Kỳ 14: VNCH Hiểu Lầm Căn Cước Của Mình - Qua Bài Viết Của Ông Lâm Lễ Trinh

Bài nói chuyện kỳ 14:

VNCH Hiểu Lầm Căn Cước Của Mình - Qua Bài Viết Của Ông Lâm Lễ Trinh

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/NMQ91.php

10-Jan-2018

LTS: Trước khi đọc bài dưới đây, xin giới thiệu sơ lược nhân vật Lâm Lễ Trinh trước năm 1975 qua tiểu sử đăng ở Diễn Đàn Người Dân Việt Nam: Chánh Nhất Tòa Thượng thẩm Saigon, Bộ trưởng Nội vụ (1955-1959) của Chính Phủ Ngô Đình Diệm. Đại sứ VNCH tại Trung Đông và Ý Đai lợi (1960- 1964). Luật sư Tòa Thượng Thẩm Saigon, Giáo sư Học viện Quốc gia Hành chính, và trường Chính trị Kinh Doanh Đà Lạt (1965-1975).

Bài của ông Lâm Lễ Trinh đề cập ở đây, viết năm 2001, nói về một loạt phim về chiến tranh Việt Nam được chiếu trên truyền hình ở Mỹ mang tên "Vietnam, A Televised History". Vì ông không nói rõ xuất xứ của phim nên chúng tôi không rõ. Nhưng thời gian mà ông nói đến, vài năm trước năm 2001 có loạt phim truyền hình mang tên "Vietnam - A Television History" của Richard Ellison làm việc chung với sử gia Stanley Karnow, được chiếu trên đài PBS khoảng cuối năm 1983. 11 trong 13 tập này lại được chiếu trong loạt phim Kinh nghiệm của người Mỹ (American Experience) từ ngày 26 tháng 5 đến 28 tháng 7 năm 1997. Ngày nay người ta đã cho loạt phim đó vào băng nhựa VHS như trong ảnh sau. Bạn đọc có thể mua trên Amazon link.

Tựa đề chính thức của GS Nguyễn Mạnh Quang là "Một Số Những Điều Gian Dối Trong Bài Viết “Hãy Trả Sự Thật Lại Cho Lịch Sử” Của Ông Lâm Lễ Trinh" (SH)

Video Phần I đăng ở VNCH vẫn hiểu nhầm Căn Cước của mình -"

Video Phần II đăng ở "Việt Nam Cộng Hòa vẫn hiểu nhầm Căn Cước của mình- - Lãnh đạo cao cấp nhất đã thừa nhận"

 

Một Số Những Điều Gian Dối Trong Bài Viết “Hãy Trả Sự Thật Lại Cho Lịch Sử” Của Ông Lâm Lễ Trinh

Trên các diễn đàn thư tín gần đây, có người cho phổ biến bài viết “Hãy Trả Sự Thật Lại Cho Lịch Sử” của ông Lâm Lễ Trinh, người có tiểu sử được trình bày như trên (có đăng trên https://www.ethongluan.org/). Đọc bài này tôi nhận thấy có mốt số điều thiếu minh bạch, suy luận rất mập mờ, chủ tâm quy kết cho chính quyền Hà Nội và Đảng Cộng Sản Việt Nam nhiều điều tiêu cực, nhưng không đúng chỗ. Dưới đây là một số đoạn tiêu biểu trong bài đó cùng với nhận xét của tôi.

Thứ 1: Lấy hậu quả làm nguyên nhân - Ông Lâm Lễ Trinh viết:

Nhà cầm quyền Bắc Việt dựng ra Mặt trận Giải phóng Miền Nam ngày 20/12/1960, lối sáu tuần lễ sau khi John F. Kennedy đắc cử Tổng thống. Qua năm sau, các lực lượng đặc biệt Hoa kỳ tham chiến. Và sau đó, cuối thập niên 60, dưới thời Lyndon B. Johnson, chiến tranh leo thang với vụ oanh tạc Miền Bắc và Hà nội. Tiếp theo là kế hoạch Richard Nixon “Việt nam hóa” chiến tranh, Hiệp ước Paris và bi kịch Miền Nam sụp đổ ngày 30.4.1975.”

Nhận xét: Nghe đoạn văn trên của ông Trinh tôi thấy thiếu một đoạn quan trọng: Giai đoạn hình thành của VNCH. Muốn hiểu sự kiện lịch sử cho đúng bản chất của nó là phải nói hết từ đầu, có 1, 2 rồi mới đến 3. Nếu không kể giai đoạn 1 thì giai đoạn 2 sẽ bị xem là nguyên nhân cho giai đoạn 3, thay vì 1, và như thế lịch sử bị hiểu sai.

Giai đoạn hình thành của trước khi VNCH ra đời có thể tóm tắt bằng mấy sự kiện như sau:

1.- Sự kiện ông Bảo Đại được Liên Minh Pháp – Vatican đưa lên thành lập chính quyền bù nhìn làm tay sai cho giặc chống lại chính quyền Kháng Chiến Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của nhà ái quốc Hồ Chí Minh.

2.- Sự kiện ông Ngô Đình Diệm được giáo triều Vatican cho người dẫn sang Hoa Kỳ, để chạy chọt và lo lót với các nhà chính khách có thế lực trên chính trường Hoa Kỳ, làm áp lực với Pháp và với ông Bảo Đại để đưa ông ta về Việt Nam cầm quyền làm tay sai cho họ.

Hai sự kiện này chứng minh rằng các chính quyền dưới thời Bảo Đại và Ngô Đình Diệm chỉ là ngụy quyền của ngoại cường lập ra. Bởi vậy những cây viết thuộc VNCH đều cố tình bỏ quên giai đận ra đời của chế độ.

 

Bốn “bà mụ” tôn giáo-chính trị Mỹ nặn ra và cưu mang chế độ Diệm: Từ trái: Francis Spellman (1889-1967) Hồng y trong quân phục Tổng Tuyên úy – Con chiên thuần thành John Foster Dulles (1888-1959), Ngoại trưởng trong nội các TT Eisenhower – Mike Mansfield (1903-2001), Chủ tịch khối Đa số Thượng viện – Edward Lansdale (1908-1987), Đại tá Không quân làm tình báo bên cạnh CIA.

Mỹ và Vatican đã can thiệp vào nội tình Việt Nam, và sau đó lại có chủ tâm vi phạm điều khoản tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước do Hiệp Định Genève 1954 quy định vào tháng 7 năm 1956. Vì thế “Nhà cầm quyền Bắc Việt phải dựng ra Mặt trận Giải phóng Miền Nam ngày 20/12/1960” để hoàn thành nhiệm vụ thống nhất đất nước cho dân tộc và tổ quốc.

Như vậy là hành động của Mỹ và Vatican can thiệp vào nội tình Việt Nam là “nguyên nhân” và việc cho ra đời “Mặt trận Giải phóng Miền Nam” chỉ là hậu quả tất yếu.

Ấy thế mà ông Lâm Lễ Trinh lại còn rêu rao lên án chính quyền miền Bắc phát động chiến tranh giải phóng miền Nam, cho nên Mỹ mới đánh phá Việt Nam ”.

Rõ ràng là ông TS Lâm Lễ Trinh lấy hậu quả làm nguyên nhân để đổ vấy tội ác gây chiến cho chính quyền Hà Nội. Như vậy có phải ông Lâm Lễ Trinh đã diễn “cái trò vừa ăn cướp, vừa la làng?”

Thứ 2: Bực bội vì bộ phim đề cao chiến thắng của Cộng sản Hà nội - Ông Lâm Lễ Trinh viết:

Từ đầu tháng tư đến nay, cũng như mọi năm, trong khi công luận Hoa kỳ cố quên đi giặc giã, một loạt phim tài liệu xuất hiện trên truyền hình Mỹ dưới tên “Viet Nam, A Televised History”, đề cao chiến thắng của Cộng sản Hà nội và nhai đi nhai lại các tội ác chiến tranh của Hoa kỳ và Quân đội VNCH, căn cứ vào những lời tường thuật sặc mùi xã hội chủ nghĩa của một số nhân chứng và cán bộ gốc Miền Bắc.

Đòn tuyên truyền cũ rích này không làm cho chính quyền Hoa Thịnh Đốn thay đổi cảm nghĩ đối với chiến tranh Việt Nam.”

Nhận xét: Ông Trinh phản đối bộ phim Viet Nam, A Television History không phải vì nó nhắc lại chuyện giặc giã, mà ông chỉ bực bội vì bộ phim đề cao chiến thắng của Cộng sản Hà nội". Điều đó nói lên rằng ông Trinh dư biết miền Nam không thể được ca ngợi trong bất cứ giai đoạn nào của chiến tranh, cho nên ông chỉ mong dư luận Hoa Kỳ "quên đi" là tốt nhất. Nếu ông Trinh cho rằng “Công luận  Hoa Kỳ đang cố quên đi giặc giã…” thì câu theo sau ông chỉ nên nói là "Sao bỗng dưng làm phim Viet Nam, A Television History để khơi lại những hình ảnh đau thương làm gì?"

Chẳng lẽ ông Trinh không biết rằng chính quyền Hoa Kỳ phục vụ cho quyền lợi nhóm thiểu số có quyền lực của Hoa Kỳ, chứ không phải cho Vatican và lũ người vong bản, phản quốc, vốn đã có những hành động bán nước cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trước đó. Vì thế mà khi chính họ cũng như nhân dân Hoa Kỳ đã ngộ ra là họ đã sai lầm thì tất nhiên là họ muốn học bài học sai lầm đó qua bộ phim lột tả sự thật, một sự thật cay đắng cho một cường quốc như Hoa Kỳ. Chẳng lẽ danh dự của Hoa Kỳ không bằng danh dự của tay sai họ hay sao? Người Hoa Kỳ công nhận là miền Bắc, phe đối đầu lại có chính nghĩa, không đá động gì đến phe miền Nam, vì họ biết rõ VNCH chính là con đẻ của họ mà thôi. Vì thế ông Trinh, người của phe VNCH mới cảm thấy mất mặt.

Nói đến sự "mất mặt", chúng tôi thắc mắc là tại sao ông Ngô Đình Diệm và VNCH không cảm thấy "mất mặt" khi sang đến tận Hoa Kỳ, chạy chọt, lạy lục người ta để làm Tổng Thống Việt Nam. Bị Hoa Kỳ khảo sát, ông ta không chứng minh được khả năng riêng của mình, mà lại tỏ ra bản chất nô lệ cho Vatican, tình nguyện làm công cụ cho họ sử dụng. Có lẽ vì tỏ ra bản chất nô lệ và được Vatican bảo kê cho nên Hoa Kỳ mới chấp nhận.

Cũng vì mất mặt không đúng chỗ, dã tâm của ông Trinh là muốn Hoa Kỳ tiếp tục dùng sức mạnh để đánh phá Việt Nam cho đến cùng. Lương tâm hay nhân tính của ông ở đâu? 

Chữ ông Trinh dùng "sặc mùi xã hội chủ nghĩa" lẽ ra không được thốt ra ở của miệng những người trí thức khoa bảng. Cụm từ này chỉ thốt ra từ những người làm việc cho Bộ Máy Tuyên Truyền của GHLM hay đồng minh hoặc tay sai của GHLM.

Câu chót ở đoạn trên, ông Trinh nói "Đòn tuyên truyền cũ rích này không làm cho chính quyền Hoa Thịnh Đốn thay đổi cảm nghĩ đối với chiến tranh Việt Nam". Không hiểu ông muốn nói Hoa Thịnh Đốn cảm nghĩ gì, ông không có gì chứng minh cho suy nghĩ đó. Nhưng mới đây, 17 tháng 9, năm 2017, đài PBS lại cho trình chiếu thêm một bộ phim mang tên The Vietnam War của hai đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick, mà nội dung còn tô đậm hơn cái chính nghĩa của miền Bắc, và cũng phớt lờ vai trò của phe VNCH. Điều đó càng xác nhận thêm bản chất "tay sai" của chính quyền miền Nam, điều mà ông Trinh cho rằng "tuyên truyền cũ rích", một sự thật mà phe VNCH khó chấp nhận.

 

Thứ 3: Ông Trinh vô tình nhìn nhận chỉ có hai vai chính là Hà Nội và Hoa Kỳ. Ông Lâm Lễ Trinh viết:

Một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Hoa Thịnh Đốn vẫn bị ám ảnh bởi “Hội chứng Việt Nam [ --Vietnam Syndrome ]” và Hà Nội tiếp tục sống phập phồng trong ác mộng “diễn biến hòa bình”. Hai căn bịnh trầm kha này - nói gì thì nói - không giúp họ hoàn toàn gột bỏ các thành kiến đối với đối phương cũ và cả hai cố gắng giải thích cuộc tranh chấp xưa theo nhãn quan riêng: Cộng sản cho rằng họ đã thắng lớn năm 1975 nhờ Mác, Lê và Hồ. Phía Hoa kỳ thì lại xem cuộc chiến tại Đông Dương chỉ là giai đoạn chuẩn bị sự sụp đổ toàn diện của xã hội chủ nghĩa mà xứ Cờ Hoa chủ trương từ đầu."

Nhận xét: Trong đoạn văn này, ông Trinh chỉ đề cập Hoa Kỳ và Hà Nội, hai địch thủ của cuộc chiến, nghĩa là ông Trinh cũng nhìn nhận rằng hai bên đối đầu trong cuộc chiến tranh chỉ có Hà Nội và Hoa Kỳ, còn VNCH không có vai trò gì cả.

Trong đoạn văn này, ông Trinh chỉ đề cập Hoa Kỳ và Hà Nội, hai địch thủ của cuộc chiến, nghĩa là ông Trinh cũng nhìn nhận rằng hai bên đối đầu trong cuộc chiến tranh chỉ có Hà Nội và Hoa Kỳ, còn VNCH không có vai trò gì cả.

Chúng tôi chú ý câu ông Trinh viết "Cộng sản thắng lớn nhờ Mác, Lê và Hồ". Đó là lời ông Trinh điêu ngoa bịa đặt ra, chứ chính quyền Hà Nội không hề nói như thế bao giờ cả. Chuyện đấu tranh chống ngoại xâm của ông Hồ chỉ theo con đường chiến đấu giải phóng dân tộc mà tiền nhân ta đã làm từ trước. Chỉ khác là ông Hồ đã thu thập thêm kinh nghiệm tranh đấu của các phong trào chống ngoại xâm ở trên thế giới.

Ý của ông Trinh là muốn gán chữ Cộng Sản của phe ông Hồ để biện minh cho hành động theo giặc của phe VNCH. Mấy ông Mác, Lê và ông Hồ cũng đều dùng chủ thuyết xã hội để tranh đấu quyền lợi cho giới lao động và phúc lợi cho dân nghèo, chống lại chính sách bóc lột của giới tư bản. Như vậy chủ nghĩa xã hội có gì là xấu hở ông Trinh?

Ngày nay tất cả những quyền lợi mà các quốc gia tư bản qui định cho công nhân lao động được hưởng như: mức lương tối thiểu, giờ nghỉ, chăm sóc sức khỏe, bồi thường tai nạn lao động, những ngày nghỉ thường niên và những ngày nghỉ đau ốm đều được ăn lương , vân vân... đều là những mục tiêu tranh đấu của các chủ nghĩa xã hội cả.

Trở lại đoạn văn trên đây, nói về chiến thắng của Hà Nội, ông Trinh điêu ngoa cho rằng Mỹ không phải thua mà là "chuẩn bị sự sụp đổ toàn diện của xã hội chủ nghĩa." Thật ra, xã hội chủ nghĩa có thay đổi thì cũng như chủ nghĩa tư bản cũng đã thay đổi, để thích nghi với trào lưu tiến hóa của nhân loại mà thôi. Chủ nghĩa tư bản hiện nay mà ông Trinh thấy cũng đâu phải là tư bản nguyên thủy (như các nước kỹ nghệ ở Âu Mỹ vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20), vì nó đã bị thay đổi bởi những cuộc cách mạng kỹ nghệ các chủ thuyết xã hội đòi quyền lợi cho công nhân.

Cho nên chủ nghĩa xã hội có thay đổi đi chăng nữa cũng không có nằm trong "kế hoạch Thua Để Thắng" như ông Trinh muốn nói. "Diễn biến hòa bình" nếu có, cũng là do bàn tay lông lá của Vatican mà thôi. Và nó đã ảnh hưởng đến một số người Mỹ và một số người VNCH cũ nghĩ ra, chứ làm gì kế hoạch như vậy trước khi cuộc chiến tại Đông Dương châm dứt ngày 30 tháng 4, 1975. Lúc đó Mỹ đang tính kế hoạch chạy là đúng hơn, làm gì kế hoạch thua để thắng như ông Trinh tưởng tượng.

Ông Trinh làm như nằm ở phòng kế hoạch 50 năm của Tòa Bạch Ốc mà chính các Tổng Thống Mỹ cũng không nghĩ ra cho đến lúc Mỹ và Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau. Lúc đó họ mới có thể toan tính áp dụng diễn biến hòa bình (nếu đó là sự thật).

Thứ 4: Vô tình xác nhận hai tác nhân chính - bất ổn tâm thần và khó tìm ra giải pháp. Ông Lâm Lễ Trinh viết:

Để đánh dấu 26 năm thống nhứt đất nước, tướng về hưu Võ Nguyên Giáp, nay trên 88 tuổi, kêu gọi thảm thiết Hoa Kỳ giúp Việt Nam xây dựng lại. Như thế, trong hậu trường cuộc chiến Việt Nam, còn nhiều bí mật chưa được tiết lộ. Nhà cầm quyền Mỹ và Việt sẽ không được bình ổn tâm thần và hơn thế, khó thể tìm ra giải pháp thích hợp và bền vững cho đến khi cả hai có đủ can đảm nhận và nói ra sự thật đã và đang phân cách họ.”

Nhận xét: Một lần nữa, ông Trinh cũng gần như công khai xác nhận hai tác nhân chính trong cuộc chiến là Mỹ và Hà Nội. Những cụm từ "Mỹ và Việt", "cả hai" được chính ông Trinh dùng cho hai phe đối thủ trong cuộc chiến, có điều ông không hay biết ông đã nói gì. Ông đánh đồng sự bối rối của Hoa Kỳ vào chung cho cả hai phía.

Vì Mỹ can thiệp vào nội tình Việt Nam một cách bất chính nên mới rơi vào tình trạng, “không được bình ổn tâm thần,” chứ phía Việt Nam thì có gì bất chính đâu mà không bình ổn tâm thần? Nhất là thế đứng của Việt Nam trên chính trường quốc tế càng ngày càng thêm vững mạnh.

Việc khó tìm ra giải pháp thích hợp và bền vững thật là dễ hiểu:

- Một bên là cường quốc thế giới, gương mặt lớn như thế mà bị thua một tiểu quốc nghèo đói bị ngoại xâm liên tiếp thống trị gần trăm năm, cho nên phía Mỹ mất mặt, làm sao dễ dàng quay lại bắt tay với ... kẻ thù nếu chưa tìm ra được một diệu kế để gỡ mặt.

- Đã mất mặt, nhưng lại còn chơi quỵt: Mỹ đã không bồi thường chiến tranh cho Việt Nam, và còn cấm vận thêm 20 năm nữa. Còn Việt Nam tuy thắng nhưng vẫn bị lép vế trước cường quốc chơi đểu, nên không thể làm gì được hơn là tự tìm cách vươn lên bằng chính sức lực của mình. Phần còn lại là chỉ chờ hoàn cảnh thích hợp mà thôi.

Đó là một số trong những mắc mứu mà Mỹ bị "bất an" (theo như ông LLT nói) chứ không phải từ phía Việt Nam.

Ông Trinh tìm cách miệt thị chính đất nước của mình khi nói "tướng về hưu Võ Nguyên Giáp ..kêu gọi thảm thiết" Thật ra tướng Giáp chỉ đòi hỏi công đạo cho dân tộc Việt Nam khi bị chiến tranh tàn phá do phía Mỹ gây ra mà lại còn cấm vận thêm gần 20 nữa. Ông Trinh chẳng có một chút lương tâm gì cả và không có chút tình dân tộc. Thế mà ở đoạn dưới (xem mục thứ 10) ông giả vờ đề cập đến sự "hậu thuẫn của dân tộc" Thật là giả dối.

Thứ 5: Hiểu lầm căn cước của mình, và nuối tiếc chính quyền quốc gia . Ông Lâm Lễ Trinh viết:

Trong hồi ký muộn màng “In Retrospect'', cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert Mc Namara thú nhận rằng các “đỉnh cao trí tuệ” của nước Cờ Hoa - trong số này tác giả được dư luận xếp vào hàng đầu! - đều mù tịt về Việt Nam được xem như một “vùng đất lạ, terra incognita” và họ “không nhận diện nổi để phân biệt chủ thuyết quốc gia và chủ thuyết Cộng sản.”(!). Trong phiên họp ngày 31/8/1963, tại Bộ Ngoại giao, Hoa Thịnh Đốn, khi biết tin âm mưu lật đổ TT Diệm thất bại tuần lễ trước, Phó Tổng thống Lyndon Johnson bộc trực tuyên bố: “Chúng ta nên chấm dứt cái trò vừa la làng, vừa ăn cướp!”

Nhận xét: Đoạn văn này chứng tỏ ông Trinh cũng biết rằng VNCH không phải là đồng minh, mà chỉ là tay sai của Mỹ. Cho nên trong khi các “đỉnh cao trí tuệ” của nước Cờ Hoa mù tịt về Việt Nam, thì các lãnh đạo của chính quyền miền Nam cũng im lặng cúi đầu chờ lệnh của những người mù tịt đó. Mãi cho tới hơn 20 năm sau, khi ông Mc Namara viết Hồi Ký kể lại thì VNCH mới biết rằng họ mù tịt. Giá như lúc đó, Mỹ chịu ngồi xuống bàn bạc với VNCH thì các lãnh đạo VNCH đã giúp cho Mỹ khỏi bị mù tịt rồi. Tiếc rằng Mỹ tính làm sao VNCH cũng cóc biết, chưa bao giờ Mỹ chịu hỏi ý kiến các lãnh đạo VNCH cả. Thế mà gọi người ta là Đồng Minh mà không biết mắc cỡ. Đây là vấn đề VNCH hiểu lầm căn cước của mình: Là con đẻ của Mỹ ngay từ trong trứng nước, cho nên chưa bao giờ là đồng minh của Mỹ. Đôi khi Mỹ dùng chữ "đồng minh" để che mắt thế giới mà thôi, nhưng đã khiến cho phe VNCH hiểu lầm, và cầm nhầm căn cước từ xưa cho đến nay.

Đồng thời, ông Trinh còn nói “không nhận diện nổi để phân biệt chủ thuyết quốc gia và chủ thuyết Cộng sản” hàm ý tôn vinh và nuối tiếc cái chính quyền quốc gia và VNCH. Ông không biết hoặc giả ông giấu nhẹm những sự thật vô cùng bỉ ổi và hết sức nhục nhã của các chính quyền này.

Xin được chứng minh bằng những việc làm bất chính của các chính quyền ngụy ở miền Nam trước năm 1975 như sau.

Bất chính thứ 1 - Viên khâm sứ đại diện giáo triều Vatican tại Huế đề xuất đưa Bảo Đại lên cầm quyền làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Pháp –Vatican đang tiến hành dùng quân sự tái chiêm Việt Nam. Xem tài liệu sau:

"Ngày 28/12/1945: HUẾ: Tổng Giám Mục Antoni Drapier, đại diện Roma, tuyên bố:

"Gia đình Bảo Đại là gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophile de tous les annmites) và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3 (À mon avis, il serait avantageux pour le calm de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars; DOM [aix], CP 125). DRAPIER cũng đưa ra giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo Long kế vị, và Nam Phương làm Giám Quốc [Phụ Chính]." Chính Đạo,Việt Nam Niên Biểu 1939-1975(Tập A: 1939-1946) (Houston, TX: Văn Hóa, 1997), tr 295.)

Bất chính thứ 2 - Giáo triều Vatican ra lệnh cho Giám-mục Ngô Đình Thục dẫn ông Ngô Đình Diệm đi Vatican trình diện và nghe lời dặn dò của Giáo Hoàng Pius XII, rồi dẫn ông ta đi Hoa Kỳ giao cho Hồng Y Francis Spellman. Hồng y này chạy chọt, lo lót với các nhà chính khách có thế lực ở Hoa Kỳ, tìm cách làm áp lực với Pháp và ông Bảo Đại, để đưa ông Diệm về Việt Nam cầm quyền, để làm tay sai cho cả Hoa Kỳ và giáo triều Vatican. Xin đọc Chương 60 với nhan đề là “Vatican Vận Động Hoa Kỳ Thành Lập Liên Minh Mỹ - Vatican Để Duy Trì Quyền Lực ở Miền Nam Việt Nam” (http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH60-0.php), sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã của tác giả Nguyễn Mạnh Quang.

Từ trái: Thế lực Ca-tô giáo vận động cho Ngô Đình Diệm: Hồng Y Spellman, Ngô Đình Diệm và Ngoại Trưởng Foster Dulles.

Bất chính thứ 3 - Khi trình diện các nhà chính khách Hoa Kỳ trong bữa cơm chiều tại Khách Sạn Mayflower ở Washington D.C. vào tháng 10 năm 1950 để trình bày kế hoạch hành động của ông ta nếu được Hoa Kỳ đưa lên cầm quyền ở Việt Nam vào lúc đó, ông Ngô Đình Diệm đã nói với họ rằng, “Tôi tin tưởng vào quyền lực của Vatican và ông chống Cộng một cách cực lực,” [COO. Tr. 242].” Lê Hữu Dản, Sự Thật, Đặc San Xuân Định Sửu 1997 (Fremont, CA: TXB, 1997), tr. 23. Điều này tỏ ra bản chất nô lệ của ông Diệm.

Bất chính thứ 4 - Chính quyền Ngô Đình Diệm được Hoa Kỳ và Vatican cho ra đời vào thời điểm sau hơn một tháng khi quân dân Việt Nam đại thắng tại trận đánh Điện Biên Phủ và trong thời gian Hội Nghị Geneve 1954 đang bàn thảo việc chấm dứt cuộc chiến Việt Nam.

Bất chính thứ 5 - Chính quyền Ngô Đình Diệm ưu đãi và biến nhóm thiểu số con chiên Ca-tô thành một giai cấp thượng đẳng trong xã hội miền Nam. Thực trạng này được ông Trần Lâm nói rõ ràng trong bài viết “Kiêu Dân Công Giáo Thời Ngô Đình Diệm” (http://sachhiem.net/LICHSU/TR/TranLam3.php).

Bất chính thứ 6 - Chính quyền Ngô Đình  Diệm dùng bọn” “Kiêu Dân Công Giáo “ này vào các tổ chức công an, mật vụ, cảnh sát, lực lượng đặc biệt và nắm giữ các chức vụ chỉ huy trong các cơ quan trong chính quyền và các đơn vị trong quân đội. Các tổ chức công an, mật vụ, cảnh sát của chính quyền Ngô Đình Diệm thật là vô cùng khủng khiếp giống như thiên la địa võng. (Joseph Buttinger,Vietnam: A Dragon Embattled (New York: FrederickA. Praeger, 1967), p 956, và Đỗ Mậu,Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Westminster, CA: Văn Nghệ, 1994), tr 645.

Bất chính thứ 7 - Chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa toàn thể nhân dân Việt Nam bằng bạo lực theo chỉ tiêu mà ông Ngô Đình Nhu đã tuyên bố:

Tôi có cả một chương trình đã bàn kỹ với Đức Giám Mục sẽ lần hồi tiến chố mà Hội Truyền Giáo hoạt động một thế kỷ mới đạt tới, còn chúng ta chỉ cầm quyền mười năm thôi là cả miền Nam này sẽ theo Công Giáo hết.” Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân – Tập I (Los Alamitos, CA: Nhà Xuất Bản Việt Nam, 1989), tr. 428.

Hậu quả của kế hoạch này là chế độ phi cầm phi thú và bọn “Kiêu dân Công Giáo" đã tàn sát đến hơn 300 ngàn lương dân vô tội trong những năm 1954-1963. Nguyễn Mạnh Quang, Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004), tr 127-131

Bất chính thứ 8 - Sư kiện chính  quyền Ngô Đình Diệm tôn vinh các giáo sĩ và con chiên người Việt chống lại dân tộc và  tổ quốc Việt Nam từ thế kỷ 17 (đã bị chính quyền nhân dân ta cho lên chầu Chúa) bằng cách dùng danh tính những tên con chiên tội đồ khốn nạn này đặt tên cho các trường học, đường phố ở Sàigòn và ở nhiều thành phố lớn khác ở miền Nam Việt Nam. Ai đã từng sống ở Sàigòn trong những năm 1954-1975 đều thấy rõ sự thật này.

Về trường học, chúng ta thấy có các Trường Pétrus Ký, Trường Nguyễn Tường Tộ, Trường Trần Lục, Trường Hồ Ngọc Cẩn, Trường Nguyễn Bá Tòng, Trường Nguyễn Duy Khang (ở Thị Nghè), Trường Lê Bảo Tịnh, Trường Thánh Thomas (Nhà Thờ Ba Chuông), v.v…

Về  đường phố, chúng thấy có Đường Tổng Đốc Lộc (con chiên Trần Bá Lộc), Đường Tổng Đốc Phương (con chiên Đỗ Hữu Phương), Đường Alexandre de Rhode, Đường Pétrus Ký, Đại Lộ Ngô Đình Khôi, Đường Nguyễn Bá Tòng, Đường Huỳnh Tịnh Của, Đường Phát Diệm, Đường Bùi Chu, v.v… Đặc biệt ở Vĩnh Long, lại có Đại Lộ Ngô Đình Thục.

Bất chính thứ 9 - Chính quyền Ngô Đình Diệm cưỡng bách người dân miền Nam phải dùng từ “công giáo trong các văn thư hành chánh, trong các sách giáo khoa ở các học đường, trong báo chí và trong tất cả các ngành hoạt động văn hóa. (Vũ Đình Hoạt, Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan Tập II (Fall Church. VA: Alpha, 1991), tr. 1014.

Bất chính thứ 10 - Chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức một buổi đại lễ dâng nước Việt Nam cho giáo triều Vatican được ngụy trang là Đức Mẹ Vô Nhiễm. Buổi đại lễ này vô cùng long trọng tốn phí hàng triệu đồng vào tháng 2/1959 và mời Hồng Y Agagianian (Khâm sứ đại diện giáo triều Vatican tại Sàigòn), đến làm chủ tế. Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (TP Hồ Chí Minh: NXB Trẻ, 1978), 126-128.

Bất chính thứ 11 - Chính quyền Ngô Đình Diệm triệt để tuân hành lệnh truyền của giáo triều Vatican bảo quản khối bất động sản khổng lồ mà Giáo Hội La Mã đã cướp đoạt của nhân dân ta trong những năm 1862-1954 bằng thủ đoạn “Không rớ tới 370 ngàn mẫu Anh mà Giáo Hội La Mã đã cướp đọat trong thời gian đó” khi tuân lệnh Hoa Kỳ thi hành chính sách  “Cải Cách Điền Địa” trong những năm 1957-1963.  (Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled (New York: Frederick A. Praeger, 1967), pp 932-933.

Bất chính thứ 12 - Chính quyền Ngô Đình Diệm biến miền Nam Việt Nam thành một trung tâm cung cấp thuốc phiện sống làm nguyên liệu cho Trung Tâm biến chế bạch phiến ở Marseille (rồi sau đó, trung tâm này phân phối bạch phiến đi khắp nơi trên thế giới). Trung tâm này cũng do các con chiên Ki-tô điều hành. Vấn đề này đã được trình bày đầy đủ trong Chương 91, Tập Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của GHLM.

Bất chính thứ 13 - Sự kiện anh em nhà Ngô biến chính quyền miền Nam thành một tổ chức tội ác với hàng rừng hành động tham nhũng chưa từng có trong lịch sử. Tình trạng này đã được chúng tôi trình bày đầy đủ trong Chương 90 với tựa đề là “Vấn Nạn Tham Nhũng Ở Miền Nam Trong Những Năm 1954-1975”, sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã (sẽ được phổ biến trên trang nhà sachhiem.net và sachhiem.org trong một ngày gần đây.) Vấn nạn tham nhũng này cũng đã được trình bày đầy đủ trong rất nhiều sách sử, ít nhất là có tới 10 tài liệu như sau:

a.-/ Sách Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Sàigòn: NXB Tuổi Trẻ 1978) của Linh-muc Trần Tam Tỉnh. Sách này dành hẳn Chương III với nhan đề là Giáo Hội Trong Cơn Bão Bùng (các trang 118-180) để nói về vấn nạn tham nhũng ở miền Nam trong những năm 1954-1975. Trong chương sách này, tác giả trình bày rõ ràng về vai trò chủ động và tích cực trong những hành động tham nhũng đều do các nam nữ tu sĩ Ca-tô, anh em, thân nhân nhà Ngô và băng đảng Cần Lao chủ động.

b.-/ Sách Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993) của cựu Tướng Đỗ Mậu. Sách này cũng dành hẳn Chương XIII với nhan đề là “Tệ Trạng Tham Nhũng” (các trang 403-445). Chương sách này trình bày khá đầy đủ về những thủ đoạn và thành tích tham nhũng của anh em cũng như thân nhân nhà Ngô và băng đảng Cần Lao trong những năm 1954-1963.

c.-/ Sách Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: 2000) của tác giả Nguyễn Mạnh Quang. Sách này dãnh hẳn Chương 19 với nhan đề là “Tội Ác Lạm Quyền Để Ăn Chặn Tiền Viện Trợ, Hà Hiếp, Bóc Lột Nhân Dân Và Cướp Đoạt Tài Sản Quốc Gia” (các trang 399- 431) của bạo quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm. Đặc biệt là chương sách này có kê khai rõ ràng những khoản tài sản kếch sù của anh em nhà Ngô như Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Nhu, và Nguyễn Văn Bửu.

d.-/ Sách The Politics of Heroin in Southeast Asia (New York: Harper Colophon Books Harper & Row, Publishers, 1972 của tác giả Alfred W. McCoy. Sách này dành toàn bộ Chương 5 với nhan đề là “South Vietnam: Narcotics in the Nation’ s Service” (gồm các trang 149-222) để nói về vấn để buốn bán ma túy.

e.-/ Sách The Deaths Of The Cold War Kings – The Assasinations OF Diem & JFK (Baltimore: Cemetery Dance Publications, 2000) của 2 tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee. Sách này nói rõ Cố Vấn Ngô Đình Nhu trực tiếp điều hành các dịch vụ mua thuốc phiện sống ở Ai Lao đem về Sàigòn và biến chính quyền miền Nam Việt Nam thành một trung tâm cung cấp thuốc phiện sống cho trung tâm biến chế thuốc phiện sống thành bạch phiến tại Marseille ở Pháp. Vấn đề này cũng  được chúng tôi trình bày đầy đủ trong Chương 91 với tựa đề là “Vấn Nạn Buôn Bán Ma Túy” (http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH91.php), sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã.

f.-/ Sách Việt Nam Niên Biểu 1939- 1975 Tập I – C: 1955-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000) của tác giả Chính Đạo, viết:

“Ngày 6/4/1960: Durbrow (Đại Sứ Mỹ ở Sàigòn) than phiền về sự lộng hành của Cần Lao.”Chính Đạo,Việt Nam Niên Biểu 1939- 1975 Tập I – C: 1955-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 172.

g.-/ Sách Công Và Tội (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1992) của ông Nguyễn Trân, cũng nói đến những vụ tham nhũng trong các chính quyền Sàigòn nơi các trang 201, 373, và 483-487.

h.-/ Sách Việt – Nam Một Trời Tâm Sự (Alamitos, CA: Xuân Thu, 1987) của cựu Tướng Nguyễn Chánh Thi, dành hẳn 57 trang (45-102) để nói về tội ác cướp rừng của Giám-mục Ngô Đình Thục và những hành động lộng quyền của Ngô Đình Cẩn, nơi các trang 45-102.

i.-/ Sách Việt Nam Nhân Chứng (Alamitos, CA: Xuân Thu, 1989) của cựu Tướng Trần Văn Đôn, nơi trang 248-249, nói về chuyện Ngô Đình Cẩn có 6 triệu Mỹ kim (ắn cướp của dân) để trong nhà Ngân Hàng Thụy đem dâng cho Nhà Thờ Cứu Thế.

j.-/ Sách Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (San Jose, California: Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, 1994) của tác giả Hoàng Ngọc Thành & Thân Thi Nhân Đức, nơi trang 191, nói rõ chuyện Giám Mục Ngô Đình Thục gửi 70 ngàn Mỹ kim trong một nhà ngân Hàng ở Ý Đại Lợi do một số người thân cận đứng tên và bị họ chiếm đoạt mất.

k.-/ Sách Our Own Worst Enemy (New York: W.W. Norton & Company Inc, 1968) của tác giả William J. Lederer, ở nơi trang 165 có nói đến chuyện bà Ngô Đình Nhu gửi một nhà ngân hàng ngoại quốc tới một khoản tiền khổng là 18 tỷ Mỹ Kim. Hiển nhiên đây là tiền ăn cướp của nhân dân miền Nam.

Bất chính thứ 14 - Các chính quyền Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu dành đặc quyền cho giới tu sĩ áo đen thao túng chính sách giáo dục và nắm độc quyền mở các trường tiểu và trung học ở trong các trại định cư và trong các làng đạo theo đúng chủ trương của chế độ giáo phiệt Ca-tô. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày tương đối khá đầy đủ trong “Đề Tài Nói Chuyện Trực Tuyến Kỳ 4: Giáo Dục Thời Việt Nam Cộng Hòa” (http://sachhiem.net/NMQ/NMQ79.php). Tuy nhiên, trong bài viết này, vì giới hạn thời gian, chúng tôi chỉ nhắc lại chuyện bộ sách Lịch Sử Thế Giới do Ông Nguyễn Hiến Lê cùng ông Thiên Giang đồng soạn và cho phát hành vào cuối năm 1955. Bộ sách này bị một ông linh-mục ở miền Trung chống đối, rồi yêu cầu Bộ Quốc Gia Giáo Dục tịch thu và cấm lưu hành bộ sách này. Bộ Quốc Gia Giáo Dục đã làm theo lời đề nghị của ông linh mục trên đây và chính quyền còn cho mật vụ đến tận nơi cư trú của tác giả Nguyễn Lê để rình mò dò xét với thâm ý là khủng bố tinh thần tác giả Nguyễn Hiến Lê. Độc giả có thể kiểm chứng vấn đề này trong hai cuốn sách dưới đây:

a.- Đời Viết Văn Của Tôi (Westminster., CA: Văn Nghẹ, 1986), tr 99-101) của ông Nguyễn Hiến Lê.

b.- Hồi Kí Nguyễn Hiến Lê (TP Hồ Chí Minh: NXB Văn Học, 1993), tr. 354-356, của tác giả Nguyễn Hiến Lê.

Bất chính thứ 15 - Ngô Đình Diệm hồ hởi đồng loã với quân đội Mỹ trong việc sử dụng chất độc da cam rải xuống đồng ruộng và rừng cây trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Sự kiện này được sách sử ghi lại như sau:

“Ngày 30/11/1961, Tổng Thống John F. Kennedy phê chuẩn cho quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch khai quang đồng cỏ Việt Nam. Quyết định này được Ngô Đình Diệm, lúc đó là Tổng Thống Miền Nam Việt Nam ủng hộ nhiệt liệt. Diệm cho rằng ông ta “biết cộng sản ở đâu” và tin rằng chiến dịch này sẽ thành công mĩ mãn.” Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr. 35.

Vì thế mà chiến dịch khai quang này được quân đội Mỹ cho tiến hành trên đất nước Việt Nam và hậu qủa ghê gớm của chiến dịch này được sách sử ghi nhận như sau:

“Quân đội Mỹ rải 77 triệu lít chất độc da cam xuống miền Nam và Trung Việt Nam, gây ảnh hưởng và tác hại đến môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong 35,585 thôn ấp.” Nguyễn Văn Tuấn, Sđd., tr 171.

Tội ác này còn ghê gớm và khủng khiếp gấp ngàn lần so với tội ác tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân miền Nam bằng bạo lực như đã nói ở trên, vì rằng hậu quả của hành động tội ác này cho đến ngày nay vẫn còn tác hại cho người dân Việt Nam cũng như đất đai canh tác và rừng cây trong những vùng bị ảnh hưởng. Vì thế  mà sách sử mới ghi nhận con chiên Ngô Đình Diệm là một trong 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại  Nigel Cawthorn, Tyrants History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004), tr 167-168.

Vì những tội ác dã man giết hại quá nhiều người và tàn phá đất nước như vậy mà quân dân miền Nam mới đứng lên làm lịch sử, lật đổ chế độ bạo quyền khốn nạn này, lôi cả Ngô Đình Đình Diệm và Ngô Đình Nhu ra đánh đập và đâm chết vào sáng sớm ngày 2/11/1963. Tên em út cúa nhà Ngô là con chiên Ngô Đình Cẩn mà người dân Việt Nam thời đó gọi là “lãnh chúa miền Trung” cũng bị chính quyền Nguyễn Khánh xử tử vào sáng ngày 9/5/1964.

Thứ 6: VNCH không hiểu vai trò của mình trong cuộc chiến. Ông Lâm Lễ Trinh viết:

... Thật vậy, quyền lợi của Mỹ và Việt Nam không tương quan: Miền Nam chủ trương chống Bắc Việt để tồn tại như một quốc gia dân chủ và độc lập, trong khi HK muốn dùng VNCH như con cờ thí để thực hiện quân bình chiến lược tại Á châu bằng cách ngăn Bắc Kinh bành trướng thế lực và đồng thời, chia rẽ Nga sô và Trung cộng. Hoa Thịnh Đốn bỏ rơi VNCH không luyến tiếc sau khi Nixon hội kiến với Mao năm 1972."

Nhận xét: Vì bỏ qua không muốn nhắc đến xuất xứ (giai đoạn hình thành) của VNCH như thế nào, cho nên ông Trinh cũng như nhiều nhân vật khác của chính quyền miền Nam, ngay cả lãnh đạo VNCH, đều không hiểu vai trò của mình trong cuộc chiến chỉ là thi hành ý đồ của ông chủ cường quốc Hoa Kỳ. Cả đời than vãn "HK muốn dùng VNCH như con cờ thí" mà không biết thực sự là từ lúc đầu VNCH đã được Hoa Kỳ sinh thành và nuôi dưỡng cho đến lúc nó "chán chê" "ruồng bỏ". Cho dù muốn yêu nước thế nào đi nữa, VNCH vẫn không thể thoát ra được sự điều khiển của kẻ đã tạo ra mình như một tay sai.

Bởi vậy, có thể nói, các lãnh đạo VNCH bị hoang tưởng vì không rõ căn cước của mình, cũng vì Mỹ đẻ ra mà không chịu làm giấy khai sinh. Đây là sự thật mà Giáo Sư Lý Chánh Trung cũng đã nói:

"Cái lỗi căn bản của ông (Ngô Đình Diệm) là đã xem người Mỹ cũng như tay chân bộ hạ của ông là những phương tiện để hoàn thành sứ mạng cứu nước trong khi chính ông mới là phương tiện của người Mỹ và một số tay chân bộ hạ....

Ông đã tưởng mình có thể lệ thuộc Mỹ một phần nào thôi, còn phần kia thì vẫn “độc lập”,  ông đã tưởng mình có thể nhẩy vào vòng tay người Mỹ trong một giai đoạn ngặt nghèo rồi thoát khỏi vòng tay đó khi tình hình sáng sủa hơn, ông đã tưởng có thể chấp nhận làm con cờ trong một ván cờ rồi ngay trong ván cờ đó, có thể tự động đi một nước cờ riêng của ông." (Trích GS Lý Chánh Trung "Những Ngày Buồn Nôn" trang 136-137)

Thứ 7: Chỉ có VNCH hiểu sai thân phận của mình. Ông Lâm Lễ Trinh viết:

"Ngay từ đầu cuộc chiến, chính phủ HK và Việt Nam Cộng hòa đều quan niệm sai lầm liên hệ đồng minh giữa hai nước. Từ đó sinh ra những bất đồng dẫn đến bất hòa và sự bức tử oan uổng của Miền Nam...."

Nhận xét: Như trên đã nói, VNCH ngay từ đầu đã được Mỹ "đẻ ra" để làm tay sai cho họ cho nên ông LTT nói miền Nam là “đồng minh” của Hoa Kỳ là không đúng. Chính những câu nói của ông Trinh như đã chứng minh ở trên và đoạn sắp bàn dưới đây chứng tỏ VNCH không có vai trò chính thức trong cuộc chiến. Sự hiện diện của VNCH là một sự bắt buộc để làm tay sai cho Mỹ và Vatican mà thôi. Quân ngoại xâm nào cũng cần có một chính quyền tay sai bản địa. Mỹ và Vatican chế ra VNCH nhưng không làm giấy khai sanh để mập mờ làm khổ cho thân phận của VNCH.

Ai cũng biết rằng, về phương diện pháp lý, không hề có văn kiện chính thức nào ký kết giữa Hoa Kỳ và chính quyền miền Nam nói rằng Hoa Kỳ là đồng minh của miền Nam Việt Nam. Trong thực tế, qua những cung cách hành xử của Hoa Kỳ đối với các chính quyền Miền Nam đều cho thấy rằng Hoa Kỳ là ông chủ ra lệnh cho ông Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu phải thi hành. Nếu thi hành lệch lạc hay không đúng với ý muốn ông chủ Hoa Kỳ, thì  phải sửa sai. NẾU tỏ ra ngoan cố và lươn lẹo như anh em nhà Ngô đã làm vào trong vụ bách hại Phật Giáo vào mùa hè năm 1963, thì chính quyền Hoa Kỳ ngoảnh mặt đi để cho quân dân miền Nam vùng lên lôi cố anh em thằng bạo chúa phản thần tam đại Việt gian họ Ngô này ra đập chết. Lịch sử đã cho thấy rõ sự thật là như vậy, chứ không hề có sự “chính phủ HK và Việt Nam Cộng hòa đều quan niệm sai lầm liên hệ đồng minh giữa hai nước” như ông Trinh nói như trên!

Chỉ có VNCH hiểu sai thân phận của mình chứ Hoa Kỳ biết rõ VNCH là con đẻ của họ. Ông Trinh đừng vớ vẩn mãi trong các luận cứ không dựa vào bất cứ sự kiện lịch sử nào cả.

Thứ 8: Chủ và tớ không thể gọi là "đồng sàng," đồng minh" được. Ông Lâm Lễ Trinh viết:

Mỹ đã giành hết trách nhiệm trong cuộc chiến để dễ bề thao túng. Quyền lợi và trách nhiệm trở nên quá chênh lệch nên sự tương cẩn và tương kính không còn nữa. Hai đồng minh như đôi đũa lệch. Cảnh đồng sàn dị mộng chấm dứt thê thảm.”

Nhận xét:

Câu "đồng sàng dị mộng" chỉ có thể nói cho sự liên hệ giữa Pháp và Vatican, hay giữa Mỹ và Vatican,... nhưng không thể áp dụng cho Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa. Cha và con không thể gọi là nằm chung giường, mà chỉ có thể là cùng phe. Nhắc lại cho ông Trinh nhớ hai sự kiện đã nói ở trên, (1) ông Ngô Đình Diệm được giáo triều Vatican cho người dẫn sang Hoa Kỳ trao cho Hồng Y Francis Spellman chạy chọt, lo lót để được Hoa Kỳ đưa về Việt Nam cầm quyền làm tay sai cho họ, và (2) các chính khách Hoa Kỳ khảo sát khả năng chính trị của ông Diệm đối với tình hình Việt Nam vào thời điểm cuối năm 1950, và ông Diệm trả lời rằng ông “tin tưởng vào quyền lực của Vatican và ông chống Cộng cực lực.”

Hai sự kiện đó cho thấy rõ Hoa Kỳ là chủ nhân ông của miền Nam Việt Nam, và các chính quyền Sàigon chỉ là do Hoa Kỳ dựng nên với sự “bảo kê” của giáo triều Vatican để làm tay sai cho cả Hoa Kỳ và Vatican, giống y hệt chính quyền Quốc Gia do Bảo Đại làm quốc trưởng trong những năm 1948-1954 do Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican dựng nên để làm tay sai cho liên minh xâm lược này.

Nhắc lại, chỉ có VNCH mới không biết mình đang làm tay sai cho người ta, mà cứ tưởng mình đã là chủ nhân ông rồi. Còn Mỹ thì biết rõ "đứa con" của mình làm ra, không làm được trò trống gì như mình mong muốn. Bởi thế hai bên "dị mộng" là đương nhiên. Còn chữ "đồng sàng" dùng cho sang chứ bên chủ bên tớ làm sao mà "đồng sàng" cho được.

Thứ 9: Xem chuyện Việt Nam nghèo đói hôm nay là Việt Nam đã thua từ mấy chục năm trước! Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Năm 1975, CSVN đã thắng. Bằng võ lực, bằng đàn áp. Năm 2001, CSVN đang thua - và thua đậm - một trận chiến mới: trận chiến thu phục nhân tâm và giải quyết nạn nghèo đói, kém phát triển của dân tộc. CS xa dân, phản dân và mất dân. CS thất bại..."

Nhận xét: Nhiều lần trong bài viết, ông Trinh chỉ nói đến Hoa Kỳ và Hà Nội là hai đối thủ của cuộc chiến, ngầm hiểu VNCH chỉ là tay sai. Ngay cả các nhà lãnh đạo của chính quyền miền Nam như Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Cao Văn Viên,...cuối cùng cũng đều nhìn nhận rằng chính quyền miền Nam là tay sai của Hoa kỳ, và quân đội VNCH chỉ là đạo quân đánh thuê cho Hoa Kỳ. Còn ông Trinh và nhiều người khác với chức vụ và quyền hạn không đến đâu mà vẫn cứ cay cú, tiếp tục rêu rao VNCH có chính nghĩa và vẫn mang nặng mặc cảm thua trận, nên tìm mọi cách hạ nhục chính quyền Việt Nam hiện nay.

Những câu: "CS xa dân, phản dân và mất dân ..." là những điều ông Trinh ao ước và tưởng tượng mà thôi. Nhưng thực sự có một thứ dân mà nhân dân Việt Nam và Đảng CS không thể gần được là thứ dân thích chạy theo ngoại bang, luôn xem chính quyền hiện nay là kẻ thù vì bị tuyên truyền cả đời như thế. Ai về Việt Nam quan sát sẽ chứng nghiệm bao nhiêu phần trăm là sự thật. Cũng may vì số dân này cho đến nay vẫn chưa có khả năng để giành lấy vai trò trị nước. Chính quyền CS có tệ cũng không thể nào tệ bằng các chính quyền miền Nam, mà chúng tôi đã nêu ra ở mục thứ 5 ở trên. Câu châm "La Mã hơn La Mã", hay "bảo hoàng hơn Vua" cũng đúng cho những người còn cay cú chuyện thắng thua trong chiến tranh Việt Nam đến nay như trường hợp của ông Trinh.

Vì thế ông Trinh tìm cơ hội để "hạ nhục" phe THẮNG trận là "THUA" mặc dù tới năm 2001 thì cuộc chiến đã kết thúc hơn phần tư thế kỷ trước rồi. Nếu vì tình trạng nghèo đói trong thời gian ấy mà ông Trinh cho rằng "THUA", thì có phải nước ta đã THUA từ hàng trăm năm trước dưới nạn ngoại xâm rồi chăng? Còn các nước Phi Luật Tân, Trung Nam Mỹ, các quốc gia vùng Trung Đông (ngoại trừ Do Thái và Saudi Arabia), các nước Phi Châu (ngoại trừ Liên bang Nam Phi) cũng vẫn nghèo đói còn hơn cả Việt Nam. Vậy thì họ THUA ai?

Xin nhắc cho ông Trinh một chút kiến thức lịch sử thế giới. Các quốc gia Âu Châu chỉ bị tàn phá trong thời gian có 6 năm (1939-1945), số lượng bom đạn tàn phá trong thời gian chiến tranh của họ không bằng 1/6 số lượng bom đạn do Mỹ sử dụng để tàn phá Việt Nam trong những năm 1960-1975. (Xem tài liệu của Stanley I. Kutler (Ed.) Encyclopedia of The Vietnam War.) Trong khi đó, diện tích toàn bộ Âu Châu rộng tới khoảng 11 triệu cây số vuông, còn diện tích Việt Nam chỉ có 331 ngàn cây số vuông.

Thế mà các quốc gia Âu Châu này sau Đệ Nhị Thế Chiến còn rơi vào tình trạng vô cùng khốn khổ đến độ Hoa Kỳ phải thiết lập "Kế Hoạch Marshall" để phục hồi kinh tế các quốc gia này. Xin xem Nguyễn Mạnh Quang, Đệ Nhị Thế Chiến Và Chiến Tranh Lạnh. (Tacoma, WA: Tacoma Public Schools, 1994), tr.186.

Ngoài ra, sau chiến tranh, các quốc gia Âu Châu này:

1.-/ Không những đã không bị Hoa Kỳ thi hành chính sách cấm vận, ngược lại còn được viện trợ rất hào hiệp trong Kế Hoạch Marshall để phục hồi kinh tế và tái thiết xứ sở.

2.-/ Không bị một thế lực ngoại thù láng giềng (Trung Hoa) tấn công như Việt Nam.

3.-/ Không có vấn nạn bọn tu sĩ áo đen và tập thể con chiên đánh phá gây nên tình trạng bất ổn như ở Việt Nam.

4.-/ Trước khi xẩy ra chiến tranh, các quốc gia này không xẩy ra nạn đói cực kỳ khủng khiếp như ở Việt Nam.

TT Truman ký kết "Marshall Plan", ngày 3 tháng 4, 1948

Trong khi đó, Việt Nam phải chịu đựng tất cả những vấn nạn trên đây và phải trải qua một cuộc chiến kéo dài cả 30 năm với những sự tàn phá kinh hoàng như sau:

a.- Về số lượng bom đạn khủng khiếp, các tài liệu như Encyclopedia of The Vietnam War ghi nhận như sau:

Diện tích Việt Nam không bằng 1/25 diện tích Hoa Kỳ. Diện tích của cả ba nước Cao Mên, Lào và Việt Nam cộng lại mới bằng diện tích nước Pháp. Từ năm 1965 cho đến năm 1973, Hoa Kỳ đã dùng tới hơn 14 triệu tấn thuốc nổ thuộc loại hiện đại nhồi trong bom và đạn đại pháo để đánh phá cái diện tích bé nhỏ này. Riêng về khối lượng bom do không quân Hoa Kỳ sử dụng cũng đã lên tới hơn 7 triệu tấn, hơn gấp 3 lần tổng số bom được sử dụng trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Phần lớn những bom trong các trận không kích và đạn đại bác do pháo binh bắn phá (gần 12 triệu tấn) thực sự là những hóa chất có công dụng làm rụng lá cây đã sử dụng ở miền Nam Việt Nam.

..Ông McNamara nói” làm như vậy không những phá vỡ được những hoạt động của quân du kích Việt Cộng, mà còn làm cho nền tảng kinh tế của đối phương suy sụp.”

Tuy nhiên, những trận tấn kích bằng bom và đạn như vậy đã làm cho 1/3 ruộng đất trồng trọt và hơn một nửa xóm làng ở nông thôn bị hủy diệt. Vào năm 1972, theo bản tường trình của tiểu ban Thượng Viện Hoa Kỳ, những cuộc tấn kích bằng trọng pháo và không kích như vậy đã gây nên một số lớn dân chúng bị thiệt mạng, bị thương tật và khiến cho hơn 10 triệu dân trở thành những người tỵ nạn.” Stanley I. Kutler (Ed.) (Encyclopedia of The Vietnam War (New York: Simon & Schuster McMillan: 1996. Pp. 600-601. 591-592.“

b. với một số lượng khổng lồ về vũ khí hóa học, nhà viết sử Nguyễn Văn Tuấn ghi nhận trong cuốn Chất Độc Màu Da Cam Và Chiến Tranh Việt Nam với nguyên văn như sau:

Trong thời gian từ 1962 đến 1971, quân đội Mỹ rải 77 triệu lít chất độc da cam xuống miền Nam và Trung Việt Nam, gây ảnh hưởng và tác hại đến môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong 35,585 thôn ấp.”  Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005) tr 171.

Hơn thế nữa, vào thời điểm năm 2001, Việt Nam còn ở vào tình trạng nghèo đói là vì vào thời điểm này Việt Nam vừa mới thoát ra khỏi cuộc chiến kéo dài 30 năm với sự tàn phá vô cùng khủng khiếp như kể trên. Ngoài ra vẫn còn:

1.-/ bị Hoa Kỳ cấm vận 19 năm trời

2.-/ bị Trung Cộng tấn cống ở phía Bắc, Cộng Sản Miên Pol Pot đánh phá ở miền Nam.

3.-/ bị Giáo triều Vatican sử dụng các xóm đạo gây rối và đánh phá đất nước liên tục  từ năm 1975 cho đến ngày nay.

4.-/ phải giải quyết đám cán bộ cao cấp trong chính quyền Miền Nam và bọn sĩ quan trong quân đội đánh thuê miền Nam đang bị giáo triều Vatcan lợi dụng để gây rối và đánh phá đất nước. Vụ gây loạn tại Nhà Thờ Vinh Sơn vào năm 1976 ở Sàigòn và hơn 10 vụ các xóm đạo ở nhiều  nơi khác ở trong nước kể từ đó cho đến ngày nay là những bằng chứng bất khả phủ bác cho sự kiện này. 

5.-/ chưa kể, bọn con chiên cờ vàng ở hải ngoại vẫn còn liên tục đánh phá

Thứ 10: Nhận thức sai lầm vì bỏ qua khúc đầu của lịch sử. Ông Lâm Lễ Trinh viết:

không một xứ nào sẵn sàng sống chết vì mục tiêu chiến đấu để tồn tại của một nước khác. Không ai thương tổ quốc của chúng ta hơn chúng ta. Dân chủ và nhân quyền là thành quả của một sự tự lực tranh thủ kiên trì, quả cảm và có kế hoạch của một dân tộc bất khuất”. Một điều không thể quên khác là “Sự liên minh với bất luận một đại cường nào, dù mạnh đến đâu, rồi cũng sẽ đưa đất nước vào ngõ cụt nếu không có dân tộc hậu thuẩn. Cái thế dân tộc vô địch và vô song. Không tin, không tạo và không xử dụng triệt để “thế dân tộc” thì thất bại đương nhiên, thất bại thê thảm.

Nhận xét: Điều này nghe như ông Lâm Lễ Trinh đã nhận thức được sự hậu thuẫn dân tộc là chân lý. Nhưng hãy thử xét xem ông có thực sự nghĩ như vậy không.

Trong mục số 4 ở trên, ông Trinh phát biểu rằng "tướng về hưu Võ Nguyên Giáp, kêu gọi thảm thiết Hoa Kỳ giúp Việt Nam xây dựng lại" và qua phân tích chúng tôi kết luận rằng ông chẳng có một chút lương tâm gì cả và không có chút tình dân tộc nào cả. Thế mà ở đây ông giả vờ đề cập đến sự "hậu thuẫn của dân tộc." Đúng là xảo ngôn, giả nhân giả nghĩa.

Cũng như các đoạn trên, chính vì ông Trinh đã bỏ qua những bước đầu khi Hoa Kỳ thành lập VNCH mà ông cứ hiểu lầm tất cả những vấn đề theo sau. Ông cứ tưởng ông Diệm thành lập VNCH, ông tưởng ông Diệm lo cho dân tộc, trong khi ông Diệm chỉ lo mở mang cái tôn giáo của ông ấy. Ông cứ tưởng Vatican chỉ là tổ chức tôn gíao mà không hề biết đến bàn tay dơ bẩn máu tanh của nó trên khắp thế giới. Kết quả là ông Trinh lẫn lộn giữa các nhận thức. Ông không nhìn thấy rõ sự khác nhau giữa chính và tà, giữa yêu nước và phản quốc, v.v… Vì thế ông vẫn còn phò Vatican và phò tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian họ Ngô, là những người có hành động phản dân tộc, ngược với chân lý mà ông nói trên.

Ông Lâm Lễ Trinh không biết rằng giáo triều Vatican hay Giáo Hội La Mã là một tổ chức tội ác mà văn hào Voltaire đã gọi nó là “cái tôn giáo ác ôn”, và không biết rằng, giáo triều Vatican:

- Vốn có  chủ trương đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa và đã 3 lần vận động các chính quyền Pháp cấu kết với Vatican và xuất quân đánh chiếm Việt Nam.

- Cấu kết với Pháp trong việc bổ nhậm cựu linh-mục Thierry d’ Argenlieu làm Cao Ủy Đông Dương đem quân sang tái chiếm Đông Dương vào mùa thu năm 1945.

- Vận động và cấu kết với Hoa Kỳ đưa Ngô Đình Diệm về cầm quyền ở Việt Nam để làm tay sai cho cả Hoa Kỳ và Vatican. Rõ ràng Miền Nam Việt Nam là thuộc địa của Hoa Kỳ và Vatican.

Thứ 11: Nói sự thật để hướng dẫn lớp trẻ Việt Nam. Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Vì thế, phải nói sự thật. Để giúp ý và mở mắt các lãnh tụ sắp đến của một nước Việt tiến bộ và dân chủ. Nói sự thật để hướng dẫn lớp trẻ Việt Nam, chất xám quý hóa và hy vọng cuối cùng trong kế hoạch phục hồi xứ sở. Để tránh những lỗi lầm và vấp ngã của các thế hệ trước. Để xóa cái nhục chậm tiến mà Hồ Chí Minh và bè đảng trong Chính trị bộ Hà nội đang phủ lên giang sơn gấm vóc Việt Nam từ trên nửa thế kỷ nay. Chúng ta không còn một chọn lựa nào khác

Nhận xét: Như đã phân tích như trên, ông Trinh đã có nhiều sai lầm và mâu thuẫn, cho nên khi ông Lâm Lễ Trinh nói “phải nói rõ sự thật” thì những điều ông nói ra lại bóp méo sự thật, và đi ngược với tình tự dân tộc. Cụ thể là ông không hề biết, hoặc lươn lẹo giấu nhẹm những điều sau đây, thì làm sao "nói sự thật" được?

1.- Giấu nhẹm sự kiện ông Bảo Đại được Liên Minh Pháp – Vatican đưa lên thành lập chính quyền bù nhìn làm tay sai cho giặc chống lại chính quyền Kháng Chiến Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của nhà ái quốc Hồ Chí Minh.

2.- Giấu nhẹm sự kiện ông Ngô Đình Diệm được giáo triều Vatican cho người dẫn sang Hoa Kỳ để chạy chọt và lo lót với các nhà chính khách có thế lực trên chính trường Hoa Kỳ làm áp lực với Pháp và với ông Bảo Đại để đưa ông ta về Việt Nam cầm quyền làm tay sai cho họ.

3.- Giấu nhẹm sự kiện ông Nguyễn Văn Thiệu cũng do Hoa Kỳ cấu kết với bọn tu sĩ áo đen đưa lên làm tổng thống ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1967-1975.

4.- Ông Trinh nói “Để tránh những lỗi lầm và vấp ngã của các thế hệ trước” nhưng lại đánh tráo quan niệm "lỗi lầm". Ai cũng biết rằng lỗi lầm hay vấp ngã của con người là điều tự nhiên. Người ta chỉ đánh giá cái tâm trong việc làm, có thiện chí hay không, mục đích có tốt hay không. Nhưng nói về giai đoạn chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ của Việt Nam, thì thế hệ lỗi lầm và vấp ngã trước đây chính là Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu và tất cả những người tôn phò những tên Việt gian phản quốc đầu sỏ trên đây. Thế nhưng, ông Lâm Lễ Trinh lại trở ngược, mập mờ cho rằng thế hệ lỗi lầm vấp ngã nằm về phía nhà ái quốc Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam.

5.- Đồng thời, ông Lâm Lễ Trinh tìm đủ cách kế để giấu nhẹm:

a.-/ Những việc làm bất chính của chính quyền do ông Bảo Đại làm quốc trưởng trong những năm 1948-1955 mà điển hình là việc ban hành Dụ Số 10,  và những hành động tội ác của cá nhân ông Bảo Đại. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày đầy đủ trong bài viết có nhan đề là “Việt Nam Có Độc Lập Tự Do Từ Chính Quyền Trần Trọng Kim hay Không?” (http://sachhiem.net/NMQ/PCD/NMQ053.php)

b.-/ Những chính sách với những việc làm bất chính đại gian, đại  ác và cực kỳ dã man do bạo quyền Ngô Đình Diệm tiến hành theo lệnh truyền của giáo triều Vatican như đã nói ở trên (trong tiết mục “Thứ 5”).

Kết luận:

Như đã vạch rõ, toàn bài viết của ông Lâm Lễ Trinh có nhiều đoạn gián tiếp chứng minh căn cước của VNCH không phải là một chính quyền độc lập. Vấn đề là tác giả đã không nhận ra điều đó, cho nên lúng túng và mâu thuẫn trong những lý luận. Ông cũng gián tiếp cho thấy các vị gọi là "lãnh đạo" ở miền Nam thực ra "không thể lãnh đạo" vì bị lệ thuộc vào sự điều khiển của Mỹ. Cho đến ngày nay, nhiều người vẫn còn lẫn lộn trong việc không nhận ra căn cước thực sự của VNCH nên luôn luôn hoang tưởng.

Tất cả các bài viết nào không nhận ra nguồn gốc của VNCH đều rơi vào sự hoang tưởng và ngộ nhận tương tự như vậy.

Nếu ông Lâm Lễ Trinh biết, mà không dám nhận thì là người vừa hèn vừa lươn lẹo vì đã để lại cho hậu sinh những điều sai lầm trong lịch sử. Nếu không hèn thì thuộc về dạng lưu manh. Chính vì thế cho nên ông Phạm Phú Bổn mới viết bài “Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh: SỰ HÈN HẠ VÀ XẢO TRÁ” (có đăng ở Phụ Lục) để vạch trần việc làm gian manh của nhà trí con chiên hoài ngô này.

Trong phần trình bày của chúng tôi trên đây, nếu có điểm nào không đúng, kính xin các bậc cao minh ở trong nước cũng như ở hải ngoại lên tiếng chỉ giáo.  

 Trân trọng,

Nguyễn Mạnh Quang

Video Phần II: https://www.youtube.com/watch?v=IxUjk2RjVLM

________________________

HÃY TRẢ SỰ THẬT LẠI CHO LỊCH SỬ

Lâm Lễ Trinh

https://www.ethongluan.org/index.php/doc-bai-luu-tru/759-hay-tr-s-th-t-l-i-cho-l-ch-s-ls-lam-l-trinh

Tháng 1 07, 2018

 

lamletrinh00

 

LS. Lâm Lễ Trinh

Xem link: haingoaiphiemdam.net/HAY-TRA-SU-THAT-LAI-CHO-LICH-SU-LS-Lam-Le-Trinh-87227

 


Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh: SỰ HÈN HẠ VÀ XẢO TRÁ

Phạm Phú Bổn

http://sachhiem.net/LICHSU/P/PhamPhuBon.php 19 tháng 7, 2008

nguồn: http://www.chuyenluan.net/2004/200405/0405_32.htm

Chúng tôi nhận được từ một bạn đọc chuyenluan.com bài Cần Trả Lại Sự Thật Cho Lịch Sử - Truyền Thông Mỹ Vẫn Bóp Méo Chiến Tranh Việt Nam của Giáo sư Lâm lễ Trinh. Bạn đọc này yêu cầu chúng tôi cho biết ý kiến. Đây là bài tham luận chủ chốt trong đại hội truyền thông VN hải ngoại hay cuộc tụ tập của Làng Báo Bolsa năm ngoái. Bài này đã được đăng lại trong tập kỷ yếu của đại hội này.

Chúng tôi cũng đồng ý với Giáo sư Lâm lễ Trinh là “cần trả lại sự thật cho lịch sử.” Có điều là trước khi trả lại, thì phải minh định thế nào là sự thật? Sự thật có thể là đơn nhất, duy nhất, nếu không thì không phải là thật nữa. Nhưng một thực tế sờ sờ ra đó chưa chắc đã là sự thật. Ví dụ “thực tế Lâm lễ Trinh” trước mắt những người vểnh tai chống mắt thuần thành lắng nghe ông đọc tham luận chắc hẳn là khác với “thực tế Lâm lễ Trinh” mà Nguyễn bá Cẩn vẽ ra trong quyển Đất Nước Tôi từ trang 109 đến 111. Và dĩ nhiên cũng khác xa “thực tế Lâm lễ Trinh” mà Phạm phú Bổn đã nhìn thấy qua một bài viết của chính Giáo sư Lâm lễ Trinh… (Chuyển Luân)

SỰ HÈN HẠ VÀ XẢO TRÁ CỦA ÔNG LÂM LỄ TRINH, CỰU BỘ TRƯỞNG NỘI VỤ ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA

Phạm Phú Bổn

Bốn Bản Văn

Ngày thứ Hai, 20/10/2003, nhật báo Người Việt (phát hành tại thành phố Westminster, bang California) có đăng trong phần Diễn Đàn một bài dịch của tác giả Lâm Lễ Trinh. Nội dung bài dịch là buổi “Mạn đàm với cựu điệp viên CIA Yung Krall” (tức bà Đặng Mỹ Dung) với tiêu đề trong ngoặc kép là “Hoàng Văn Hoan, Kẻ Tử Thù Của Lê Duẫn, Tiếp Tôi Tại Bắc Kinh”.

Cuối bài viết, ở trang B10, là phần bàn thêm của dịch giả được in nghiêng với nguyên văn như sau:“Mác, Lê, Mao và Hồ thuộc vĩnh viễn về quá khứ. CSVN hiện là một giỏ cua. Giải pháp của họ không phải là giải pháp dân tộc. Vì thế, thất bại là chuyện chắc. Hình ảnh lưu vong của Hoàng Văn Hoan nhắc lại sự rạn nứt trong hàng ngũ cộng sản Bắc Việt đã nổ lớn ngay từ lúc Hồ còn sống. Hiện nay, tình trạng chia rẽ và đối kháng bên trong nghiêm trọng hơn trước bội phần. Từ trên nửa thế kỷ, đất nước càng băng hoại và lún sâu vào vũng lầy chậm tiến. Chưa thấy lối thoát. Trông chờ cộng sản tự sửa đổi là một ảo vọng! Hòa hợp, hòa giải chỉ là độc kế của các tên cướp khoác áo nâu sồng sa vào ngõ cụt.

Ông Lâm Lễ Trinh, ngày xưa, là Bộ trưởng Nội vụ hét ra lửa dưới thời Đệ nhất Cộng hòa. Đến bây giờ ông vẫn còn nổi tiếng vì hành xử bất minh trong vụ án bức tử thiếu tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh (tức Ba Cụt). Từ sau năm 1975, tại hải ngoại, ông viết nhiều bài phân tích rổn rảng về nội tình đảng Cộng sản Việt Nam, và lần nào (nhất là sau những kỳ họp đại hội đảng CSVN) cũng đoan quyết là đảng nầy sẽ tan vỡ vì mâu thuẫn nội bộ nhưng đã chẳng bao giờ trúng cả. Ông cũng dịch nhiều bài báo hoặc phân đoạn (của sách) của các tác giả ngoại quốc. Ngoài ra, ông còn viết nhiều bài binh vực chế độ Ngô Đình Diệm mà ông cho là nguyên nhân của sự sụp đổ chế độ độc tài giáo trị nầy, một phần lớn, là do phong trào đấu tranh cho bình đẳng tôn giáo của Phật giáo năm 1963.

Lời bàn thêm của ông trong bài dịch nói trên, nhất là cụm từ “các tên cướp khoác áo nâu sồng”, đã tức khắc gây nên một làn sóng công phẫn trong và ngoài giới độc giả của báo Người Việt. Do đó, chỉ một ngày sau, vào ngày 21 tháng 10, báo nầy đã phải đăng lời “Minh Xác của Nhật báo Người Việt” ở đầu trang A2 như sau: “Trong số báo ngày hôm qua, 20/10/2003, Nhật Báo Người Việt đã đăng trong mục Diễn Đàn một bài do tác giả Lâm Lễ Trinh gửi đến. Trong bài này, tác giả đã dịch một phần cuốn hồi ký của Yung Krall, được in từ trang B-6 và tiếp theo nhiều trang khác. Tuy nhiên, sau bài dịch trên, ông Lâm Lễ Trinh đã viết thêm một đoạn bình luận với ý kiến của riêng ông trong đó có câu chót, in trên trang B-10 như sau: “Hòa hợp, hòa giải chỉ là độc kế của các tên cướp khoác áo nâu sồng sa vào ngỏ cụt.” Khi nói tới “khoác áo nâu sồng” trong tiếng Việt Nam, mọi người thường hiểu đó là các tu sĩ Phật Giáo. Vì vậy câu trên có thể ám chỉ một số tu sĩ Phật Giáo mà vì không nói rõ ràng đầy đủ nên có thể xúc phạm tới rất nhiều vị tăng ni. Trước hết, Nhật Báo Người Việt xin minh xác ý kiến trên do tác giả bài báo nêu lên không phải là ý kiến của nhật báo nầy. Mặc dầu trang Diễn Đàn là nơi đăng tải nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau, chúng tôi không bao giờ ủng hộ một ý kiến có tính cách xúc phạm đến một tập thể tôn giáo như vậy. Chúng tôi xin quý vị độc giả tha lỗi sơ suất đã không đọc đầy đủ các hàng chữ trong bài lai cảo của một tác giả từng cộng tác lâu năm với báo này."

Ai cũng biết ông Đỗ Ngọc Yến là đầu não của nhật báo nầy. Ông vừa ở trong Hội đồng Quản trị vừa là Tổng Giám đốc Điều hành của công ty Nguoi Viet News, Inc., cơ quan xuất bản ra Nhật Báo Người Việt mà ông cũng là Chủ nhiệm. Và ai cũng biết ông là một tín đồ Công giáo, đồng đạo của ông Lâm Lễ Trinh. Cho nên, ngay cả khi tác giả câu “các tên cướp khoác áo nâu sồng” là ông Lâm Lễ Trinh chưa lên tiếng giải thích gì cả thì nhật báo của ông đã vội “cứu bồ” liền: “Bồ” tôi chỉ muốn “ám chỉ một số tu sĩ Phật giáo” thôi, và biện hộ cho ông Lâm Lễ Trinh là đã “không nói rõ ràng đầy đủ”. Ngoài ra, để tự bào chửa, nhật báo Người Việt còn giả vờ xưng tội là “không đọc đầy đủ” dù đoạn bình luận của ông Lâm Lễ Trinh rất ngắn và đã được đặc biệt in nghiêng để dễ đập vào mắt độc giả. Phải cho đến cuối bài Minh Xác, nhật báo Người Việt mới thành thật khai báo là giữa nhật báo nầy và ông Lâm Lễ Trinh đã có quan hệ “cộng tác lâu năm”. Thì ra là như vậy! Cộng tác lâu năm thì không đồng tình cũng đồng chí thôi.

Tuy nhiên, dù đồng lõa, nhật báo Người Việt đã nhanh chóng nhận ra và “xin tha lỗi sơ suất” thì cũng là điều đáng khen biết ... nhanh trí !

Một tuần sau, ngày 28/10, nhật báo Người Việt lại cho đăng “Thư Minh Xác Của LS Lâm Lễ Trinh” ở cùng một vị trí với Lời Minh xác của Nhật Báo Người Việt một tuần trước đó ở trang A2 với lời lẽ như sau: “Tòa soạn Người Việt nhận được thư minh xác của LS Lâm Lễ Trinh liên quan đến lời minh xác của Nhật Báo Người Việt đối với bài báo nhan đề “Mạn Đàm của Tôi Với Yung Krall” nguyên văn điện thư như sau: “Tôi ngạc nhiên đọc trong số Người Việt sáng 21/10/2003, nơi trang A2 lời Minh Xác của quý báo về câu “Hòa Hợp, Hòa Giải chỉ là độc kế của các tên cướp khoác áo nâu sồng sa vào ngõ cụt (trích trong Mạn đàm của tôi với Yung Krall) vì cho rằng câu này “xâm phạm đến các tu sĩ Phật giáo”.Tôi nghĩ không thể (và không nên) tách câu này ra khỏi 5 câu phía trên trong phần kết luận của tôi vì danh từ “tướng cướp” rõ ràng là để chỉ nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam hiện nay chứ không ai khác. Còn câu “khoác áo nâu sòng” chỉ có nghĩa là Cộng Sản dùng tôn giáo Quốc Doanh để kêu gọi hòa giải bịp bợm và một chiều, điều mà dư luận CHÂN CHÍNH - trong cũng như ngoài nước - không thể chấp nhận được. Tôi không bao giờ có ý biếm nhẽ người CHÂN TU, bất luận thuộc tôn giáo nào. Giải thích câu “Hòa Hợp hòa giải v.v...” nói trên theo cách khác để phao vu tôi nhắm riêng vào Phật Giáo (CHÂN TU) là một sự giải thích lệch lạc và đáng tiếc.(Chấm hết điện thư).

Trong khi đó thì lẫn lộn trong các mẫu quảng cáo của Digital Graphic Printing, L&L Printing, San Hiển Huỳnh Realty & Mortgage, Skynet Financial ở nửa dưới trang B2, nhật báo Người Việt cho đăng lá “Thư Ngỏ Gửi Cựu Luật Sư Lâm Lễ Trinh”, trình bày theo format đăng có trả tiền:

Báo Người Việt ngày 20/10/2003 có đăng bài dịch của ông nói về Hoàng Văn Hoan và Lê Duẫn, trong đoạn kết với ý kiến riêng của ông ở trang B 10 có câu: “Hòa hợp, hòa giải chỉ là độc kế của các tên cướp khoác áo nâu sồng sa vào ngỏ cụt.” Tôi vô cùng ngạc nhiên khi đọc thấy những lời nói hỗn láo của ông đối với chư Tăng Ni Phật Giáo. Ngạc nhiên hơn nữa bởi vì câu kết luận đó không liên hệ gì đến toàn thể nội dung bài viết. Ngạc nhiên vì một người có học vị như ông Lâm Lễ Trinh sao lại tỏ ra thiếu trí thức khi dùng những lời lẽ vô lễ như vậy đối với một tôn giáo; ngạc nhiên vì đạo Phật cũng là đạo Tổ tiên của ông, đạo Công giáo La Mã là đạo ông mới gia nhập năm 1958 mà thôi. Rất tiếc câu kết luận lăng mạ và bất kính mà ông đã viết trên đây nhằm vào thời điểm lễ giỗ của vị ân nhân của ông.

Kính chào ông - Quận Cam, ngày 24-10-2003 - Trần Vĩnh Long.

Cho đến thời điểm viết bài nầy, 1/11/2003, bốn bản văn trên là toàn bộ những dữ kiện công khai của sự cố mà người viết bài nầy, một độc giả ở xa của nhật báo Người Việt, gọi là Sự Hèn hạ và Ngu xuẩn của ông Cựu Bộ trưởng Nội vụ (Đệ nhất Cộng hòa) Lâm Lễ Trinh.

Ba Suy Nghĩ

1- Trước hết là suy nghĩ về hai chi tiết rất sâu sắc của ông Trần Vĩnh Long về cấu trúc văn hóa và căn cước chính trị của ông Lâm Lễ Trinh. Ông theo đạo Công giáo La Mã vào năm 1958, thời điểm cực thịnh của hiện tượng “theo đạo có gạo mà ăn” dưới nền Đệ nhất Cộng hòa. Đó cũng là thời điểm khi chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu tiến hành ý đồ Công giáo hóa miền Nam qua hai chính sách đàn áp trù dập Phật giáo, lực lượng văn hóa nền móng và đa số của xã hội Việt Nam; và phân phát đặc quyền đặc lợi cho những người đồng đạo Công giáo cả ở trong lẫn ngoài chính quyền. Các kế sách Dinh Điền, Khu Trù Mật, (và sau nầy là Ấp Chiến Lược); các tiêu chuẩn kỳ thị về tôn giáo trong chính sách nhân dụng của bộ máy hành chánh và quân đội, trong các lãnh vực kinh tế, giáo dục, xã hội, và quốc phòng, ... đã làm cho không thiếu người từ bỏ truyền thống tâm linh của dân tộc, đổi đạo để tìm bổng lộc và/hoặc để bảo toàn mạng sống.

Ông Lâm Lễ Trinh đổi đạo đúng vào thời gian đó! Và ông đã làm đến chức Bộ trưởng bộ Nội vu, một chức vụ cực kỳ quan trọng trong một chế độ độc tài với mạng lưới công an mật vụ dày đặc của miền Nam. Chế độ Diệm sụp đổ vì đi ngược thời đại và phản lại lòng dân nhưng ông Lâm Lễ Trinh thì cứ một lòng căm thù Phật giáo. Sau kế hoạch Nước Lũ tàn bạo của vợ chồng Ngô Đình Nhu vào đêm 20/8/1963, toàn bộ cơ cấu và nhân sự lãnh đạo của Phật giáo Việt Nam hoàn toàn bị tê liệt trong ngục tù để nhường chỗ cho các lực lượng chính trị của quân và dân miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh chống độc tài. Nhưng ông Lâm Lễ Trinh bị đui mù lịch sử, cho nên trong một kết luận không liên hệ gì đến chủ điểm bài dịch (là mâu thuẫn nội bộ giữa các nhân sự lãnh đạo trong đảng CSVN), ông không kiểm soát được nên bật miệng “phán” một câu về vấn đề hòa hợp hòa giải dân tộc, do đó làm hiển lộ ám ảnh chính trị thầm kín của ông giữa lúc Phật giáo đang hồi tưởng về 40 năm trước, mùa Pháp nạn dưới chế độ Ngô Đình Diệm. Ám ảnh bệnh hoạn đó là bọn cướp Phật giáo khoác áo nâu sòng lật đổ Cụ và chủ trương hòa hợp hòa giải nên hôm nay ông mất nước và mất luôn cái hào quang Bộ trưởng hét ra lửa của ông.

Hòa hợp hòa giải dân tộc là một cống hiến văn hóa của Phật giáo cho nhân dân hai miền Nam Bắc Việt Nam trong lòng cuộc chiến đang tàn phá đến cùng cực tổ quốc. Phật giáo đồ không muốn có chiến tranh, nhất là chiến tranh do ngoại bang ủy nhiệm trên thân xác người Việt, nên đã đề nghị một giải pháp của người Việt, hóa giải hận thù giữa người Việt và cho hòa bình của nước Việt. Ông lấy cái văn hóa “đổi đạo” và miếng đỉnh chung chính trị của ông để đánh giá nội dung cao quý và hùng vĩ đó của Phật giáo thì chẳng khác gì se sẻ mà chê phượng hoàng sao được ông Bộ trưởng ơi !

2- Suy nghĩ thứ nhì là hai lời ngụy biện xảo trá của ông Lâm Lễ Trinh trong Lời Minh Xác:

Luận cứ thứ nhất của ông là tính liên hoàn và thống nhất của mạch văn nên không thể tách rời 5 câu trước với từ “tướng cướp” được. Do đó, từ “tướng cướp”, theo ông Lâm Lễ Trinh, phải được hiểu là “nhà cầm quyền Cộng Sản hiện nay”. Khổ nỗi danh từ “tướng cướp” lại không thể tách ra khỏi thuộc từ “khoác áo nầu sồng” được. Và khi đếm ngược lại 5 câu trước, ta thấy có 2 ý chính là “nhà cầm quyền hiện nay” đang làm đất nước chậm tiến thất bại, và nội bộ đảng Cộng sản thì đang rạn nứt chia rẽ. Còn câu sau thì rõ ràng cảnh báo người đọc đừng nghe lời “các tướng cướp nâu sồng” mà hòa hợp hòa giải với “nhà cầm quyền hiện nay”. Đó là hai chủ thể “tướng cướp” và “nhà cầm quyền” khác nhau, hai tập hợp tách biệt, không thể ngụy biện rằng hai tập hợp đó là một được. Vậy thì ông muốn nói “các tướng cướp mặc áo nâu sồng” đó là ai thì cứ công khai nói ra chứ xảo trá tráo bài ba lá vụng về làm gì hỡi ông Lâm Lễ Trinh ?

Điều này lại càng rõ ràng khi ông dùng luận cứ thứ nhì, cho rằng “khoác áo nâu sồng” là “Cộng sản dùng tôn giáo quốc doanh để kêu gọi hòa giải bịp bợm”. Trước hết, trong tiếng Việt, danh từ “tướng cướp” viết liền với thuộc từ “khoác áo nâu sòng” thì vẫn là một thực thể (entity) mà thôi, không thể hiểu từ “tướng cướp” là định chế cầm quyền riêng, còn “khoác áo nâu sồng” là định chế tôn giáo riêng ra được.

Thứ đến, ngay cả ngu xuẩn dùng như thế thì sao không gọi thẳng từ “tôn giáo quốc doanh” ? Hay “bọn bán nước khoác áo quạ đen” để chỉ Công giáo quốc doanh, mà lại dùng một biểu ngữ mà ai cũng biết là để độc nhất chỉ các Tăng Ni Phật giáo. Dấu đầu mà lòi đuôi, như con chó Pavlov phản ứng có điều kiện, ông đã rơi mặt nạ của người nghiên cứu chống Cộng “khách quan” để lộ ra bộ mặt hận thù Phật giáo thâm căn cố đế của ông. Câu viết của ông, “các tướng cướp mặc áo nâu sòng” sẽ đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như câu nói để đời khác của Linh mục Hoàng Quỳnh, “thà mất nước chứ không thà mất Chúa”.

3- Suy nghĩ thứ ba là qua ứng xử chính trị và hoạt động trí thức của ông Lâm Lễ Trinh, một trí thức Công giáo có vai vế, lại quan tâm và thường lập thuyết về các vấn đề chiến lược có quan hệ đến Việt Nam, ta thấy rõ ông tiêu biểu cho một số khá đông những tín đồ Công giáo già nua đã từng nhận ơn mưa móc của chế độ Diệm, và nay đang khống chế các công cụ truyền thông trong các cộng đồng người Việt, để trao lại mối hận thù Phật giáo (mà ông Diệm từng trối trăn là tôi chết thì hãy trả thù cho tôi) cho thế hệ Công giáo tương lai.

Những ai còn có ý định hợp tác với những người Công giáo như ông Lâm Lễ Trinh để mưu đồ chuyện chống Cộng, nhất là những Tăng Ni Phật tử hồ hởi liên tôn chống Cộng, xin đừng xem nhẹ câu viết chắc nịch và lời minh xác xảo trá của ông Lâm Lễ Trinh. Lịch sử sẽ lập lại cho những ai không học được bài học của lịch sử đấy.

Và hai lời kết luận rất ngắn ...

Ông Lâm Lễ Trinh dốt về lịch sử nước ta thì không nên trách, cố gắng học hỏi thêm thì có ngày sẽ khá ra. Nhưng ông lại bóp méo lịch sử để nuôi dưỡng hận thù giữa đồng bào với nhau thì tội xảo trá đó không thể không vạch ra được. Ngoài ra, ông hận thù Phật giáo Việt Nam thì cứ lương thiện và can đảm nói thẳng ra, tại sao lại xảo ngôn minh xác “không biếm nhẽ người chân tu” thì ông hèn thật. Đó là kết luận thứ nhất về hành xử và não trạng Lâm Lễ Trinh.

Kết luận thứ hai là ông hèn hạ và xảo trá như thế thì vì cẩn trọng và chính xác trong lúc viết, tôi đã không thể đặt tựa đề cho bài viết nầy câu gì khác ngoài tựa đề Sự Hèn Hạ và Xảo Trá của ông Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ Trưởng Nội Vụ Đệ Nhất Cộng Hòa.

Phạm Phú Bổn