Vụ ám sát Ngô Đình Diệm Vì sao Ngô Đình Diệm Chống Lại Việc Mỹ Can Thiệp Nội Bộ? https://sachhiem.net/SACHNGOAI/Q/QuocViet02.php LTS: Trong nhiều bài viết của những người bênh vực (*) chế độ Ngô Đình Diệm, các tác giả chỉ tuyên bố ông Ngô Đình Diệm chống lại việc Mỹ can thiệp nội bộ miền Nam, nhưng không nói rõ các chi tiết. Mặc dù ai có đọc sử cũng rõ, ngay từ đầu, ông Diệm là con bài của Vatican và Mỹ, thì việc chống lại ý muốn của chủ nhân mà lại đòi viện trợ đã là chuyện không hợp tình hợp lý. Dù sao, điều này cũng làm cho người đọc tưởng lầm rằng ông Diệm làm thế là vì nước vì dân. Trước tiên, cần phân biệt hai sự kiện khác nhau: 1.- Ông Diệm chống lại việc Mỹ can thiệp vào nội bộ chính quyền miền Nam, nhưng 2.- Ông Diệm liên tục yêu cầu Mỹ gửi quân để huấn luyện, hoặc để cứu nguy cho ông trong việc chống cộng (nói cách khác, muốn làm nguyên soái của lính đánh thuê). Theo dõi những việc từng ngày trong sách “Việt Nam Niên Biểu” (1939-1975) Tập I-C: 1955-1963, của Chính Đạo chúng ta thấy rõ hai sự kiện "Mỹ can thiệp" và Diệm đòi "Mỹ gửi quân đội kể cả thêm quân viện" là hai chuyện khác nhau. Sau đây là tóm tắt một vài trang nói về các cuộc gặp gỡ, thảo luận giữa ông Diệm và các viên chức Mỹ ở Sài gòn. Việc chống lại sự can thiệp của Mỹ đa số là để che giấu những chuyện bất chính của chế độ và đảng Cần Lao, đi ngược lại dân chủ, và cuối cùng không đáp ứng được ý muốn của Mỹ ở chính quyền mà họ dựng lên. Còn đây là tóm tắt vài trang dẫn chứng chính phủ Ngô Đình Diệm xin viện trợ, gồm cả quân viện: - 7/8/1958 (Diệm gặp Durbrow xin tăng viện trợ cho tài khóa 1959) - 11/11/1958 (Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu yêu cầu Mỹ giúp đỡ vì CS đe dọa an ninh) - 22/2/1960- Durbrow tán đồng đề nghị tăng cường huấn luyện viên cho lính Bảo An (trang 168) - 9/3/1960 - Diệm xin viện trợ quân sự, trực thăng tải thương, L-19, phi cơ vận tải C-47, khu trục AD -4, máy truyền tin,... - 4/9/1960 - Mỹ: tăng quân số lên 170 ngàn (từ 9.8 ngàn) trong đó có 5 ngàn biệt động, 10 ngàn chính qui, 5 ngàn yểm trợ (FRUS, 1958-1960) - 12/5/1961 - SG: Johnson gặp Diệm. Diệm chỉ muốn cố vấn huấn luyện (báo cáo ngày 23/5/1961 của Johnson, US-VN Relations, 1945-1967, Bk11:159-66) - 9/6/1961 Diệm viết thư cho TT Kennedy xin tăng 100, 000 quân (từ 170 ngàn lên 270 ngàn), và xin quân viện 175 triệu Mỹ kim trong 2 năm rưỡi. Thư này do Nguyễn Đình Thuần trao cho Kennedy ở Washington DC ngày 14/6/1961 - 29/6/1961 Washington DC - Taylor đề nghị nghiên cứu tăng thêm 30.000 quân nhân cho Nam VN - 13/10/1961 - Sài gòn: Nguyễn Đình Thuần xin Mỹ can thiệp để Đài Loan gửi 1 Sư đoàn qua VN tham chiến. - 24/10/1961- Diệm tán thành việc tướng Taylor đề nghị đưa bộ binh Mỹ vào VN dưới danh nghĩa “cứu lụt” (trang 231) - 26/10/1961- Diệm gặp Pháp (Lalouette), kêu gọi sự giúp đỡ của các cường quốc thân hữu. Việc quân đội Mỹ đến VN sẽ được dân VN nồng nhiệt tiếp đón. - 7/11/1961: Diệm gặp Lalouette. Tuyên bố đa số dân miền Nam ủng hộ quân chiến đấu Đồng Minh tham chiến (trang 232) - 24/11/1961- Đại sứ Nolting gặp Diệm: chỉ muốn Mỹ yểm trợ, không chịu cải cách chính trị. (trang 234) - 8/2/1962 MAAG nâng cấp thành MACV (Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự của Mỹ VN). Tức mở rộng ảnh hưởng của Mỹ ở VN. - 9/1/1962 - Quân số Mỹ tăng hơn 100%. Từ 948 người cuối tháng 11/1961 lên 2.646 người ngày 9/1/1962, và dự trù lên tới 5.576 vào cuối tháng 6/1962 (trang 238). - 31/3/1962 - Diệm viết thư cho De Gaulle yêu cầu Pháp can thiệp chống Bắc Việt xâm lăng. (trang 251) - 23/7/1962 - Hội Nghị Honolulu: Tướng Harkins lạc quan chiến thắng, hy vọng hoạt động VC sẽ giảm. Sau hội nghị, McNamara tuyên bố kế hoạch triệt thoái khỏi VN vào năm 1965. - 24/2/1963 - Mansfield báo cáo v/đ VN: lo ngại về tình hình ở VN, nếu tiếp tục, Mỹ phải rút viện trợ vì đã chi quá lớn trong 7 năm qua (2 tỉ USD, trợ cấp khổng lồ, và sự động viên toàn dân miền Nam) - 25/2/1963 – TNS Mansfield không muốn dính líu vào DNA. Nhu lo ngại Mỹ sẽ triệt thoái khỏi VN -(trang 269) - 1/3/1963 - Diệm tức giận về báo cáo của Mansfield. ..... và sau đây là một bài viết của Peter Kross, phản ảnh rất nhiều sự kiện ông Ngô Đình Diệm không làm nhiệm vụ được giao phó bởi quan thầy, mà cũng chẳng có chỗ nào gọi là vì nước vì dân. Bài cũng chứng minh thêm rằng ông Diệm xin quân viện, xin giới thiệu cùng bạn đọc. (SH)
The Assassination of Ngo Dinh Diem by Peter Kross https://www.historynet.com/the-assassination-of-ngo-dinh-diem.htm#comment-822525 Vụ ám sát Ngô Đình Diệm theo Peter Kross
1.- Vụ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và người em Ngô Đình Nhu bị sát hại một cách tàn nhẫn vào ngày 2 tháng 11 năm 1963 là một khúc quanh trong cuộc chiến tại Việt Nam. Cho tới khi anh em nhà Ngô bị lật đổ, Hoa Kỳ vẫn chỉ đạo chính quyền miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống Việt Cộng. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ đã có tới 16.000 quân (cố vấn quân sự) ở miền Nam. Vai trò của họ là huấn luyên quân lính miền Nam Việt Nam và ngồi trên các phi cơ trực thăng để điều khiển các cuộc hành quân của quân đội miền Nam tấn công vào các vùng Việt Cộng. Tổn thất của quân lính Mỹ bắt đầu tăng lên và hình ảnh những quân lính Mỹ tử thương được đưa lên các màn ảnh truyền hình ở Hoa Kỳ . 2.- Khi Việt Cộng đẩy mạnh chiến dịch ám sát các viên chức chính quyền miền Nam, thì chính sách của Mỹ đối với cuộc chiến ở Việt Nam cũng bắt đầu thay đổi đáng kể. Gần 3 tuần lễ sau khi Tổng Thống Kennedy bị ám sát chết, Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson lên thay thế và tiếp tục theo đuổi chính sách tại Việt nam của Tổng Thống Kennedy và tới năm 1964 thì việc can thiệp vào cuộc chiên Việt Nam của Mỹ tăng lên mãnh liệt. Hàng loạt các tướng lãnh tham những nắm quyền lãnh đạo chính quyền miền Nam trong khi đó thì quân lính Mỹ càng ngày càng đổ vào miền Nam nhiều hơn và có lúc lên tới 500, 000 quân. 3.- Những gì mà quần chúng Mỹ không nhận thức được vào mùa thu năm 1963 là vấn đề chính quyền Kennedy biết rõ bao nhiêu (1) về cuộc đảo chánh (lật đổ nhà Ngô), và (2) về âm mưu của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA) ở hậu trường trong những tuần lễ trước khi xẩy ra đảo chánh. Để có thể biết rõ đầy đủ về cái chết của ông Diệm và ông Nhu ảnh hưởng đến cuộc chiến ở Việt Nam như thế nào, thiết tưởng rằng độc giả cần phải biết rõ (1) những suy tư về chính trị của ông Kennedy từ khi ông nhậm chức Tổng Thống vào tháng Giêng năm 1961 và (2) sự học hỏi và căn bản kiến thức về các công việc chính trị ở Á Châu cúa ông đưa đến việc hình thành chính sách đối ngoại của ông ở Đông Nam Á. . 4.- Viêc học hỏi về chính trị của ông Kennedy được khởi sự từ trong gia đình với thân phụ ông là Đại-sứ Joseph Kennedy, một người quyền thế. Trong những bữa ăn chiều, ông Joseph Kennedy thường nêu lên các vấn đề liên hệ đến các biến cố chính trị xẩy ra hàng ngày ở khắp mọi nơi trên thế giới để cho anh em ông Kennedy tìm ra lời giải đăp. 5.- Là một thành viên trong Hạ Viện (Quốc Hội Hoa Kỳ), Dân Biểu Kennedy rất quan tâm đến chính sách đối ngoại, đặc biệt là khi nó ảnh hưởng đến các nước thế giới thứ ba và các cuộc tranh đấu của họ chống lại chủ nghĩa thực dân của các quốc gia phương Tây. Sau khi đắc cử vào Thượng Viện đánh bại Thượng Nghị Sĩ đương nhiệm là ông Henry Cabot Lodge (người sau này sẽ phục vụ như là đại sứ Mỹ ở miền Nam Việt Nam trong những tháng cuối cùng thời ông Diệm và năm 1954),Thượng Nghị Sĩ Kennedy trở thành một thành viên của Ủy Ban Đối Ngoại tại Thượng viện. Ở đây, ông bắt đầu tìm hiểu các vấn đề quốc tế, đặc biệt là những vấn đề có liên hệ đến các quốc gia mới ở châu Phi, Đông Nam Á và châu Mỹ La tinh. Hai trong số các mối quan tâm hàng đầu của ông là Việt Nam và An-giê-ri. 6.- Trong những năm cuối thập niên 1950, Kennedy đã trở thành một thành viên của một nhóm người Mỹ có thế lực được gọi là những người bạn của Việt Nam, trong đó có nhà báo Max Lerner của tớ báo New York (một tờ báo có tiếng tăm lớn) và sử gia Arthur Schlesinger Jr. của Đại Học Harvard, người sau này trở thành cố vấn của chính quyền Kennedy. Những người bạn của Việt Nam hầu hết là những người có tư tưởng tự do về chính trị. Họ tìm cách đảm bảo rằng chính phủ miền Nam Việt Nam sẽ vẫn ở trong tình trạng biệt lập, tách rời khỏi Việt Nam hơn là thống nhất với miền Bắc như là Hiệp Định Geneve 1954 đã quy định. Nhận xét về tình hình miền Nam Việt Nam vào lúc đó, ông Kennedy cho rằng cần phải có một cuộc cách mạng về chính trị và xã hội vượt hơn cả những gì mà người Cộng Sản đã hứa hẹn và đang tiến hành. 7.- Những ngày đầu trong chức nghiệp dân biểu tại Hạ Viện, ông Kennedy đi du lịch tới châu Á và tại đây, ông có dịp tiếp xúc với nhiều người trong đó có (1) một số chính khách thân quen với cả chính quyền lẫn cả các thành phần đối lập với chính quyền, và (2) các chính trị gia đối lập với chính quyền. Đặc biệt là ông mãnh liệt tin rằng Pháp sẽ thất bại trong việc tái lập quyền lực ở Việt Nam bằng quân sự. Ông cũng đã nói rõ là trong công cuộc chiến đấu đánh đuổi người Pháp để giành lại chủ quyền độc lập cho đất nước, cuối cùng Việt Minh Cộng Sản cũng sẽ thành công. Vì bất bình với cả người Pháp và chính quyền của Tổng Thống Eisenhowwer, ông đề nghị thêm vào dự luật viện trợ quân sự cho Pháp một điều khoản nói rõ là quân viện của Mỹ là một phần đóng góp cho Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam. 8.- Ông thấy rằng chỉ có ông chỉ trích những hành động của người Pháp ở Đông Dương. Vào đầu năm 1954, quân đội Việt Minh của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đang được điều động để chuẩn bị tân công các cứ điểm của Pháp tại Điện Biên Phủ. Lúc đó, có tới 15 ngàn quân Pháp đang bị vây khổn tại các căn cứ này và chính quyền Hoa Kỳ đang cứu xét nghiêm túc vấn đề quân viện cho Pháp kể cả việc sử dụng vũ khí nguyên tử để cứu Pháp. Trong một bài thuyết trình gây xúc cảm mạnh vào ngày 6 tháng 4 năm 1954 tại Thượng Viện, ông Kennedy tuyến bố: “đổ người cũng như vât liệu và tiền bạc vào trong những khu rừng ở Đông Dương mà không có một chút hy vọng chiến thắng thì sẽ la một việc làm vô ích và nguy hiểm. Không có một khoản quân viện nào của Hoa Kỳ cho Pháp ở Đông Dương có thể chiến thắng được một kẻ thùi ở khắp mọi, một kẻ thù của nhân dân, nhưng kẻ thù đó lại được nhân dân có thiện cảm và bí mật ủng hộ. 9.- Bất kể là lời nhận xét rất mạnh của ông Kennedy, đa số dân biểu tại Hạ Viện đứng về phía chính quyền (hành pháp) Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Hiệp Định Geneve 1954 châm dứt cuộc chiến Đông Dương, nhưng Hoa Kỳ đã từ chối, không ủng hộ điều khoản của hiệp ước này quy định việc tổ chức tổng quyển cử vào năm 1956 để cho nhân dân cả hai miền Nam và Bắc quyết định tương lai của đất nước bằng lá phiếu của họ. 10.- Trong kỳ vận động bầu cử tổng thống vào cuối năm 1960, cả ứng cử viên của Đảng Dân Chủ là ông Kennedy và ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa là Phó Tổng Thống Nixon đều không quan tâm nhiều đến Việt Nam mà chỉ chú ý đến tình hình chính trị và quân sự ở Cuba đang trở nên cấp bách. Tuy nhiên, vào năm 1961, lúc đó ông Kennedy đã ngự trị trong Tòa Bạch Ốc thì Việt Nam lại trở thành những khó khăn của ông. Ông nói với vị cố vấn an ninh của ông là ông Walt Rostow rằng, “Có phải rằng đây là vấn đề tồi tệ nhất đang ở trong tay chúng ta không?” Ông biết rõ là Tổng Thống Eisenhowwer chẳng bao giờ nói đện vấn đề này. Ông ta (Tổng Thống Eisenhowwer) cũng có nói tới Ai Lao, nhưng không hề có một lời nào nói về Việt Nam 11.- Trong ngàn ngày của ông tại Tòa Bạch Ốc, Kennedy đã hiểu biệt thêm nhiều về Việt Nam hơn là ông quan tâm. Việt Nam đã mau chóng trở thành vấn đề chiếm hết thì giờ dành cho công việc đối ngoại của ông và cuối cùng đã đưa nước Mỹ vào vực thẳm chiến tranh và làm thiệt hại không biết bao nhiêu sinh mạng mà cao độ vào giữa thập niên 1970. (?) 12.- Sau vụ đổ bộ vào Vịnh Con Heo ở Cuba vào tháng 4/1961 bị thất bại, Tổng Thống Kennedy chú ý đến Việt Nam nhiều hơn. Đã bị tủi nhục với Fidel Castro về chính sách đối ngoại, Tổng Kennedy quyết định không để cho việc này tái diễn ở Việt Nam. Ông tin tưởng mãnh liệt vào thuyết Domino và cho rằng nếu một trong các quốc gia được Tây Phương ủng hộ bị sụp đổ, thì các quốc gia khác trong vùng cũng sụp đổ theo. Vì thế mà vào đầu năm 1961, ông mới đưa ra một số quyết định can thiệp vào Việt Nam mạnh mẽ hơn. 13.- Lời kết luận của bản báo cáo của cơ quan tình báo về Tổng Thống Ngô Đình Diệm nói rằng chính sách đối nội của ông Diệm rất độc đoán và các chương trình hành động của ông ta đã làm cản trở những cố gắng tiến hành cuộc chiến. Ngay từ đầu năm 1961, theo bản báo cáo do Bộ Quốc Phòng nghiên cứu về mối quan hê giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong những năm 1945-1967 (còn gọi là tài liệu của Ngũ Giác Đài), Hoa Kỳ đã đặt ra vấn đề là ông Diệm không thể ở lại chính quyền lâu dài trừ phi ông ta phải thay đổi một số chính sách để cải thiên đời sống của người dân. Tổng Thống Hoa Kỳ hy vọng rằng, ông Diệm, một tín đồ Ca-tô giống như chính ông, rất cần phải thay đổi chính sách trước khi tình hình trở nên trầm trọng và vượt ra ngoài khả năng kiểm soát. 14.- Ngày 11 tháng 5 năm 1961, tổng thống ra lệnh đem 400 quân lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ tiến vào Việt Nam và gửi thêm 100 cố vấn quân sự để huấn luyện quân đội Nam Việt Nam. Đồng thời, ông cũng ra lệnh khởi đầu một cuộc chiến bí mật chống lại Việt Cộng cũng như quân đội của miền Bắc ở miền Nam Việt Nam và gửi những đội quân biệt kích của miền Nam ra Bắc để hoạt động ở miền Bắc. Việc này khiến cho chính quyền Hà Nội tố cáo Hoa Kỳ đang sử dụng lãnh thổ miền Nam Việt Nam để chuẩn bị cho một cuộc xâm lăng miền Bắc. Tháng 10 năm đó, Tổng Thống Kennedy ban hành lệnh gửi quân lính đánh bộ đến hoạt động ở gần biên giới Ai Lao.. 15.- Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson đến thăm Việt Nam vào năm 1961 và gặp ông Diệm, gọi ông Diệm là Churchill của Đông Nam Á. Nhưng ông Johnson cũng báo cáo với tổng thống rằng theo ý kiến của ông, Hoa Kỳ hoặc là phải cam kết tiếp tục hành động quân sự mạnh hơn, hoặc là phải bỏ cuộc (rút lui khỏi miền Nam Việt Nam ) khi mà còn có Ngô Đình Diệm dính líu vào cuộc. KHI ông Diệm yêu cầu ông Kennedy gửi thêm 100,000 quân Mỹ vào chiến đấu ở miền Nam, THÌ ông Kennedy lại từ chối, mà chỉ đồng ý viện trợ để huấn luyện thêm 30 ngàn quân lính miền Nam Việt Nam mà thôi. 16.- Những bước đầu tiên trong việc mở rộng sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam đã gây ra tình trạng chia rẽ trong chính quyền Kennedy. Thứ Trưởng Ngoại Giao U. Alexis Johnson đề nghị phải gửi quân Mỹ chiến đấu đến Việt Nam. Đề nghị của ông Johnson được Tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân ủng hộ. Vị tướng này yêu cầu Tổng Thống Kennedy gửi 40.000 quân Mỹ đến Việt Nam để đối phó với Việt Cộng. Những người khác ủng hộ việc gửi quân thêm đến Việt Nam gồm có (1) ông William Bundy, cố vấn chính quyền, ông này cổ vũ Mỹ phải đánh mạnh ngay từ đầu, (2) Tướng Maxwell Taylor, một vị phụ tá khả tín đặc trách về quân sự. Tướng Taylor cũng đã đến Việt Nam, cũng đã gặp và nói chuyện với ông Diệm. Tướng Taylor thôi thúc phải gửi từ 6 ngàn đến 8 ngàn bộ quân Hoa Kỳ đến chiến đấu Việt Nam, nhưng ông cũng cảnh báo là sẽ tổn thất nếu thực sự phải chiến đấu. Tại một cuộc họp báo loan tin về Tướng Taylor đến Việt Nam, Tổng Thống Kennedy gọi đó là cuộc sưu khảo tìm hiểu về kinh tế. Tuy nhiên, các nhà báo lại thắc mắc là tại sao một vị cố vấn trưởng về quân sự của tổng thống phải đến Việt Nam để lượng định về kinh tế?
17.- Khi Tướng Taylor đến Việt Nam Taylor, ông Diệm đưa ra lời tuyên bố rằng, đất nước ở trong tình trạng khẩn cấp, rồi yêu cầu Mỹ phải viện trợ không yểm (yểm trợ bằng không quân) và thỉnh cầu Mỹ ký một thỏa hiệp phòng thủ hỗ tương giữa miền Nam và Hoa Kỳ. Ông Diệm cũng yêu cầu Mỹ giúp cho chương trình cứu trơ nạn nhân nước lụt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng, Tướng Taylor cũng đề nghị nên gứi quân Mỹ chiến đấu đến Việt Nam cùng các đơn vị không vận bằng trực thăng và đề nghị chấp thuân chương trình cứu trợ nạn nhân bão lụt (mà ông Diệm đã yêu cầu). Các đề nghị của Tướng Taylor được sự tán đồng của Tổng Tham Mưu Liên Quân cũng như của Bộ Trưởng Quốc phòng Mỹ Robert S. McNamara và Thứ Trưởng Quốc Phòng Roswell Gilpatrick. Ngoại trưởng Dean Rusk phản đối vì ngần ngại về đề nghị đưa quân đội Mỹ chiến đấu trên bộ đến Việt Nam. Những người khác chống đối việc gửi quân Mỹ đến Việt Nam có Đại Sứ W. Averell Harriman và Thứ Trưởng Ngoại Giao Chester B. Bowles.
18.- Trong số các cố vấn của Kennedy kêu gọi mở rộng sự tham gia của Mỹ ở Việt Nam, ông Walt Rostow, Phó William Bundy là mạnh mẽ nhất.
Mùa xuân năm 1961, ông Rostow trình lên Tổng Thống Kennedy một loạt chi tiết về các đề xuất liên quan đến mục tiêu xa hơn của Mỹ tại Việt Nam. Ông Rostow là một kiến trúc sư của chương trình chống nổi dậy, theo đó thì Hoa Kỳ sẽ sử dụng các hoạt động bí mật và dùng quân đội phụ lực (biệt kích) để chống lại Việt Cộng. Trong các đề nghị của ông Rostow, có (1) đề nghị Phó Tổng Thống đến tham quan Việt Nam, (2) chọn một nhân vật ở Washington đảm nhiệm công việc giám sát các chính sách của Mỹ ở Việt Nam, (3) tăng cường nhân sự cho cơ quan MAAG, (4) tang cường lực lượng Đặc Biệt ở Việt Nam, và (5) đặc biệt là phải thuyết phục ông Diệm mở rộng chế độ của ông ta. Sau khi điều nghiên bản đề nghị nghi ông Rostow, Tổng Thống Kennedy đồng ý việc thực hiện tất cả những gì ông Rostow đã đưa ra, ngoại trừ việc chon một nhân vật ở Washington để quản lý các chính sách Mỹ ở Việt Nam. (Theo tài liệu của Ngũ Giác Đài, Tướng Không Quân Edward Lansdale có thể được chọn để đảm nhiển chức vụ quản lý các chính sách Mỹ ở Việt Nam.. 19.- Quyết định quan trọng thứ hai về chính sách của Mỳ ở Việt Nam trong năm 1961 là từ chối các đề xuất gửi một số lượng lớn quân chiến đấu Mỹ đến Việt Nam để giúp chống Việt Cộng. Tổng thống Kennedy nói với các cố vấn của ông rằng ông không muốn tạo ra một tình huống trong đó quân đội Mỹ sẽ phải chiến đấu bằng một số lớn bộ quân ở Châu Á. Một trong những nhân vật nắm giữ vai trò có liên hệ đến cuộc chiến ở Việt Nam tranh luận về nhân vật đáng tin tưởng cho Tổng Thống Kennedy tham vấn là cựu Tướng Douglas MacArthur. Vị tướng già này cảnh báo tổng thống, chống lại việc cho phép quân đội Mỹ chiến đấu ở Việt Nam sẽ rơi vào tình trạngị sa lầy của một cuộc chiến trên đất liền. 20.- Thay vì gửi quan lính đánh bộ như chiến tranh quy ước đòi hỏi, tổng thống ra lệnh cho Bộ Quốc Phòng tăng cường kế hoạch chống du kích bằng cách gửi một số lớn cố vấn dân sự đến Việt Nam đảm trách công việc huấn luyện quân đội miền Nam để cho họ tự bảo vệ miền Nam. Vấn đề - trang bị về truyền thông cũng như vấn đề tiếp liệu về quân - trang, quân cụ và vũ khí kể cả phi cơ trực thăng sẽ được gửi đến cho chính quyền Diệm, nhưng không có bộ đội Mỹ chiến đấu ở Việt Nam. Tuy nhiên, cũng vào thời điểm này (đầu vào năm 1961), chính quyền Mỹ cũng dự trù nếu cần thì sẽ gửi quân đội Mỹ đến Việt Nam.
21.- Ông Diệm đã mau lẹ phản ứng những quyết định của Tổng Thống Kennedy về chính quyền của ông ta và khăng khằng cho rằng quân đội Hoa Kỳ chiến đấu là cần thiết để đánh bại Cộng Sản. Ông Diệm cũng thỉnh cầu Đai Sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting điện về Washington báo cáo rằng ông Diệm đang cứu xét việc thỉnh cầu chính quyền Trung Hoa Quốc Gia Đài Loan gửi một sư đoàn đến chiến đấu ở Việt Nam. Khi ông Diệm bị Hoa Kỳ phiền giận và mất thiện cảm, thì ông ta bắt đầu đẩy mạnh các chiến dịch đàn áp những thành phần đối lập và chống đối. Trong khi đó thì Tổng Thống Kennedy điều nghiên bản báo cáo của Phái Đoàn Taylor và cuối cùng ông quyết định chọn giải pháp trung dung do cả hai ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Rusk và Tổng Trưởng Quốc Phòng McNamara đề nghị. Hoa Kỳ sẽ không để cho miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản, nhưng tạm thời vào lúc đó, sẽ không gửi quân đến Việt Nam . Ông Diệm phải thực thi cải tổ chính quyền một cách sâu rộng. 22.- Mặc dù có những mục tiêu cao cả, cuộc chiến tranh Việt Nam đã trở thành một bài học lịch sử. Vào Nam 1962, đã có 11 ngàn quân Mỹ trú đóng ở miền Nam Việt Nam để vừa cố vấn vừa hỗ trợ cho các đơn vị quân đội miền Nam. Phi công Hoa Kỳ đảm nhiệm các phi vụ và trực tiếp đối đầu với địch quân. Cho đến thời điểm này, con số thương vong quân đội Mỹ đã lên đến 109 người. Cũng trong năm này, Tổng Trưởng Quốc Phòng McNamara nói rằng đã có tiến bộ rất nhiều trong cuộc chiến và đề nghịi rút quân về nước. 23.- Tháng 10 năm 1963, có tới hơn 16.000 quân đội Mỹ đồn trú tại Việt Nam, và con số thương vong đã lên đến hàng trăm. Mùa hè năm đó, chế độ Diệm công khai phát động cuộc chiến tấn công mạnh vào Phật giáo, một tôn giáo của đại đa số người Việt Nam. Việc này do chính Tổng Thống Diệm cùng với người em là ông Ngô Đình Nhu và người em dâu ưa thích khoa trương là Bà Ngô Đình Nhu chủ mưu và chủ động sẽ gây ra nhiều hẩu quả tai hại. Họ ra lệnh (1) đóng cửa các trường học của Phật Giáo, (2) bắt giữ bừa bãi các nhân vật lãnh đạo Phật giáo chống đối. Hơn thế nữa, họ ra lệnh các đạo quân tinh nhuệ tấn công các cuộc biểu tình của Phật giáo, bắt bớ và giam cầm hàng trăm người. Rồi một nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu trong một cuộc biểu tình chống chính quyền ở ngay trong đường phố đông người ở Sàigòn.
Anh em Nhà Ngô tin rằng cuộc nổi dậy của Phật giáo là do Cộng Sản xúi giục, và bà Ngô Đình Nhu, thường được gọi là “con Rồng Cái”, nói bằng giọng điệu thiếu văn hóa rằng, bà ta sẽ rất lấy làm thích thú nhìn thấy có thêm nhiều vụ “nướng các nhà sư” (như vậy).
24.- Hầu hết những hình ảnh về các hành động bạo lực gây ra bởi chế độ Diệm chống lại đại khối Phật giáo có tinh thần hòa bình đã được đưa lên các màn ảnh truyền hình ở Mỹ. Phản ứng từ Tòa Bạch Ốc rất nhanh chóng. Tổng thống Kennedy lên án những hành động bạo lực này và kêu gọi ông Diệm phải ổn định (quản lý) gia đình của ông . Cùng lúc đó, Đại-Sử Nolting bị triệu hồi về Hoa Kỳ và Đại Sử Henry Cabot Loghe được bổ nhiệm đến thay thế (vào tháng 8/1963). Đại Sứ Lodge nhận được một điện tín từ Washington của quyền Ngoại Trưởng George Ball. Bản điện tín này nói rằng ông Diệm phải tống cổ người em tham nhũng và người em dâu khoa trương ra khỏi chính quyền nếu ông ta còn hy vọng được Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ.. Trong một bản báo cáo gửi về Thủ Đô Washington D.C., ông Đại-sứ Lodge nói rằng cơ may hy vọngi ông Diệm sẽ làm theo đòi hỏi của Hoa Kỳ thực sự chỉ là con số không. Ảnh hưởng của các cuộc nổi dậy của Phật Giáo trong mùa hè năm 1963 đã trở thành những đòn sấm sét đưa đến cuộc đảo chính chấm dứt số phận của cả ông Diệm và ông Nhu. 25.- Những nỗ lực đảo chính đầu tiên chống lại Diệm khởi sự vào năm 1963, khi Đại Tá CIA Lucien Conein bí mật gặp một số sĩ quan cao cấp trong quân đội miền Nam, trong đó có các tướng Dương Văn Minh (cồ), Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim và Trần Thiện Khiêm. Conein là một cựu chiến binh đã từng phục vụ trong Sở Chiến Lược của Hoa Kỳ (một tổ chức tiền thân của CIA) thời Đệ Nhị Thế Chiến và đã có những lời nhận xét rất tốt về ông Diệm. Công việc của ông ta là hành động như một vai trò trung gian giữa các tướng lánh đảo chánh và Tòa Đại Sư Mỹ. Trong cuộc họp mặt khởi đầu, Tướng Minh thẳng thắn nói rằng cần phải khử diệt cả Diệm lẫn Nhu. Hay tin này, Đại Sư Lodge liền báo cáo về Washington. Khi nhận được báo cáo về cuộc họp bí mật trên đây, Tổng Thống Kennedy hồi âm bằng lời tuyên bố rằng không thể quay ngược trở lại được. 26.- Trong các cuộc thảo luận với các tướng đảo chánh, Conein nói với họ rằng Hoa Kỳ không thể có bất cứ sự giúp đỡ nào trong hành động khởi đầu để chiếm chính quyền.Thắng hay bại hoàn toàn là do chính họ. Vào cuối tháng 8, chính quyền Kennedy lại gửi cho các tướng đảo chánh một bản điệp văn khác với lời lẽ mạnh hơn, nói rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ một cuộc đảo chánh Nếu cuộc đảo chánh đó có cơ may thành công, nhưng không cho phép quân đội Hoa Kỳ tham dự vào cuộc đảo chánh này. Đồng thời, Tổng Thống Kennedy cũng nói với Đại-sứ Lodge rằng Nếu Washington khởi sự đình chỉ viện trợ cho chế độ Diệm thì càng tốt... 27.- Theo bản cáo về vụ ám sát (ông Diệm) do Ủy Ban Thượng Viện Chọn Lọc về Tình Báo năm 1975, cuộc đảo chánh khởi đầu thất bại vì các tướng lãnh (trong quân đội miền Nam) thấy rằng chưa sẵn sàng và không tập trung đủ lực lựợng. Nếu ông Diệm không nhân thức được điểm này và không biết rằng việc ông nắm quyền chỉ là nhất thời, không thể kéo dài mãi mãi, hàng loạt những lời tuyền bố công khai của Hoa Thịnh Đốn (Washington) đã làm tan biến hết mọi mối nghi ngờ. Ngày 8 tháng 9 (năm 1963), ông David Bell, Giám Đốc Cơ Quan Phát Triến Quốc Tế, nói với phóng viên các đài truyền hình rằng, Nếu ông Diệm không mạnh mẽ tiến hành các cuộc cải cách theo như đỏi hỏi của Hoa Kỳ, THÌ Quốc Hội Hoa Kỳ có thế cắt thêm nhiều tài khoản viên trợ. Ngày 12/9 (1963), được sự chấp thuận của Tổng Thống, Thượng Nghị Sĩ Frank Church đề nghi Thượng Viện ban hành một quyết định lên án chính quyền miền Nam Việt Nam về những biện pháp đàn áp nhân dân và kêu gọi nên cắt đứt viện trợ cho chính quyền miền Nam.
28.- Tháng 10 năm 1963, Phái Đoàn McNamara và Tướng Taylor đến Sàigòn để tìm hiểu tình hình và thu thập dữ kiện.. Sau khi gặp Tổng Thống Diệm, phái đoàn đề nghị với Tổng Thống Kennedy rằng (1) Hoa Kỳ nên làm việc với ông Diệm, nhưng tạm thời giữ lại các khoản viện trợ về tài chánh và chính trị,, (2) rút về nước một ngàn quân nhân Mỹ vào cuối năm đó. Mối quan tâm quan trọng nhất của phái đoàn là Nếu làm như vậy mà không đưa đến kết quả, THÌ cứ để cho cuộc đảo chánh tiến hành. 29.- Tuy nhiên, Ngày 03 Tháng 10, Conein liên lạc với Tướng Minh. Tướng Minh nói với ông Conein rằng cuộc đảo chính sắp xẩy ra và yêu cầu Hoa Kỳ ủng hộ sau khi đã thành công. Trong cuộc thảo luận này, Tướng Minh tiết lộ kế hoạch ám sát cả ông Diệm lẫn ông Nhu. Ngày 5 tháng 10 năm 1963, theo bản Báo Cáo Về Vụ Ám Sát này, nhân vật trưởng trạm CIA ở Sàigòn báo cáo về Hoa Thinh Đốn rằng ông ta đã đề nghị với Đại-sứ Cabot Lodge rằng Hoa Kỳ không thế chống lại âm mưu ám sát bất khả cưỡng lại này. 30.- Cũng theo Báo Cáo Về Vụ Ám Sát này, Giám đốc CIA John McCone nói rằng, sau khi hội ý với cả Tổng Thống Kennedy và ông Tổng Trưởng Tư Pháp Roberrt Kennedy, ông tin rằng Tổng thống Kennedy đã đồng ý về đề nghị thâu thập các thông tin tình báo thích hợp về cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 dù là Tổng Thống Kennedy rất thận trọng về ông Diệm. Rõ ràng hơn nữa, ông McCone còn nói rằng trong khi nói chuyện với Tổng Thống Kennedy, đặc biệt là họ không nói gì về chuyện ám sát anh em ông Ngô Đình Diệm mà chỉ nói đến thái độ của Hoa Kỳ vào lúc đó hoặc là cứ để cho cuộc đảo chánh tiếp tục xẩy ra, hoặc là phảo nỗ lực tìm cách ngăn chặn, không để cho nó xẩy ra. Ông McCone rời khỏi cuộc họp và tin rằng Tổng Thống Kennedy có đồng quan niệm với ông Giám Đôc CIA là phủi tay, không muốn dính líu đến chuyện này. 31.- Tại Sài Gòn, Conein bí mật gặp Tướng Đôn, một trong những tướng chủ mưu đảo chính, nói với vị tướng này rằng Hoa Kỳ phản đối bất kỳ mọi ý đồ ám sát. Vị tướng này trả lời, được, các ông không thích như vậy, chúng tôi sẽ không nói đến vấn đề này nữa. 32.- Ngày 28 tháng 10, Tướng Đôn nói với Đại sứ Lodge rằng, chúng tôi sẽ nói với ông về kế hoạch đảo chánh trước khi chúng tôi tiến hành. Đại-sứ Lodge điện về Hoa Thịnh Đốn báo cáo rằng ông không thể làm gì được để ngăn chặn cuộc đảo chánh này. Đáp lại, Hoa Thịnh Đốn bảo Đại-sứ Lodge cố gắng thuyết phục các vị tướng lãnh này đừng có tiến hành cuộc đảo chánh. Về điểm nảy, cả Đại-sứ Lodge và bất kỳ viên chức chính quyền nào ở Hoa Thịnh cũng như ở Sàigòn đều không thể nào gây ảnh hưởng được với họ. 33.- Gần lúc rạng đông ngày 1/11/1963, quân lính miền Nam trung thành với các tướng đảo chánh đã được bố trí khắp nơi chung quanh Sàigòn. Họ đã chiếm tổng hành dinh cảnh sát, chiém các đài phát thanh và bắt đầu di chuyên tới dinh tổng thống (Dinh Gia Long). Các Tướng lãnh đạo cuộc đảo chánh chỉ báo cho Tòa Đại Sư Mỹ có 4 phút trước đó. Tình trạng này khiến cho Đại-sứ Lodge không có đủ thì giờ (thời gian) để phản ứng. Khi nói chuyện với ông Diệm, các tướng đảo chánh đòi rằng ông Diệm phải từ chức và họ sẽ bảo đảm cho mọi người trong gia đình ông Nhu được an toàn đi ra nước ngoài. Ông Diệm gọi điện thoại nói chuyện với Đai-sứ Lodge. Ông Lodge nói với ông Diệm rằng, Hoa Kỳ không thể hành động được gì . 34.- Tướng Minh gọi điện thoại nới với ông Diệm rằng nếu ông không từ chức ngay lập tức, thì dinh tổng thống (Dinh Gia Long) sẽ bị tấn công. Ông Diêm không trả lời. Các tướng đảo chánh hạ lệnh cho phi cơ oanh kích dinh tổng thống trước khi trời tối. Sáng sớm ngày 2/11/1963, ông Diệm gọi điện thoai nói chuyện với Tướng Đôn xin đầu hàng với điều kiện ông và những người thân tín cúa ông được an toàn đi ra nước ngoài. Tướng Đôn đồng ý, nhưng ông Diêm không nói cho Tướng Đôn biết ông ta đang ở đâu. 35.- Diệm và Nhu đã trốn thoát qua một đường hầm bí mật dưới dinh tổng thống và tìm đường đến Chợ Lớn, khu phố của người Hoa ở Sàigòn. Cho tới ngày nay, vấn đề này vẫn còn chưa được làm sáng tỏ, ông Diệm và ông Nhu đều bị theo dõi và bị quân lính trung thành với các tướng đảo chánh tóm cổ. Ngay sau đó, cả hai ông đều bị giết trong xe thiết giáp khi di chuyển về tòa nhà tổng hành dinh của Bộ TổngTham Mưu (ở Đường Võ Tánh, Gia Định). 36.- Tin ông Diệm và ông Nhu bị sát hai là cho Tổng Tống Kennedy choáng váng. Vụ giết người này không có trong ý muốn (trong thâm tâm của Tổng Thống Kennedy). 37.- Trong nhiều năm kế tiếp, một loạt các tướng lãnh nắm quyền cai trị Sàigòn trong khi cuộc chiến càng trở nên khốc liệt và chính quyền Mỹ càng can thiệp mạnh hơn vào cuộc chiến. Sau khi anh em ông Diệm chết được ba tuần, chính Tổng Thống Kennedy cũng bị ám sát chết vào ngày 22/11/1963 ở Dallas. Dù rằng ở hậu trường, người Mỹ có can dự vào cái chết của anh em Nhà Ngô, nhưng Bản Cáo Về Vụ Ám Sát này vẫn kết luận rằng, chi tiết về cái chết của anh em ông Diệm vẫn chưa biết. Không có một nguồn thông tin nào cho thấy rằng có sự dính líu trực tiếp của Hoa Kỳ vào vụ nảy. 38.- Bài viết này do ông Peter Kross biên soạn và được công bố đầu tiên trong tạp chí Vietnam Magazine số ra tháng 10/2004. https://www.historynet.com/the-assassination-of-ngo-dinh-diem.htm#comment-822525
Quốc Việt chuyển ngữ
* Phụ chú: Những bài bênh vực nhà Ngô tiêu biểu : b. Cái sai lầm lớn nhất của Tổng thống Ngô Đình Diệm là không chấp nhận yêu cầu của Hoa Kỳ đưa quân vào Miền Nam vì sợ lịch sử lên án cái tội nô lệ ngoại bang. https://chauxuannguyen.org/2013/05/07/trach-nhiem-voi-non-song-bai-so-2/
- trang Lịch Sử |