GIÁO HỘI LA MÃ:

LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC

- Nguyễn Mạnh Quang -

https://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH34.php

Những mảnh bằng "Tiến Sĩ Thần Học" là những giấy chứng chỉ công nhận sự ngu xuẩn của kẻ được cấp. Chỉ đến khi nào có cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ đó mới cảm thấy xấu hổ đã được cấp những mảnh bằng về thần học mà thôi

 

CHƯƠNG 38


Giai Cấp Thị Dân Và Nhóm Người Trưởng Giả Học Làm Sang


Thói Quen Huênh Hoang Khoác Lác Bịp Đời Của hạng Người Tiểu Tư Sản Học Làm Sang

Ngoài những thói quen ghe tởm trên đây, các ông thị dân trưởng giả học làm sang còn có thói quen huêng hoang khoác lác, bịp đời hết sức lố bịch, không biết ngượng với lương tâm. Có thể là thói quen này cũng là con đẻ của thói quen trưởng học giả sang trên đây.  Đây là thói quen không biết được sự hữu hạn về kiến thức hay cái biết của mình, mà cứ làm ra vẻ ta đây là người học cao, hiểu rộng, thông kim bác cổ như là một nhà đại trí thức. Người viết có khá nhiều kinh nghiệm về vấn đề này. Dưới đây là bằng chứng do chính cảc ông trí thức nửa mùa này viết ra trong tác phẩm của họ (văn bia) mà ai cũng có thể kiểm chứng được.

1.- Trường hợp ông cựu luật sư, cựu thượng nghị sĩ Nguyễn Văn Chức.

Ông cựu luật sư này là tác giả cuốn Việt Nam Chính Sử  (Falls Church, VA: Alpha, 1992) trong đó nơi trang 259-60, sau khi nêu ra một số những điểm chính của bức điện tín số 2063 đề ngày 30-10-1963 của Đại Sứ Henry Cabot Lodge gửi về Hoa Kỳ, ông viết:

"Bức điện tín 2093 nói trên của đại sứ Lodge là một kiệt tác của sơ hở, mâu thuẫn và ngu xuẩn." "Tuân Tử của nước Tầu, Talleyrand của nước Pháp và Metternich của nước Áo, hiện đan ngủ dưới đáy mồ, nếu được đọc bức công điện của nhà ngoại giao Lodge, chắc chắn họ sẽ đội mồ mà chỗi dậy, và kêu trời cái chất xám của chính giới Mỹ. Bất lương, ngu xuẩn và mâu thuẫn. Có lẽ tướng Harkins cũng đã nhìn thấy cái bất lương, ngu xuẩn và mẫu thuẫn của đại sứ Lodge …" Nguyễn Văn Chức, Việt Nam Chính Sử (Falls Church, VA: Alpha, 1992), tr 259-260.

Trong Quyển Hai của bộ sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã, người viết đã trình bày đầy đủ và rõ ràng cái hiện tượng quái đản mang căn bệnh hợm hĩnh, huênh hoang khóac lác của ông trí thức "trưởng học làm sang" này. Ở đây xin ghi những điểm ông trí thức này "dốt đặc không biết gì về đại triết gia Tuân Tử, không biết gì về một ông vua trở cờ, vua hối mại quyền thế Talleyrand  trong thời  Cách Mạng 1789 và thời Đại Đế Napoléon I, không biết gì về tư cách hèn hạ của nhân vật Metternich đã phải nhờ vào thế lực gia đình nhà vợ mới ngoi lên được vũ đài chính trị  để làm tay sai đắc lực cho Tòa Thánh Vatican.” Vì thế mà người viết không bàn về nội dung bức điện tín số 2063 và cũng không bàn về việc ông Chức cho rằng bức điện tín là "một kiệt tác của sơ hở, mâu thuẫn và ngu xuẩn", mà chỉ đặt vấn đề là tại sao ông Chức đem nhà ngoại giao của Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge ở giữa thế kỷ 20 để so sánh với bậc đại hiền triết Tuân Tử của nước Trung Hoa trong thời Thượng Cổ, và dựa vào tiêu chuẩn nào để so sánh nhà ngoại giao Henry Cabot Lodge trong thời hậu bán thế kỷ 20  với  hai nhà ngoại giao Talleyrand  và Metternich của Âu Châu vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Chúng ta hãy tìm hiểu xem sự so sánh như vậy có hợp lý hay không?

a). Trước hết, chúng ta hãy nhân xét việc ông Chức nói về việc ông Cabot Lodge so sánh với nhà hiền triết Tuân Tử:

Tài liệu nói về Tuân Tử cho thấy rằng Tuân Tử là một bậc đại hiền của Trung Hoa, chứ không  phải là một nhà ngoại giao và cũng chưa hề bao giờ được chính quyền của nước nào đề cử đến một quốc gia khác để du thuyết về một vấn đề gì. Ông chỉ là một nhà hiền triết thuần túy. Người viết không thể nào hiểu được tại sao ông Nguyễn Văn Chức lại đem so sánh nhà ngoại giao Henry Cabot Lodge của siêu cường Hoa Kỳ ở vào giữa thế kỷ 20 với một bậc đại hiền Trung Hoa trong thời Thuợng Cổ. Hai nhân vật thuộc hai thời đại khác nhau, hoạt động trong những lãnh vực hoàn toàn khác nhau. So sánh như vậy thì có khác nào đem con chim sống ở trên cây so sánh với con cá sống ở  dưới nước. Tại sao một người đã từng hành nghề luật sư ở Sàigon vào những năm trước năm 1975 mà lai có thể làm một việc so sánh kỳ cục đến vô lý như vậy?  Phải chăng ông Nguyễn Văn Chức muốn dùng cái danh tiếng của nhà đại hiền này để lòe thiên hạ, làm ra vẻ ông ta là người thông kim bác cổ, đã đọc rất nhiều sách văn học và lịch sử chăng?

b). Bây giờ, chúng ta xem việc ông Chức đem ông Cabot Lodge ra so sánh với ông vua trở cờ Talleyrand và nhà chính khách Metternich dựa vào thế lực nhà vợ để nhẩy lên sân khấu chính trị:

Tìm hiểu các tài liệu nói về cuộc đời và những thủ đọan hay mánh khóe của hai nhân vật này trong những năm  còn lăm le nhẩy lên sân khấu chính trị và những năm có quyền lực trong tay,  người viết thấy đạo đức, phẩm cách, việc làm, và lập trường chính trị của hai nhà ngoại giao Talleyrand (một tên vua trở cờ đại lưu manh của nước Pháp) và Metternich (hèn hạ dựa vào hơi vợ để ngoi lên địa vị cao sang của nước Áo) phải nói là tồi tệ đến cùng mức của tồi tệ. Ấy thế mà ông Nguyễn Văn Chức căn cứ vào bức nội dung của bức điện tín số 2063 đề ngày 30-10-1963 của nhà ngoại giao Henry Cabot Lodge gửi về Hoa Kỳ  mà nói rằng, hai nhà ngoại giao này: "hiện đang ngủ dưới đáy mồ, nếu được đọc bức công điện của nhà ngoại giao Lodge, chắc chắn họ sẽ đội mồ mà chỗi dậy, và kêu trời cái chất xám của chính giới Mỹ. Bất lương, ngu xuẩn và mâu thuẫn", chúng ta thấy chẳng thuận tai một chút nào cả.

Nói tóm lại, cái lối so sánh của ông Nguyễn Văn Chức như đã nói ở trên cho thấy rõ ràng là cựu luật sư Nguyễn Văn Chức không biết rõ cuộc đời và sự nghiệp về tư tưởng triết học và văn học của nhà đại hiền triêt Tuân Tử trong thời Thượng Cổ của nước Trung Hoa đã để lại cho nhân loại những gì, không biết rõ phẩm cách, đức độ và lập trường chính trị cùng những thủ đoạn lưu manh ma đầu của hai nhà ngoại giao Talleyrand  của nước Pháp và Metternich của nước Áo vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 ra làm sao, mà lại dám đem so sánh họ với một nhà ngoại giao của Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 20. Làm như vậy, tất nhiên không thể nào tránh khỏi rơi vào tình trạng trái khoáy giống như đem con gà so với con heo. Đúng là làm trò cười cho thiên hạ.

Sự kiện này làm cho người viết đặt vấn đề là có thể chứng bệnh lòe thiên hạ này cũng được tái diễn ở trong 4 đoạn văn 2, 2, 4 và 5 trong lá thư đề ngày 1/11/1995  gửi cho ông cựu bộ trưởng  quốc phòng Robert McNamara mà chúng tôi đã cho in nguyên văn  nơi các trang 517-524 trong cuốn VNĐNCHTT 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000). Đặc biệt là ở dưới lá thư “ngu xuẩn” này, ông Chức kê ra tới năm chức vụ khác nhau mà ông đã từng hành nghề hay nắm giữ.

Qua nhiều năm tìm hiểu, người viết thấy rằng, đặc tinh huênh hoang, khoác lác hợm hĩnh là đặc tính chung của những tín đồ Ca-tô Rô-ma người Việt trong giới cầm bút và làm trong ngành truyền thông. Phần lớn, những người này, có một số người có một chút kiến thức đã học xong chương trình của một ngành chuyên môn ở đại học bậc cử nhân (undergraduate), có một số nhiều người khác chưa học xong cấp 3 ở bậc trung học (trung học đệ nhị cấp). Ấy thế mà họ lại học đòi theo cái thói "dởm", trường giả học làm sang do người Pháp và các ông cố đạo du nhập vào Việt Nam.

Không biết khi sỉ vả ông Đại Sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge là "bất lương, ngu xuẩn và mâu thuẫn'', ông Nguyễn Văn Chức có biết rằng khi làm việc so sánh như vậy, chính ông Chúc đang làm một việc "bất lương, ngu xuẩn và mẫu thuẫn" hay không? Câu trả lời xin nhường lại cho độc giả.

2.- Trường hợp ông cựu thẩm phán Nguyễn Cần có bút hiệu là Lữ Giang và Tú Gàn.

Ai cũng biết rằng ông Nguyễn Cần là một tín đồ Ca-tô Rô-ma đã học xong ba năm luật được ưu tiên cho vào làm thẩm phán tại một tòa án trong chế độ đạo phiệt Ca-tô Rô-ma ở Miền Nam Việt Nam trong những năm trước tháng 4/1975. Như vậy, căn bản chuyên môn của ông là luật học, chứ không phải ngành sử. Cũng chỉ vì vừa là tín đồ Ca-tô Rô-ma cuồng tín, vừa là người đã từng giữ chức vụ thẩm phán, cho nên ông trí thức này cũng lại rơi vào căn bệnh hợm hĩnh giống như ông trí thức Ca-tô Rô-ma Nguyễn Văn Chức, tưởng rằng học xong ba năm luật và làm thẩm phán hay làm luật sư là biết hết tất cả mọi sự việc ở đời, cho nên ông ta mới  bị nhuốm bệnh hợm hĩnh, huênh hoang khóac lác, nói láo, học đòi  làm ra vẻ như học cao, hiểu rộng như là một đại trí thức. Cũng vì thê ông Chức mới nhảy sang lãnh vực viết sử. Trong Quyển Hai của  bộ sách Thực Chất của Giáo Hội La Mã, người viết đã dành ra 4 chương 17,18,19 và 20 để nói về căn bệnh quái đản của nhà trí thức nửa mùa này, trong đó  người viết đã nêu lên rõ ràng những điểm sai lầm, những điểm nói bậy và tình trạng dốt sử và dốt cả phương cách viết một cuốn sử. Xin quý vị tìm đọc quyển sách này thì sẽ thấy ró sự thực này.

3.- Trường hợp ông trí thức Kitô Nguyễn Xuân Sơn.

Ông trí thức Ki-tô họ Nguyễn này cũng mang chứng bện huênh hoang khác lác, dốt hay nói chữ, giống như hai ông trí thức nửa mùa Phát Diệm trên đây. Trong tác phẩm Evangelization Vietnamese Buddhist Refugees đệ trình phân khoa thần học tại Claremont (presented to the Faculty of the School of Theology at Claremont) tháng 5 năm 1995, nơi trang 76, ông Nguyễn Xuân Sơn viết:

"We need not be ashmed to share the saving power of Jesus Christ, whom, as we have mentioned, the Buddhist refugees need the most in their time of crisis. Moreover, we need to be more concerned about the conversion of Buddhism, especially in the case of Mahayana. This I believe, can be done only through dialogue with the Buddhist intellectuals. Vietnamese tradition gives the highest respect to scholars: "sĩ, nông, công, thương" (The scholar is the first, 'second is the farmer, third is the government official, and the last is the businessman). To that end, The Vietnamese Christian Church, as a whole, need to prepare a working agenda for the task of evangelization of Buddhists at the intellectual level."(1)

Viết đoạn văn trên đây, ông trí thức Kitô Tiến sĩ Nguyễn Xuân Sơn để lộ cái dốt của ông ta về xã hội cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Nếu ông ta biết rõ cái dốt của ông ta về phạm vi này, thì không có gì để nói cả. Thế nhưng, ông ta lại thích làm ra vẻ ta đây là người hiểu biết, học cao hiểu rộng. Vì thế, ông ta mới rơi vào tình trạng viết về xã hội tứ dân của Việt Nam trong "cái thời trước khi đất nước ta rơi vào ách thống trị của liên minh giặc Pháp – Thập Ác Vatican" là như vậy. (Công là công chứcthương là nhà kinh doanh. Đúng nghĩa của chữ "công" trong xã hội tứ dân ở Việt Nam ngày xưa là "những người làm nghề thủ công nghệ (artians) hay các ông thợ trong các nghề chuyên môn như thợ mộc, thợ nề, thợ đóng cối xay, thơ chạm hay các nhà điều khắc, còn "thương" có nghĩa là thương nhân (merchants), chứ không phảidoanh nhân hay doanh nghiệp gia  "businessman".

4.- Ông Tiến sĩ Vương Gia Thụy: 

Ông tiến  sĩ này là tác giả cuốn Getting To Know The Vietnamese Culture (New York: Frederick Ungar Publishing, 1976), trong đó nơi trang 22, ông viết:

"The Vietnamse man: According to Confucian teaching, to be a man one must take four important steps: he must be first know how to ciltivate himself (tu thân); then he must govern or run his family properly (tề gia ); without these two prerequisites, he might not be able to rule the country (trị quốc); and only after fulfillment of the three above required steps might he pacify the whole world (bình thiên hạ).

In order to achieve the first step of self-cultivation, he must meet five requirement: 1) he must be merciful, kind, beneviolent, and human (nhân) ; 2) he must adhhere to rites and ceremonies and strictly observe the family and social hierarchies (lễ); 3) he must help the needy and desperate (nghĩa); 4) he must have strong will power and determination (chí); 5) he should be consistent and loyal so that people can trust and have confidence in him (tín)."(2)

Ông Tiến-sĩ này không hiểu được từ hay chữ "nghĩa" trong đạo Khổng và hiểu lầm chữ "trí" sang chữ "chí" trong bản văn nói về phần này của nền đạo lý Khổng Mạnh. Mong rằng ông tiến sĩ Viương Gia Thụy cũng nên tìm đọc cuốn the Ageless Chinese - A history by Dun J. Li (New York:Charles's Sons, 1978) và đọc thêm cuốn A Historical Survey of  Educational Developments In Vietnam (Lexington, Kentucky, University of Kentucky, 1959) của Tiến sĩ Vũ Tam Ích để hiểu rõ về đạo  Khổng. Trong trường hợp  có thể đọc và hiểu được  tiếng Việt, ông Tiến-sĩ Thụy nên tìm đọc bộ sách Nho Giáo của tác giả Trần Trọng Kim, Khổng Học Tinh Hoa của Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ và bộ sách Khổng Học Đăng của cụ Phan Bội Châu để biết rõ về đạo Khổng.

5.- Trưng hợp ông Giáo-sư Nguyễn Ngọc Bích.

Ông Nguyễn Ngọc Bích xuất thân từ một giá đình quan lại trong thời Liên Minh Pháp – Thập Ác Vatican thống trị Việt Nam và là một trí thức có tên tuổi ở hải ngoại. Ví không nhận thức được cái hữu hạn trong cái mớ kiến thức mà ông đã học hỏi và thâu nhận được trong cuộc đời của ông, cho nên ông mới nhẩy vào lãnh vực văn học Việt Nam (có thể không nằm trong lãnh vực ông nghên cứu hay có nghiên cứu mà không được tường tận). Tình trạng vơ vào này khiến cho ông đã dịch chữ “biển dâu” trong văn chương Việt Nam sang tiếng Anh là “mulberry sea” và chữ “cá mè” thành chữ “sesame fish”. Sư kiện này khiến cho ông Lê Trúc Huynh ghi lại mấy lời ngỡ ngàng như sau:

Cách đây hơn 10 năm, tôi có đọc một vài bài thơ Việt được một vị học thiệt có bằng Tiến Sĩ đàng hoàng và hình như ông ta cũng có chân trong hội Văn Bút VN ở hải ngoại thì phải, dịch ra tiếng ... Ăng Lê.

Ông dịch chữ "biển dâu trong câu thơ "Biển dâu xanh ngát / hóa một cồn lau / ra chữ “mulberry -sea" và chữ "cá mè" trong câu "Phú ông xin đổi một xâu cá mè" ra chữ “sesame fish". Tôi ngơ ngẩn hoài một thời gian khá lâu về mấy chữ Việt được dịch ra tiếng Anh này. Chả lẽ các thầy, cô dạy cho tôi chữ "biển dâu" có nghĩa là sự thay đổi trong cuộc đời, xuất xứ' từ câu "thương hải biến vi tang điền" ( biển xanh hóa ra ruộng dâu ), còn cá mè là tên 1 loại cá sông, ăn rất béo và ngon miệng và mè là tên 1 loại hạt thuộc loại mễ cốc , đều dạy trật lất hết sao?”(3)

Và ông Aladin Nguyên viết  trong thaoluan@yahoogroups.com,  ngày  30/6/2005    trong đó có hai đoạn với nguyên văn như sau:

2.-   Nguyễn ngọc Bích vì háo danh muốn lấy le với đời, muốn trổ tài cho mọi người biết ta đây là giỏi,  là tài,  là bậc thông thái nên gã đã đem thơ Kiều của Nguyễn Du và những thơ hay của Việt Nam ra  dịch sang tiếng Anh, mà trong đó có  câu  "tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương" chuyển thành "Tho Xuong chicken soup" hoặc chữ "biển dâu"  (trải qua một cuộc bể dâu những điều trông thấy mà đau đớn lòng hoặc biển dâu trong tích tang điền...) để trở thành tiếng Anh là "mullberry sea" một cách ẩu trỉ và ngu đần đến thế.

3.-  Vì chuyện "biển dâu" (mullberry sea) này mà khi sinh tiền ký gỉa Tú Rua Lê Triết đem nó ra mà phê bình,  góp ý sửa sai với "giáo sư" Nguyễn ngọc Bích qua nhiều số báo, ấy thế mà NNB đã   viết sai, làm quấy lại không biết phục thiện, sửa đổi lại bản dịch của mình, lại còn ngoan cố cứng đầu, quay sang mắng chửi chụp mũ người đã phê bình mình là ký gỉa Tú Rua Lê Triết một cách thậm tệ  Nhưng  khi  Ông Tu Rua Lê Triết  sống thì Nguyễn Ngọc Bích không lần nào dám hó hé lên tiếng với Ông ấy cả, dù là lên tiếng để  tranh luận nói  về chuyện "biển dâu .. dâu bể" (mullberry sea) của cuộc đời, hoặc là bàn đến  một. tô canh gà nổi tiếng  ở vùng Thọ Xương kia  đi chăng nữa.” (4)  

6.- Trường hợp ông Ca-tô Rô-ma Cao Thế Dung:

Đây là nhân vật khá nổi bật về thành tích bịp bợm và nói láo trong xã hội Ca-tô Rô-ma ở miền Nam Việt Nam trước tháng 4/1975 và ở Bắc Mỹ từ mùa thu năm 1975 cho đến ngày nay. Những thành tích ghê gớm này đều được sách báo hải ngoại trình bày khá đầy đủ và cũng vì thế ông “tiến sĩ ma” này đã trở thành đề tài tiếu lâm trong những lúc trà dư tửu hậu tại các bàn nhậu hay trong những giờ tán gẫu của những người Việt hải ngoại. Muốn tìm hiểu thành tích bịp bợm, nói láo và gian dối của ông “tiến sĩ ma” này, xin mời quý vị tìm độc:

a). Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị của tác giả Lê Trọng Văn (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1991), nơi các trang 5-146.

b). Một Ngày có 26 giờ của tác giả Nguyên Vũ (Houston, TX: Văn Hóa, 1995), nơi các trang 133-146.

Ngoài ông Mai Thảo và 6 nhân vật lừng danh nổi tiếng về xạo và huênh hoang khoác lác để bịp đời như trên, còn có rất nhiều người khác xuất thân từ giai cấp quan lại, phú hào hay thị dân cũng mang căn bệnh xạo và huênh hoang khoác lác không kém gì các nhân vật trên đây. Điển hình là các ông tiến sĩ thứ thiệt như Tiến-–sỉ sử học Hoàng Ngọc Thành, giáo-sư Phạm Cao Dương, Tiến-sĩ  Lâm Lễ Trinh, Tiến-sĩ  Tôn Thất Thiện, Tiến sĩ Nguyễn Văn Thắng bút hiệu Thiện Ý (người hô hào, kêu gọi 1  rưỡi giáo dân Ki-tô nộp  đơn kiện Tiến-sĩ Trần Chung Ngọc và nhóm Giao Điểm về việc viết về  những điều sai lầm và tội ác trong Kinh Thánh Ki-tô và những khu rừng tội ác của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua), Bác-sĩ Nguyễn Thị Thanh (người cùng  Tiến Sĩ Nguyễn Văn Thắng hô hào và kêu gọi 1 tỉ rưỡi tín đồ Ca-tô nộp đơn kiện Tiến-sĩ Trần Chung Ngọc và nhóm giao điểm như đã nói ở trên), Tiến-sĩ Nguyễn Học Tập, Kỹ-sư Nguyễn Gia Kiểng,  v.v… Đây là những tín đồ Ca-tô Rô-ma người Việt làm việc trong các cơ quan truyền thông hay trong bộ máy tuyên truyền của Giáo Hội La Mã ở miền Nam trong những năm 1954-1975 và ở hải ngoại cũng như ở trong nước từ năm 1975 cho đến ngày nay.

Làm thế nào để biết được hạng người này?

Người ta thường nói “Văn tức là người”.  Đọc một bản văn hay một tác phẩm, chúng ta không những có thể biết cả phong cách, tính tình ngay thẳng, chât phác, thật thà hay quay quặt, lắt léo và lươn lẹo của tác giả, mà còn có thế biết cả trình độ văn hóa cũng như kiến thức và kinh nghiệm trong cuộc sống của tác giả nữa. Do đó, chúng ta chỉ có thể kiểm chứng tình trạng nhập nhằng lẫn lộn, không biết phân biệt sự khác nhau giữa chính và tà, giữa lẽ phải và những điều sai trái, giữa danh xưng và bản chất, bằng cách:

1/. Đọc những tác phẩm của họ có liên hệ đến lịch sử Việt Nam như Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan (1991) của Linh-mục Vũ Đình Hoạt, Việt Nam Chính Sử (1992) của cựu luật-sư Nguyễn Văn Chức, Những Bí Ẩn Đàng Sau Các Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam (1994) và Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam (1999) của Lữ Giang, Bên Giòng Lịch Sử của Linh-mục Cao Văn Luận, Việt Nam Huyết Lệ Sử (1996) của Cao Thế Dung, Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1996) và Công Và Tội Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945-2006 (San Jose: Nghĩa Phú,  2009) của Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức, Những Huyền Thoại & Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đình Diệm (1998) của Vĩnh Phúc, Ngô Đình Diệm: Nỗ Lực Hòa Bình Dang Dở (1989) của Nguyễn Văn Châu, Việt Nam Giáo Sử của Linh-mục Phan Phát Huồn (1965), Việt Nam: Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia - Cộng Sản - Tập I (2002) của nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Dương Diên Nghị, Nguyễn Châu, Lương Văn Toàn, Lê Hữu Phú và Hoàng Đức Phương, Tổ Quốc Ăn Năn (2001) của Nguyễn Gia Kiểng, Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê (1998) của Minh Võ, Việt Nam Mất Lỗi Tại Ai? (1993) của Nguyễn Đức Chiểu, Việt Nam 1945-1995 -Tập I (2004) của Lê Xuân Khoa, Khi Đồng Minh Tháo Chạy (2005) của Tiến-sĩ Nguyễn Tiến Hưng, v.v…

2/. Theo dõi những bài viết của họ có liên hệ đến lịch sử Việt Nam hay liên hệ với Giáo Hội La Mã đăng trong các báo chí Việt Nam tại hải ngoại.

3/. Theo dõi những lời lẽ và luận cứ (trong các bài viết hay trong các E-mail (điện thư), diền đàn điện tử) trình bày quan điểm hay tranh luận giữa những người Việt hải ngoại tự nhận là “những người Việt quốc gia” hay “những người quốc gia chân chính yêu nước” Thường thường, họ không biết và không thể đưa ra  những luận cứ có khả năng thuyết phục, và rơi vào thế bí đối với những sự thật nói về tội ác của Giáo Hội La Mã và của tín đồ trong việc cấu kết với đế quốc thực dân Pháp đánh chiếm và thống trị Việt Nam từ năm 1858 cho đến 1945 và trong thời Kháng Chiến 1945-1954, cũng như đối với sự thật về cái quá khứ làm Việt gian bán nước cho Pháp và cho Vatican cùng những khu rừng tội ác trong những năm cầm quyền ở miền Nam của con chiên Tổng Thống  Ngô Đình Diệm. Khi ở vào tình trạng này, họ quay ra dùng thủ đoạn chụp mũ cho đối phương là “cộng sản”, “Cộng sản nằm vùng” “làm tay sai cho Cộng sản” và bới móc đời tư của đối phương ra để hạ nhục.

Khổng giáo dạy rằng, "tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã". Ông Socrate (470-399 TTL) cũng dạy rằng, "Connais toi, toi-même". Vì thế, người dân Đông Phương chịu ảnh hưởng của nền văn minh Khổng Mạnh và những người Tây phương chịu ảnh hưởng của triết gia Scorate thuờng có tính tình thật thà chân chất "biết đến đâu, tâu đến đó" và "biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe."

Ngược lại, trong đạo Kitô, các nhà lãnh đạo của tôn giáo này cũng như tất cả các ông chức sắc trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã và các nhà truyền đạo của tôn giáo này là những tên đại bịp, đại nói láo và là những tên đạo đức giả đại gian và  đại ác, cho nên chính họ mới mắc chứng bệnh huênh hoang, khoác lác, cố gắng tối đa dùng những điều điều gian dối để lừa bịp người đời. Đây là sự thật rõ ràng nhất mà bất kỳ người nào biết sử dụng lý trí để tìm những điều họ nói hay rao truyền và những hành động của họ cũng đều có thể nhìn ra thấy sự thật này. Bằng chứng hiển nhiên là trong thực tế, họ chẳng biết gì về thế giới thần linh, chẳng biết là có thiên đường hay không, chẳng biết là có địa ngục hay không.

Họ là những người chỉ có cái miệng phát thanh như con vẹt và hành động như con chó Pavlov. Họ hoàn toàn dựa vào những tín lý huyễn hoặc hoang đường được hệ thống hóa trong cái gọi là đạo Kitô và  nhờ quyền lực của Vatican mà trở thành những người có những quyền lực tuyệt đối như một thứ bạo chúa ở trong phạm vi quản nhiệm của họ. Cái hệ thống tín lý quái đản này gồm tòan những chuyện hoang đường, phản nhân luân, bất nhân, bất nghĩa, bạop ngược, dã man và cái nghề linh mục là cái nghề học về môn học "tán hươu tán vượn, nói láo nói phét dùng để lòe đời, bịp đời hầu thủ lợi" giống như  chuyện quái đản rằng"ông Hà Bá tại khúc sông Chương Hà ở đât Nghiệp Đô thuộc nước Ngụy ở Trung Hoa đòi cưới vợ mỗi năm một làn". Học giả Charlie Nguyễn viết về môn thần học bịp bợm và cái thực trạng "ăn ốc nói mò" của cái nghề làm linh mục này như sau:

"Cái gọi là sự học vấn của các trường tôn giáo hoặc sư uyên bác của các học sĩ Ulamas thực chất chỉ là một môn học "tán hươu tán vượn" về những điều huyễn hoặc của thần học (theology). Thần học của Hồi Giáo cũng tương tự như thần học của Do Thái Giáo hoặc Kitô Giáo. Thần học là một môn học đầy tính chất hoang tưởng viển vông nhảm nhí. Càng đi sâu vào thần học, con người càng lún sâu vào "ốc đảo tâm linh" xa rời thực tế và đầy đặc những định kiến sai lầm. Những mảnh bằng "Tiến Sĩ Thần Học" là những giấy chứng chỉ công nhận sự ngu xuẩn của kẻ được cấp. Chỉ đến khi nào có cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ đó mới cảm thấy xấu hổ đã được cấp những mảnh bằng về thần học mà thôi."

(Charlie Nguyễn, Thực Chất Đạo Công Giáo Và Các Đạo Chúa (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2003), tr 335-336.

Các ông giáo sĩ và tín đồ Ca-tô Rô-ma  là những người được rèn luyện theo khuôn mẫu ""tán hươu tán vượn" , rồi lại học hỏi được những kinh nghiệm nói  láo, tán dóc, huênh hoang  khóac lác của  những bậc tiền bối hay đàn anh của họ  trong cái nghề chuyên  sống bằng cái nghề đem chuyện trên trời nói cho người dưới đất nghe với một tài nghệ siêu việt  làm ra vẻ như là các ngài đã từng ở trên trời trở vể trần thế nói lại cho tín đồ biết về sự thực mà chính mắt các ngài đã chứng kiến  ở trên đó. Nếu gọi đạo Kitô là văn hóa thì đây là thứ văn hóa nói láo láo, văn hóa bịp, văn hóa tán hưou tán vượn. Cũng vì thế mà  mấy ông trí thức Kitô người Việt trên  đây mới trở thành những tên đại bịp, và chỉ có những hạng người đại bịp như vậy mới  nói càn, nói láo, nói bậy trong tác phẩm của họ như thế mà không biết ngượng với lương tâm và  biết nhục với mọi người.

KẾT LUẬN:

Giới người  thị dân tiểu tư sản là con đẻ của xã hội Tây Phương, một xã hội đã bị đạo Kitô La Mã khống chế và bị  cưỡng bách phải tin theo hệ thống tín tín lý  hoang đường, huyễn hoặc, nhảm nhí, láo khoét, phản nhân luân, phi nhân, bạo ngược và dã man đã có từ thế kỷ 4. Nói cho rõ hơn, giới người thị dân  trưởng giả học làm sang, thích làm dáng ở Việt Nam  là phó sản của  Giáo Hội La Mã, cái giáo hội mà học giả Henri Guillemin đã phải gọi là "Cái Giáo Hội Khốn Nạn" (Malheureuse Église), văn hào Voltaire gọi là "cái tôn giáo ác ôn". Cái tôn giáo ác ôn này chuyên nghề sử dụng những thủ đoạn bịp bợm để mê hoặc và lừa dối người đời, chuyên môn dùng bạo lực và khủng bố để khống chế nhân dân dưới quyền. Mãi cho tới khi Cách Mạng Pháp bùng nổ vào năm 1789, nhân dân Âu Châu mới dám đứng thẳng người lên chỉ vào mặt Vatican mà bảo rằng đạo Kitô là "đạo bịp", rồi sử dụng những biện pháp mạnh "lấy bạo lực để đối đầu với bạo lực" của Tòa Thánh Vatican và bọn tín đồ Ca-tô cuồng tín tay sai  tại các địa phương. Đạo Kitô vào Việt Nam từ giữa thế kỷ 16 để dọn đường và chuẩn bị đi rước giặc Pháp vào Việt Nam. Sau đó không bao lâu, cái phó sản "trưởng giả học làm sang" thích làm dáng cùng những tất cả đặc tính "dởm" (kiểu cách lòe đời)  của nó  trong xã hội Ca-tô Rô-ma cũng theo chân người Pháp vào Việt Nam, để rồi lan tràn ra hết tất cả thị trấn đông người ở rải rác  trong toàn quốc. Cũng vì thế mà ngày nay ở hải ngoại  có đầy dẫy những người Việt mang căn bệnh "trưởng giả học làm sang" và “dởm hết sức dởm” giống y hệt như mấy ông  trí thức Ca-tô Rô-ma nửa mùa đã được người viết nêu đích danh ở trên. Hạng người này cũng thường lanh chanh, băng xăng, bắng nhắng trong mấy cái hội đồng chuột, trong đám người tư nhận là “người Việt Quốc Gia chân chính” cương quyết “giữ vững lằn ranh Quốc – Cộng” thường hay tụ tập  với nhau, hè nhau "rung đùi phun chí lớn"  tại các địa phương ở Bắc Mỹ.

HẾT CHƯƠNG 38

______________

CHÚ THÍCH:

(1) Son Xuan Nguyen, Evangelization Vietnamese Buddhist Refugees (Ann  Arbor. Michigan, Umi Dissertation Services, 199), tr 76.

(2) Vuong Gia Thụy, Getting To Know The Vietnamese Culture (New York: Frederick Ungar Publishing, 1976, tr 22.

(3) Lê Trúc Huỳnh. “Linh Hồn Ðánh Mất.” www.VietHaven.com  Ngày 19/12/2002.

(4) Aladin Nguyên. “Nguyễn Ngọc Bích là ai? ”thaoluan@yahoogroups.com,  ngày  30/6/2005.

 

© sachhiem.net