Sun, 26 Aug 2007 19:50:45 +0200 |
|
From: |
"tan phan" |
Subject: |
Mother Teresa... |
Mẹ Teresa Trong Lý Thuyết Và Thực Hành (The Missionary Position: Mother Teresa in Theory and in Practice) Trong những năm gần đây, điều mà giáo hội CaTô Rô-Ma quảng cáo nhiều nhất và ồn ào nhất là những công tác từ thiện của Giáo hội. Bất cứ có một cơ hội nào là Giáo hội và các con chiên ngoan đạo Việt Nam lại mang Mẹ Teresa, người mà Giáo hội tôn là Thánh Mẹ (Holy Mother), ra làm bình phong từ thiện, lạc dẫn dư luận, làm như Mẹ là con người rất mực thánh thiện, rất giầu lòng bác ái, và tất cả tín đồ CaTô đều như Mẹ Teresa cả. Nghiên cứu tường tận về các công việc từ thiện của Giáo hội từ xưa tới nay, chúng ta rất ít thấy ở đâu là thuần túy từ thiện, mà mục đích chính của các công việc từ thiện là dùng vật chất để truyền đạo, để làm giàu cho Giáo hội trên sự đau khổ của con người, và chúng ta phải công nhận đây là nguyên nhân chính về sự thành công của CaTô giáo trong những thế kỷ qua. Mở đầu là Đại Đế Constantine, người đã dùng mọi cách và đã bỏ của cải ra mua toàn thể các tỉnh, các thị trấn để cho dân chúng đi theo đạo mới (Malachi Martin: "The Rise and Fall of The Roman Church", trg. 36.) Và từ đó cho đến ngày nay, của cải vật chất với nhãn hiệu từ thiện đã là vũ khí hữu hiệu nhất của CaTô giáo để thu nhặt tín đồ. Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy từ thời các giáo sĩ thừa sai đầu tiên xâm nhập Việt Nam cho tới thời Ngô Đình Diệm ở miền Nam, bả vật chất đã là một phương tiện hữu hiệu để truyền đạo và thu nhặt tín đồ của Ca Tô Giáo. Dưới thời Ngô Đình Diệm, các linh mục Việt Nam được toàn quyền xử dụng viện trợ từ thiện của Mỹ và dùng nó như một vũ khí để ép người vào đạo và để bỏ túi, khoan kể đến chuyện bắn pháo binh vào những làng không theo đạo để ép buộc dân trong làng theo đạo để đổi lấy sự an toàn của làng xóm. Người Việt Nam đâu đã có ai quên cái câu bất hủ được truyền tụng trong dân gian: "Theo đạo có gạo mà ăn." Cảnh này cũng lại tiếp diễn trong các trại tị nạn di cư mà các linh mục được sự viện trợ của các cơ quan từ thiện KiTô giáo, họ giữ chặt của viện trợ cho giáo dân và chỉ cho người ngoài khi bằng lòng theo đạo. Tôi không nói là các việc từ thiện của CaTô giáo không có ích lợi gì. Lẽ dĩ nhiên chúng có góp phần để làm vơi bớt sự khó khăn màcon người gặp phải. Nhưng cái động cơ đằng sau những công việc từ thiện này và phương cách xử dụng thì chẳng thiện chút nào. Trở lại trường hợp của Mẹ Teresa. Tờ Newsweek, số ngày 13 tháng 11, 1995, David Gates có điểm cuốn sách Lập Trường Thừa Sai: Mẹ Teresa Trong Lý Thuyết Và Thực Hành (The Missionary Position: Mother Teresa in Theory and in Practice) của Christopher Hitchens viết về bà Teresa. Theo Hitchens thì "Mẹ Teresa là một kẻ "mị dân" chống phá thai và là kẻ "phục vụ cho những quyền lực thế gian.", thân thiện với hạng người không tin cậy được như tên lừa đảo Charles Keating ở Ngân Hàng Tiết Kiệm và Tín Dụng, mà nhân danh hắn Mẹ đã viết cho ông Tòa Lance Ito trong vụ xử hắn năm 1992. Trong một bức thư trả lời với đầy đủ lý lẽ , ông Phó Biện Lý của Tòa giải thích cho Mẹ Teresa biết bằng cách nào mà Keating đã ăn cắp món tiền đã biếu cho Mẹ, và đề nghi Mẹ hoàn trả lại số tiền đó cho các "sở hữu chủ với đầy đủ pháp lý"; Mẹ đã không hề hồi âm. Hitchens cũng ghi chú rằng Mẹ đã vào "điều trị ở một vài bệnh viện tốt nhất và đắt tiền nhất ở Tây phương." Hitchens lý luận rằng "Mẹ làm công việc từ thiện không phải vì chính sự từ thiện mà chỉ để mong một ngày nào đó được kể như một vị Thánh thành lập một dòng tu mới trong giáo hội." (Hitchens' Mother Teresa is an anti abortion "demagogue" and a "servant of earthly powers," cozying up to such a slime as S & L (Savings & Loans) swindler Charles Keating, on whose behalf she wrote to Judge Lance Ito during his 1992 trial. In a well-reasoned reply, a deputy D.A. explained to her how Keating stole the money he'd donated and suggested she return it to "its rightful owners"; she never answered. ...Hitchens notes, she herself has "checked into some of the finest and costliest clinics and hospitals in the West." She does charitable work, he argues, "not for its own sake but...so that she may one day be counted as the beatific founder of a new order and discipline within the Church itself.")
Ngoài ra, một học giả chuyên gia viết tiểu sử, Anne Sebba, đã sang tận Calcutta và nhiều nơi khác để quan sát những "cơ sở từ thiện" của bà Teresa và tìm hiểu sự thực về những "công cuộc từ thiện" của bà Teresa. Kết quả nghiên cứu trong nhiều năm được viết thành cuốn Mẹ Teresa: Ngoài Cái Hình Ảnh Được Tạo Nên (Mother Teresa: Beyond The Image), Doubleday, New york, 1997, trong đó tác giả đã dùng hơn nửa cuốn sách dày gần 300 trang để viết về một số những sự thực về cái gọi là "công cuộc từ thiện" của bà Teresa mà chính tác giả đã đích thân đến tận nơi quan sát, tìm hiểu cùng qua nhiều cuộc phỏng vấn những nhân vật có thẩm quyền như bác sĩ, nữ tu, những người đứng đầu các cơ quan từ thiện, những nhân viên thiện nguyện và cả những cựu nữ tu trong dòng "Thừa Sai Bác Ái" (Missionaries of Charity) của bà Teresa (I am full of questions and have put as many as I can to people qualified to answer them including doctors, nuns, heads of charities, volunteers and former Missionaries of Charity). Sau đây là vài điểm chính mà tác giả, Anne Sebba, đã khám phá ra: * Về tiểu sử, bà Teresa không có gì đặc biệt, chúng ta thấy cùng một niềm tin tôn giáo đã hướng dẫn bà trong mọi việc. * Công việc từ thiện của bà Teresa không bắt nguồn từ chính lòng từ thiện mà động cơ thúc đẩy chính là để làm sáng danh Chúa và để truyền đạo. Ngay cái tên của dòng "Thừa Sai Bác Ái" cũng đã nói lên rõ ràng mục đích truyền đạo của các thừa sai trong những thế kỷ qua. Bà Teresa biết rõ về lịch sử truyền đạo ở Ấn Độ và toan tính KiTô hóa quốc gia này trong 400 năm qua. Bà Teresa đã khẳng định rằng công việc bà làm là để phục vụ Chúa, không phải phục vụ con người, phục vụ Chúa bằng cách kiếm thêm nhiều tín đồ cho Chúa mà những sự đau khổ, bất hạnh của con người là những cơ hội để bà làm "việc thiện", chứng tỏ "lòng từ bi" của Bà. Bà không phải là cứu tinh của nhân loại, những việc bà làm chỉ có tính cách tượng trưng bề ngoài. (Trong cái niềm tin của Bà Teresa, bà cố ý lờ đi chuyện những đau khổ, bất hạnh của con người cũng là do Chúa tạo ra. Cũng như gần đây GH John Paul II tuyên bố: Mẹ Teresa là quà của Thượng đế cho những người nghèo khổ (gift of God for the poor) nhưng Ngài không hề nói tới những người nghèo khổ là quà của Thượng đế cho ai? Chắc là cho Bà Teresa để Bà có cơ hội làm việc thiện vinh danh Chúa. Một mặt Chúa tạo ra những đau khổ, một mặt khác Chúa nhờ bà Teresa, qua dòng "Thừa sai bác ái", quảng bá lòng thương của Chúa qua những việc từ thiện chỉ có tính cách tượng trưng. Ấy thế mà vẫn có nhiều người ca tụng lòng yêu thương của Chúa đối với nhân loại, và lòng "bác ái" của bà Teresa. TCN) Tác giả Anne Sebba còn đưa ra nhiều hình ảnh của bà Teresa, trái ngược hẳn với những hình ảnh đã được bộ máy tuyên truyền của giáo hội trên thế giới đưa ra, thí dụ như: "đạo đức giả, ve vãn giới truyền thông, thân cận với một số lãnh tụ độc tài trên thế giới, bất minh về vấn đề tiền bạc, nhận tiền thụt két nhà băng của một tên lừa đảo (Charles Keating) và khi Tòa án viết thơ khuyên Bà nên trả lại số tiền đó thì lờ đi không trả lời, dùng tiền của thiên hạ đổ vào các tu viện thay vì nhà thương và để cho các cơ sở từ thiện rất thiếu thốn, mù quáng theo lệnh của Vatican chống mọi kế hoạch hóa gia đình v..v.." Đó là thực chất những công việc "từ thiện" của Mẹ Teresa, người mà các tín đồ Ca Tô được nhồi vào trong đầu óc hình ảnh của một Thánh nhân. Ngày nay, đã có thêm nhiều tài liệu về bà Teresa do chính những người trước đây cộng tác với bà, như các sơ (soeur, sister), viết ra. Họ không phải là người ngoài mà là chứng nhân trong cái gọi là dòng tu "Thừa sai bác ái" của bà Teresa. Hình ảnh của bà Teresa mà họ đưa ra không thánh thiện như giáo hội đã cấy vào đầu óc các tín đồ mà thực ra là : đạo đức giả, lừa bịp, gian dối, tàn nhẫn, cuồng tín, lạc hậu v..v... như chúng ta sẽ thấy trong vài tài liệu sau đây. Để quảng cáo kiếm tiền, Giáo hội đưa ra hình ảnh bà Teresa đang bồng ru một em bé Ấn độ ốm yếu, làm mủi lòng nhiều người. Giáo hội cũng quảng cáo là dòng "Thừa sai bác ái" của bà Teresa đã thiết lập những "cơ sở từ thiện" trong hơn 25 quốc gia với những nhà thương, viện mồ côi, trường học v..v.. Việt Nam, có lẽ đã biết rõ thực chất những "hoạt động từ thiện" của bà Teresa nên đã từ chối, không chấp nhận đề nghị lập viện mồ côi tại Việt Nam của bà Teresa ngay khi Mỹ còn đang cấm vận. Đây là một quyết định khôn ngoan của chính quyền, không rơi vào cái bẫy "từ thiện để kiếm thêm linh hồn cho Chúa" của thế lực đen quốc tế. Ai cũng biết, công việc "từ thiện" của bà Teresa tập trung ở Calcutta, Ấn độ, và quảng cáo rầm rộ nhất cũng là những hoạt động của dòng "thừa sai bác ái" ở Ấn độ. Những tài liệu của Christopher Hitchens và Anne Sebba ở trên đã cho chúng ta thấy phần nào mặt trái của các cơ sở "từ thiện" đó. Sau khi bà Teresa chết thì có một số sơ trước đây đã cộng tác với bà trong tổ chức "Thừa sai bác ái" đã tiết lộ nhiều chi tiết thuộc loại động trời. Thí dụ, sơ Susan Shields đã viết trong tờ Free Inquiry, số mùa đông 1998, tiết lộ rằng: Một phần nhiệm vụ của sơ là giúp trong việc giữ sổ sách về số tiền, lên đến nhiều triệu đô la, do những người có từ tâm đóng góp để bà Teresa làm việc "từ thiện" vì tin ở những lời tuyên truyền quảng cáo của dòng tu "Thừa sai bác ái", nhưng hầu hết những số tiền đó lại để trong nhiều ngân hàng khác nhau mà không dùng gì đến, trong khi các sơ hàng ngày phải đi ăn mày (beg) thức ăn của các thương gia địa phương, vì bà Teresa chủ trương "nghèo khổ" là một đức tính. Ngày nào xin không đủ thì các em mồ côi hoặc các bệnh nhân dưới sự "săn sóc" của hội "thừa sai bác ái" phải ăn đói. Đó là từ thiện hay sao? Với hàng triệu đô la nằm ì trong các ngân hàng mà bà Teresa vẫn thường xuyên kêu gọi đóng góp thêm cho công cuộc từ thiện của bà, thật là hoàn toàn vô nghĩa. (Judith Hayes trong The Happy Heretic, p. 66-67) Trước những tiết lộ trên của sơ Shields, một ký giả viết cho Knight Ridder, Clark Morphew, đã viết bài biện bạch cho bà Teresa, nhưng chính những lý luận biện bạch này lại càng làm sáng tỏ thực chất công cuộc "từ thiện" của bà Teresa. Morphew viết rằng bà Teresa tin rằng sự đau khổ của con người là một điều tốt, và ngừa thai bao giờ cũng sai. (..among Teresa's beliefs were the ideas that suffering is good and ..birth control is always wrong.); chủ tâm của bà Teresa không phải là xóa nghèo và nạn mù chữ. (wiping out poverty and illiteracy was not Teresa's focus). Morphew cũng còn viết là người ta sẽ tiếp tục chỉ trích bà Teresa cho đến khi có "một sự cải tiến sâu rộng" (criticism of Teresa will continue until "some serious reform comes about), và rằng sơ Nirmala, người thay thế bà Teresa điều hành dòng "thừa sai bác ái" có thể có những thay đổi rộng lớn. (Since Sister Nirmala had taken over the reigns as Teresa's successor, "grand changes could happen") Bình luận về những lời biện bạch trên của Clark Morphew, nữ học giả Judith Hayes đã đặt ra vài câu hỏi: Nếu những nhà thương của bà Teresa được tài trợ rộng rãi mà được điều hành một cách trôi chảy không có vấn đề gì, lương thiện và từ bi, thì tại sao lại cần phải có bất cứ sự cải tiến sâu rộng nào? và tại sao lại cần những thay đổi rộng lớn nếu không có sự sai lầm trong đó? Tác giả Judith Hayes còn phê phán: Tôi chưa từng nghe thấy một người nào có lòng từ bi mà nghĩ rằng sự đau khổ của con người là một điều tốt. Từ bi là đức tính tối thiểu của một người mà chúng ta cho là xứng đáng được phong Thánh. Nếu những điều Morphew viết là đúng thì chúng ta phải đặt bà Teresa đâu đó giữa sự tàn ác và ngu đần, mà hay thay, trong tự điển từ Thánh (Saint) nằm giữa 2 từ Tàn Ác (Sadistic) và Ngu Đần (Stupid). Tác giả đã chơi chữ ở đây: (If all of that is true, it places Teresa somewhere between "sadistic" and "stupid" which, interestingly, is where "saint" appears in the dictionary) Để hiểu rõ hơn con người của bà Teresa, sau đây là một số chi tiết trong cuốn The Missionary Position của Christopher Hitchens. Chúng ta hãy duyệt qua một số tư tưởng, quan niệm vĩ đại của Thánh Teresa. Trong khi ngồi trên hàng triệu đô-la ở trong các ngân hàng, bà Teresa bày tỏ quan niệm như sau: "Tôi nghĩ rằng thật là quá đẹp cho những người nghèo chấp nhận số phận của họ.. thế giới đang được phục vụ nhiều bởi sự đau khổ của những người nghèo" (Hitchens, p.11: Mother Teresa said: I think it is very beautiful for the poor to accept their lot...the world is being much helped by the suffering of the poor people). Tôi nghĩ đây là một quan niệm thần học tệ hại cần phải lên án trong một thế giới mà tất cả nỗ lực tập trung vào việc giảm nghèo, nâng cao đời sống của người dân. Đây là quan niệm, đúng hơn là sách lược ru ngủ của các thừa sai, tuyên dương sự nghèo khổ bảo đó là ý của Chúa. Tài liệu sau đây sẽ cho chúng ta thấy rõ vấn đề. Penny Lernoux viết trong cuốn Tiếng Kêu Than Của Người Dân (Cry of the People) như sau về sách lược truyền giáo ở Châu Mỹ La Tinh: "Từ lúc đầu, xã hội Mỹ - LaTinh được xây dựng giống như một Kim Tự Tháp, với vài người Âu Châu đến định cư và hưởng mọi quyền lợi của đế quốc, và quần chúng thổ dân, da đen, giai cấp thấp, không có một quyền nào. Cái tháp tồn tại được là vì khối nhân dân ở dưới đáy được nhắc nhở rằng họ ngu si, lười biếng, và thấp kém. Những nhà truyền giáo ngoại quốc góp phần nhồi vào đầu óc dân bản xứ ý tưởng là họ nghèo và ngu dốt là do ý muốn của Thiên Chúa. Như Tổng Giám Mục ở Lima dạy các thổ dân rằng: "Nghèo khổ là con đường chắc chắn nhất đi đến hạnh phúc." (hạnh phúc sau khi chết. TCN). Người thổ dân hay dân Phi Châu nào mà liều lĩnh nghi ngờ điều dạy khôn ngoan đó bằng cách chống lại hệ thống đều bị giết ngay.. Giáo hội Ca-Tô phải gánh rất nhiều trách nhiệm về tình trạng này" Tình trạng trên không chỉ có ở châu Mỹ - LaTinh mà chúng ta phải đau lòng mà nhận thực rằng nó cũng xảy ra trong một số ốc đảo Ca-Tô ở Việt Nam trong đó các linh mục ngoại quốc ngồi vênh váo trên kiệu do giáo dân hoặc "cu li" khênh, và giáo dân khúm núm thưa trước kiệu: "chúng con xin phép được lạy cha ạ". Ngu dân dễ trị. đó là sách lược cố hữu của giáo hội CaTô, và sách lược này cũng đã được thực hiện qua chương trình "từ thiện" và lòng bác ái của bà Teresa. Sau đây là thêm vài chi tiết khác để chứng minh. 1. Khi được hỏi là bà có đồng ý là ở Ấn Độ có quá nhiều trẻ con hay không, bà Teresa đã trả lời: "Tôi không đồng ý vì Thiên Chúa bao giờ cũng cung cấp đầy đủ" (Ibid., p. 30: I do not agree because God always provides). Câu trả lời là một câu mạ lỵ những người có đầu óc và có tình thương thực sự. Thật vậy sao? Nếu thực sự là có một Thiên Chúa có thể cung cấp đầy đủ cho tất cả thì thực trạng thế giới đã chứng tỏ là Thiên Chúa không muốn làm như vậy. Bà Teresa không hề biết là trên thế giới mỗi ngày có khoảng 40 ngàn trẻ con dưới 5 tuổi chết đói. Nếu Thiên Chúa cung cấp đầy đủ cho tất cả thì tại sao ngay trên đất Ấn Độ mà bà làm công việc "từ thiện" cũng có 423 triệu người sống trong sự tuyệt đối nghèo khổ (living in absolute poverty), 73 triệu trẻ em dưới 5 tuổi thiếu dinh dưỡng, và 350 triệu mù chữ? Lẽ dĩ nhiên, đối với bà thì Thiên Chúa quả là đã cung cấp đầy đủ, quá đầy đủ, vì bà ngồi trên đống tiền của thiên hạ đóng góp để bà làm việc "từ thiện". 2. Bà Teresa huấn luyện những sơ dưới quyền bà hỏi những bệnh nhân sắp chết là có muốn một "vé lên thiên đường" hay không? Nếu họ trả lời muốn thì sẽ có ngay một lễ rửa tội cấp bách để kéo họ vào trong Ca Tô Giáo Nếu chúng ta biết đến lời tuyên bố của giáo hoàng John Paul II là không làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây thì thiên đường của bà Teresa đúng là một thiên đường mù. Đó không phải là thiên đường của những người mù mắt mà là của những người mù quáng tin vào một điều mà ngày nay đã không còn chỗ đứng trong thế giới tiến bộ. 3. Có một bệnh nhân bị bệnh ung thư đang ở thời kỳ cuối, đau quằn quại, sắp chết, nhưng bà Teresa lại nhất định không cho họ thuốc đủ mạnh (tại sao??). Bà đến an ủi họ: "Con nên nghĩ rằng con cũng đang đau đớn như Chúa Giê-su đang bị đóng đinh trên thập giá; Chúa hẳn là đang hôn con đó" Bệnh nhân đó trả lời: "Vậy xin mẹ nói với ông ta là đừng hôn con nữa." ("You are suffering like Christ on the cross. So Jesus must be kissing you." To which the patient replied, "Then please tell him to stop kissing me"). Đối với tôi, trong vụ này, không những bà Teresa là một con người cuồng tín mà còn là ngu đần, tàn nhẫn, và sống xa thực tế. Bà thừa biết rằng không một người nào trên thế gian này lại muốn chịu khổ hình đau đớn như Chúa Giê-su trên thập giá và dù Giê-su có đang hôn thật đi chăng nữa thì cũng không làm cho bệnh nhân bớt đau hay khỏi bệnh. Bởi vậy cho nên bệnh nhân đã từ chối cái hôn của Giê-su. Nhưng hành động như trên của bà thực ra chỉ là một thủ đoạn ru ngủ lừa dối và hết sức đạo đức giả. Vì khi chính bà đau ốm thì bà lại vào những nhà thương Tây phương đắt tiền nhất để chữa trị. Năm 1989 bà đã được gắn một máy để cho tim đập điều hòa (pacemaker). Năm 1993 bà đã được thông một mạch máu bị tắc. Tại sao bà không chịu đựng những sự bất thường đau đớn trong cơ thể bà như là Chúa Giê-su chịu đựng trên thập giá. Tại sao bà không nghĩ rằng những khi bà bị bệnh đó chính là Chúa đang hôn bà? Tại sao bà phải vào những nhà thương đắt tiền nhất, có nhiều phương tiện tối tân nhất, để chữa trị cho bà, trong khi bà không chịu chữa trị đúng mức cho những bệnh nhân trong những nhà thương "từ thiện" của chính bà? Nếu bà muốn thì bà sẽ có đủ phương tiện trong các nhà thương "từ thiện" của bà, vì nhiều triệu đô la do những người hảo tâm đóng góp để cho bà làm việc "từ thiện" còn nằm ì trong các ngân hàng. Chúng ta nên nhớ, theo cấu trúc của Ca Tô Giáo Rô Ma thì những chương mục này thuộc tài sản của Vatican. Chúng ta cũng đừng quên là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã đệ đơn lên chính quyền Việt Nam đòi lại những cơ sở của Ca Tô Giáo ở Việt Nam (phần lớn là do ăn cướp đất Chùa trong thời đô hộ của thực dân Pháp, trong đó có đất của nhà thờ lớn Hà Nội, đất của nhà thờ Đức Bà ở Saigon, và đất của nhà thờ La Vang v..v.., và do chính quyền Ca Tô Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam lạm dụng cường quyền cấp cho) với luận cứ đó là tài sản thuộc Vatican. 4. Một ác cảnh khác trong các nhà thương "từ thiện" của bà Teresa không thể chấp nhận được là những sơ và những người thiện nguyện làm việc cho bà phải dùng đi dùng lại những ống chích không được tẩy trùng để chích những thuốc vô hiệu lực và thuốc trụ sinh không đủ mạnh cho các bệnh nhân khiến cho họ càng đau đớn trong cơn hấp hối. (Judith Hayes, p. 68: Her employees and volunteers used and reused unsterelized syringes to administer ineffective drugs and mild antibiotics to terminally ill people, who suffered the resulting agonies) Trước những sự thực phũ phàng về bộ mặt "từ thiện" thật của bà Teresa ở trên, tác giả Judith Hayes, người đã từng nổi tiếng với tác phẩm Chúng Ta Tin Thiên Chúa! Nhưng Là Thiên Chúa Nào? (In God We Trust! But Which One?), và cũng là người mà qua những phương tiện truyền thông của Giáo hội đã một thời tin rằng bà Teresa là một vị Thánh sống, sau khi biết rõ sự thực đã vạch trần mặt trái của bà Teresa trong cuốn The Happy Heretic. Sau đây là một số đoạn trong chương 2, trang 62-69, mục Một Khoa Học Gia Và Một Thánh (A Scientist And A Saint), bình luận về giới truyền thông trước cái chết của Carl Sagan (1996) và Teresa (1997). Tôi xin bỏ qua những đoạn viết về khoa học gia Carl Sagan vì tôi cho rằng không thể so sánh Teresa với Carl Sagan: Teresa chỉ nhìn về quá khứ, thời mà người ta cho rằng các phù thủy là có thực, và những chuyện đuổi quỷ ám ra khỏi con người là có nghĩa. Chúng ta không thể tự cho phép nhìn về phía sau. Cảnh xun xoe tán tụng Mẹ Teresa trên khắp thế giới là cơn ác mộng của một người theo chủ nghĩa nhân bản. Ký giả chen lấn nhau để giành lấy máy vi âm và tìm những danh từ quá mức để mô tả cái người gốc Macedonie (Teresa) không có gì nổi bật, đầu óc ở trên mây, với tâm cảnh thuộc thế kỷ thứ 9 này... Thật là một sự tôn sùng nồng nhiệt không nhằm chỗ. Chút ít điều tốt bà làm chẳng đáng gì so với những số tác hại không thể tính được mà bà đã làm. Tài nguyên trên trái đất thì hữu hạn, bất kể đến lập trường đà điểu của Giáo hội Ca-Tô, và chúng ta phải nhìn về tương lai, xử dụng mọi phương tiện khoa học mà chúng ta có, để tránh tai họa đang đe dọa. Điều này gồm có việc ngừa thai một cách khá dễ dàng. Sự đau khổ mà chúng ta có thể phòng ngừa qua phương pháp ngừa thai này thật là vô lượng. Do đó chúng ta không được nhìn về dĩ vãng, cúi đầu trong những lời cầu nguyện vô vọng, trong khi con cháu chúng ta chết. Bà ta thường xuyên rao giảng chống kiểm soát sinh đẻ ngay cả khi xung quanh có những trẻ em chết đói. Khi người ta phỏng đoán về việc phong Thánh cho bà Teresa, người ta đã bàn cãi nhiều về bằng chứng của những phép lạ, một điều kiện để được phong Thánh. Nhưng tôi nói rằng có một bằng chứng rõ ràng về một phép lạ của bà Teresa. Đó là bà đã xoay sở thuyết phục được hàng triệu người tin rằng bà ta là đồ tốt cho nhân loại. Những hoạt động thuộc thời Trung Cổ của bà được gói ghém lại và bán cho nhân loại như là một lợi ích thế gian, thay vì thực chất của chúng là cản trở, ngăn chận sự tiến bộ của con người. Đối với những người theo chủ nghĩa nhân bản, chức vị Thánh thật chẵng có nghĩa gì. Riêng tôi, tôi không tìm thấy bất cứ cái gì trong đời sống hoặc ký ức của bà Teresa để mà tôn kính, xét đến sự đau khổ mà bà ta đã tạo ra cho hàng triệu người. "Nhân danh Thiên Chúa" bà Teresa đã thu được hàng triệu đô la rồi vội vàng dấu kín nó đi như một con sóc để dành thức ăn cho mùa Đông. "Nhân danh Thiên Chúa", bà ta cũng cải đạo nhiều người trước khi họ tắt hơi... Tôi tự hỏi, trong cái tầm nhìn thô thiển của bà ta, có phải là bất cứ bà làm điều gì cho Thiên Chúa là để cho bà được điểm cao (như các em hướng đạo sinh đi bán bánh kẹo, ai bán được nhiều thì được đoàn trưởng gắn huy chương khen thưởng. TCN) trong đời sau. Có lẽ đối với bà ta thế giới này không hề có một ý nghĩa nào, chẳng qua chỉ là cái mê hồn trận thách đố của Thiên Chúa để quyết định xem ai chiếm được mẩu tốt nhất trên thiên đường. Nếu thật là như vậy thì chúng ta có thể giải thích, vì không có gì khác có thể giải thích được, tại sao bà ta có thể nhẫn tâm ngồi trên nhiều triệu đô la như vậy trong khi trẻ con, ngay cả ở nơi bà hoạt động ở Ấn Độ, đang chết đói. Điều này chống lại mọi giải thích hợp lý, và tôi thách đố bất cứ ai, từ Morphew cho đến chính giáo hoàng, có thể giải thích được sự kiện đó. Hiển nhiên là mục đích của bà ta là vơ vét tích tụ tiền bạc. Để làm gì, ai muốn đoán sao thì đoán.. Thật là lạ lùng, không có ai vạch trần những hoạt động đáng nghi ngờ của bà Teresa sớm hơn. Mà chúng ta ai cũng biết chuyện các linh mục hiếp dâm các trẻ em trai, có phải không - vậy tại sao mà những chuyện về bà Tewresa để quá lâu mới bị phanh phui? Câu trả lời thật là đơn giản, Giáo hội Ca Tô Rô Ma có những quyền lực hăm dọa thật đáng sợ. Cho đến khi tác phẩm có tác dụng mở mắt con người của Christopher Hitchen xuất bản năm 1995, cuốn The Missionary Position, tôi không hề biết gì về những hoạt động trong những "nhà thương" của bà Teresa. Cũng như mọi người khác, tôi nghĩ rằng bà ta là một Thánh sống. Tôi đã lầm. Bất kể động cơ hành động của người đàn bà ở Calcutta kia (Teresa) là như thế nào, tôi đã thấy quá đủ những sự đau khổ trong những người đã phải khủng khiếp trùn lại với tư tưởng của bà Teresa: đau khổ là một điều tốt. Đau khổ không bao giờ là một điều tốt. Nhất là ngày nay, khi chúng ta có khả năng làm giảm đi khá nhiều sự đau đớn, hình ảnh tâm thần của những người bất hạnh bị vào một "nhà thương" của bà Teresa thật là đáng buồn và đáng giận. Thực ra thì những hành động của bà Teresa được phanh phui ở trên cũng không lấy gì làm khó hiểu vì chúng nằm trong sách lược đi kiếm linh hồn cho Chúa của Giáo hội trên khắp thế giới. Nếu chúng ta theo rõi những vụ kiện các cơ sở từ thiện, viện mồ côi của Ca Tô Giáo ở Canada, Mỹ, và Úc Châu v..v.. thì chúng ta sẽ không lấy gì làm lạ trước những hành động "bác ái" của bà Teresa ở Calcutta. B. S. Rajneesh, tác giả cuốn Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn (Priests & Politicians: The Mafia of the Soul), đã viết như sau, trang 25: Nếu con người nghèo đói, họ có thể dễ bị dụ vào Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca Tô Giáo. Những trường học, nhà thương, và viện mồ côi của họ chẳng qua cũng chỉ là những xưởng để dụ người ta trở thành tín đồ Ca Tô (If people are poor and hungry, they can be easily converted to Christianity, particularly into the Catholic Church. Their schools, their hospitals, their orphanages are nothing but factories for converting people into Catholics).
Rajneesh đã không nhắc đến sự kiện là với những sự trợ cấp của chính phủ và sự đóng góp của những người có từ tâm, nhiều cơ sở "từ thiện" đã là những nguồn kinh tài cho giáo hội, vơ vét tiền bạc trên sự đau khổ của các trẻ em mồ côi và những người xấu số. Sơ Lê Thị Tríu ở Phi Luật Tân cũng đã hốt được 2 triệu đô-la để thành lập làng Việt Nam ma ở Phi Luật Tân. Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm một sự kiện về những tổ chức "từ thiện" của Vatican. Sách vở, báo chí và TV Âu Mỹ đã phanh phui ra vụ Vatican dùng những cơ quan từ thiện như Caritas International, Red Cross và một số tu viện làm những đường giây gọi là "Giây chuột" (Ratlines) với những dịch vụ như cấp căn cước giả, thông hành giả, tài chánh v..v.. cho nhiều tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã ẩn náu trong các tu viện chờ cơ hội chuồn sang Nam Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình (Argentina). Ngoài ra, trong vụ lụt lớn ở miền Trung Việt Nam năm 1999, dân VN di cư cũng như dân chúng trong nước đã quyên góp tiền cứu trợ lên đến nhiều triệu đô-la, trong khi Vatican, với tài sản hàng ngàn tỷ đô-la, nghe đâu chỉ góp cứu dân nạn lụt có 1, 2 trăm ngàn đô-la. và gửi về các cơ sở Ca Tô để cho giới chăn chiên và các bà sơ giúp các con chiên mà thôi. Người Ca-Tô thường mang ra khoe những việc "từ thiện" của giáo hội dù rằng họ không biết rõ thực chất của những công việc "từ thiện" này ra sao. Họ chỉ nhắc lại những lời tuyên truyền của giáo hội, có ít thì xít ra nhiều. Không ai có thể phủ nhận là trong Ca Tô Giáo Rô-Ma có rất nhiều người tốt, vì bản tính của họ tốt, chứ không phải vì Ca Tô Giáo mà họ tốt. Nếu cho rằng vì Ca Tô Giáo mà họ tốt thì chẳng hóa ra ngoài Ca Tô Giáo không có ai tốt hay sao? Nhiều người vô thần cũng tốt vậy thôi. Chúng ta không nên nghĩ rằng vô thần là CS bởi vì vô thần đã có cả hơn ngàn năm nay. Cho nên, chuyện các linh mục hay bà sơ săn sóc người cùi v..v.. cũng có gì là đặc biệt đâu? Những công việc từ thiện như vậy đâu phải chỉ mình Ca Tô Giáo mới có? Trước khi Ca Tô Giáo ra đời, trên thế gian này cũng đã có bao nhiêu là cơ sở từ thiện được lập ra, do chính quyền cũng như do cá nhân. Vậy có gì đâu mà phải mang ra mà khoe? Chỉ có một điều khác, người ta làm việc từ thiện là do từ tâm, còn Ca Tô Giáo làm việc từ thiện để quảng cáo, kiếm tiền và kiếm linh hồn cho Chúa. Trong vụ lụt năm 1999 ở Việt Nam, chúng ta thử so sánh những công tác cứu lụt của Phật Giáo, của chính quyền "vô thần", và của Ca Tô Giáo xem nó như thế nào? Phật giáo có coi việc đó là thánh thiện đâu? Đó chỉ là bổn phận giữa con người và con người, không có tính toán, không có mưu đồ kiếm thêm tín đồ. Để kết luận tôi xin có vài lời tâm sự cùng quý vị trí thức Ca Tô Việt Nam như sau: Diễn đàn hải ngoại không phải là các giáo xứ trong đó các tín đồ Ca Tô Việt Nam chỉ có quyền "bảo sao nghe vậy". Cho nên, mỗi khi quý vị viết cái gì thì hãy suy nghĩ cho kỹ, đừng quá coi thường độc giả, nhất là những độc giả không phải là tín đồ Ca Tô Giáo Rô Ma. Một mặt khác, như trên đã nói, quý vị bị trói buộc trong mớ xiềng xích trí tuệ và giam giữ trong những ốc đảo tối tăm của kiến thức. Chúng tôi chỉ có một mục đích là giúp quý vị cởi trói, vứt bỏ mớ xiềng xích trí tuệ làm hạ phẩm giá con người, và mong cầu cho quý vị thấy được chút ánh sáng ngoài các ốc đảo kiến thức mà quý vị đang sống trong đó, bằng cách đưa ra mặt trái của các vấn đề mà có thể quý vị chưa bao giờ biết đến hoặc được dạy là không nên biết đến, vì biết đến là mang tội với Chúa. Vậy thay vì trách chúng tôi là chống đạo hay phá đạo hay gây chia rẽ, quý vị, nếu thực là các bậc trí thức, hãy xử dụng đầu óc để suy nghĩ xem những điều chúng tôi viết ra là sự thực hay chỉ là những điều bịa đặt. Suy nghĩ xong rồi, rất có thể quý vị sẽ cám ơn chúng tôi vì đã cất bỏ cho quý vị một gánh nặng mặc cảm trên vai. Ai cũng biết Giáo hội Ca-Tô Rô-Ma là một tổ chức giàu có nhất thế giới với đầy đủ các phương tiện truyền thông để tạo nên một hình ảnh của Giáo hoàng hay của một "Thánh nhân" như bà Teresa, mà giáo hội muốn cho quần chúng, và nhất là những tín đồ ở các nước kém mở mang, phải tin và tôn thờ. Nhưng ở cái xứ Mỹ này thì không gì có thể qua mắt được những chuyên gia đầy đủ khả năng về mọi vấn đề, những người có tinh thần tôn trọng tuyệt đối sự thực và quyền tự do phát biểu ý kiến. Cho nên, thường thường trước sau gì rồi sự thực cũng phải được phơi bày. Cổ nhân đã dạy: muốn cho người khác không biết thì đừng có làm. Chân lý này không bao giờ thay đổi. Trần Chung Ngọc Tháng 9, 2001
Phụ đề về Mẹ Teresa Tinh Đẩu
Agnes Gonxha Bojaxhiu (Miss mother-Teresa at young) Trong tháng Tám năm nay (2001), ông Tổng Giám mục Ca tô La mã ở Calcutta, Ấn độ cho biết sẽ đệ trình với Vatican một phúc trình dày 75 ngàn trang để hoàn tất thủ tục phong Thánh cho Mẹ Teresa. Đây là một số lượng tài liệu khổng lồ về hoạt động của một cá nhân. Cứ tưởng tượng có một ông Hồng y nào đó - Nguyễn văn Thuận chẳng hạn, một ngày ngồi đọc 100 trang tài liệu, thì phải mất hơn hai năm mới hoàn tất, chưa kể tới sự cứu xét thông qua hay phải điều tra xem thử sự kiện được báo cáo đúng hay sai. Dĩ nhiên một người được phong thánh, không phải chỉ vì hành động từ thiện đơn thuần mà còn phải vì lợi ích thiết thực cho tôn giáo của Vatican. Làm việc từ thiện là một đức tính từ bi, bác ái, thương người khốn khó hoạn nạn của một cá nhân, đoàn thể hay tổ chức. Đối với tâm lý chung của con người, ai cũng muốn làm công việc từ thiện để tự mãn với lòng tốt của mình, nếu hành động "bố thí" không đòi hỏi sự hy sinh, vật chất của cải của chính bản thân. Trong Phật giáo hạnh bố thí còn được coi là hạnh Bồ Tát. Nhưng của bố thí phải xuất phát từ một nguồn gốc lương thiện bằng mồ hôi và sức lao động của tha nhân. Lấy của bố thí từ những kẻ ăn cắp, lường gạt con người là một tội phạm đồng lõa. Của càng lớn, càng quy mô thì mức độ tội phạm càng to lớn. Nếu hành động từ thiện là một tổ chức quy mô thu góp tiền bạc từ một tổ chức tội phạm quy mô, thì cả hai "thể nhân" phải liên đới chịu trách nhiệm trước luật pháp xã hội và lương tâm nhân loại. Chúng tôi không có ý định bàn về "triết lý từ thiện" của Mẹ Teresa mà chỉ đề cập đến một vài tính cách thu góp tiền bạc của bà từ hồi bà còn sống, như một thực chứng ( de facto ) mang tính tiêu biểu, điển hình và phổ biến trong các hoạt động từ thiện của Mẹ Teresa. Thông thường, nếu Mẹ Teresa muốn cho một nhân vật nào đó mang những yếu tố "thuận lợi" thì chỉ việc chịu khó bỏ ít thì giờ chụp chung với người đó vài tấm hình với sự dàn cảnh thật khéo léo, và hình được đăng báo rầm lên, là qủa nhiên người ấy về sau nhận tiền quyên góp vì lý do từ thiện rất dễ dàng. Thủ thuật ấy xem chừng như là rất lương thiện. Nhưng khả năng tích tụ "góp gió thành bão" khó mang lại kết quả từ những công thức cứng nhắc; nó đòi hỏi những hình thức nhận tiền trực tiếp đơn giản hơn, nhưng chấp nhận sự rủi ro hay phó mặc ( laissez-faire ) nguồn gốc bất lương thiện. Đó là trường hợp Mẹ Teresa đã nhận tiền của Charles Keating. Ông Keating nay đã lãnh 10 năm tù ở, như một phần của bản án qua scandal tài chính Savings and Loan. Không ai hồ nghi gì nữa, nó là một vụ lường gạt tài chính lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Keating là ai ? -Là một tín đồ Công giáo cực đoan, bảo thủ, rất có tham vọng chính trị và tiền tài; điều đáng nực cười Keating đã từng là thành viên trong Uỷ ban điều tra về tác dụng tai hại cho xã hội của các "văn hóa phẩm con heo" dưới thời Richard Nixon. Đầu thập niên 80 dưới thời Reagan, cùng chung với một bộ phận điều hành cơ sở cho vay Savings and Loan, Keating tự thụt két trọn vẹn tất cả những số tiền bỏ vốn đầu tư của các thân chủ. Dư luận dạo ấy còn bàn tán thêm về cụm từ lạ tai "Ngũ nhân bang Keating" ( The Keating Five) bởi có 5 ông Thượng nghị sĩ khi nào cũng che chở cho Keating từ sự hậu hỉ nhận được tiền donation trong các dịp vận động bỏ phiếu. Ở thời kỳ cao nhất của mức thành công như một "kẻ ăn cắp", Keating "cúng" cho Mẹ Teresa một số tiền là 1 triệu 250 ngàn đô la (in the sum of one and a quarter million dollars). Chưa đủ, Keating còn bảo đảm Mẹ sẽ được sử dụng máy bay phản lực riêng của y. Có qua có lại, Keating được ân sủng của Mẹ bằng một chiếc thánh-giá-nhân-cách-hóa (personalized crucifix), được nhân danh Mẹ để hành động trong bất cứ một "cơ hội cần thiết" nào. Dịch vụ hợp tác bất thành văn giữa hai bên cứ êm trôi cho đến năm 1992, nội vụ đổ bể và Keating bị truy tố trước Tòa án Tối cao ở Los Angeles ( bộ phận "Lincoln savings and Loan" của Keating phần lớn hoạt động ở California ). Giữa thời gian diễn tiến pháp lý nội vụ, Mẹ Teresa viết một lá thư cho Chánh án Lance Ito (người đứng xử vụ án O.J. Simpson vang tiếng một thời) có nội dung như sau: Thưa Ngài Lance Ito, Chúng tôi không muốn quậy vào công việc business, chính trị, hay đáo tụng đình. Công tác của chúng tôi là Truyền Giáo vụ Từ thiện, dâng hết cả tấm lòng và cho không đến những kẻ nghèo khó nhất trong những người nghèo. Tôi chẳng biết một chút gì về công việc của ông Charles Keating, kể cả những sự việc mà ngài đang phải đương đầu. Tôi chỉ có biết rằng ông ta là người rất tốt bụng và hảo tâm với những kẻ nghèo khó của Chúa, và luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi có nhu cầu. Chính vì cái lý do này mà tôi không muốn quên ông trong lúc ông ta và gia đình đang đau khổ. Chúa Giê-su từng nói rằng 'Những gì mà ngươi đã làm cho đồ đệ yếu kém nhất của ta... thì ngươi đã làm cho Ta vậy.'. Ông Keating đã từng giúp đỡ cho người nghèo khó, là duyên cớ mà tôi vì ông để viết thư cho ngài. Nhà bình luận Christopher Hitchens đã cho rằng lá thư của Mẹ Teresa đáng được lãnh giải Nobel về diễn văn về cái tài sử dụng "xảo thuật" ngôn từ. Chánh án Lance Ito không trả lời; nhưng Paul Turley - Phó Biện lý của quận Los Angeles , đồng Công tố viên với Ito; với tư cách công dân đã trả lời cho Mẹ Teresa như sau: Mẹ Teresa mến, Tôi là một Phó Biện lý quận Los Angeles, một trong công tố viên truy tố ông Charles H. Keating, Jr., một 'thí chủ' của bà. Tôi đã đọc lá thư bà gởi cho Chánh án Lance Ito, nhân danh ông Keating. Lá thư cho thấy bà đã không biết gì về các hoạt động tội phạm của ông Keating. Tôi viết thư này để cung cấp một giải thích ngắn gọn về các tội ác mà ông Keating đã gây nên, cho bà một sự hiểu biết về nguồn gốc các số tiền mà Keating đã 'cúng' cho bà, và đề nghị rằng vì đạo lý bà nên hoàn trả lại các số tiền đó cho các thân chủ. Ông Keating đã bị bắt vì tội lường gạt 17 thể nhân của hơn 900 ngàn đô la. Ông Charles Keating đã ăn cắp một số tiền 252 triệu đô la, trong số 17 thể nhân đó đã đại diện cho 17 ngàn thể nhân khác. Hành vi gian lận độc đáo của Keating từ những số tiền các thân chủ đã đầu tư mua trái phiếu trong công ty của ông ta, và ông đã tạo ra những tài liệu giả mạo để cho các thân chủ tin tưởng rằng mình đã đầu tư vào nơi an toàn và ít rủi ro. Qua các bằng chứng của sự thật, các số tiền này đã cung ứng cho Keating một lối sống ăn chơi phung phí, đàng điếm. Nạn nhân của Keating bao gồm mọi thành phần xã hội. Một số giàu có và có học vấn cao. Nhưng đa số là những thành phần chỉ có phương tiện khiêm nhường, không quen thuộc với số tiền lớn. Chẳng hạn, phải kể đến, một người thợ mộc chẳng biết nói tiếng Anh đã bị Keating gian lận đánh cắp luôn cả số tiền để dành dài hạn. Khẩu hiệu thánh kinh của tổ chức bà nói rằng "Chừng nào mà ngươi đà làm việc ấy cho những đồ đệ yếu kém nhất của Ta, ngươi cũng đã làm điều ấy cho Ta.". Thì "những kẻ yếu kém nhất" ấy chính là những người mà Keating đã lường gạt không chút nao núng. Như bà đã quá rõ, "ơn tha thứ" khi nào cũng có sẵn cho tất cả mọi người, nhưng "ơn tha thứ" phải đặt trước một sự nhìn nhận tội lỗi. Ông Keating đã không những không nhìn nhận tội ác của mình mà còn đổ quấy tội ác cho kẻ khác bằng những hành vi bất chính. Kinh nghiệm của bà về những kẻ nghèo khó, thật đáng ngưỡng mộ. Nhưng kinh nghiệm của tôi thuộc về những kẻ tội phạm đi lường gạt. Không phải là chuyện bất thường, khi kẻ tội phạm thường tỏ ra tử tế với gia đình, bằng hữu hay sự từ thiện. Có thể rằng chính sự tử tế này sẽ mua lấy tình thương, sự kính trọng và tha thứ. Tuy vậy, thời gian đi mua sự "xá tội" (indulgences) là phương pháp được chấp nhận để kiếm tìm sự tha thứ đã chết theo thời đại Cải Cách rồi . Không một giáo hội, một cơ quan từ thiện, một tổ chức nào còn được cho phép đứng ra "cứu rỗi" cho ý thức tội phạm. Chúng tôi biết ơn nếu quả sự tha thứ ấy vẫn còn tồn tạo, nhưng chúng tôi phải thi hành bổn phận. Chúng tôi, bao gồm cả Chánh án và Bồi thẩm đoàn. Tôi tự nhắc nhở tôi những cảnh cáo từ thánh kinh. Paul Turley Qua hai lá thư trao đổi giữa một người đứng đầu một tổ chưc từ thiện lớn nhất của Giáo hội Ca tô La mã và một người đại diện luật pháp bình thường của một quận trong tiểu bang California, chúng ta thấy rõ nhân cách đạo đức của từng người một. Bà Mẹ Teresa nay đã trở thành cát bụi và đang chuẩn bị trở thành Thánh sau sự chuẩn phê cuối cùng của Giáo hoàng John Paul II; thuở còn sống bà đã nhận bao nhiêu tiền từ nguồn gốc tội ác chúng ta chưa có điều kiện để công bố; mức độ bà tiếp tay và nuôi dưỡng tội phạm của bà chúng ta chưa thu thập hết dữ kiện. Nhưng, đưa ra bằng chứng này là để cho những tín đồ Việt Ca tô La mã thấy, giờ này mà còn đem Mẹ Teresa ra để chứng minh cho lòng thánh thiện của những người con Giáo hội là một việc bé cái lầm. Sự lầm lẫn ấy xuất phát do sự không hiểu biết gì về các vấn đề thời sự đã và đang xảy ra trong thế giới chung quanh mình. Tinh Đẩu 21.9.01 Documents: 1.Thư của Mẹ Teresa: MISSIONARIES OF CHARITY "As long as you did it to one of these My least bretheren. You did it to Me" Honorable Lance Ito Superior Court 210 West Temple St. Detpt. 123, 13th Floor Los Angeles, Ca. 90012 Dear Honorable Lance Ito, We do not mix up in Business or Politicts or courts. Our work, as Missionaries of Charity is to give wholehearted and free service to the poorest of the poor. I do not know anything about Mr. Charles Keating's work or his business or the matters you are dealing with. I only know that he has alway been kind and generous to God's poor, and always ready to help whenever there was a need. It is for this reason that I do not want to forget him now while he and his family are suffering. Jesus has told us "Whatever you do to the least of my brethern ... YOU DID IT TO ME. Mr. Keating has done each to help the poor, which is why I am writing to you on his behalf. Whenever someone asks me to speak to a judge, I always tell them the same thing. I ask them to pray, to look into thier heart, and to do what Jesus would do in that circumstance. And this is what I am asking of you, your Honor. My gratitude to you is my prayer for you, and your work, your family and the people with whom you are working. God bless you M. Teresa Documents: 2.Thư của Phó Biện lý Paul Turley: Dear Mother Teresa: I am a Deputy District Attorney in Los Angeles County and one of the persons who worked on the prosecution of your benefactor, Charles H. Keating, Jr. I read your letter to Judge Ito, written on behalf of Mr. Keating, which includes your admission that you know nothing about Mr. Keating's business or the criminal charges presented to Judge Ito. I am writing to you to provide a brief explanation of the crimes of which Mr. Keating has been convicted, to give you an understanding of the source of the money that Mr. Keating gave to you, and to suggest that you perform the moral and ethical act of returning the money to its rightful owners. Mr. Keating was convicted of defrauding 17 individuals of more than $900,000. These 17 persons were representative of 17,000 individuals from whom Mr. Keating stole $252,000,000. Mr. Keating's specific acts of fraud were that he was the source of a series of fraudulent representations made to persons who bought bonds from his company and he also was the repository of crucial information which he chose to withhold from bond purchasers, thereby luring his victims into believing they were making a safe, low-risk investment. In truth and in fact, their money was being used to fund Mr. Keating's exorbitant and extravagant lifestyle. The victims of Mr. Keating's fraud come from a wide spectrum of society. Some were wealthy and well-educated. Most were people of modest means and unfamiliar with high finance. One was, indeed, a poor carpenter who did not speak English and had his life savings stolen by Mr. Keating's fraud. The biblical slogan of your organization is 'As long as you did it to one of these My least brethren. You did it to Me'. The 'least' of the brethren are among those whom Mr. Keating fleeced without flinching. As you well know, divine forgiveness is available to all, but forgiveness must be preceded by admission of sin. Not only has Mr. Keating failed to admit his sins and his crimes, he persists in self-righteously blaming others for his own misdeeds. Your experience is, admirably, with the poor. My experience has been with the 'con' man and the perpetrator of the fraud. It is not uncommon for 'con' men to be generous with family, friends and charities. Perhaps they believe that their generosity will purchase love, respect or forgiveness. However, the time when the purchase of 'indulgences' was an acceptable method of seeking forgiveness died with the Reformation. No church, no charity, no organization should allow itself to be used as salve for the conscience of the criminal. We all are grateful that forgiveness is available but we all, also, must perform our duty. That includes the Judge and the Jury. I remind myself of the biblical admonition Paul Turley Mother Teresa's Crisis of Faith https://www.time.com/time/world/article/0,8599,1655415,00.html
Mother Teresa in a Calcutta orphanage, 1979. Bettmann / Corbisis
Jesus has a very
special love for you. As for me, the silence and the emptiness is so great that
I look and do not see, listen and do not hear. Related Articles Photos: The Saint of the Gutters Celebrating the life and work of Blessed Teresa of Calcutta On Dec. 11, 1979, Mother Teresa, the "Saint of the Gutters," went to Oslo. Dressed in her signature blue-bordered sari and shod in sandals despite below-zero temperatures, the former Agnes Bojaxhiu received that ultimate worldly accolade, the Nobel Peace Prize. In her acceptance lecture, Teresa, whose Missionaries of Charity had grown from a one-woman folly in Calcutta in 1948 into a global beacon of self-abnegating care, delivered the kind of message the world had come to expect from her. "It is not enough for us to say, 'I love God, but I do not love my neighbor,'" she said, since in dying on the Cross, God had "[made] himself the hungry one — the naked one — the homeless one." Jesus' hunger, she said, is what "you and I must find" and alleviate. She condemned abortion and bemoaned youthful drug addiction in the West. Finally, she suggested that the upcoming Christmas holiday should remind the world "that radiating joy is real" because Christ is everywhere — "Christ in our hearts, Christ in the poor we meet, Christ in the smile we give and in the smile that we receive." Yet less than three months earlier, in a letter to a spiritual confidant, the Rev. Michael van der Peet, that is only now being made public, she wrote with weary familiarity of a different Christ, an absent one. "Jesus has a very special love for you," she assured Van der Peet. "[But] as for me, the silence and the emptiness is so great, that I look and do not see, — Listen and do not hear — the tongue moves [in prayer] but does not speak ... I want you to pray for me — that I let Him have [a] free hand." The two statements, 11 weeks apart, are extravagantly dissonant. The first is typical of the woman the world thought it knew. The second sounds as though it had wandered in from some 1950s existentialist drama. Together they suggest a startling portrait in self-contradiction — that one of the great human icons of the past 100 years, whose remarkable deeds seemed inextricably connected to her closeness to God and who was routinely observed in silent and seemingly peaceful prayer by her associates as well as the television camera, was living out a very different spiritual reality privately, an arid landscape from which the deity had disappeared. And in fact, that appears to be the case. A new, innocuously titled book, Mother Teresa: Come Be My Light (Doubleday), consisting primarily of correspondence between Teresa and her confessors and superiors over a period of 66 years, provides the spiritual counterpoint to a life known mostly through its works. The letters, many of them preserved against her wishes (she had requested that they be destroyed but was overruled by her church), reveal that for the last nearly half-century of her life she felt no presence of God whatsoever — or, as the book's compiler and editor, the Rev. Brian Kolodiejchuk, writes, "neither in her heart or in the eucharist." That absence seems to have started at almost precisely the time she began tending the poor and dying in Calcutta, and — except for a five-week break in 1959 — never abated. Although perpetually cheery in public, the Teresa of the letters lived in a state of deep and abiding spiritual pain. In more than 40 communications, many of which have never before been published, she bemoans the "dryness," "darkness," "loneliness" and "torture" she is undergoing. She compares the experience to hell and at one point says it has driven her to doubt the existence of heaven and even of God. She is acutely aware of the discrepancy between her inner state and her public demeanor. "The smile," she writes, is "a mask" or "a cloak that covers everything." Similarly, she wonders whether she is engaged in verbal deception. "I spoke as if my very heart was in love with God — tender, personal love," she remarks to an adviser. "If you were [there], you would have said, 'What hypocrisy.'" Says the Rev. James Martin, an editor at the Jesuit magazine America and the author of My Life with the Saints, a book that dealt with far briefer reports in 2003 of Teresa's doubts: "I've never read a saint's life where the saint has such an intense spiritual darkness. No one knew she was that tormented." Recalls Kolodiejchuk, Come Be My Light's editor: "I read one letter to the Sisters [of Teresa's Missionaries of Charity], and their mouths just dropped open. It will give a whole new dimension to the way people understand her." The book is hardly the work of some antireligious investigative reporter who Dumpster-dived for Teresa's correspondence. Kolodiejchuk, a senior Missionaries of Charity member, is her postulator, responsible for petitioning for her sainthood and collecting the supporting materials. (Thus far she has been beatified; the next step is canonization.) The letters in the book were gathered as part of that process. The church anticipates spiritually fallow periods. Indeed, the Spanish mystic St. John of the Cross in the 16th century coined the term the "dark night" of the soul to describe a characteristic stage in the growth of some spiritual masters. Teresa's may be the most extensive such case on record. (The "dark night" of the 18th century mystic St. Paul of the Cross lasted 45 years; he ultimately recovered.) Yet Kolodiejchuk sees it in St. John's context, as darkness within faith. Teresa found ways, starting in the early 1960s, to live with it and abandoned neither her belief nor her work. Kolodiejchuk produced the book as proof of the faith-filled perseverance that he sees as her most spiritually heroic act. Two very different Catholics predict that the book will be a landmark. The Rev. Matthew Lamb, chairman of the theology department at the conservative Ave Maria University in Florida, thinks Come Be My Light will eventually rank with St. Augustine's Confessions and Thomas Merton's The Seven Storey Mountain as an autobiography of spiritual ascent. Martin of America, a much more liberal institution, calls the book "a new ministry for Mother Teresa, a written ministry of her interior life," and says, "It may be remembered as just as important as her ministry to the poor. It would be a ministry to people who had experienced some doubt, some absence of God in their lives. And you know who that is? Everybody. Atheists, doubters, seekers, believers, everyone." Not all atheists and doubters will agree. Both Kolodiejchuk and Martin assume that Teresa's inability to perceive Christ in her life did not mean he wasn't there. In fact, they see his absence as part of the divine gift that enabled her to do great work. But to the U.S.'s increasingly assertive cadre of atheists, that argument will seem absurd. They will see the book's Teresa more like the woman in the archetypal country-and-western song who holds a torch for her husband 30 years after he left to buy a pack of cigarettes and never returned. Says Christopher Hitchens, author of The Missionary Position, a scathing polemic on Teresa, and more recently of the atheist manifesto God Is Not Great: "She was no more exempt from the realization that religion is a human fabrication than any other person, and that her attempted cure was more and more professions of faith could only have deepened the pit that she had dug for herself." Meanwhile, some familiar with the smiling mother's extraordinary drive may diagnose her condition less as a gift of God than as a subconscious attempt at the most radical kind of humility: she punished herself with a crippling failure to counterbalance her great successes. Come Be My Light is that rare thing, a posthumous autobiography that could cause a wholesale reconsideration of a major public figure — one way or another. It raises questions about God and faith, the engine behind great achievement, and the persistence of love, divine and human. That it does so not in any organized, intentional form but as a hodgepodge of desperate notes not intended for daylight should leave readers only more convinced that it is authentic — and that they are, somewhat shockingly, touching the true inner life of a modern saint. https://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,364433,00.html
Các Emails khác |