Trước hết, bài viết nhỏ này xin không bàn đến chiều sâu trong ý nghĩa học thuật và giá trị lịch sử của việc dùng Âm lịch, Dương lịch ở nước ta, mà chủ yếu chỉ để xoay quanh những diễn biến trong cuộc sống thường ngày của xã hội mà mỗi dịp Xuân về Tết đến, ai ai cũng đều tất bật, hăm hở đón chào.
Nói đến ngày tết âm lịch, còn được gọi là Tết Nguyên Đán hay Tết Cổ Truyền của dân tộc, từ lâu cũng đã có một vài ý kiến trong việc so sánh tương quan lợi-hại và được- mất giữa việc dung Âm và Dương lịch (bài viết này xin được dùng từ Tết Tây và Tết Ta).
Một trong những ngày Tết Ta: đậm nét văn hóa
Đặc biệt trong thời kỳ nước ta bị thực dân xâm lược và đô hộ, những quan niện xu thời, đề cao “Tây học”, việc gì xuất phát từ phương Tây đều tiến bộ, khoa , khoa học và đáng học hỏi, trong đó có đương nhiên đứng đầu có cả các giáo sĩ người phương Tây. Với thành phần này, hệ thống Dương lịch hiện hành là khoa học, là chính xác. Hẳn nhiên rồi vì Dương lịch hiện hành là lịch Gregory (lấy từ tên của giáo Hoàng Gregorio được giới thiệu từ tháng 10/1582 (xin xem thêm “Từ bảy Bước Chân Đức Phật Ngàn Xưa Đến những Con Số Bất Cập Ngày nay” của cùng tác giả trên quangduc.com).
Vì thế, trong vấn đề luôn đề cao Dương lịch và lúc nào cũng muốn xóa bỏ đi nền Âm lịch, cũng đã hình thành nên một thành phần, tạo được xu hướng mạnh mẽ, không ngừng hoan nghênh việc xóa bỏ Âm lịch và Tết Ta để dùng Dương Lịch! Điều mà từ trong lịch sử họ từng trông chờ nhưng thất bại trước thành lủy dân tộc vững chắc kể từ lúc cùng thực dân đem giá trị “Tây học”đặt xuống đất này. Vô tình trở nên một trợ thủ đắc lực cho việc tuyên truyền, vốn luôn cưỡng từ đoạt lý như GS Nguyễn Mạnh Quang từng cảnh báo, và thay đổi nến tảng luân lý của dân tộc.
Ai cũng biết, Âm lịch đối với cuộc sống dân tộc chúng ta rất quan trọng, nhất là ở ý nghĩa thờ cúng Tổ Tiên, giỗ chạp, và nghi lể tang ma.v.v… Đặc biệt các ngày lễ kỷ niệm Anh Hùng Dân Tộc cũng đều tính vào Âm lịch. Riêng Phật giáo thì điều đó càng quan trọng hơn, ý nghĩa hơn với hầu hết các lễ nghi, phong tục, truyền thống hóa đạo và đặc biệt khi các ngày vía, kỷ niệm, kể cả ngày Đản Sanh đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni ….cũng tính từ âm lịch và các ngày lễ khác có ít nhiều liên quan trong năm.
Do đó, chủ trương xóa bỏ ngày Tết Ta cũng có nghĩa là triệt tiêu tất cả những gì thuộc về truyền thống dân tộc tính, trong đó có Phật giáo, một tôn giáo luôn đồng hành, gắn bó theo từng bước thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Đã có lúc, những ý kiến đó tạo thành cơn sốt thật sự và tạo ra mối quan tâm của nhiều giới. Từ đó công việc mổ xẻ Tết Tây và Tết Ta cũng đi vào nhiều chi tiết, nhiều khía cạnh, yếu tố liên đới được xới lên, có đôi khi quá trớn. Nhưng đáng chú ý qua những lần mổ xẻ ấy các mủi nhọn dao kéo đều chỉa vào cơ thể, nền móng của Tết Ta một cách không ngần ngại.
Đôi khi, những ý kiến đó mang danh nghĩa vì lợi ích dân tộc trước đà tăng trưởng nhiều mặt của thế giới, bất chầp có so sánh khập khiểng và vấp phải phản kháng dữ dội từ phía ngược lại, tức là những người luôn ưu tư và gìn giữ những gì thuộc về tinh túy dân tộc mà trải qua mấy ngàn năm cha ông chúng ta mới gầy dựng và ổn định được.
Dường như trong mắt người ta, Tết Ta vẫn là một cái tết thiếu căn bản khoa học không gian lẫn thời gian cho nên đất nước còn chậm phát triển, muốn làm được những điều đó, đất nước cần nên xóa bỏ những gì bị cho là lực cản bước phát triền đó, dù đó là truyền thống, nến móng của văn hóa dân tộc mà ngày Tết Ta là một điển hình?
Nghĩ mà thương ông bà tổ tiên chúng ta biết bao khi đã định nghĩa được hai từ Tết Tây- Tết Ta rất gần gủi mà cũng rất rõ nét để phân biệt được cái gì thuộc về truyền thông dân tộc và cái gì thuộc về của người ta. Ngay như ngày tháng, từ cửa miệng người dân Việt cũng đều xác lập được sư phân biệt này, thí dụ nói ngày Dương lịch là hai Tây. Ba Tây. Mười lăm, hai mưoi lăm Tây.v.v… còn âm lịch thì hai Ta, ba Ta, hoặc số nhiều mười lăm An Nam. Hai mươi lăm An Nam.v.v…rất thú vị.
Những cách gọi đó hẳn nó xuất phát từ khi đất nước còn đặt dưới gót giày xâm lược và đô hộ đất nước này của thực dân. Khi đó rất nhiều truyền thống dân tộc đều bị chao đảo, bị đặt dưới sự quan tâm –xét lại của giới “Tây học”,cho vừa lòng ông chủ mới. Nhưng một mặt khác, người dân đất nước này không phài vì thế mà đóng kín cửa một cách cực đoan, vẫn chọn lọc và bổ sung cho mình những bước tiến cần thiết mà không đánh mất giá trị bản sắc dân tộc. Thí dụ chấp nhận chữ La Tinh (do nhiều công trình bổ sung và tổng hợp) làm chữ Quốc Ngữ mà vẫn khộng quên nguồn cội chữ viết của mình (chữ Nôm) và gọi đó là chữ An Nam.v.v…
Nhưng rõ ràng ranh giới giữa Tây và Ta đã được xác lập. Trải qua biết bao thăng trầm thế cuộc, đất nước này vẫn đứng vững và hiên ngang mang trên mình một dáng đứng bốn ngàn năm văn hiến, và nếu nhận xét này không khiếm diện, thì nó được tiêu biểu, thể hiện với bạn bè năm châu bằng một cái Tết Ta hiện hữu hằng năm. Bảo vệ ngày Tết Ta không phải là một việc làm lỗi thời hay cố chấp xưa-cũ, mà đó là bảo vệ nét văn hóa truyền thống riêng biệt của dân tộc. Điều này GS Nguyễn Minh Thuyết có nói “Sự đa dạng văn hóa bao giờ cũng nhận được sự ủng hộ từ Liên Hiệp Quốc”.
Thế thì đem cái Tết Ta tiêu biểu của văn hóa dân tộc như thế ra đánh đố, so sánh lợi –hại, được-mất với cái Tết Tây, dù với bất cứ lý do nào, liệu có phải chúng ta đem mặc cả vốn liếng cuối cùng của gia sản dân tộc trên một sòng bạc chăng?
Tuy nhiên, một điều hết sức đáng mừng là trong mỗi lần mổ xẻ-so sánh nhu vậy, hầu hết các ý kiến đều đứng về phía Tết Ta. Có rất nhiều lý do nhưng nhiều nhất vẫn mang nặng tính dân tộc, tình gia đình và đạo nghĩa thủy chung. Nó là sức mạnh khiến những ai xa xứ, dù tốn kém như thế nào và công việc làm ăn ra sao cũng về để sum họp gia đình. Nó khác rất xa cái lý do nhạt nhẻo và rất buồn cười cho rằng anh công nhân treo bảng hiệu Chúc Mừng Năm Mới(Tết Tây) phải leo lên thay xuống hai lần chỉ trong một tháng (lại treo lên với Tết Ta)!
Vì vậy không ngạc nhiên chút nào khi phần lớn các ý kiến bảo vệ Tết Ta lại chính là giới trẻ thanh niên – những chủ nhân tương lai của đất nước ngày mai; kế đó là thành phần du học sinh xa xứ và kiều bào sống xa tổ quốc. Vào kênh 14 (Vlog) xem video clip của bạn trẻ Võ Minh Khuê (sinh năm 1982) trả lời năm luận điểm để bảo vệ ngày Tết Ta rất đáng lưu tâm.
Ngày Tết Ta khác hẳn ngày Tết Tây chỉ có nghỉ ngơi và du lịch, còn ngày Tết Ta là ngày tết của tâm linh, của sự đòan tụ gia đình , tưởng nhớ Tổ Tiên và thăm viếng lẫn nhau, tạo thêm giềng mối nghĩa tình thêm xa rộng.
Một yếu tố khác góp phần rất lớn cho ngày Tết Ta chính là điều kiện phong thủy, thời tiết và lúc nông nhàn (Âm Lịch chúng ta vốn cũng được gọi là Nông Lịch). Chính những yếu tố này tạo ra các lễ hội mùa xuân không nơi nơi nào có được như ở đất nước ta. Vì vậy nếu viện vào lý do nào đó để cho kịp đà phát triển kinh tế thế giới mà gộp chung vào ngày Tết Tây thì chẳng những bị xem là vô cùng phản logic, phản tự nhiên, mà còn phản lại truyền thống, gia sản ngàn đời của Tổ Tiên chúng ta.
“Chỉ một lý do này cũng khiến người Việt không bao giờ bỏ Tết Nguyên Đán, đó là tình người, là tâm linh. Trong thế giới hội nhập, hàng triêu người Việt tỏa ra bốn phương trời. tết là dịp để người ta trở về dưới mái ấm gia đình, gặp lại ông bà, bố mẹ, anh emhô hàng, bè bạn, nới lại sợi dây của mối tình máu mủ, quê hương…Chính mỗi dịp tết như vậy mà tình người Việt kéo dài ra, bất tận. Với phần lớn người Việt, cái tết tây chỉ là một tờ lịch đầu tiên của cuốn lịch. Ngày 1 tháng Giêng Dương lịch chỉ đơn thuần là cái mốc thời gian, cũng trôi qua vô hồn.
Làm giàu là cần nhưng suy cho cùng, giàu để làm gì? Dù có tới 36 tấn vàng thì vua Ngô khi chết cũng không mang đi được. Có gì trong cuộc sống đầm ấm an lành trong tình người. May mà chúng ta chưa mất cái gia tài quý giá ấy. Biết đâu, đó lại là vốn quý nhất mà nhân loại nhận ra trong hội nhập?”(Hà Văn Thùy-vanchuongviet.org).
Có lẽ những ai còn mơ tưởng “sự chuẩn xác, văn minh tiến bộ” của phương Tây cũng nên đọc lại chi tiết này: Đầu xuân Nhâm Ngọ (2002) tại Hà Nội có diễn ra hội thảo về Tết Nguyên Đán, GS sử học Trần Quốc Vượng ( 1934 – 2005) nhấn mạnh về cái gọi là tính chuẩn xác của Tây Lịch rằng ‘thời đại chúng ta hiện đang sống là thời đại của thuyết tương đối của nhà bác học lừng danh Albert Einstein (1879-1955)”và GS còn kể lại khi còn sinh thời và đang trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt, có vài ý kiến đề nghị cụ Hồ Chí Minh bỏ hẳn âm lịch. Cụ Hồ Chí Minh nói ngắn gọn rằng “Như thế ta bỏ luôn Tết Nguyên Đán sao?”. Và GS khẳng định “Ngày nay chúng ta còn được ăn Tết Nguyên Đán-Tết Dân Tộc là nhờ Bác”.( Nguồn: ghi lại từ Đài TNVN).