Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam ?
Trần Thanh Lưu dịch cuốn
“Viet Nam: Why Did We Go?” Tác giả: Avro Manhattan
bản rời || Mục Lục | 13 tháng 9, 2009
Chương 11
Củng Cố Chủ Nghĩa Khủng Bố.
Luật lệ chống Tin Lành – Cầm giữ - Bắt giam, Tra tấn và Thủ tiêu.
► Chủ Nghĩa Ca-tô toàn trị cho một mô hình Nhà nước Ca-tô ► Diệm và lời dạy của Giáo hoàng ► Nhà thờ KHÔNG NÊN bị tách ra khỏi Nhà nước ► Từ chối cấp phép truyền đạo ► Một nhà nước Ca-tô không thể dung túng những kẻ bất mãn Tin Lành ► Bản thiết kế cho việc loại bỏ đạo Tin Lành ► Nền giáo dục Ca-tô cho một nước Ca-tô ► Nam Việt Nam được xây dựng dựa trên các học thuyết xã hội của mười Giáo hoàng ► "Thực là sai lầm khi tin rằng Giáo Hội Công Giáo không có quyền sử dụng vũ lực" ► Việc sùng bái chủ nghĩa cá nhân ► “Các cố vấn dân sự” Mỹ của Diệm gởi các báo cáo ảm đạm về Washington - Bàn thờ và Kiệu thờ cho Tổng thống Diệm ► “Các đội biệt kích” Ca-tô của Nam Việt Nam đào tạo tại trường Đại học Michigan ► Thẻ căn cước cho những kẻ bất mãn Ca-tô ► Bắt giữ và thủ tiêu những Phật tử phản loạn ► 24 ngàn người bị thương và 80 ngàn bị thủ tiêu ► 200 ngàn Phật tử biểu tình tại Sài Gòn ► Diệm quyết định loại bỏ tôn giáo của đại chúng.
Trong khi một nền dân chủ lấy hứng khởi từ một số nguyên tắc dân
chủ cơ bản, một nền độc tài Cộng sản thì được xây dựng trên cơ sở
của chủ nghĩa Mác Xít, vì thế chủ nghĩa toàn trị Ca-tô phải được
thúc đẩy bởi các học thuyết đã được ban hành bởi Giáo Hội Ca-tô. Do
đó Diệm đã quyết định tạo ra một mô hình Nhà nước Ca-tô trong khu
vực Đông Nam Á. Các giáo lý gây hứng khởi cho Diệm nhiều nhất là
những lời dạy về xã hội của ba Giáo hoàng được ưa chuộng nhất của
ông là Leo XIII, Pius IX và Pius XI.
Diệm đã theo đúng từng chữ về lời dạy của các Giáo hoàng này. Ví
dụ, ông ta tin chắc, như lời Giáo hoàng Pius IX đã từng tuyên bố
trong bài giảng Đề cương về những Sai lầm (Syllabus of Errors) rằng
“thực là sai lầm khi tin rằng giáo hội không phải là một hội thánh
chân thật và toàn hảo.” Để Giáo Hội được toàn hảo, Nhà nước phải
được hợp nhất với nó thành một, bởi vì, lại theo lời Pius IX "thực
sai lầm mà tin rằng: Giáo Hội phải được tách ra khỏi Nhà nước và Nhà
nước khỏi Giáo Hội" một nguyên tắc, đã hoàn toàn trái với Hiến pháp
của Hoa Kỳ, kẻ đã tài trợ cho ông ta..
Do đó những phần tử cản ngăn sự hợp nhất ấy phải được loại bỏ.
Đây có nghĩa là các tín dồ Tin Lành, tại thời điểm đó có khoảng 50
ngàn người, chủ yếu là Baptists và Seventh Day Adventists. Diệm đã
có kế hoạch để loại bỏ họ chủ yếu là thông qua luật lệ cấm việc
truyền giáo, đóng cửa các các trường học, và từ chối cấp giấy phép
giảng đạo, hay hội họp tôn giáo của họ. Điều này sẽ được làm một
cách hợp pháp dựa vào giáo ước (Concordat) tương lai sẽ được ký kết
với Vatican, theo khuôn mẫu Tây Ban Nha của Franco. Những luật lệ
chống Tin Lành như thế sẽ được thi hành một khi chiến tranh đã qua
và một Nhà nước Ca-tô đã được thiết lập vững chắc.
Điều này không phải chỉ là thuần suy diễn, mà thực lạ lùng là nó
lại được xác quyết trong khoảng thời gian đó ở London, nước Anh. Tác
giả tập sách này lúc bấy giờ đang cư ngụ chỉ cách tòa Đại sứ Nam
Việt Nam, ở đường Victoria Road, quận Kensington vài trăm thước. Ông
đã gọi đại sứ quán nhiều lần để tìm hiểu lý do vì sao chế độ Diệm
"sách nhiễu một số tông phái Phật giáo bất tuân", Tất cả các văn bản
chính thức nhận được đều bào chữa cho việc sách nhiễu. Lời giải
thích chính thức cho rằng các Phật tử bị "xử" không phải trên bình
diện tôn giáo mà là chính trị, Khi tác giả đề cập đến các tín đồ Tin
Lành thì một viên chức giải thích rằng họ là một trường hợp đặc
biệt. Vì họ là Ki-tô hữu, nên việc "xử" họ sẽ là chính đáng, một khi
tình hình trong nước đã trở thành bình thường, trên cơ sở rằng một
quốc gia - trong trường hợp này là Nhà nước Ca-tô Nam Việt Nam – vốn
được thành lập từ hứng khởi của những giáo lý (Ca-tô). Một Nhà nước
Ca-tô toàn hảo, do đó không thể dung nạp các tín hữu Tin Lành hay
Ki-tô hữu nào không chịu tin vào tính hợp nhất của Giáo Hội Ca-tô.
Điều này phải được thấy rõ vào thời điểm mà Giáo hoàng John XXIII
phát động kỷ nguyên của niềm tin vào sự hợp nhất của Giáo hội
(Ecumenism). Cũng nên biết viên chức cao cấp đã đưa ra lời giải
thích không ai khác hơn là em ruột của Tổng thống Diệm, cũng là một
giáo dân Ca-tô ngoan đạo, Đại sứ Ngô Đình (Luyện).
Các nhà sư Phật giáo chống cự với cảnh sát ở phía trước chùa Giác Minh ở Sài Gòn, để phản đối một sắc luật nữa kỳ thị chống họ. Tổng thống Diệm đã quyết định dựng lên một Nhà nước Ca-tô khuôn mẫu ở Nam Việt Nam và cuối cùng cho cả một nước thống nhất Bắc và Nam Việt Nam. Nhà nước Ca-tô khuôn mẫu đã được đặc biệt gợi hứng khởi từ những lời dạy của Giáo hội Ca-tô. Lời dạy ưa chuộng nhất của Diệm là từ các Giáo hoàng Leo XIII, Pius XI và Pius XII, họ đã lên tiếng rằng nhà nước Ca-tô khuôn mẫu phải loại bỏ tất cả những gì không phải là Ca-tô. Điều này bao gồm Phật tử cũng như 50 ngàn tín đồ đạo Tin Lành, chủ yếu là Baptists, Evangelicals, Seventh Day Adventists, vv ở Nam Việt Nam. Chính sách đã gây sự bất mãn dâng cao và các cuộc biểu tình, trong đó một số bạo động.
Sau đó một viên chức khác, một cựu tín đồ Baptist, xác nhận rằng đã có một
bản thiết kế cho việc chính thức loại bỏ đạo Tin Lành trong một nước Việt Nam
thống nhất tương lai. Đó không phải chỉ là những kế hoạch lý thuyết cho tương
lai, mà đã được minh chứng bởi thực tế là Diệm đã sốt sắng khởi phát chương
trình. Muốn loại trừ Tin Lành hay Phật giáo, trước hết ông ta phải Ca-tô hóa
toàn bộ cơ cấu xã hội của Việt Nam. Phần tối quan trọng của kế hoạch là giáo
dục. Giáo Hội Ca-tô kiên quyết trên mục tiêu này.
Để tạo nên một Nhà nước Ca-tô thuần nhất thì phải uốn nắn thanh thiếu niên,
các công dân tương lai của ngày mai. Một giáo lý đã tạo ra lắm rắc rối trong
nhiều quốc gia, trong đó có cả Hoa Kỳ, với vấn đề tài trợ cho giáo khu (Ca-tô)
và yêu sách của nhà thờ Ca-tô về sự giáo dục riêng biệt ngoại lệ. Còn với Diệm
thì không hề có hạn chế, ông ta còn cho rằng lệnh của Giáo Hội mình phải được
thi hành nghiêm túc.
Năm 1957, ông ta lập ra Viện Đại học Ca-tô tại Đà Lạt; đến 1963, nó đã có
trên 500 sinh viên – hàng ngũ trí thức tương lai của đất nước. Diệm cũng đã muốn
rằng các giáo sư và giảng viên Ca-tô phải có cương vị ở hai Viện Đại học Quốc
gia là Huế và Sài Gòn. Năm sau Dòng Tên (Jesuits) thiết lập những tu viện ở các
thành phố vừa kể. Chế độ đã xây dựng 435 cơ sở từ thiện; giữa 1953 và 1963 Diệm
thiết lập 145 trường trung học đệ nhất và đệ nhị cấp, trong đó có 30 trường ngay
tại Sài Gòn, với tổng số là 62324 học sinh.
Trong cùng thời gian Giáo Hội Ca-tô tại Nam Việt Nam, từ chỉ có 3 trường
trung học đệ nhất và đệ nhị cấp vào năm 1953, đến năm 1963 đã tăng vọt lên 1060
trường, trong một thời gian chỉ mười năm ngắn ngũi. Đồng thời Diệm xây dựng 92
ngàn mét vuông diện tích các bệnh viện, cơ sở từ thiện và giáo dục; nhưng dành
526 ngàn mét vuông diện tích cho các biệt thự sang trọng và Nhà Thờ Ca-tô.
Quân Mỹ trên đường đưa quân vào đồng bằng sông Cửu Long, bị chận lại bởi
một đoàn tuần hành của khoảng 3 ngàn sư sãi. Phật giáo đồ dấy loạn đe dọa
lính Mỹ vốn đã được lệnh gườm vũ khí nhắm vào đám đông. Cảnh sát Dã chiến đã
can thiệp vài giờ sau. Phật tử cảm thấy chính đáng trong việc nổi loạn của
họ vì chính sách của Diệm ưu đãi giáo dân Ca-tô. Các giáo sư và giảng viên
Ca-tô buộc phải có cương vị ở hai viện đại học quốc gia là Huế và Sài Gòn.
Giáo sĩ Dòng Tên được phép mỡ tu viện với ngân quĩ và sự bảo vệ của Chính
phủ. Các trường học và cơ sở giáo dục của Phật giáo thì ngoài việc bị sách
nhiễu, nhận rất ít trợ cấp hoặc không có gì cả. Các trường học Ca-tô thì
tăng nhanh từ chỉ có ba trường trung học trong năm 1955, lên đến 1060 vào
năm 1963. Nhiều quân nhân Phật tử trong quân đội đã đào ngũ vì sự kỳ thị
công khai của giáo dân Ca-tô, tạo ra đổ vỡ và chán nãn. Pháp luật được thông
qua từ hứng khởi qua lời dạy của Giáo hoàng.
Đồng thời, Diệm khởi sự thiết lập Nhà nước Ca-tô của mình dựa trên những học
thuyết xã hội của các Giáo hoàng. Trong thời gian đầu của kỷ nguyên, những điều
này đã gây cảm hứng cho một số các phong trào xã hội, đã để lại những hậu quả
nghiêm trọng ở Âu Châu. Nơi đáng kể nhất là nước Ý. Dựa trên tinh thần của những
học thuyết xã hội như thế của Giáo hoàng, vốn trước đây đã gây hứng khởi cho chủ
nghĩa Phát-xít (fascism) ở Ý, mà lập nên Nhà nước Tổ hợp ở Việt Nam (Corporate
State in Vietnam), nhưng với một lớp đánh bóng cho có tính cách thời đại và với
một số cải biên cho phù hợp với một nước Á châu. Thêm một chút sơn phết cho ra
vẻ độc đáo, Diệm sáng chế ra triết lý riêng của mình, không những chỉ bắt nguồn
từ lời dạy của các Giáo hoàng mà còn từ một tập thể hổn tạp, trước hết nghĩ ra
bởi một nhóm trí thức Ca-tô khoảng năm 1930, khi chủ nghĩa Phát-xít đạt đỉnh
điểm của nó và được gọi là "chủ nghĩa nhân vị” (personalism).
Sau nỗ lực thiết lập một bộ máy tổ hợp, Diệm bắt đầu thông qua luật để thực
thi kế hoạch của mình. Điều này dẫn đến không chỉ là pháp chế đàn áp mà còn việc
sử dụng bạo lực.
Một lần nữa Diệm đã tìm được hứng khởi trong một số lời dạy của Giáo hoàng,
đó là theo lời của Pius IX, thực là sai lầm để tin rằng: "giáo hội không có uy
quyền trong việc sử dụng vũ lực, hoặc nó không có bất kỳ uy quyền tạm thời nào,
trực tiếp hoặc gián tiếp. " (Sai lầm số 24 – Đề cương của các sai lầm). Biện hộ
cho đức tin tôn giáo của mình với tham vọng chính trị cá nhân, Diệm, trong tám
năm theo sau, đã trở nên ngày càng độc tài, khinh thường một cách lộ liễu bất cứ
hình thức dân chủ nào, miệt thị những lời khuyên, trở thành hơn bao giờ hết trơ
tráo trước những lời phê bình, bao gồm cả sự phê bình của một số “cố vấn” quân
sự và dân sự Mỹ. Nhiều người trong số này đã gởi những phúc trình đầy ý nghĩa về
những sự việc đang xảy ra cho Washington, tiên liệu tai họa. Tuy nhiên nhóm
Dulles-CIA-đám vận động hành lang Ca-tô, tìm mọi cách không cho các báo cáo này
lọt đến đúng chỗ, bắt đầu với chính Tổng thống Eisenhower.
Cùng lúc, chủ nghĩa tự cao tự đại về chính trị-tôn giáo (religious-political
egocentrism) của Diệm đã đạt đến mức đáng sợ. Triết lý “Nhân Vị” của ông ta
chuyển thành một sự sùng bái cá nhân lộ liểu ngang hàng với những gì đã được
thúc đẩy trong nước Nga Soviet của Stalin và nước Đức Nazi của Hitler. Chân dung
của ông tràn lan khắp hang cùng ngỏ hẽm; thiếu vắng chân dung của ông ta trong
tư gia, có thể làm cho bất cứ ai bị nghi ngờ là chống đối và vì thế bị bắt giam
ngay, trong các nhà tù và trại tập trung. Sự sùng bái cá nhân, khá điển hình của
các nền độc tài Châu Âu, đã đạt tới mức cuối cùng là bàn thờ với chân dung của
ông ta được dựng lên trên đường phố, nơi mà quốc ca và các bài hát suy tôn Diệm
đã được vang vọng.
Với sự sùng bái cá nhân, liền phát triễn lòng hận thù cuồng tín chống lại bất
kỳ hình thức đối lập nào. Cả hai không hề tách rời. Điều này có nghĩa là một sự
trừ khử tàn bạo bất kỳ cái gì trông giống dân quyền cơ bản hoặc tự do tư tưởng,
tôn giáo và chính trị. Hơn bao giờ hết Diệm dần đích thân kiểm soát nghiêm ngặt
ngành cảnh sát, như chúng tôi đã nói, cầm đầu bởi một trong các anh em của ông
ta. Mạng lưới an ninh đã được nhân rộng và tôi luyện cứng rắn. Các đội biệt kích
được thành lập. Việc khống chế dấy loạn - luôn sẵn sàng – đã được đào tạo với
hiệu quả tàn nhẫn. Điều mà độc giả người Mỹ đặc biệt quan tâm là mô hình dẹp
nhanh gọn của việc khống chế này đã được lập ra, đào tạo và tôi luyện bởi trường
Đại học Nam Michigan, dưới sự tài trợ của CIA.
Những sự vi phạm trắng trợn về dân quyền, về tự do cá nhân, tăng nhanh gấp
bội. Những kẻ bất phục, đủ mọi lứa tuổi và đủ loại chính kiến về chính trị hay
niềm tin tôn giáo, đều bị tống giam vào tù hoặc vào các trại tập trung. Để kiểm
tra tốt hơn những kẻ bất mãn, mỗi nông dân bị bắt buộc phải mang theo một thẻ
căn cước. Với sự cứng rắn của chế độ Diệm, những kẻ bất phục đã không còn chỉ là
những người Cộng sản hay Phật tử. Giáo dân Ca-tô bây giờ cũng tham gia vào phe
chống đối. Đây là giáo dân Ca-tô mà ban đầu Diệm đã lôi kéo rời miền Bắc. Hàng
ngàn người trong số họ đã yêu cầu Diệm phải giữ lời hứa. Họ đã biểu tình đòi hỏi
đất đai, nhà cửa, và công ăn việc làm mà họ đã được hứa hẹn. Cuối cùng một số
dân chúng gia tăng nói rằng họ muốn được hồi hương về lại miền Bắc Việt Nam. Đáp
ứng của Diệm thì ai cũng biết rõ. Các cuộc biểu tình đã bị dẹp tan tàn nhẫn; bất
kỳ kẻ nào, nhóm nào nhận diện được, cho dù Phật giáo hay Ca-tô, đếu bị bắt, tống
giam vào tù hay vào một trại tập trung hoặc thậm chí bắn bỏ ngang xương.
Mọi sự đã được ghi nhận, và mặc dù con số không được chính thức xác nhận vẫn
được coi là rất đáng tin cậy, rằng trong thời gian khủng bố này - đó là từ năm
1955 đến 1960 - ít nhất đã có 24 ngàn người bị thương, 80 ngàn người đã bị xử tử
hay bị thủ tiêu, 275 ngàn người đã bị bắt nhốt, thẩm tra có hoặc không có tra
tấn, và khoảng 500 ngàn người bị nhốt vào các trại tập trung hay trại giam. Đây
là một ước tính dè dặt.
Việc thành lập một chế độ Ca-tô toàn trị vẫn dứt khoát tiến tới bất kể chuyện
gì. Sự đối kháng từ mọi thành phần trong nước gia tăng. Đình công đã diễn ra
ngày càng thường xuyên, chủ yếu cũng vì tình trạng kinh tế suy đồi. Vào tháng
năm 1957, 200 ngàn công nhân đã biểu tình riêng tại Sài Gòn. Năm sau vào ngày
Lao động Quốc tế tháng năm năm 1958, các cuộc biểu tình đã tăng lên đến 500 ngàn
người. Đã xảy ra các cuộc đình công và biểu tình khắp nước trong năm tiếp theo.
Dân Ca-tô từ Bắc quyết đòi hồi hương. Tuy vậy, bộ máy đàn áp của chính quyền đã
trở thành quá hiệu quả nên không cuộc kháng cự nào làm cho suy yếu đi được, dù
mang tính cách kinh tế hay chính trị. Chuyên viên địa phương và Hoa Kỳ đã chỉ
đạo việc khống chế sự bất mãn của dân chúng và bất cứ cá nhân nào, đã thành công
như một bộ máy kỳ diệu. Dựa chủ yếu vào nó mà Diệm cảm thấy tự tin rằng ông sẽ
vượt qua mọi bảo táp trên đường phố, và cũng chủ yếu nhờ vào một bộ máy đàn áp
kỳ diệu như thế mà cuối cùng Diệm cảm thấy mình đủ mạnh để thực hiện biện pháp
khác, nhắm đến việc thiết lập nước Việt Nam Ca-tô của ông ta.
Ông đã mạnh dạn chuyển qua đối đầu trực tiếp với điều mà ông ta coi là trở
ngại quan trọng nhất cho những giấc mơ chính trị-tôn giáo của mình. Thế là ông
tấn công tôn giáo chính của đất nước, Phật Giáo.
Các nhà sư Phật giáo và thường dân nổi lên chống trả những đội cảnh sát
mũ sắt. Trong tháng mười, 1956, giáo dân Ca-tô Diệm, với sự chấp thuận kín
đáo của Mỹ, ban hành một hiến pháp mới. Bắt chước Hitler, Ante Pavelich ở
Croatia và Salazar của Bồ Đào Nha, ông đã chen vào một Điều khoản 98, trao
cho ông ta toàn quyền độc tài. Nó được ghi như sau: "... Tổng thống (Diệm)
có thể ra một Nghị định tạm đình chỉ... (từ đó tiếp theo hầu hết tất cả dân
quyền trong nước)... để đáp ứng các nhu cầu chính đáng của an ninh công
cộng, vv." Điều khoản phải được hết hạn vào tháng Tư, 1961, nhưng nó đã
không bao giờ bị bãi bỏ. Tổng thống Diệm, trong 1956, lại ban một sắc lệnh,
Sắc lệnh 46, được ghi như sau: "Các cá nhân bị coi là nguy hiểm cho quốc
phòng và an ninh công cộng có thể bị giam giữ trong một trại tập trung bằng
sắc lệnh." Sắc lệnh và Điều khoản ấy đã gây ra những cuộc biểu tình trên
toàn cõi Nam Việt Nam.
Tổng thống Diệm hội ý với các nhà sư Phật giáo tại Dinh Gia Long ở Sài Gòn vào tháng tám, 1962. Trước khi tiến hành một cuộc khủng bố tràn lan chống lại Phật giáo đồ, Tổng thống Diệm đã cố gắng lập ra một bộ phận Phật tử cốt hỗ trợ các chính sách về điều phối và hợp nhất của mình. Chương trình của ông nhắm vào việc Ca-tô-hóa chính quyền và quân đội, giao các vị trí đặc quyền cho giáo dân Ca-tô, bao gồm cả những người đã chạy thoát vào từ miền Bắc. Để tăng cường cho chế độ, Diệm đã cố gắng vuốt ve Phật giáo đồ. Họ vẫn không an lòng vì chính phủ đã thiên vị giáo dân Ca-tô hơn là Phật tử, mặc dù thành phần sau chiếm hơn ¾ dân số. Để tránh sự bất mãn của Phật giáo lây lan, Diệm đã cố gắng thuyết phục một số nhà lãnh đạo Phật giáo hỗ trợ ông ta. Ông hy vọng tránh được một tiềm năng đối đầu với những người quyết chống lại luật lệ thiên-Ca-tô và chống-Phật giáo của ông ta. Nổ lực của Diệm đã thất bại. Ngoại trừ một nhóm nhỏ, đa số Phật giáo đồ từ chối cộng tác với ông và với chế độ Ca-tô của ông ta.
Phật tử tấn công một trường học Ca-tô tại Sài Gòn. Chính sách Ca-tô-hóa Nam Việt Nam trở nên quá lộ liễu đến độ đã làm cho thành phần ù lì nhất của Phật giáo đồ cũng phải nổi giận. Từ ban đầu của nhiệm kỳ Tổng thống của mình, Diệm đã bắt đầu dựng lên và bội tăng các trường học và nền giáo dục Ca-tô. Giữa 1953 và 1963, Diệm thành lập 145 trường trung học đệ nhất và đệ nhị cấp, trong đó có 30 tại riêng Sài Gòn, với tổng số là 62 ngàn học sinh. Trong cùng thời kỳ, Giáo Hội Ca-tô, từ chỉ có ba trường trung học năm 1953, đã bội tăng lên đến 1060 vào năm 1963, trong vòng một thời gian ngắn 10 năm. Đồng thời Diệm bổ nhiệm các giảng viên và giáo sư Ca-tô tại các viện đại học không phải Ca-tô và nắm chắc rằng giáo dân Ca-tô phải được đối xử và lương bổng ưu đãi. Mục đích là lấy nền giáo dục Ca-tô làm xương sống cho tầng lớp trí thức của Nam Việt Nam. Đồng thời, ông đã xây dựng vô số nhà thờ và tổ chức từ thiện Ca-tô, toàn là lấy từ ngân quỉ của chính quyền, vốn cai trị một dân số có đến 85 phần trăm Phật giáo đồ. Phản ứng, ban đầu chỉ là lên tiếng, cuối cùng đã quay qua bạo động, và các trường học Ca-tô và thậm chí cả nhà thờ đã bị đốt rụi bởi Phật giáo đồ nổi sùng.
Các Phật tử biểu tình tấn công giáo dân Ca-tô cố thủ trong một tòa báo Ca-tô tại Sài Gòn. Tòa nhà đã bị đốt trong khi cả đô thành bị chao đảo hàng mấy giờ bởi hổn loạn ngoài đường phố liên quan đến hàng ngàn người. Các cuộc hổn loạn đã bị dẹp yên sau khi Phật giáo đồ chạm trán với quân lính, và giáo dân Ca-tô rút lui. Các cuộc biểu tình diễn ra vì đạo luật mới ưu đãi các trường Ca-tô và giáo dân trong các chức vụ của chính phủ và quân đội. Chính quyền Ca-tô của tổng thống Diệm nói đãi bôi về bình đẳng và dân chủ, nhưng sự thiên vị thì rất trắng trợn đến nỗi hổn loạn ngày càng thường xuyên trong khi cuộc chiến tranh vẫn tiếp diễn.
Một thiếu nữ đang cầu nguyện cho hòa bình giữa 15 ngàn người biểu tình khác do tăng ni Phật giáo hướng dẫn trước ngôi chùa chính tại Sài Gòn. Họ cầu nguyện cho việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, vốn đã được xúi giục bởi Vatican và Hoa Kỳ. Vatican đã leo thang việc sùng bái Fatima, với những hứa hẹn của Mẹ Đồng Trinh rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ bị tiêu diệt tại nước Nga Soviet và trên thế giới. Hoa Kỳ đã leo thang Chiến Tranh Lạnh và đem Chiến tranh Thế giới thứ III gần kề đến nỗi vào năm 1956 John Foster Dulles, Bộ trưởng Ngoại giao đã tuyên bố trước một thế giới khiếp đãm rằng Hoa Kỳ đã đứng trên bờ vực chiến tranh ba lần. Ông Dulles còn thông báo cho Moscow và Peking rằng Mỹ có ý dùng vũ khí hạt nhân. Những cuộc xung đột tại Việt Nam đã được tiếp tục tăng tốc bởi những cuộc đề bạt nhanh chóng các giáo dân Ca-tô cuồng tín trong cấp bậc cao của quân đội trong khi Phật tử bị đàn áp. Kết quả là sự bỏ ngũ của Phật tử ở mọi cấp, làm suy yếu đạo đức và hiệu quả của quân đội. Việc Ca-tô-hóa đã phân chia Nam Việt Nam thành một quốc gia đang có chiến tranh tôn giáo đẩm máu giữa giáo dân Ca-tô Rô-ma và Phật giáo đồ.
Phật giáo đồ gặp các nhà lãnh đạo của chính phủ bên ngoài Dinh Độc Lập, Sài Gòn trong một cuộc phản đối chống chính phủ. Mặc dù Hoa Kỳ quan ngại đến sự sách nhiễu tôn giáo của chính quyền Nam Việt Nam, nó cho phép việc phân biệt đối xử thô bạo của Ca-tô chống lại đa số Phật giáo. Chính sách đã được hỗ trợ bởi Vatican và của tập thể đáng kể quan tâm đến lợi ích của Ca-tô Mỹ. Giáo hoàng John XXIII, giáo hoàng phóng khoáng, đã theo dõi việc Ca-tô-hóa tàn nhẫn ở Việt Nam với sự đồng thuận. Ông ta đã cố gắng ngăn chặn miền Bắc và miền Nam đạt đến việc thông cảm dưới bất kỳ hình thức nào. Ông lại dâng toàn bộ nước Việt Nam cho Mẹ Đồng Trinh Mary và thành lập một Ban Giám Mục Đẳng Cấp Ca-tô cho toàn quốc Việt Nam, như vậy cho thấy rằng ông muốn miền Bắc sẽ trở thành một phần của Ca-tô miền Nam, dưới quyền Tổng thống Diệm, đứa con trung thành của Giáo Hội Ca-tô.
Các tăng sĩ Phật giáo rời khỏi tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn sau khi đã tị nạn ở đấy để thoát khỏi cảnh sát của Tổng thống Diệm bắt giữ. Hàng ngàn đồng đạo của họ đã bị lùa vào các trại tập trung; những người khác đã bị sách nhiễu và thậm chí bị tra tấn bên trong và bên ngoài các ngôi chùa. Có lúc các ngôi chùa này đã bị đóng cửa để ngăn cản Phật tử vào cúng kiến, mà theo Diệm là dùng vào việc chính trị để chống đối chế độ của ông ta. Hàng ngàn nhà sư, sau khi tổ chức phản kháng đã tuần hành rồi tuyệt thực để chống những luật lệ kỳ thị tôn giáo của Nam Việt Nam, Có lúc hơn 10 ngàn người dân ở riêng Sài Gòn đã gia nhập với họ trong một cuộc phản đối tràn lan.
Bàn thờ và kiệu Phật được phủ cờ ngủ sắc và biểu ngữ sặc sở, được dựng lên ở giữa đường để ngăn chặn một đoàn lính Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và các xe bọc thép của Mỹ không vào Huế được. Phật giáo đồ phản đối Hoa Kỳ đã hỗ trợ tổng thống Ca-tô Diệm, người đã leo thang việc kỳ thị chồng-Phật giáo ở khắp nơi. Trong những cuộc biểu tình tương tự nhiều tăng ni Phật giáo đã bị bắt giam. Trong sự cố này cuộc đối đầu đã kết thúc an lành sau khi một sĩ quan TQLC Mỹ thương lượng với các nhà lãnh đạo Phật giáo, và họ đã ra lệnh thu dọn các bàn thờ để cho đoàn hộ tống đi qua. Hoa Kỳ đã bị chỉ trích công khai trong việc hổ trợ cho chính sách kỳ thị tôn giáo của Tổng thống Diệm và trong sự im lặng về nổi khiếp đãm tràn lan đối với người em của Diệm, Giám đốc Sở Cảnh sát Mật Vụ.
xem phiên bản Anh ngữ
Tác giả: Avro Manhattan
Người
Dịch: Trần Thanh
Lưu
Kỳ tới - Chương 12: Một phi cơ dò thám của CIA hủy bỏ một cuộc họp thượng đỉnh.
Các bài cùng tác giả
Trang Sách Nước Ngoài