LTS: Có một câu hỏi đặt ra cho lịch sử Việt Nam vào thế kỷ 18, 19 là: "Đạo Thiên Chúa đem Pháp vào Việt Nam, hay Pháp đem đạo Thiên Chúa vào Việt Nam?". Ai có nghiên cứu lịch sử Giáo hội La Mã đều biết rằng những nhà truyền giáo đã đi các nơi trên thế giới từ mấy trăm năm trước để truyền đạo và chinh phục thế giới theo Thánh lệnh Romanus Pontifax của Giáo Hoàng Nicolas V (1447-1455). Họ đã đến Việt Nam từ thế kỷ 16. Do sự phát triển về kỷ nghệ ở Âu châu, những nhà truyền giáo vay mượn văn minh đó để lòe mắt những người ít học và đã thu phục một số tín đồ. Cả mấy thế kỷ trôi qua, không hề có sự "kỳ thị nào của các vua quan Việt Nam đối với đạo này. Quân đội Pháp cũng chưa hề tràn vào Việt Nam trước thế kỷ 19. Phải có một nguyên nhân cho hai chủ thể ngoại lai này trở thành "vấn đề sinh tử" đối với dân tộc Việt Nam, xâu xé dân ta cho đến ngày nay. Dòng lịch sử cũng bị phân đôi. Một bên, chép sử theo phía dân tộc, quyết "đặt vấn đề" đối với các nhân tố gây thương tích cho quốc gia mình, còn một bên chép sử theo phía ngoại nhân, quyết biện hộ để thoát ra khỏi mặc cảm theo giặc, và đồng thời lên án đối phương về những vấn đề tiêu cực khác để khỏa lấp vấn đề. Cuộc tranh luận của hai bên vẫn kéo dài qua đến thế kỷ 21 ngày nay. Dần dà, phía dân tộc có thêm nhiều chứng cớ lịch sử, và những "kẻ theo giặc", nếu còn một chút tự trọng phải biết gục đầu dừng lại băng thái độ ăn năn.
Bài viết sau đây dịch từ trang nhà của một nhóm truyền giáo người Pháp https://belleindochine.free.fr/, đã khẳng định trả lời cho câu hỏi đặt ra bên trên: Chính Giám mục Pigneaux là người đầu tiên đem quân đội Pháp đến Việt Nam theo sự cầu viện của Nguyễn Ánh, để giành lại ngôi vua từ trong tay nhà Tây Sơn (SH.)
Giám mục ADRAN - Đức Cha Pigneaux de Behaine
Bản dịch từ trang nhà của Hội Truyền Giáo Ba Lê:
https://belleindochine.free.fr/PigneauxDeBehaine.htm
Pierre PIGNEAUX (với chữ X)
sanh ngày 2 /11/1741 tại thành Origny-en-Thiérache, tỉnh Aisne. Ông là
trưởng nam trong một gia đình có 12 người con. Gia đình ông khá giả, thân
phụ làm chủ một tiệm thuộc da khá phát đạt. Ông vào chủng viện Hội Truyền
giáo Ba Lê năm 1765 và đi xứ Nam kỳ ngày 9 /9 năm đó, chống lại ý muốn của
cha ông. Ông viết rằng: «Tôi phải đi đến một số nước mà thánh Phanxicô
Xavie đã từng đến.» Tình cờ lịch sử đã khiến ông đồng hành với ông Pierre
Poivre. Sau khi xuyên qua đảo Bourbon (la Réunion), Pondichy, Malacca, và
Macao, ông dừng lại ở đảo Hòn Đất, gần Hà Tiên (1767).
Nhưng ông bị bắt ngày
8/01/1768, vì tội chứa chấp một vị hoàng tử Xiêm, vốn là kẻ thù của Mạc
Thiên Tứ, thống đốc vùng Hà tiên. Ông bị giam gần 2 tháng, trong năm 1768.
Ông phải mang một cái gông nặng 45 kg, dài 1,77m… Để trốn cuộc bách hại ông
đã ra đi cùng với 43 chủng sinh, đến Malacca, và sau đó đến Pondichéry (Ấn Độ). Ông
dừng chân tại Virampatnam và xây cất một chủng viện. Năm 1771, ông được bổ
nhiệm làm Giám mục lúc 30 tuổi, và được tấn phong ngày 24/02/1774.
Ông lợi dụng thời gian này để soạn quyển tự điển "Ngữ Vựng Việt-La".


Tự điển Việt La soạn năm 1775 ở Pondichéry (tài liệu của Hội Truyền Giáo Paris).
Ông quay
trở lại Nam Kỳ, đáp tàu ngày 12/03/1775 và trở về cư trú tại Hà Tiên. Theo sự
ước lượng lúc đó, xứ truyền giáo có khoảng 60.000 hoặc 100.000 người công
giáo. Vào năm 1779 có 9 linh mục Hội thừa Sai, 1 linh mục người Ý, một tu sĩ
dòng Phanxicô Manilla, và những linh mục người bản xứ.

Nội chiến tại An nam
Vào lúc đó, xứ An Nam đang
có nội chiến, xâu xé nhau giữa nhà Nguyễn đương vị và quân khởi nghĩa Tây
Sơn («những người miền núi phía Tây»). Cuộc nổi dậy xuất phát từ Qui-Nhơn,
phía nam xứ Huế. Vào cuối năm 1775, quân Tây Sơn bắt giữ toàn thể hoàng gia
ở vùng Long-Xuyên, và xử tử nhà Vua và đứa con của nhà vua. Là người đại
diện duy nhứt của nhà Nguyễn, chàng trẻ tuổi Nguyễn Ánh, Hoàng đế Gia Long
tương lai, lúc đó 16 tuổi, trốn thoát được nhờ sự giúp đỡ của Giám Mục.
Người công giáo nhìn thấy trong đứa bé nầy một vi tân «Mai-Sen được cứu khỏi
nước».
Tạm thời, nhà Tây Sơn cho
rằng cuộc chinh phục Nam kỳ đã thành công, nên xuất quân ra Qui Nhơn để
chuẩn bị đánh Bắc Hà. Nguyễn Ánh qui tụ phe của ông và nhóm Trung Hoa của
quan đầu tỉnh Hà Tiên, và cố tái chiếm vùng đất đồng bằng sông Cửu Long. Sài
gòn được chiếm lại vào năm 1776. Ở phía Bắc, cùng năm đó, Thăng Long rơi vào
tay nhà Tây Sơn, và toàn vùng bị rơi vào nạn đói kinh khủng.
Vào giữa năm 1778, hải tặc
Kampuchia xâm chiếm khu đạo ở Hà Tiên, càn giết những người công giáo, gây
ra nhiều tử vong cho những nhà truyền giáo. Pigneaux và những chủng sinh
trốn ở Tân- triệu, gần Sài gòn.
Nguyễn Ánh ở gần đó nên
thường thăm viếng Pigneaux. Từ lúc đó, nảy sinh ra một tình bạn khắng khít
giữa hoàng thân và giám mục.
Yên ổn được 3 năm, quân Tây
Sơn trở lại miền Nam vào năm 1782, đóng quân trước cửa thành Sài Gòn và
chiếm được thành. Hơn 10,000 (mười ngàn) người Trung Hoa ở Chợ Lớn bị sát
hại bởi phe chiến thắng.
Pigneaux bắt buộc phải bỏ
trốn cùng với các chủng sinh và một số người công giáo, trước tiên là đến
Kampuchia, rồi đến những hòn đảo thuộc vịnh Xiêm La. Trên đảo Poulo Vai,
Giám mục viết ra quyển giáo lý bằng tiếng Nam Kỳ, trong khi chờ đợi hết mùa
mưa. Vào tháng giêng năm 1784, Giám mục gặp Nguyễn Ánh, cũng trốn tránh như
ông và đang ở trong bước đường cùng. Giám mục chia sẻ với Nguyễn Ánh và quân
lính đang đói khát những lương thực cuối cùng, nhờ vậy cứu được họ. Giám mục
cùng với họ đi đến đảo Poulo Condore. Quân Tây Sơn rượt đuổi cả Giám Mục.
Nguyễn Ánh chỉ còn 1000 quân. Họ đành trốn trở lại Phú Quốc.

Tượng Giám Mục Pigneaux và hoàng tử Cảnh, trưóc nhà thờ chánh toà
trong thời pháp thuộc.
Làm sao quật lại thế cờ?
Cầu viện với người Xiêm? Làm như vậy sẽ có nguy cơ mất các tỉnh. Dù vậy họ
cũng đành phải cầu viện. Kết quả là một thất bại nặng nề. Nguyễn Ánh xác tín
rằng vì quân Tây Sơn quá hùng mạnh, nên không một quốc gia Châu Á nào có thể
đơn phương đẩy lùi họ được. Người Bồ đào nha, người Hoà Lan, và người Anh,
đồng tình sẵn sàng tiếp viện.
Vì không muốn sự nhập cuộc
của người Tin lành với nước Anh, hoặc người đạo Calvin với người Hoà Lan,
cũng như không muốn những khó khăn trước kia với người Bồ Đào Nha tái xuất
hiện, Pigneaux đề nghị với Nguyễn Ánh cầu viện nước Pháp. Nguyễn Ánh
cuối cùng chấp nhận đề nghị nầy. Giám mục được cử đi Versailles. Giám mục
rời đảo Poulo-Panjang, cùng với con của Nguyễn Ánh là Hoàng Tử Cảnh, 5 tuổi,
và người bạn thâm giao Nam Kỳ, linh mục Paul Nghi, và 2 quan lại, cùng với
40 người lính. Họ đến Pondichéry vào năm 1785. Nhưng tại đây, trong khi
những thương gia tán thành ý kiến của giám mục, thì chính quyền địa phương
và vị chỉ huy căn cứ Hải quân lại cho rằng kế hoạch nầy sẽ không mang lại
lợi ích nào. Giám mục bắt đầu đặt nghi vấn về kế hoạch của ông, ông gửi thư
cho Hội Truyền giáo Ba Lê để báo tin ông sẽ quay trở lại Nam kỳ. Cuối cùng
mọi chuyện được sắp xếp ổn thoả, và tàu có thể rời bến đi Pháp. Đến Lorient
ngày 5 tháng 2 năm 1787.
Có lẽ do sự đề bạt của hầu
tước De Castries, bộ trưởng Hải Quân, tên của Giám mục được thêm danh hiệu
“de Béhaine”, để ông được dễ dàng vào cung . Dẫu sao ông cũng đã được yết
kiến vua Louis XVI ngày 6 /05.
Pigneaux đã chuẩn bị một bản
trường tình long trọng và được hưởng ứng tốt đẹp. Ông trình bày về thương
mại, về sự hấp dẫn của thành phố Tourane (Đà Nẵng). Ông cũng đề cập đến
chiến lược hành quân, đến những đối thủ và sự cần thiết phải đối trọng thế
đứng của người Anh ở Ân Độ. Ông đưa ra những con số chính xác về chiến thuật
sinh tồn. Một nghìn năm trẳm (1500) người đủ để chiếm Qui Nhơn.
Triều đình đánh giá cao phẩm
chất và sự chính xác của bài tường trình. Montmorin và Castries, Tổng thư ký
các Bộ Ngoại giao và Bộ Hải Quân, đều tán thành đề án của Giám Mục và hứa sẽ
giải quyết thuận lợi cho Giám mục. Trong khi chờ đợi, nét uy nghi của Giám
mục và tính cách ngoại lai của hoàng tử được triều đình yêu thích. Hoàng tử
Cảnh chơi đùa với con của vua Louis XVI.

Hoàng tử Cảnh
Một cuộc viễn chinh được
quyết định. Nước Pháp hứa sẽ cấp 4 chiến hạm và 1650 quân.
Một hiệp ước được soạn thảo
rồi ký kết giữa Vua nước Pháp và Vua nước Nam Kỳ tại Versailles ngày 28 /11/
1787. Người ký là Bá Tước Montmorin, Bô trưởng của Vua Louis XVI, và ông
Pigneaux, người đại diện cho hoàng tử Cảnh.
Với hiệp ước nầy, nước Pháp
hứa sẽ giúp Nguyễn Ánh đoạt lại ngai vàng, bù lại nước Pháp được quyền xử
dụng hải cảng Tourane, đảo Poulo-Condor, và độc quyền kinh doanh với vương
quốc, như đã thoả thuận trước đó với Nguyễn Ánh.
Tuy nhiên, chỉ 4 ngày sau
khi hiệp ước được ký kết, những chỉ thị mật được gửi đến Pondichéry qua
trung gian của Montmorin. Những chỉ thị nầy nhằm tham khảo ý kiến địa phương
về cách thực thi hiệp ước.
Giám mục trở lại Pondichéry
một tháng sau khi ký hiệp ước, cùng với người học trò hoàng gia và 8 nhà
truyền giáo. Tất cả đều tin tưởng vào sự thi hành hiệp ước.
Tới Pondichéry, Bá tước de
Conway, người nhận chỉ thị mật, đã thi hành chỉ thị bằng cách tra vấn
Pigneaux về lợi ích của kế hoạch của ông. Cuối cùng cả hai bên trao đổi lý
lẽ qua thư từ, và quyết định báo cáo trực tiếp về Versailles. Cuối cùng, một
cuộc họp mật được tổ chức ngày 4/10/1788 và Louis XVI quyết định ngưng hẳn
cuộc viễn chinh. Ngoài ra, cũng có quyết định rút quân ra khỏi Ấn độ.
Giám mục không từ bỏ những
cam kết với Nguyễn Ánh. Nhờ sự ủng hộ của gia đình ông và của những chủ đóng
tàu của Ile de France (Maurice), đảo Bourbon (La Réunion) và Pondichéry,
Giám mục mua nhiều quân cụ, súng đạn, đại bác thần công, đạn dược và thuê
nhiều tàu chiến, và trang bị sẵn để gửi đến cho Nguyễn Ánh. Giám mục cũng
tin vào sự giúp đỡ của 12 sĩ quan Hải Quân Pháp, từng ngưỡng mộ công trình
ái quốc của Giám Mục, và bất chấp những cam kết của mình. Như vậy, 359 thủy
thủ sẵn sàng phục vụ cho xứ Nam Kỳ.
Ngày 24 / 07/ 1789, Giám mục
lên bờ tại vịnh Cây Dừa (mũi Saint Jacques) từ chiến hạm “La Méduse” (sẽ nổi
danh khi nó bị đắm ngoài khơi bờ biển của đảo Mauritanie vào năm 1816).
Nguyễn Ánh rất vui mừng
trước sự thành công của cuộc viễn chinh, cám ơn Vua nước Pháp, nhưng tiếc rẻ
thái độ của ông Conway mà ông gán cho trách nhiệm trong việc Pháp từ chối
giúp đỡ.
Tức khắc Giám mục và các sĩ
quan bắt tay vào việc. Pigneaux muốn vỗ về dân chúng để giành được sự ủng hộ
của họ, đồng thời ông tổ chức lại Hải Quân và quân đội của Nguyễn Ánh. Để
thực hiện ý định nầy ông xây dựng một quân đội nhỏ hữu hiệu, theo kiểu Âu
châu.
Ông Victor OLIVIER de
PUYMANEL và ông Théodore LEBRUN xây dựng 2 thành lũy, một ở Sài Gòn và một ở
Diên Khánh, gần Nha Trang.
Ông PUYMANEL cất một trường
chiến tranh. Ông Laurent BARISY và ông Godefroy de FORSANZ làm tư lênh các
tàu chiến và chuyên lo huấn luyện sĩ quan. Ông DAYOT, CHAIGNEAU và ông
Philippe VANNIER lo về hải quân.

Ngôi nhà đơn sơ của Giám mục Pigneaux de Béhaine, ngày
nay được dựng lại trong khuôn viên toà tổng Giám mục Sài gòn. Thánh lễ mỗi
ngày vào 5giờ 30 sáng.
Không phải tất cả mọi người
đều vui mừng tiếp nhận những người Ấu châu “dã man”. Trước sự thù hằn của
những quan lại, hàng chục người Pháp nãn lòng đã rút lui. Quần chúng, tức
giận vì bị bắt phải lao tác cực nhọc để xây thành lũy đã nổi dậy; nhà vua vì
thiếu kinh nghiệm và không biết dằn cơn nóng giận đã làm cho nhiều người
phẫn nộ. Nhờ Giám mục Pigneaux, mọi chuyện đã được giải quyết nhanh chóng;
những người Pháp đã rút lui chấp nhận quay trở lại; các sĩ quan được che chở
và tìm lại được danh dự phải có; từ đó nhà vua để tâm nghe theo những ý kiến
khôn ngoan của vị cố vấn của ông.
Nhà vua cấp cho Giám mục một
đội binh bảo vệ gồm 200 quân, vừa để bảo vệ bản thân Giám muc, vừa để phù
hợp với chức vị của Giám mục. Nhà vua muốn Giám mục cư ngụ gần cung điện của
ông, và thường tiếp kiến Giám mục, sẵn sàng nghe theo ý kiến của Giám mục,
kể cả những lời quở trách của Giám mục. Pigneaux de Béhaine đã được nhà vua
hứa rằng sẽ không bao giờ hành quyết người nào mà không báo trước cho Giám
mục biết; và nếu Giám mục, sau khi đã cứu xét kỹ hồ sơ, xin nhà vua miễn xá
cho tội phạm, thì nhà vua bắt buộc phải chấp thuận.. Nhà vua luôn luôn trung
thành với lời hứa nầy. Nhờ đó ông tránh được những lỗi lầm do tánh nóng nãy
của ông gây ra.
Vai trò chính trị của Giám
mục dù quan trọng đến đâu cũng không làm cho ông xao lãng nhiệm vụ của ông
là Giám quản Tông Toà. Ông cải tổ công tác truyền giáo, gọi các chủng sinh
từ Chantaboun về. Dưới sự điều khiển của ông có 14 linh mục của Hội Truyền
giáo, kể cả 8 linh mục mà ông đã mang theo, 3 tu sĩ dòng Phan xi cô, và 9
linh mục bản xứ. ông cắt đặt công tác mục vụ cho mỗi người. Mặt khác,
Pigneaux cũng hoạt động cho những nhà truyền giáo và những người công giáo,
bằng cách viết ra một quyển tự điển Nam kỳ- Latin rất có giá trị mà Giám mục
Taberd, một trong những người kế vị ông, đã cho ấn hành vào năm 1838. Cũng
nhờ ông mà trái măng cụt được nhập cảng vào xứ Nam kỳ.
Về mặt quân sự, nhà vua đã
lấy lại được lãnh thổ miền nam, trước khi Giám mục trở về nước. Trong số 3
anh em Tây Sơn, chỉ còn 2 người nhưng họ xung khắc nhau. Một người đã qua
đời vào tháng 9 năm 1792, và không bao lâu sau, người kia cũng mất. Cuối năm
1792, chiến thắng ở biển Qui Nhơn làm cho dân chúng phấn khởi. Dẫu vậy, nhà
vua cũng từ chối tiến quân khiến cho người Pháp thất vọng định rút quân một
lần nữa.
Tuy nhiên vào năm 1799, nhà
vua qưyết định tấn công cả 2 mặt: đánh bộ và đánh thủy vào Qui Nhơn là thành
trì chính của Tây Sơn vốn đã từng chống lại tất cả những cuộc tấn công. Giám
mục chứng kiến cuộc tấn công nhưng ông lâm phải bệnh (bệnh lỵ amíp) đau đớn
kéo dài 2 tháng, mặc dù ông được nhà vua và bác sĩ hết sức tận tâm chạy
chữa.
Pigeaux de Béhaine qua đời
ngày 9 tháng 10 năm 1799. Cái chết của ông được giữ kín cho đến khi Qui Nhơn
bị thất thủ ngày 2 tháng 11. Đám tang được cử hành tại Sài Gòn theo nghi
thức hoàng gia.
Bắt đầu vào lúc 2 giờ sáng,
đoàn kiệu kéo dài hơn 7 giờ, gồm trên 12.000 người, 120 con voi và trên 100
lồng đèn. Bốn mươi ngàn (40.000) người đi theo sau đoàn kiệu. Vua Nguyễn Ánh
chủ toạ đám tang và đọc bài điếu văn ca ngợi Giám Muc. Nhà vua dựng cho ông
Pigneaux một ngôi mộ sang trọng và cắt đặt 50 quân canh mộ, với chỉ thị canh
gác vĩnh viễn.

Giám mục Pigneaux de Béhaine, sưu tầm của Hội Thừa Sai Ba Lê.
Thế là Giám mục thành Adran
qua đời 2 năm trước khi Huế (1801) và Thăng Long (1802) bị thất thủ. Anh em
Tây Sơn hoàn toàn bị đánh tan. Nguyễn Ánh có thể tự xưng hoàng đế ngày 31
tháng 5 trong cùng năm đó. Ông lấy hiệu là Gia Long (thịnh vượng lâu dài),
và cũng là sự kết hợp của Gia định – tên của Sài Gòn – và Thăng Long (tên cũ
của Hà Nội). Huế trở thành kinh đô mới của Việt Nam thống nhất. Nguyễn Ánh
không những đã khôi phục những vùng đất của tổ tiên nhà Nguyễn mà còn thêm
vào phần đất ngoài Bắc, do đó thống nhất đất nước từ vịnh Bắc Việt đến vịnh
Thái Lan.
Nguyễn Ánh băng hà năm
1820, Minh Mạng thế ngôi. Những viên sĩ quan Pháp, bị Minh Mạng thải hồi đã
chọn lưạ rút quân.
Công giáo lại bị bách hại
vào năm 1831.
Cuộc sống bị dày vò của
Giám mục
Những năm cuối đời, Giám mục
sống trong nghi ngờ và buồn bã.
Trước hết, Giám mục chứng
kiến cái chết của những người bạn hữu, thân thuôc, tại Nam Kỳ vì bệnh, hoặc
tại Pháp vì cuộc Cách Mạng Pháp. Hầu tước Montmorin, người ký hiệp ước, bị
đâm chết trong cuộc tàn sát năm 1792.
Sống bên cạnh vua Nguyễn Ánh
đã dày vò Giám mục vô cùng. Những chỉ thị của Bộ Truyền Giáo cấm các vị
truyền giáo không được xen vào chính trị của những nhà vua. Thực vậy, Giám
mục bị các nhà truyền giáo chỉ trích, kể cả trong hàng ngũ của Hội Thừa Sai
Ba Lê (thí dụ Giám mục Pothier ở Se Tchouen). Những tu sĩ dòng Phan xi cô
tại Cần Thơ không còn nhìn nhận quyền hành của Giám mục. Giám mục bị anh em
của ông ở Viễn Đông chống đối, nhưng ông biết ông được Roma ủng hộ.
Về phía nhà vua, độc tài,
nóng nảy, hay thay đổi ý kiến và hay làm sai trái. Pigneaux ngỡ ngàng trước
sự chậm chạp và do dự của nhà vua. Năm 1792, Giám mục sẵn sàng chấp nhận ra
đi, thất vọng. Ô biết mình là một biểu tượng, chỉ cần có sự hiện diện của
ông là đủ để quân đội phấn khởi. Nhưng Giám mục đã chọn lựa ẩn mình phía
sau.
Mối hy vọng vào việc cải đạo
cho hoàng tử Cảnh càng lúc càng tiêu dần. Nếu Giám mục đã nuôi hy vọng như
các vị tông đồ vĩ đại đưa cả xứ Nam kỳ trở lại đạo, tin vào một Thiên Chúa
độc nhất, thì cũng chỉ là một mơ tưởng. Ông sẽ không bao giờ trở thành một
Constantin của Âu châu chúng ta. Gần gũi với Giám mục, hoàng tử Cảnh đã thấm
nhuần luân lý công giáo. Khi hoàng tử Cảnh trở lại Nam kỳ, ông đã từ chối
không chịu lạy bàn thờ tổ tiên, làm chấn động gia đình của ông. Nhưng một
cuộc tranh chấp ảnh hưởng trên hoàng tử do các quan lại, và hy vọng trở lại
đạo bị tan vỡ. Năm 1797, hoàng tử Cảnh lấy 3 vợ lẽ! Lâm bệnh, hoàng tử qua
đời vào năm 1801, lúc ông được 22 tuổi.

Nghĩa địa Huế, ngôi mộ của Godefroy de Forsanz (1770 -1811)
Pigneaux cũng đau khổ vì
thái độ của sĩ quan Pháp. Dù với uy tín của Giám mục, đa số các quân lính
chỉ mơ ước tài sản và danh vọng. Không được trả lương hậu, bằng hiện vật
hoặc bằng tiền địa phương, các sĩ quan phải chạy chọt thêm để kiếm sống. Họ
quên bổn phận thiêng liêng của họ, chỉ trừ ông de Chaigneau. Puymanel có một
cuộc sống “khả ố” và sống chung với một phụ nữ lăng loàn.
Về mặt tôn giáo kết quả cũng
không tốt. Công cuộc truyền giáo cho người “rừng rú” bị thất bại. Năm 1797,
con số người công giáo đã rút xuống còn 25000. Nhà vua tuyên bố trong năm đó
rằng chỉ có “khinh dễ và căm hận đối với đạo công giáo”.
Giám mục xin Roma được thích
nghi một số nghi thức để dễ phổ biến đức tin :
-
phụng vụ bằng tiếng Trung Hoa thay vì tiếng La Tinh,
-
tu phục (áo dòng) khác, vì nó gây chế diễu, và kỳ cục.
Nhưng nhứt là sự cấm đoán
thờ cúng tổ tiên, một tục lệ trong cả nước, mà Giám mục muốn vãn hồi. Ông đề
nghị thích nghi tục lệ nầy với đạo công giáo bằng cách biến nó thành “kính
nhớ tổ tiên”. Dù đã trao đổi nhiều thư từ về vấn đề nầy, Roma vẫn từ chối.
Giám mục tuyên bố rằng “Chúng ta câu nệ quá tỉ mỉ, chỉ làm hại cho đạo công
giáo” thôi. Sự thờ kính ông bà chỉ được Roma chấp nhận vào năm 1932, và
chính thức cho phép vào năm 1964.
Chính trong bối cảnh khó
khăn nầy mà Giám mục Tổng quản Tông Toà đã qua đời sau hơn 29 năm làm mục
vụ.
Vào năm 1859 khi cấm cờ ở
Nam Kỳ, Pháp tìm lại được ngôi mộ của Giám Mục và đã trùng tu ngôi mộ nầy.
Ngày 10 tháng 3 năm 1902, theo nguyện vọng của Paul Doumer, tượng đài của
Giám mục Adran được khánh thành trên công viên Nhà Thờ Chánh Toà Sài Gòn.
Ngôi nhà gia đình của Giám
mục ở Origny-en-Thiérache trở thành viện bảo tàng ngày 1 tháng 6 năm 1914.
Tài liệu tham khảo :
- Giấy tờ của Hội Truyền
giáo Ba Lê,
-“Cuộc đời sóng gió của
Giám mục Adran”, de Taboulet, 1940
- Pigneaux de Béhaine,
Alexis Faure, 1891,
và đăc biệt với sự giúp đỡ
quý báu của Francois Xavier Landrin !
|