|
tác giả gửi đăng ngày 01 tháng 9, 2007
|
LTS- Tờ Le Monde của Pháp cho biết Hoàng thái tử Bảo
Long đã qua đời ngày 28/07/2007 tức ngày Rằm tháng Sáu năm Đinh Hợi tại Bệnh
viện Sens, lễ an táng được tổ chức ngày 2 tháng 8. Tin cũng cho biết là
Hoàng thái tử Bảo Long không có người thừa kế nên em út của ông là Hoàng tử
Bảo Thăng sinh năm 1943, được tiếp nhận tất cả tài sản và những bảo vật của
triều Nguyễn do ông làm chủ từ sau ngày thân mẫu ông là hoàng hậu Nam Phương
qua đời năm 1963 đến nay. Triều đại Nguyễn Gia Long thực sự đứt đoạn chìm
vào lịch sử vương quyền của Việt Nam.
Bài này được viết khi thân phụ tiên đế của Bảo Long là Bảo Đại từ
trần tám năm trước đây nhưng nhãn quan trước sau vẫn là một...
TRIỀU ĐẠI NGUYỄN Gia Long chính thức cáo chung với cái chết của Bảo Đại
ngày 4.8.1997 tức mồng Hai tháng Bảy năm Đinh Sửu tại Paris, thọ 84 tuổi.
Không nghe nói ông có chính thức cử ai thừa kế không? Cũng không nghe nói
tang quyến có định đưa hài cốt ông về Việt Nam cho ông được nằm cạnh các
tiên đế? Và nếu có, chẳng hiểu chính quyền đương hành có cho phép không? Lại
những câu hỏi lịch sử đối với tôi! Chỉ khác là lần nầy, Hoàng tôi không hy
vọng gì tìm thấy những câu trả lời nơi chính Bảo Đại vì ông đã đi vào mộ sâu
tịch mịch.
ĐÃ MANG LẤY NGHIỆP VÀO THÂN
Gọi ông thế nào cho phải đây? Vua, Hoàng Đế, Cựu Hoàng? Ông từng
là vua, là hoàng đế thật. Ông cũng từng chối từ ngôi vua của một nước nô lệ
ngoại bang để làm công dân một nước độc lập thật. Rồi ông cũng từng để cho
thiên hạ linh đình tổ chức cho hoàng đế hồi loan như một quốc trưởng thật...
Đó là những cái 'thật' rất thật, nhưng đó lại cũng là những cái thật lộn
tùng phèo chối nghịch phản ảnh thân phận bi đát của kẻ phải gánh hết cộng
nghiệp của một triều đại khai sinh từ 111 năm trước và quằn quại hấp hối ít
ra cũng từ 31 năm trước khi ông chào đời.
Lịch sử Việt Nam hiện đại có bốn trụ cột quyền lực... bản địa đó
là Bảo Đại, Hồ chí Minh, Ngô đình Diệm và Lê Duẩn. Bảo Đại là kẻ thừa kế sự
nghiệp mất nước của tiền nhân. Bảo Đại thoái vị và chính thức ủy thác cho Hồ
chí Minh trách nhiệm phục hồi và củng cố độc lập quốc gia từ tay ngoại nhân.
Bảo Đại hai lần trọng dụng Ngô đình Diệm, lần đầu trong chức Thượng Thư Bộ
Lại hay Bộ Trưởng Nội Vụ, lần sau trong ghế Thủ Tướng với trách nhiệm phục
hồi thể thống quốc gia và duy trì Miền Nam như một quốc gia riêng biệt mà
Bảo Đại là Quốc Trưởng. Cả Hồ chí Minh lẫn Ngô đình Diệm đều bỏ Bảo Đại mà
đi trước khi tàn cuộc. Ngô đình Diệm chết trước khi chứng kiến cảnh ý thức
hệ Quốc Gia bị khai tử và Đại Sứ Mỹ cuốn cờ rút khỏi Việt Nam. Hồ chí Minh
chết trước khi được nhìn thấy đất nước tái thống nhất độc lập. Nếu độc lập
thống nhất là ước vọng căn cốt của đại đa số người Việt trong cảnh nước mất
nhà tan - ngay cả Bảo Đại, thì kẻ thực hiện được ước vọng đó cho Bảo Đại
chẳng ai khác hơn là Lê Duẫn, người kế tục Hồ chí Minh kết thúc vòng luân
hồi lịch sử của Việt Nam hiện đại từ ngày ngoại nhân xâm phạm 'Nam quốc sơn
hà', dày xéo độc lập, coi thường tự chủ, chà đạp hạnh phúc của con dân của
'Nam đế' Bảo Đại.
Kết thúc với giá nào là còn tùy thế nhân. Thế nhân có thể chủ
động và cũng có thể chỉ là nạn nhân của lịch sử nhưng quyền phán định lịch
sử của hai hạng đó thì như nhau. Lịch sử vận chuyển nhờ những đại nhân. Đại
nhân là những người có đại nguyện. Nguyện càng lớn thì vọng động càng sâu
rộng, sai trái càng trầm trọng, nghiệp báo càng cao dày. Lịch sử có nhiều
đường ngang ngõ tắt, nhiều cách đánh giá, nhưng lịch sử nếu không phải là
con đường một chiều có tên Sắc Không thì cũng là cái bùng binh có tên
Thành-Trụ-Hoại-Không.
Ngoài bốn cột trụ lịch sử nầy, có thể còn một vài nhân vật phụ
khác như Nguyễn văn Thiệu, Trần văn Hương, Dương văn Minh. Thật khó nói
Nguyễn văn Thiệu - cũng như Trần văn Hương, là những trụ cột lịch sử. Bất
quá họ chỉ là những gạch nối bi hài khổ nhục của lịch sử. Chưa kể là gạch
nối Trần văn Hương lại quá ngắn, ngắn đến độ chỉ còn là cái chấm sau chữ
Nguyễn văn Thiệu. Nguyễn văn Thiệu đã tự biến mình thành một phế đế khi hạ
bút ký tờ Thế Vì Khai Tử Miền Nam gọi là Hiệp Định Paris. Những gì Nguyễn
văn Thiệu làm sau đó chỉ là kéo dài cơn hấp hối của Miền Nam như một quốc
gia. Kẻ chấm dứt cơn hấp hối đòi đoạn đó cho Miền Nam là Dương văn Minh,
người đã hai bận dương mắt nhìn lịch sử vuột khỏi tầm tay năm 1963 và 1975.
CHA ĐẺ CHẾ ĐỘ QUỐC GIA
Trong cơn quốc phá gia vong, đạp vỏ dưa thấy vỏ dừa cũng sợ, Bảo
Đại không khỏi lạnh cẳng khi nghĩ đến những gì đã xảy ra cho Hàm Nghi, Duy
Tân. Thực dân đã làm chủ cả phần xác lẫn phần hồn triều đình Việt Nam. Tầng
lớp lãnh đạo đất nước chỉ còn hai đường hoặc đối kháng phản loạn hoặc an
thân theo bè lũ thực dân. Nhật hất chân Pháp khỏi Đông Dương, rồi Nhật đầu
hàng, rồi Cách Mạng Mùa Thu 1945 là những cơ duyên cho Bảo Đại trở lại chủ
động đổi thay lịch sử. Tội nghiệp cho ông là ông không chủ động mà chỉ bị
động. Hồ chí Minh đã gián tiếp đày ông biệt xứ khi ủy ông sang Trung Hoa cầu
viện rồi triệt đường về của ông. Việt Minh cố dùng mà không được hoặc không
biết dùng Bảo Đại, nhưng Pháp thì biết, nhất là khi Pháp đang lợi dụng đồng
minh Anh-Mỹ để tái lập nền đô hộ Việt Nam.
Năm 1949, sau khi đẩy Tưởng giới Thạch văng ra Đài Loan để độc
chiếm Hoa lục, Mao trạch Đông đã chính thức thừa nhận ngoại giao Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hoà của Hồ chí Minh. Pháp lộ nguyên hình xâm lăng và phải tự
biện minh bằng cách biến vùng tạm chiếm thành 'quốc gia' Việt Nam với Bảo
Đại là Quốc Trưởng. Chiến dịch chống Việt Minh để tái lập nền đô hộ Việt Nam
của Pháp trở thành chiến tranh ý thức hệ quốc - cộng trong khuôn khổ cuộc
chiến tranh lạnh Tự Do - Cộng Sản đang hình thành. Nếu đóng góp lớn lao nhất
của Bảo Đại cho lịch sử Việt Nam là thoái vị để đem lại chính nghĩa cho cuộc
đấu tranh vì độc lập và tự chủ của dân tộc thì cái tội lớn nhất của ông
chính là đã một đàng bắt tay với Pháp bằng cách đóng ấn tín biến chiến dịch
tái chiếm Việt Nam của Pháp thành cuộc chiến chống cộng sản và do đó đã vô
tình bắt tay với khuynh hướng Mác-xít độc tôn độc thiện để công khai hóa
chiến tranh ý thức hệ trên quê hương trong khi mục tiêu độc lập thống nhất
chưa hoàn thành. Hành động thoái vị của ông năm 1945 đã đưa ông lên bàn thờ
cho mọi người tôn kính nhưng rồi ông lại loay hoay nhảy xuống vũng lầy chính
trị mà thực dân Pháp đang bì bõm. Trong vũng lầy chính trị đó, Pháp níu Bảo
Đại, Bảo Đại níu Pháp cho đến ngày cả hai phải nhờ Ngô đình Diệm lôi lên để
'khai tử'.
CUNG NÔ BỘC TỐI ÁM
Trong dòng trầm luân của đất nước đang quặn mình hồi sinh, hai
người gần Bảo Đại và đều quay lưng lại với ông là Hồ chí Minh và Ngô đình
Diệm. Hồ chí Minh đưa ông làm Dân Biểu Quốc Hội khoá đầu tiên và cố vấn
chính phủ chứ không chia quyền lực quốc gia với ông và cuối cùng đẩy ông vào
thế chẳng đặng đừng phải lưu vong. Không biết đó có phải là cách Hồ chí Minh
đền công thoái vị cho ông thay vì xuống tay tàn độc như Lenin giết hết cả
hoàng gia Nga sau khi cướp chính quyền?
Hai lần ông trao ấn tín cho Ngô đình Diệm, hai lần Ngô đình Diệm
làm ông thất vọng não nề. Lần đầu với chức Thượng Thư Bộ Lại. Tại chức được
ít lâu, Ngô đình Diệm rút lui để mặc ông loay hoay đối đầu với người Pháp.
Lần sau với chức Thủ Tướng. Ngô đình Diệm đã long trọng thề trung thành với
ông khi nhận chức nhưng lại mở chiến dịch bài phong phản đế lăng nhục truất
phế ông, tịch thu tài sản của ông chứ không để cho ông có cơ hội êm thắm
thoái vị và lưu vong như năm 1945. Chín năm sau Ngô đình Diệm lại cũng đi
vào con đường gian truân khổ nhục nghiệp báo chính Ngô đình Diệm đã mở ra
cho Bảo Đại, cho Ba Cụt, và cho bao nhiêu người khác nữa đã trót nghĩ rằng
trò chơi quyền lực thế trị chỉ là trò chơi của những người biết trọng sự
thật.
Khi Bảo Đại chết, người duy nhất trọng vọng phân ưu là Nguyễn văn
Thiệu. Nguyễn văn Thiệu gọi ông là Hoàng Đế Bảo Đại và tự xưng là Cựu Tổng
Thống Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Bảo Đại đã từ chối ngôi vị Hoàng Đế khi
thoái vị năm 1945, Ngô đình Diệm thì chỉ lật đổ Quốc Trưởng. Chính Bảo Đại
cũng quả quyết ông chỉ là 'một công dân bình thường tỵ nạn tại Pháp', thế
thôi (Con Rồng An-Nam, trang 347). Lại nữa, một nước sao lại có hai vua, đã
có Hoàng Đế sao lại còn có Tổng Thống nếu không có cướp ngôi, soán đoạt? Có
thể nào, cùng một lúc, Nguyễn văn Thiệu gọi Bảo Đại là Hoàng Đế và tự xưng
là Tổng Thống mà vẫn là chính danh, vẫn là đúng nghi lễ?
VUA LƯU VONG
Vì thiếu những anh hùng sống để bái phục nên phải bám vào những
anh hùng chết để thờ, một số người Việt lưu vong rất thích bày chuyện truy
điệu tưởng niệm, không phải như một cách ghi tạc công đức nhưng là như một
công tác chính trị định kỳ chứng tỏ mình không trôi sông lạc chợ. Thế đó mà
khi Bảo Đại qua đời lại không thấy một tổ chức đoàn thể nào - trừ đại diện
hoàng tộc, đứng ra truy điệu tưởng niệm ông dù ông là kẻ chính thức đóng ấn
tín sáng lập chủ nghĩa quốc gia chống cộng. Ngoài tước hiệu Hoàng Đế An-Nam
mà ông đã tự phủ nhận khi thoái vị, Bảo Đại cũng còn đáng mặt 'vua' về một
phương diện khác. Vua Lưu Vong. Vua của những người cùng số phận như ông đã
bị nghiệp lực chính trị đẩy khỏi quê cha đất tổ sống lêu bêu xứ người năm
1954 hoặc 1975.
Một số báo chí tiếng Việt cũng như tiếng Anh đã nhân cái chết của
Bảo Đại dùng ngòi bút đào sâu thêm mộ huyệt ông chút nữa để biện minh cho
những cử chỉ hay hành động quá nặng tay của họ đối với ông ngày xưa. Điều
chẳng làm ai ngạc nhiên là những lời nặng nề nhất đã xuất phát từ những tàn
tích thực dân và tay sai đúng như lời Đức Kitô dằn mặt những kẻ đạo đức giả
'ai tự cho là mình không có tội thì cứ nhặt đá ném đi...'
Báo chí ngoại quốc khi loan tin Bảo Đại từ trần đều bảo ông thọ
83 tuổi. Báo chí tiếng Việt lập lại y nguyên dù có báo đã ghi rõ ông sinh
năm...1913! Sự thể chỉ vì các báo Việt nầy đã nhắm mắt thụ nhận quan niệm
Tây phương vốn cho rằng không phải ở đời một giờ một phút là được kể một
tuổi mà phải qua hết 12 tháng mới được tính một năm, do đó Bảo Đại mới được
xem chỉ thọ 83 tuổi là vậy.
Xét cho cùng, lối nhắm mắt theo Tây nầy lại cũng chỉ là cách dẫm
lên dấu chân Bảo Đại. Thật vậy, Bảo Đại có một quyển hồi ký với tựa đề Le
Dragon d'Annam, thư cục Plon ở Paris xuất bản năm 1980. Tại sao lại An-Nam
mà không là Việt Nam? Người Tàu gọi An-Nam là đất Việt và Nam Man là người
Việt mỗi lần phong vương cho các vua Việt. An-Nam có nghĩa nôm na là 'tụi
bây ở dưới đó (phía Nam) chớ có lộn xộn nghe chưa!' Người Pháp chiếm Việt
Nam cũng tiếp tục gọi đất nước nầy là An-Nam và người Việt là Annamite. MITE
chứ không phải MIEN như Canadien, Parisien! MITE không có nghĩa man di mọi
rợ mà có nghĩa là côn trùng mối mọt sâu bọ. Vậy mà sao Bảo Đại lại dùng chữ
Con Rồng An-Nam như thế? Phải chăng vì Bảo Đại đã theo người Pháp để nhất
định gọi người Việt Nam là mối mọt An-Nam thế nào, thì giờ đây báo chí Việt
Nam cũng cả tin vào giới truyền thông Tây phương để kể 84 tuổi là 83 năm như
thế ấy?
Cầu mong sao cho bệnh mất nước sẽ mãi mãi theo người quá cố đi
vào mộ sâu của lặng yên sỏi đá.
ANH HÙNG MẠT VẬN BÁN QUY TĂNG
Năm 1963, trong phong trào phản đối Ngô đình Diệm nặng tay với
Phật giáo, có lúc tôi cũng buồn lòng tự hỏi nếu Bảo Đại không bị áp lực của
thực dân Pháp ban hành Dụ số 10 đặt các tôn giáo như Phật Giáo, Hòa Hảo, Cao
Đài ngang hàng với hội đua ngựa, đua thuyền, tương tế thì làm sao chính
quyền lại có thể dùng văn kiện đó như vòng kim cô trùm lên đầu Phật giáo
khiến anh chị em chúng tôi phải lận đận lên đường xuống phố chơi trò đi trốn
đi tìm với công an cảnh sát mật vụ thế nầy!?
Chế độ Ngô đình Diệm cáo chung, tôi cũng quên luôn chuyện buồn
Bảo Đại cho đến khi được đọc Con Rồng An-Nam của ông trong đó ông lặp lại y
nguyên luận điệu chính thức của chính quyền Ngô đình Diệm về Phật giáo rằng:
'... các nhà sư bị các cơ quan Mỹ và cán bộ Việt Cộng giựt dây'(sách đã dẫn
trang 348). Sau nầy được biết rằng nhiều phần ông đã để cho người Pháp viết
cho ông ký tên thôi, nên tôi cũng hết băn khoăn. Con Rồng An-Nam chỉ có bản
tiếng Pháp chứ không có bản tiếng Việt, nghĩa là chỉ in cho Tây đọc, người
Việt khỏi lo. Ông đã nhiều lần nghe người Pháp, nghe thêm lần nữa cũng chẳng
chết ông Tây nào!
Tôi không muốn buồn lòng về ai lâu, nhất là với Cựu Hoàng Bảo
Đại, vì dù sao riêng tôi cũng có duyên nợ với ông. Thật vậy, gia đình tôi họ
Hoàng công, đến thời Nguyễn Hoàng lên ngôi, được lệnh tránh tên húy nên tổ
tiên tôi phải đổi họ thành Huỳnh công. Sau năm 1945, Bảo Đại đã thoái vị,
lúc Pháp trở lại tái lập chính quyền bảo hộ, gia đình tôi đã xin thế vì khai
sanh trở lại là Hoàng công như cũ. Mặt khác, lúc nhỏ được bà nội nuông chìu
nên chẳng ai la mắng khi tôi tập cầm đũa tay trái. Đến tuổi đi học, tôi cũng
cầm viết tay trái luôn, bị thầy cho ăn đòn vẫn không chịu sửa, cho đến một
hôm nghe bà nội bảo: 'Ừ chơ mi núm viết rứa cũng được, không hại chi cả,
nhưng nhớ khi mô vua đi ngang thì đừng để cho vua thấy nghe chưa con, vua mà
thấy là vua cho chặt tay con liền đó!' Tôi tin bà nội nói thật, và tôi lại
không muốn trở thành 'độc thủ cà chớn' cho nên đành thẹ thẹ bỏ thói cầm bút
tay trái. Cũng là nhờ vua Bảo Đại vậy. Duyên nợ vua tôi giữa gia đình tôi và
Bảo Đại hình như chỉ có thế. Không sợ bị chọc quê là thấy sang bắt quàn làm
họ thì tôi có thể gọi đó là nợ tên tuổi và nợ bút nghiên cho oai! Dù sao đi
nữa, ít ra thì tôi cũng đã một lần chân thành trân trọng nhận ông là vua
theo nghĩa đầy đủ nhất của chữ vua: kẻ có quyền sinh sát tuyệt đối với tôi!
Nếu thực dân Pháp, Nhật, Hồ chí Minh, Ngô đình Diệm mà cũng sợ vua Bảo Đại -
và nếu Bảo Đại cũng biết cách làm họ ngán ông như tôi sợ ông, thì biết đâu
lịch sử Việt Nam đã không như ngày hôm nay?!
Nguyễn Phước Tộc đã tổ chức cầu siêu trọng thể cho ông tại Chùa
Phước Huệ, Sydney Úc và Chùa Việt Nam ở Garden Grove California. Thế là,
cuối đường luân hồi trần lụy, hương linh ông lại được những người thân yêu
cung thỉnh nương bóng bồ đề, nơi chỉ có những người thương ông, cố gắng hiểu
ông và hỷ xả những muộn phiền về ông. Đâu đây có lần tôi được nghe nói đến
câu 'sấm' Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về... Biết đâu thế mà lại chẳng đúng cho
hoàn cảnh nầy!? Bằng những cầu lụy nghiệt ngã của cuộc đời, ông đã bỏ nước
đi mà đi, bằng áp lực của Pháp ông đã ký Dụ số 10 để quay lưng với Chùa.
Giáp vòng sinh diệt ông lại trở về nương bóng Phật để cầu siêu thoát. Chẳng
phải Nguyễn đi Nguyễn lại về đó sao ?!
Phụng bái hương linh Cựu Hoàng liễu sinh lạc quốc.
|