trị trong những giáo xứ của mình,
chỉ liên lạc với các giám mục khác qua La-mã, chỉ gặp nhau trong các
giáo đường ở La Mã dưới quyền của (đoán xem là ai?) Hồng y
Ratzinger.” (Ratzinger holds that bishops must rule alone in
their dioceses, communicating with other bishops only through Rome,
meeting with each other only at Roman synods run by (guess who?)
Cardinal Ratzinger.). Tác giả Wills cũng còn ghi là Giáo hoàng John
Paul II cũng như Ratzinger đều sống theo lưỡng chuẩn (Ibid., p. 259:
Now the pope has a double standard like that of his soulmate
Ratzinger); John Cornwell với cuốn “Breaking Faith: The Pope, The
People, and the Fate of Catholicism” trong đó tác giả đã ghi một
số phản ứng điển hình của đa số tín đồ Ca-tô Mỹ trong tờ National
Catholic Reporter trước tuyên ngôn “Dominus Jesus” của Ratzinger
như sau, trang 220: “Một thế chính trị như vậy trong một thế
giới đa dạng liên kết với nhau hàm ý là Giáo hội La Mã đang cắm đầu
chạy vội vào thế kỷ 14” (Such political posturing in a
cyber-knit world implies that the Roman church is rushing headlong
into the fourteenth century), “Hồng Y Ratzinger nên tự mình thoát
ra khỏi những bức tường dày đặc đang bao quanh ông ta và hãy thấy rõ
những gì đang xảy ra trong vũ trụ của chúng ta” (Cardinal
Ratzinger should remove himself from the dense walls that surround
him and find out what is going on in our universe), “Tôi thật là
bối rối và xấu hổ để cho Ratzinger nói thay cho tôi hay cho cả giáo
hội. Nếu “chúng ta là giáo hội” thì đây là thời điểm chúng ta phải
nắm quyền kiểm soát giáo hội của chúng ta nhân danh Dê-su Kờ-rít”
(I am embarrassed and ashamed to have Ratzinger speak for me or the
whole church. If “we are the church” it is time to take control of
our church in the name of Jesus Christ).
Việc
Joseph Ratzinger được bầu làm Giáo Hoàng của Ca-tô Giáo Rô-ma đã làm
hài lòng thiểu số bảo thủ cực đoan trong Ca-tô Giáo. Còn các tín đồ
Ca-tô thông thường, nhất là những tín đồ ở trong thế giới thứ ba và
những tín đồ “mít” thì chỉ biết tung hô, ca tụng. Nhưng dư luận
thế giới về kết quả cuộc bầu Giáo hoàng này không phải là tất cả đều
hân hoan tích cực. Ngay cả trong Giáo hội Ca-tô cũng có nhiều nhận
định về vị giáo hoàng mới là Benedict XVI, alias Joseph Ratzinger.
Linh mục Thomas
Reese, chủ biên tuần báo America của dòng Jesuit, nói: “Ông ta có
thể là người tạo sự chia rẽ thay vì là người tạo sự đoàn kết trong
giáo hội” (He could be a wedge rather than a unifier for the
church). David Gibson, một cựu ký giả của đài phát thanh Vatican
nói: “Nếu ông ta, là giáo hoàng, tiếp tục đường lối như là khi
ông ta là một hồng y, tôi nghĩ rằng tôi sẽ thấy một giáo hội bị phân
cực (chia rẽ)” (If he continues as pope the way he was as a
cardinal, I think T will se a polarized church). Trước khi các hồng
y bầu giáo hoàng, Linh mục Andrew Greeley, một trong những tư tưởng
gia nổi bật nhất của Giáo hội Ca-tô Mỹ (one of the American church’s
most prominent thinkers) đã phát biểu: “Tôi chắc là sẽ choáng
váng nếu hồng y Joseph Ratzinger, viên chức săn lùng lạc đạo của
giáo hội trong một thời gian lâu dài, là giáo hoàng tới.” (I’d
be dismayed if Cardinal Joseph Ratzinger, the church’s official
heresy hunter for a long time, is the next pope.) Và nhà thần học
nổi tiếng Hans Kung cũng phát biểu: “Một sự thất vọng cực kỳ lớn
lao cho tất cả những người nào hi vọng có một giáo hoàng mục vụ và
cải cách” (An enormous disappointment for all those who hoped
for a reformist and pastoral pope). Một phụ nữ Ca-tô Pháp, Sylvie
Genthial, có mặt tại quảng trường Phê-rô khi biết đã bầu xong giáo
hoàng, đã gọi qua điện thoại cầm tay: “Đó là Ratzinger. Tất cả
chúng ta đều hi vọng có một giáo hoàng khác – có thể là một người Mỹ
La-Tinh – nhưng không phải là một người siêu bảo thủ như thế này.”
("It's Ratzinger," French pilgrim Silvie Genthial, 52, barked into
her cellular phone before hanging up. "We were all hoping for a
different pope — a Latin American perhaps — but not an
ultraconservative like this," she said.) Thomas Groome, giáo sư
thần học, đại học Boston nhận xét: “Ratzinger có vẻ hấp dẫn đối
với 5% (5 phần trăm) tín đồ Ca-tô Mỹ bảo thủ và theo truyền thống.”
(Thomas Groome, professor of theology at Boston College, said
Ratzinger would appeal mostly to the five percent of US Catholics
who are conservative and traditional.) Và nhà phê bình Vatican Paul
Lakeland, giáo sư tại trường đại học Jesuit Fairfield, Connecticut,
nói: “Ratzinger là sự chọn lựa để bảo thủ và tiếp nối (đường lối
của John Paul II). Nó nói cho các tín đồ Ca-tô Mỹ là đừng có hi
vọng gì về sự thay đổi. Giáo sư nói thêm: Cùng một thông điệp đó
đang gửi tới những quốc gia đang phát triển, nơi đây giáo hội Ca-tô
Rô-ma phát triển mạnh nhất. Thông điệp đó phải là sự thất vọng của
những người Á Châu, Mỹ La-Tinh, và Phi châu.” Vatican critic
Paul Lakeland called Ratzinger a choice for conservatism and
continuity. "It is telling (US Catholics) to expect no changes,"
said Lakeland, a professor at the Jesuit Fairfield University in
Connecticut. The same message, he added, is being sent to developing
countries where the Roman Catholic church is growing fastest. "It
has to be disappointing to the Asians and Latin Americans and
Africans," said Lakeland.)
Trong khi đó thì có
một anh mít đặc, có đầu mà không có óc, bốc thơm là sự chọn lựa
Ratzinger làm giáo hoàng là “một sự chọn lựa đầy ý nghĩa” và
đó là “Một hy vọng lớn cho Việt Nam”. Việt Nam nào? Việt
Nam chỉ có chưa đầy 7% theo Ca-tô Giáo Rô-ma, Việt Nam có thể coi
như là một xứ Phật Giáo. Vậy xứ Phật Giáo nào hy vọng ở một kẻ đã
thốt lên những lời thô tục, hạ cấp về Phật Giáo? Trừ phi Ratzinger
chính thức xin lỗi thế giới Phật Giáo về những lời nói bậy của mình,
Việt Nam cương quyết đừng bao giờ để cho ông ta bước chân lên đất
nước Việt Nam, dù dưới bất cứ một áp lực nào. Thể diện quốc gia và
truyền thống văn hóa dân tộc phải được đặt lên trên hết.
Để kết luận và để
cho quý độc giả biết rõ hơn về Vatican, tôi xin giới thiệu một cuốn
sách mới: “THE VATICAN EXPOSED: MONEY, MURDER, AND THE MAFIA” của
tác giả Paul Williams, nhà xuất bản Prometheus Books. Nội dung cuốn
sách có thể tóm tắt như sau:
- Phanh phui ra
sự đồi bại của Vatican và những liên hệ của Vatican với những tổ
chức gây tội ác.
- Đào sâu vào
những chuyện Vatican đã làm để duy trì quyền lực và tiền bạc.
- Chứng tỏ có
bao nhiêu nguồn tài chánh của Vatican có những nguồn gốc vô luân và
bất hợp pháp.
(Product Description
• Revelations about the Vatican's corruption and connections to
organized crime • Explores the things the Vatican has done in order
to maintain power and money • Shows how many sources of Vatican
finances have had immoral and illegal origins.)
Các bài về tôn giáo cùng tác giả