|
14 tháng 1, 2010 |
LTS: Là bạn của William E. Simon trong vấn đề tôn giáo và Xã Hội Tự Do, Ryan Messmore khảo sát các cam kết tôn giáo được đem lại cho đời sống chính trị trong nỗ lực để cải thiện nghị luận công cộng và tăng cường xã hội dân sự như thế nào. Trong tháng 12 năm 2006, ông đã viết một bài luận cho tờ báo điện tử FOXNews.com khảo sát việc từ thiện và chính sách của chính phủ. (Theo
https://www.heritage.org/) SH
Vào thế kỷ hai mươi, Hoa kỳ đã chứng kiến một thay đổi quan trọng đến một sự
riêng tư hóa hiểu biết về tôn giáo. Các áp lực xã hội và chính trị đã thúc đẩy
nhiều người đi đến chỗ nhìn tôn giáo như một sự không thích hợp ở chốn công cộng
hay các vũ đài chính trị. Trong khi đó, các khuynh hướng trong khuôn khổ các nhà
thờ đã đóng góp vào việc thu hẹp trọng tâm của đức tin. Kết quả là, ở những nơi
chốn con người từng xem tôn giáo như một thích đáng đến nhiều khía cạnh của đời
sống và xã hội, các ý tưởng thịnh hành hiện nay thường thu hẹp tôn giáo vào
những niềm tin có tính tâm linh và sự lành mạnh về tâm lý. Đức tin hướng nội, bị
xuống ngôi (marginalized) này chứa đựng tiềm năng làm suy yếu trách nhiệm hiểu
biết và các liên hệ với xã hội của các nhà thờ địa phương. Sự đổi thay này có
những ẩn ý chính trị, bởi vì vai trò của tôn giáo trong đời sống cá nhân và xã
hội rộng lớn đang định hình các niềm mong đợi của dân chúng Mỹ về chính phủ. Khi
tôn giáo được xếp vào ngăn kéo như những niềm tin và các thờ phượng riêng tư,
chính phủ sẽ dễ dàng hơn để biểu hiện mình như một thực thể tập chú trách nhiệm
hơn vào việc giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng Hiến pháp đã công nhận tự do
không phải chỉ riêng cho cá nhân, mà còn cho cả công chúng thực hành đạo giáo,
đã xác nhận đến cái bản chất của đức tin gắn bó đến toàn bộ một con người và
suốt dọc cuộc đời. Khi tôn giáo được thực hành trong phương cách toàn diện hơn
như thế này, các giáo đoàn có thể đáp ứng được những nhu cầu rộng lớn hơn và
ngăn ngừa được tính độc lập không lành mạnh của chính phủ.
Sự Phân chia Công cộng và Riêng tư
Một nhà quan sát về xã hội Tây phương khẳng định rằng “đặc điểm có tính quyết
định của nền văn hóa của chúng ta” là “sự phân chia đời sống con người ra thành
chuyện chung (public) và việc tư (private)”[1] Sự phân chia này là quan trọng
bởi vì nó ảnh hưởng đến phương cách mà người Mỹ suy nghĩ và phân định các cơ
quan và các hoạt động khác nhau trong xã hội. Thí dụ như, văn hóa chúng ta có
khuynh hướng nhìn chuyện chung như các lãnh vực của chính trị, kinh tế và khoa
học, còn việc tư như lãnh vực của đạo giáo và đời sống gia đình.
Stephen Carter, giáo sư Luật học tại Ðại học Yale mô tả các ảnh hưởng của sự
“riêng tư hóa” [2] tôn giáo này : “Chúng ta thường yêu cầu các công dân của
chúng ta chia các chuyện công, việc tư ra, bảo họ rằng tôn thờ đạo giáo trong
chốn riêng tư là tốt, những vẫn có một số lệnh lạc khi những niềm tin riêng tư
ấy trở thành căn bản cho các hành động có tính công khai.[3] Carter quả quyết, ở
gốc rễ của tìến trình này, chính là cái trực giác có ảnh hưởng lớn lao rằng “tôn
giáo chỉ là một thú tiêu khiển khác, như thú chế tạo các máy bay kiểu mẫu: một
cái gì lặng lẽ, một điều gì riêng tư, một chuyện bình thường không quan trọng
(trivial)” [4]
Sự phân chia ra thế giới chung/riêng có thể dễ đưa đến kết luận là những nội
dung của hai thế giới này là riêng rẽ và khác biệt. Bởi vì, chính trị và tôn
giáo được tin là đã ngả vào hai phía khác nhau của phân chia này, thiên hạ
thường kết luận rằng các sự kiện có liên hệ của họ thì khác biệt một cách căn
bản[5]:
-
Chính trị
liên quan đến trật tự và luật lệ; tôn giáo liên quan đến sự giải thoát và
lành mạnh tâm linh.
-
Chính trị
chú trọng đến các thành phố và quốc gia; tôn giáo chú trọng đến thiên đàng
và “những nơi tôn nghiêm” .
-
Chính trị
là những gì về thực thi quyền lực; tôn giáo là những gì về thực hiện lòng
thứ tha.
-
Chính trị
quan tâm đến thể xác (và tài sản) của con người; tôn giáo quan tâm đến phần
linh hồn của con người.
-
Chính trị
là những gì thuộc về công lý; tôn giáo là những gì thuộc về tình yêu thương.
Sự phân chia này đem đến nguyên nhân cho các áp lực chính trị và xã hội khiến hạ
bệ tôn giáo xuống thành ra một góc riêng tư của đời sống, một khoảng cách “an
toàn” không phải chỉ riêng cho chính sách nhà nước mà còn cho các tranh cãi và
các quan tâm xã hội nói chung.
Riêng tư hoá Thu hẹp Mục tiêu của Tôn giáo.
Giữa những áp lực xã hội này, bản thân nhận thức đang thịnh hành về tôn giáo
cũng thay đổi ở châu Mỹ. Nhiều người trung thành đạo giáo đã chấp nhận một quan
điểm tôn giáo co hẹp lại khiến mang đến sự ly khai của tôn giáo ra khỏi chính
trị, kinh tế, khoa học và các vũ đài khác.
Một tập hợp phụ của vấn đề có vẻ rơi vào khuôn khổ phạm vi của tôn giáo – các
nội dung về “niềm tin”, “lương tâm” và “nhạy cảm” [6]- thường tập trung vào các
hướng dẫn có tính học thuyết và những dẫn đạo về tâm linh. Nói vắn tắt, các áp
lực xã hội về sự riêng tư hóa đã thổi những ngọn lửa vào sự riêng tư hóa tôn
giáo, hoặc thu hẹp lại các hình thái của đức tin.
Mục tiêu thu hẹp này đã là một hiển nhiên đặc biệt trong sự xuất hiện của các
phương cách chữa bệnh bằng tâm linh [7]. Theo giáo sư James Herrick, “ một sự
tái định nghĩa phi thường về niềm tin đạo giáo truyền thống đã xuất hiện ở
phương Tây” và “ sự chuyển biến tâm linh do kết quả từ đấy, trong tốc độ, phạm
vi và ảnh hưởng đã làm kinh ngạc mọi người” [8]. Ngay trung tâm của “tổng hợp
tôn giáo mới” này – cái mà nhà xã hội học Robert Wuthnow của trường đại học
Princeton mô tả như một “ sự quá độ tâm linh của người Mỹ” [9] - ẩn giấu cái
nhận thức phổ biến về sự tự am hiểu trong các phạm trù tâm lý học và sự am hiểu
đạo giáo trong các phạm trù của sự tự hiện thực hóa.
Theo nhà thần học David Wells, điều mà Thượng đế được nghĩ đến một cách chính
yếu để đem lại cho những người tin theo trong tâm linh mới này là sự giảm nhẹ
các cảm giác tiêu cực như sự hoài nghi và lo lắng [10]. Trọng tâm chữa bệnh này
được ghi nhận bởi Wuthnow trong một nghiên cứu về các nhóm hỗ trợ ở Hoa kỳ, hai
phân ba của các nhóm này tập trung vào việc nghiên cứu kinh thánh. Khi được hỏi
vì sao lại gia nhập các hội nhóm này, lý do hàng đầu mà những người gia nhập trả
lời là “vì cảm thấy tốt hơn cho bản thân mình”. [11]
Các thay đổi trong Tôn giáo ảnh hưởng đến các Trách nhiệm Chung và các Gắn bó
Cộng đồng như thế nào.
Khi tôn giáo được thu hẹp để chỉ bao gồm một số vấn đề và mối quan tâm, các giáo
đoàn địa phương có khuynh hướng thực hành một vai trò xã hội và sự liên hệ nhỏ
hẹp hơn. Trong truyền thống, các cộng đồng đạo giáo ở Mỹ đã đóng một vai trò
quan trọng trong việc mang lại một ý thức gắn bó (sense of belonging) và trợ
giúp hỗ tương đến các thành viên của họ đồng thời thực hành trách nhiệm cho “sự
thối thiểu của những sự việc này” trong xã hội. [12]
Trong quá khứ, điều này khiến con người tìm đến các giáo đoàn không phải chỉ để
nhận được sự giúp đỡ khi mình cần đến nhưng còn là để giúp đỡ tha nhân. Ngày nay
nhiều giáo đoàn vẫn xem sự giúp đõ tha nhân là việc quan trọng. Tuy nhiên các ý
niệm đang thịnh hành về tôn giáo có lẽ ít khả năng mang lại được một ý nghĩa
mạnh mẽ cho cả trách nhiệm chung cũng như ý thức gắn bó trong khuôn khổ của một
cộng đồng có ý nghĩa của xã hội [13]. Một khái niệm thu hẹp có thể dốc cạn ý
thức trách nhiệm với Thượng đế, làm loãng nhạt ý thức trách nhiệm đến tha nhân
và làm nản lòng đến ý thức gắn bó cộng đồng trong phạm vi các giáo đoàn.
Trách nhiệm với Thượng đế:
Theo Wells, tâm linh hậu hiện đại mang đến một ý nghĩa kém hơn của một Ðấng siêu
việt khác, đấng kêu gọi chúng ta trở nên thánh thiện hơn là mang lại được một ý
nghĩa về một Thượng đế, đấng mà từ Người chúng ta kếp hợp để có một đời sống ý
nghĩa hơn [14]. Do đó, loại tôn giáo bị riêng tư hóa, tôn giáo chữa bệnh có thể
làm cạn đi ý thức trách nhiệm đến Thượng đế - cái ý thức của việc đứng trước một
Ðấng khác, đấng kêu gọi chúng ta đến để vâng lời.
Khái niệm trách nhiệm được bén rễ trong nhận thức của một lời kêu gọi có giá trị
để hành động [15]. Ðối với con người của Ðức tin, ý nghĩa về một Thượng đế kêu
gọi chúng ta trở nên có trách nhiệm- đấng thúc giục chúng ta và kêu gọi đến
những nỗ lực và chú tâm chân thành nhất của chúng ta – làm cho những lời giảng
dạy quan tâm đến tha nhân liên kết lại [16]. Thí dụ như, khi giải thích tại sao
giáo đường của ông tiếp nhận nhiều người tản cư sau thiên tai Katrina, Giáo sĩ
Bland Washington thuộc nhà thờ Allen Chapel African Methodist Episcopal tuyên bố
:” Chúng tôi hành động như thế từ sự thật là Thiên chúa muốn chúng tôi phải làm
như vậy” [17]
Khi mối liên hệ được mặc định của Thượng đế bị giới hạn chủ yếu trong các nội
dung tâm linh, xác định một cách nhỏ hẹp, quyền lực của chính phủ có vẻ như trực
tiếp và có thẩm quyền hơn trong nhiều khu vực của đời sống. Thí dụ như, cái thực
tế của việc chính phủ yêu cầu các công dân đóng thuế - trong khi hầu hết các
giáo hội chỉ khuyến khích các thành viên đóng góp một phần trăm nhỏ bé có thể
nuôi dưỡng một ý nghĩa vững vàng hơn về nghĩa vụ đối với người tạo dựng. Ðiều
này sẽ khuyến khích đến một độ nghiêng để nhìn nhà nước như một thực thể có năng
lực hơn cả trong việc giải quyết những vấn đề rối rắm hay cung cấp được các nhu
yếu cần thiết.
Trách nhiệm với Tha nhân:
Mục đích thu hẹp tôn giáo này cũng có thể làm phai nhạt ý thức trách nhiệm đối
với tha nhân từ sự làm suy yếu khái niệm rằng con người, nói chung – và, các
thành viên của các giáo đoàn nói riêng – có thể tạo được các yêu cầu với nhau về
thời gian, nỗ lực và phương cách. Khi tôn giáo chủ yếu giữ các quan tâm tâm
linh, việc đáp ứng các nhu cầu không thuộc về tâm linh của tha nhân có thể là
một lựa chọn hơn là một nghĩa vụ.
Trong các khung cảnh ấy, các vị lãnh đạo nhà thờ gặp khó khăn trong việc huấn
luyện các thành viên của mình trong những thực hành có tính thử thách và không
thoải mái mà họ vốn chưa cảm thấy được thuyết phục. [18] Nhiều thành viên của
các giáo đoàn ở Mỹ có vẻ tận tụy phục vụ tha nhân thông qua các bếp ăn nấu súp
hay các chuyến xe cung cấp đồ đóng hộp. Tuy nhiên, họ có thể ít xem các dạng
thức phục vụ khác, như thỏa mãn các nhu cần tài chính, vật chất và xã hội lớn
hơn, những cái mà chính phủ thường không ngừng nhận trách nhiệm, như là các
nghĩa vụ tôn giáo.
Wuthnow khẳng định rằng các nhóm hỗ trợ nghiên cứu thánh kinh ở Mỹ thường yêu
cầu để đem các trợ giúp đến dân chúng nhưng ít khi thử thách họ phải thay đổi
cách sống. Thực thế, ông tường thuật rằng nếu các hội nhóm đó tạo nên các đòi
hỏi trong cuộc sống của thiên hạ, đề nghị đến một số thực hành và kỷ luật đặc
thù, các thành viên này có lẽ sẽ bỏ nhóm hội đó để đi tìm gia nhập một nhóm khác
hữu ích và ít thử thách hơn.[19]
Gắn bó cộng đồng:
Loại tôn giáo bị riêng tư hóa, tôn giáo chữa bệnh có thể làm nản chí cái khả
năng của những giáo hội địa phương muốn mang đến công chúng các ý nghĩa của tình
liên đới gắn bó cộng đồng từ sự làm suy yếu đi mối liên kết xã hội và sản sinh
ra một thứ bắt chước xanh xao của một cộng đồng ngoan đạo. Công trình của
Herrick và Wuthnow cho thấy rằng ngày nay nhiều người trung thành đạo giáo không
theo đuổi các dự án sát nhập nhà thờ cũng như loại hành lễ hàng tuần để chia xẻ
các kinh nghiệm chung [20]. Những điều này khiến tạo khó khăn hơn trong việc
hiểu biết đến các nhu cầu của nhau cho thành viên các giáo đoàn và phát triển
một ý thức mạnh mẽ cho bản sắc và mục tiêu đạo đức chung. Kết quả là, hình huống
này có thể không những chỉ làm suy yếu ý nghĩa của nghĩa vụ hy sinh cho các
thành viên phường hội khi cần mà còn làm suy giảm khuynh hướng những người có
nhu cầu tìm đến giáo hội để được giúp đỡ trong nhiều trường hợp.
Nếu họ xem như giáo đường đa phần chỉ là những nơi chốn để hành lễ, suy nghĩ một
cách hạn hẹp, hơn là nhìn giáo đường như một cộng đồng của đức tin, có lẽ người
ta chỉ cảm thấy thoải mái khi yêu cầu nhà thờ hỗ trợ những gì liên quan đến “tôn
giáo” mà thôi. Trong một nghiên cứu về 15 khu dân cư ở Pensylvania, Wuthnow
tường thuật rằng các câu trả lời gần như muốn biển đổi nhà thờ trở nên sự đáp
ứng các nhu cầu tâm linh hoặc xúc cảm trong khi hướng đến chính phủ và các cơ
quan công cộng khác trong việc giải quyết các khó khăn về tài chính và thất
nghiệp (bất chấp thực tế là các nhà thờ ở vào các vị trí địa dư gần với những
người trả lời hơn là chính phủ và các cơ quan công cộng khác).[21]
Nói tóm lại, khi khả năng của tôn giáo nhằm nuôi dưỡng các mối trách nhiệm hỗ
tương và tình liên đới cộng đồng bị loãng nhạt trong những phương cách này, các
mong đợi của công chúng có khuynh hướng dịch chuyển đến những cơ cấu khác, kể cả
nhà nước, cho các đáp ứng của những nhu cầu không-tôn giáo.
Giảm nhẹ vai trò xã hội đối với các Nhà thờ
Suy yếu sự kiểm soát vào Chính phủ.
Khi vai trò xã hội của các giáo đoàn địa phương bị thu hẹp, xã hội mất đi sự
kiểm tra quan trọng vào vai trò và giới hạn của chính phủ. Sự có mặt của tính đa
dạng về các liên quan xã hội, các cơ quan có thẩm quyền về đạo đức là một an
toàn không thể thay thế được cho việc tập trung hóa quyền hạn về chính phủ. Khi
các cơ quan không-chính phủ- bao gồm cả các nhà thờ - bị sút giảm một cách đáng
kể thì vai trò của nhà nước gần như tăng lên. Robert Nisbet khẳng định “Mối xung
khắc thực sự trong lịch sử chính trị hiện đại không phải là giữa cá nhân và nhà
nước mà là giữa nhà nước và các hội nhóm xã hội”. [22]
Khi những người trung thành với đạo giáo quay mặt đi khỏi quan niệm cho rằng nhà
thờ có trách nhiệm trong một số lãnh vực – khi họ ủy thác phần lớn các vấn đề
đói kém và thiếu công lý cho các cơ quan trong một khu vực riêng biệt – chính
phủ được bỏ lại như một cơ quan thống trị, từng bước hấp thụ được nhiều quyền
lực và sức kiểm soát. Nhưng các giáo đoàn tôn giáo đã thực hành các trách nhiệm
của mình một cách truyền thống cho những nhu cầu vững chắc và những thử thách xã
hội, khuyến khích các ban phát có tính hy sinh và các trợ giúp hỗ tương trong
một loạt những vấn đề khác nhau.
Thu hẹp tôn giáo thành một nội dung có tính “nội tại và nhận thức” của một người
hơn là toàn bộ cơ thể sống của một cộng đồng có trách nhiệm cho phép đến sự phát
triển một nhà nước gia trưởng (paternal sates). Nhà nước bắt đầu thực thi trách
nhiệm đối với các nhu cầu của dân chúng trong các phương cách mà nhà thờ và các
cơ quan khác đã thực hiện trước đó.
Các Chiếm lĩnh Chính sách Công cộng về Tôn giáo: Một thí dụ
Chính sách công cộng không chỉ phản ánh, mà còn củng cố và định hình các luận
bàn và trí tưởng tượng của công chúng.[23] Chính sách chứa đựng những nhận thức
về tôn giáo khiến có thể phỏng định và nuôi dưỡng hoặc các mối liên hệ xã hội và
các giáo đoàn có trách nhiệm hoặc một loại đức tin được riêng tư hóa hơn khiến
khuyến khích sự độc lập về phía nhà nước. Thí dụ như, ngôn ngữ soạn thảo của một
dự luật gần đây ở Quốc hội [24] đã cố gắng định nghĩa các tổ chức “tôn giáo” như
những tổ chức có mục đích chính là quan tâm đến các thủ tục hành lễ, thờ phượng
hay giảng dậy các học thuyết. “Tôn giáo”, hiểu trong các giới hạn này, xem như
chỉ có thể xảy ra ở một số nơi chốn (các chốn tôn nghiêm giáo đường, các nhà
thờ, nhà nguyện v.v…) ở vào một số thời điểm nhất định, và “các công việc đạo
giáo” chỉ được thực hành bởi các nhà giảng dậy, các giáo sĩ hay các lãnh đạo thờ
phượng. Khái niệm giới hạn này gánh vác một khu vực “tâm linh” của đời sống bị
rào kín và do đó tác động đối nghịch lại một hiểu biết hợp nhất hơn về tôn giáo
và đời sống vốn vẫn được chấp nhận bởi đa số người Mỹ.
Các định nghĩa về tôn giáo trong pháp luật chứa đựng những ngụ ý quan trọng và
làm nổi bật các nhu cầu xem xét một cách nghiêm túc phương cách mà tôn giáo được
hiểu và được định hình trong chính sách.
Kết luận
Các giáo đoàn ở Hoa kỳ đã phục vụ, một cách truyền thống, như những cơ cấu xã
hội quan trọng để cung cấp cho những ai cần đến, cả ở bên trong lẫn bên ngoài
khuôn khổ của tình anh em. Sự tăng cường các chia rẽ giữa khu vực chung và riêng
tư của đời sống đã xuống cấp tôn giáo thành một vai trò xã hội rút gọn như các
khuynh hướng trong khuôn khổ nhiều nhà thờ đã dẫn đến một mục tiêu thiếu cân
bằng về niềm tin tâm linh và sự lành mạnh tâm lý. Các khuynh hướng này cùng nhau
thu hẹp mục tiêu của tôn giáo và mở cánh cửa ra cho chính phủ tự đại diện mình
như thể một thẩm quyền có trách nhiệm cao nhất để đáp ứng các nhu cầu vật chất
và xã hội. Khi mối liên hệ xã hội và trách nhiệm nhận thức bị suy yếu, tiềm năng
lệ thuộc vào chính phủ của công dân chắc sẽ tăng mạnh lên.
Một nhận thức bao quát hơn, khỏe mạnh hơn về tôn giáo là quan yếu cho việc canh
giữ nền tự do hiến định của dân chúng không phải chỉ để tin hay tuyên nhận các
học thuyết, nhưng là để thực hành đức tin trong công chúng. Một hiểu biết như
thế cũng quan trọng cho việc bảo vệ một cách hợp pháp các cộng đồng tôn giáo
khiến có thể mang đến được một ý nghĩa cho các trách nhiệm hỗ tương và tính liên
đới cộng đồng- vốn là một yếu tố then chốt trong việc đáp ứng các nhu cầu của
dân chúng và ngăn ngừa được sự độc lập không lành mạnh vào chính quyền.
Ryan Messmore
A William E. Simon Fellow in Religion and a Free Society in the Richard and
Helen
DeVos Center for Religion and Civil Society at The Heritage Foundation.
Chú thích:
1 Lesslie Newbigin, Foolishness to the Greeks: The Gospel and Western Culture
(Grand Rapids, Mich.: Wm. B. Eerdmans Publishing Co., 1986), p. 34.
2 Peter L. Berger, Brigitte Berger, and Hansfried Kellner, The Homeless Mind
(New York: Random House, 1973), Chapter 3.
3 . Stephen Carter, The Culture of Disbelief: How American Law and Politics
Trivialize Religious Devotion (New York: Doubleday, 1993), p. 8.
4 Ibid., p. 22.
5 See Rodney Clapp, A Peculiar People: The Church as Culture in a Post-Christian
Society (Downers Grove, Ill.: InterVarsity Press, 1996), Chapter 2. Những câu từ
dự trữ chung trong các luận bàn xã hội của chúng ta không chỉ hé lộ lối suy nghĩ
nghĩa đôi này mà còn làm chúng trở nên bất diệt. Thí dụ như trong một chiến dịch
tranh cử, các câu hỏi thường được đặt ra về việc "mang tôn giáo vào chính trị"
hoặc ngược lại, như thể tôn giáo là một loại hàng ngoại được buôn lậu qua biên
giới. Nhiều phát biểu về tôn giáo và chính trị như thể "xen vào chuyện người
khác" hay "đột nhập vào" với nhau và môt số người còn nói về chính trị như là
một hành động mà nhữngngười trung thành với tôn giáo có thể, và có lẽ nên, "rút
lui" hay "kiêng cử". Những câu từ như thế củng cố loại tâm tư là chính trị và
tôn giáo là khác nhau, riêng rẽ và cách biệt, trong tình trạng tự nhiên và thuần
chất.
6 See Talal Asad, Genealogies of Religion: Discipline and Reasons of Power in
Christianity and Islam (Baltimore, Md.: Johns Hopkins University Press, 1993).
7 For in an-depth discussion of the therapeutic tendency within modern Western
culture, see Philip Rieff, The Triumph of the Therapeutic: Uses of Faith After
Freud (Wilmington, Del.: ISI Books, 2006).
8 James A. Herrick, The Making of the New Spirituality: The Eclipse of the
Western Religious Tradition (Downers Grove, Ill.: InterVarsity Press, 2003), p.
17.
9 Robert Wuthnow, After Heaven: Spirituality in America Since the 1950s
(Berkeley: University of California Press, 1998), p. 14; quoted in Herrick, The
Making of the New Spirituality, p. 19.
10 David F. Wells, Losing Our Virtue: Why the Church Must Recover Its Moral
Vision (Grand Rapids, Mich.: Wm. B. Eerdmans Publishing Co., 1998), pp. 50–51.
11 Robert Wuthnow, Sharing the Journey: Support Groups and America’s New Quest
for Community (New York: Free Press, 1994).
12 See Marvin Olasky, The Tragedy of American Compassion (Washington, D.C.:
Regnery Publishing, Inc., 1992), and David T. Beito, From Mutual Aid to the
Welfare State: Fraternal Societies and Social Services, 1890–1967 (Chapel Hill:
University of North Carolina Press, 2000).
13 See L. Gregory Jones and James Buckley, Spirituality and Social Embodiment
(Oxford: Blackwell Publishers, 1997); Os Guinness, The Gravedigger File (London:
Hodder & Stoughton, 1983); Wells, Losing Our Virtue; and Clapp, A Peculiar
People.
14 Wells, Losing Our Virtue, pp. 16, 50.
15 See Ryan Messmore, “My Neighbor’s Keeper? Rethinking Responsibility and the
Role of Government,” Heritage Foundation Backgrounder No. 2058, August 2, 2007,
at
https://www.heritage.org/Research/Religion/bg2058.cfm.
16 Wells, Losing Our Virtue, p. 16.
17 Joseph B. Treaster and Deborah Sontag, “Storm and Crisis: The Overview;
Despair and Lawlessness Grip New Orleans as Thousands Remain Stranded in
Squalor,” The New York Times, September 2, 2005, at
https://select.nytimes.com/search/res...A00894DD404482.
18 . See Donald A. Luidens, Dean R. Hoge, and Benton Johnson’s comments about
the challenges of community and church authority in “The Emergence of Lay
Liberalism,” Theology Today, Vol. 51, No. 2 (July 1994), pp. 249–255.
19 Wuthnow, Sharing the Journey.
20 For example, see Robert Wuthnow, Saving America? Faith-Based Services and the
Future of Civil Society (Princeton, N.J.: Princeton University Press, 2004), p.
73.
21 Ibid., p. 206.
22 Robert Nisbet, The Quest for Community: A Study in the Ethics of Order and
Freedom (San Francisco: ICS Press, 1990), p. 98.
23 See Ryan Messmore, “A Moral Case Against Big Government: How Government
Shapes the Character, Vision, and Virtue of Citizens,” Heritage Foundation First
Principles No. 9, February 27, 2007, at
www.heritage.org/Research/Thought/fp9.cfm.
24 Employment Non-Discrimination Act (ENDA) of 2007. See especially Sec. 6 (a)
and (b) of the proposed bill (H.R. 2015) at
https://www.govtrack.us/congress/bill...bill=h110-2015. Dự luật này, nhằm
ngăn cấm các quyết định thuê mướn nhân công căn cứ vào phân biệt giới tính, chứa
đựng một biệt lệ cho các tổ chức tôn giáo. Biệt lệ dành cho tôn giáo này được
thông qua bởi Viện Quốc dân đã là một phiên bản cải biên rất nặng nề so với
những gì đã có trong phác thaỏ đầu tiên của đạo luật.