LTS- Bài
này tác giả viết đã lâu và liên hệ đến một thảm kịch ở xứ kangroo. Nhưng so sánh với
thảm kịch Huntington-Utah, nhất là vụ đất đá sụp làm cho ba thợ mỏ cứu nạn
chết và sáu người bị thương, chấm dứt 11 ngày đêm khắc khoải hồi hộp hy vọng
của những kẻ có lòng khắp nước Mỹ chứ
không riêng gì Huntington-Utah... Xin đăng lại đây như một nén hương viếng
những ngưởì thợ mỏ Crandall Canyon Mine đã giải nghiệp- sachhiem.net
Từ ngày Anzac đến nay, Australia đã náo động lên vì số
phận ba người thợ kẹt trong mạch mỏ vàng Beaconsfield nằm sâu trong lòng đất
cả cây số ở Tasmania.
Động đất, hầm đá sụp lở
đè chết một người, hai người sống sót vì còn trong cái lồng sắt thường dùng
như thang máy lên xuống liên lạc với cuộc đời bên trên. Mấy ngày sau chuyên
viên cấp cứu mới liên lạc được và biết được hai người đã thoát chết và còn
kẹt dưới đó. Chiến dịch giải cứu bắt đầu.
Tâm tư người dân cả
nước Australia cảm thương, lo lắng, hi vọng và nguyện cầu hướng về cái miệng
hầm mỏ trông xa xa như một đồ chơi của trẻ con, nơi có hai sinh mạng đang
chờ ngày chờ đêm để được moi lên từ lòng đất.
Đến đêm thứ bảy,
6/5/2006, có tin là hai người bị kẹt có thể được cứu đêm khuya thứ Bảy rạng
ngày chủ nhật, sau 12 ngày hay trên 270 giờ bó gối trong bóng tối rộn ràng
hồi hộp.
Nhưng chỉ là mừng hụt
bởi vì khoảng cách cuối cùng ngăn cách nạn nhân và toán giải cứu là một khối
đá mỗi cạnh xấp xỉ 1 mét rưỡi cứng gấp năm lần bê tông cốt sắt mà lần đầu
tiên trong đời đào mỏ họ đã đụng phải. Giờ hội ngộ giải thoát đành hoãn lại,
một ngày, hai ngày? Có trời biết...
Anthony tôi có cái tật
bất trị là chuyện gì cũng cà khịa được cả, thế mà trong chuyện này, tôi thực
tình không dám léng phéng đến gần câu hỏi: nếu mình là người thợ mỏ bị kẹt
như thế thì mình sẽ nghĩ gì? nếu mình là thân nhân của người thợ mỏ thì mình
sẽ nghĩ gì?
Vẩn vơ nghĩ đến những
câu hỏi đó là Anthony tôi cảm thấy rờn rợn ngột ngạt như đang bị ai bóp mũi
không cho thở, nên đành tìm cách tảng lờ nghĩ sang chuyện khác và cầu an cho
họ.
Mấy tuần trước đây, một
hầm mỏ bên Mỹ sụp lở bất tử, chôn vùi mười mấy mạng, chỉ chừa một người sống
sót. Người này đã chứng kiến các bạn đồng nghiệp của mình kẻ trước người sau
từ từ lịm chết vì khí độc. Và chính anh cũng đã ngáp ngáp vì thiếu dưỡng khí
rồi ngất đi như các đồng nghiệp xấu số, nhưng số còn nặng nợ đời nên không
toán cấp cứu dựt lại được từ tay tử thần.
Tai nạn hầm mỏ là
chuyện cơm bữa. Trong những nước giàu, kỹ thuật đào xới tân tiến, luật lệ và
quy định về an toàn lao động phân minh gắt gao, trách nhiệm quản lý chặt chẽ
nên tai nạn cũng bớt tác hại, không như hoạt động hầm mỏ trong các nước chậm
tiến. Cứ trông vào chiến dịch giải cứu thợ mỏ ở Mỹ hay ở Tasmania thì cũng
đủ biết. Anthony tôi không có sẵn những dữ kiện thống kê về tai nạn hầm mỏ
ở các nước Phi châu và
Nam Mỹ, nhưng năm ngoái tình cờ đọc một tin trên tờ The Washington Post ngày
24/12/2005 kể chuyện tai nạn hầm mỏ bên Trung Quốc mà ớn. Tờ báo viết:
...năm nay [2005], 96 người đã bị truy rố về trách nhiệm dùng chất nổ và
tháo nước cho ngập hầm mỏ nhằm tăng năng xuất để kịp cung ứng nhu cầu than
đốt. Chưa kể 21 quản trị viên hầm mỏ, 105 viên chức và cán bộ đảng đã bị mất
chức, trừng trị, kể cả hai phó tỉnh trưởng. Trong năm 2004, hơn 6.000 thợ mỏ
than đã thiệt mạng làm cho mỏ than Trung Quốc trở thành những mỏ hiểm nhất
thế giới. Chín tháng đầu năm nay [2005] đã có 4.000 thợ mỏ chết vì tai nạn.
Và nhịp độ tai họa này vẫn không gia giảm. Tháng 11 vừa rồi, tai nạn xảy ra
trong mỏ thang quốc doanh Đông Phương ở Hắc Long Giang làm cho 171 người bỏ
mạng. Đọc mà rùng mình và mừng cho những người thợ mỏ của Australia, của Mỹ.
Mừng thì mừng, nhưng chắc chắc là Anthony không muốn cho con cháu mình chọn
nghề này làm nhất nghệ tinh, nhất thân vinh rồi.
Anthony tôi nhớ thời
còn đi học đã được đọc một quyển tiểu thuyết với cái đề ngồ ngộ. Đó là cuốn
Các thánh xuống địa ngục, Les Saints Vont En Enfer của Gibert
Cesbron, hình như do nhà Gallimard in trong loại sách bình dân Livre de
Poche.
Sách kể chuyện những
người thợ mỏ. Dưới mắt tác giả, họ là những ông thánh, những người thường đã
vì áo cơm áo hàng ngày mà sống, suy nghĩ, hành động như những ông thánh.
Hoặc có khi phải bất đắc dĩ sống thánh thiện. Bởi ở dưới chín tầng đất đen
của hầm mỏ ấy, có muốn làm chuyện lưu manh bất chính thì cũng chẳng có gì
trời ơi đất hởi mà quậy.
Lối so sánh đó làm
Anthony tôi cảm thương cho số phận lao động nhọc nhằn tay làm hàm nhai của
mấy người thợ mỏ hơn. Họ đúng là những người phải làm đổ mồ hôi sôi nước mắt
mới có mà ăn. họ đúng là những người lương hảo thánh thiện.
Tuy nhiên, nếu được lựa
chọn, tôi nghĩ không ai dại gì mà chọn nghề này, hay bất quá kẹt lắm thì
cũng chỉ chọn tạm thời thôi.
Đàng nào thì hai người
đang kẹt dưới mỏ vàng Beaconsfield sống được cũng là hi hữu. Có thể gọi đó
là phép lạ không? Ở Beaconsfield có một nhà thờ Anh giáo, giá chuông mục nát
xiêu vẹo và nghe nói nhà thờ đã ngưng đánh chuông kể từ sau đại chiến thứ
hai năm 1945 đến nay. 61 năm rồi không nghe tiếng chuông nhà thờ. Hôm qua
thứ Bảy, nhà thờ chuẩn bị đánh chuông để chào đón hai ‘ông thánh’ trở lại
trần gian.
Những tiếng chuông vui
mừng đã không vang lên. Cuộc chào đón đã phải dời lại.
Từ ngày có mấy ông râu
xồm vừa đọc thánh kinh vừa cho bom nổ, thiên hạ có người nói đến liên tôn,
đoàn kết tôn giáo, hòa hợp tín ngưỡng...
Khi tai nạn ở
Beaconsfield xảy ra, Anthony tôi đã hi vọng đây là cơ hội ngàn vàng để cho
các tôn giáo lớn làm chuyện ấy. Làm chuyện lấy khổ đau của chúng sinh làm
chất xúc tác cho tôn giáo gần lại với nhau, làm sợi dây thừng bện buộc tôn
giáo lại.
Phải, chuyện gì sẽ xảy
ra nếu một trong năm tôn giáo lớn ở Australia như Kytô La mã, Anh giáo, Do
Thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo đề xướng một thánh lễ liên tôn đồng tế để cầu
nguyện cho hai người thợ mỏ được tai qua nạn khỏi?
Nếu có lời kêu gọi đó
thì liệu các tôn giáo khác sẽ có chối từ không? Và lấy lý do gì mà chối từ?
Tôn giáo nào cũng nói đế ơn thiêng, phép lạ. Chẳng lẽ đấng tối cao của Phật
giáo, Do Thái giáo, Kytô La mã, Hồi giáo ngoảnh mặt làm lơ chỉ vì hai người
thợ mỏ theo Anh giáo?
Tại sao không có một
tôn giáo nào chịu đi bước trước để làm chuyện ấy?
Có phải vì ai cũng ngại
Thượng Đế bây giờ lười làm phép lạ, hoặc có làm thì cũng phải lựa chọn điều
tra lý lịch rất cẩn thận chứ không dại gì mất công vịt ấp trứng le le?
Nhưng tại sao họ phải
ngại ngùng như thế? Bởi trong ván bài này, bất cứ tôn giáo nào tham dự vào
thì cũng chỉ có thắng chứ không thể thua.
Thật vậy, khi nguyện
cầu cho hai thợ mỏ khốn đốn ấy, nếu công cuộc giải cứu thành công thì họ có
thể nói Khuôn Thiêng đã nghe lời khẩn cầu của mọ mà làm phép lạ cho hai
người đó tai qua nạn khỏi.
Nếu giải cứu thất bại
thì ít ra họ cũng có thể nói là đã cầu nguyện cho linh hồn hai người thợ đó
được giải thoát về cõi vĩnh hằng hạnh lạc. Như vậy, chương trình cầu nguyện
liên tôn đồng tế này có thể ví với một canh bạc mà người tham dự đặt tài hay
xỉu đều chắc chắn ăn cả, vậy mà tại sao họ không làm?
Tại sao không có một
buổi lễ liên tôn đồng tế cho hai người thợ mở ở Tasmania? Anthony tôi thật
hết biết...
Hôm nghe tin tai nạn
xảy ra, nhân mùa Phật tử rộn ràng đón mừng giáo chủ giáng sinh, Anthony tôi
đã ước ao sẽ có vài thầy hợp lại cùng sang Tasmania, dựng một trai đàn ngoài
công viên hay mượn nhà thờ Anh giáo dựng một bàn thờ Phật, đắp y vàng trang
nghiêm tỉnh tọa tuyệt thực để cầu nguyện cho hai người thợ mỏ đang gặp nạn.
Đây là cơ hội để Phật
giáo đền ơn trả nghĩa cho Australia. Đây là cơ hội để các bậc trưởng tử Như
Lai chứng tỏ cho dân chúng, trước tiên là cho Phật tử, thấy mình không chỉ
quanh quẩn tu nhà tu chợ để gặp ai cũng xin tiền làm chùa, hoặc làm Phật sự
bằng những chuyến du hành đi hái trái cây, đi thăm vườn nhãn, du ngoạn vườn
đào để kiếm chút tiền còm, hoặc hăm hở đợi người đến xin làm lễ cầu an để
khai trương tiệm thịt tiệm cá, hay đi thử thời vận ở casino, ở trường đua
ngựa...
Ừa, tại sao mầy thầy
lại không thể làm chuyện này? Cái gì làm cho các bậc trưởng tử Như Lai bất
khả tư nghì trước hoạn nạn này?
Tôn giáo đã bỏ qua cơ
hội ‘hoằng dương chánh pháp’ mà chính trị cũng đã bỏ qua cơ hội ‘hoằng dương
chính nghĩa’.
Mấy ngày trước đây,
chính quyền Howard đã tổ chức quốc táng long trọng cho anh lính đầu tiên
chết ở Iraq, rình rang còn hơn lễ nghi quân cách dành cho một anh hùng tử sĩ
chính cống khi cả Thủ Tướng, Bộ Trưởng Quốc Phòng, Tướng Tổng Tham Mưu
Trưởng đều đến nghiêng mình trước linh cửu một anh lính cho đến bây giờ
không ai nói được tại sao chết, chết như thế nào và đến khi chuyển về nước
thì lại chuyển lầm xác người khác.
Trước thảm kịch
Beaconsfield, lẽ đáng chính quyền, hoặc Thủ Tướng hoặc Tổng Toàn Quyền, kêu
gọi một ngày cầu nguyện an lành cho hai người thợ mỏ đang thập tử nhất sinh
dưới chín tầng địa ngục, và nhân tiện dùng ngày đó như một cơ hội để đoàn
kết dân tộc, để vận dụng tình tương thân tương trợ của toàn dân.
Thủ Tướng Howard đã
không làm. Chẳng phải vì ông không nghĩ ra, mà dù có nghĩ ra thì ông cũng
không thể làm, vì làm điều đó tức là gián tiếp tố cáo bộ Luật Lao Động mà
chính quyền của ông vừa thông qua và bị đối lập tố cáo là bất chấp quyền lợi
và an toàn lao động cho giới công nhân.
Đến bao giờ thì các
thánh như những người thợ mỏ ở Beaconsfield khỏi phải xuống hỏa ngục, và nếu
có phải vì áo cơm lương thiện mà xuống thì cũng sẽ an toàn mà trở lên?
Anthony Darlic
Những Câu Chuyện Cuối Tuần
|