|
12-Nov-2012 |
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi trơ vơ.
Ðời kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.
(trích "Phương Xa" - Vũ Hoàng Chương)
Tôi ra đời giữa hai cuộc chiến, giữa một trăm năm đô-hộ giặc Tây
và hai mươi năm nội-chiến từng ngày. Sau đó, tôi được đi du-học và
tôi đã sống “vô tư lự” bên trời Âu sung-túc trong khi khói lửa vẫn
ngập trời nơi quê nhà.
Giờ đây, bom đạn đã ngừng tiếng nhưng một lần nữa, gia-đình tôi
đã phải cuốn gói rời bỏ quê-hương và mấy triệu người Việt-Nam bỗng
nhiên phải sống tản mác trên toàn thế-giới như những cây bị bật rễ,
ở những chốn dung-thân như Mỹ, Gia-Nã-Đại, Pháp, Úc…
Phần mất mát vần còn đó, nguyên vẹn, ít ra đối với bố mẹ chúng tôi
và chúng tôi, thế-hệ đầu của những người di-dân. Một thế-hệ “nửa
người, nửa ngợm, nửa đười ươi”, lơ lửng giữa không-gian quê hương,
chơi vơi giữa thời-gian thế-hệ, lạc lõng trong tâm-tư văn hoá. Một
thế-hệ “bánh mì kẹp”.
Kẹp giữa hai quê-hương
Những người di-dân này, ngày hôm nay mang sổ thông-hành Mỹ, Pháp,
Úc… nhưng vẫn chỉ là Mỹ (Pháp, Úc…) giấy, phần đông tiếng Mỹ (Pháp,
Úc…) vẫn còn ba-xí ba-tú, miệng vẫn hôi mùi nước mắm chứ không hôi
hamburger hay camembert, vẫn không có bạn bè Mỹ (Pháp, Úc…) mà chỉ
sống quanh-quẩn với nhau, tụ-tập nơi những thương-xá, chợ búa Á-Đông,
hay rủ nhau “party”, ăn uống, karaoke với nhau.
Những người Mỹ (Pháp, Úc…) gốc Việt này đã đi tìm một nơi nương-tựa
để sống “tạm-bợ” nơi xứ người mà trong thâm-tâm còn cố tưởng-tượng
như mình đang sống ở quê nhà, và lúc nào có dịp, có phương-tiện là
lại vù về Việt-Nam, một số để “hưởng-thụ”, nhưng phần lớn vẫn vì
nhớ nhà.
Tôi không nhớ ai đã có nói: “Ma patrie, c’est là où je suis heureux”
(Quê-hương tôi là nơi chốn nào tôi sống hạnh-phúc)
Tôi muốn tin ông lắm, tôi cũng muốn tự an-ủi mình lắm, nhưng tiếng
gọi của cội-nguồn réo rắt lắm, ông ơi. Tôi cứ ngỡ quê-hương là nơi
chôn nhau, cắt rốn, là nguồn, là cội, là gốc, là rễ cơ mà ?
Ở hải-ngoại, đương-nhiên chúng tôi được tự-do, phần đông được ăn
sung, mặc sướng, đủ tiền mua nhà, chăm lo cho con cái ăn học, đi
shopping hay du-ngoạn đây đó… Đời sống này, nhiều đồng-bào ta nơi
quê nhà mong mỏi có được, và tôi thừa hiểu chúng tôi « hạnh phúc
» hơn rất nhiều người lắm. Tôi không dám than thân, trách phận hay
phân-bì với ai cả, chẳng qua nơi đây, tôi chỉ nói lên tâm-sự u-uẩn
những người tha-hương chúng tôi mà thôi.
Nhất là trong trường-hợp tôi, hiện đang mang hai quốc-tịch Pháp và
Mỹ, sống bên Mỹ nhưng tim vẫn còn « vọng Nam », tâm vẫn còn hướng
về Pháp, đôi khi vẫn nhớ về khung trời Bỉ Quốc. Những nơi tôi đã
sống, làm sao tôi có thể xóa quên được ?
Quê-hương như người mẹ đã bụng đau, dạ chửa cho tôi ra đời, nuôi-nấng,
dậy-dỗ tôi nên người, và quê-hương thứ hai, thứ ba là những bà mẹ
đã mở rộng vòng tay, đón-nhận tôi khi tôi không còn chỗ đứng dưới
ánh mặt trời.
Ơn-nghĩa này, chúng tôi không quên (từ ngày sang Mỹ, năm 1975, bố
mẹ tôi năm nào cũng gửi chút quà giáng-sinh cho gia-đình ông sĩ-quan
Mỹ đã giúp nhà tôi sang Mỹ, và sau khi bố tôi mất, mẹ tôi vẫn tiếp-tục
gửi, mặc dù người ân-nhân này đã mấy lần đề-nghị nên thôi gửi quà).
Tôi cảm quí những bà « mẹ nuôi » lắm, tôi lại càng xót-thương Mẹ
Việt-Nam, quê-hương đau-khổ. Ôi, quê-hương tôi đâu ? Mỹ, Pháp, Úc…
? Hay vẫn là Việt-Nam muôn thuở ?
Kẹp giữa hai nền Văn-hoá
Ngày hôm nay, tôi đã lục-tuần nhưng tôi đã chỉ được sống ở quê nhà
có mười tám năm. (Tôi đã mất mát quá nhiều rồi.)
Bao nhiêu năm tháng sống bên Pháp, bên Bỉ, đã rèn đúc tôi với một
lối suy-luận, một cách ăn nói, một cách cư-xử xã-giao, một nền văn-hoá
mà tôi hãnh-diện mang bên cạnh văn-hoá của mình. Qua bao năm tháng
đó, tiếng Pháp đã dần-dà trở thành tiếng tôi thông-dụng nhất, ngay
cả để diễn-tả những tâm-trạng sâu-thẳm nhất của mình.
Tuy nhiên, bao nhiêu năm tháng đó chỉ có thể thấm vào cái vỏ bên
ngoài, chỉ có thể thay đổi hình-dạng và cử-chỉ của tôi, chỉ có thể
tạo nơi tôi những sở-thích ăn mặc, đi đứng, nói chuyện, chỉ có thể
tạc lên cái “Tôi” bên ngoài.
Tất cả những năm tháng đó không hề thay đổi nước da hay sắc tóc tôi
(tóc tôi chỉ có thể bạc trắng với thời-gian), không hề lay-chuyển
âm-điệu tiếng mẹ đẻ của tôi, không hề làm suy-sút kho-tàng văn-hoá
tổ-tiên tôi hay nền giáo-dục bố mẹ tôi.
Nước Pháp đã ban thêm cho tôi một nền văn-hoá, nhưng không hề thay-thế
nền văn-hoá của tôi.
Nhưng có lẽ đó cũng là nỗi khổ-tâm của tôi, nỗi khổ-tâm của những
người di-dân trong thế-hệ đầu? Cây cối làm sao sống thiếu gốc rễ?
Con người ta làm sao sống thiếu cội nguồn? Làm sao tôi có thể vui
sướng bên ngoài khi bên trong trống vắng?
Tôi có thể thích pot-au-feu hay bouillabaisse nhưng bao giờ tôi cũng
vẫn thèm một tô phở đặc-biệt, tái-nạm-gầu-gân-sách-sụn.
Tôi có thể mê một chai Saint Emilion hay một chai Volnay nhưng tôi
vẫn nhớ hương-vị mấy chai la-ve “33” của “Brasseries et Glacières
d’Indochine” (BGI).
Tôi có thể viết tiếng Pháp giỏi hơn người Pháp trung-bình, nhưng
tim tôi bao giờ cũng rung-động khi tôi được đánh dấu hỏi, dấu ngã.
Tôi có thể thích xem phim “action” Mỹ hay nghe Claude
Barzotti hát nhưng tôi vẫn thích xem phim bộ… Đại-Hàn (Việt-Nam tôi
làm gì có phim hay?), nhưng tôi vẫn thấy thấm-thía hơn khi tôi nghe
nhạc Việt, tôi vẫn truyền-cảm hơn khi hát tiếng Việt.
Tôi có thể ngoảnh lại nhìn một cô đầm tóc vàng, mắt xanh nhưng tôi
chỉ có thể hạnh-phúc với người đàn bà gọi tôi bằng “Mình ơi!”.
Chỉ vì đó là văn-hoá dân-tộc nằm trong máu, trong xương-tủy tôi,
vì đó là giáo-dục bố mẹ, ông bà tôi đã truyền lại cho tôi, vì đó
là vết-tích của mấy ngàn năm lịch-sử.
Chỉ vì tôi là người Việt-Nam.
Kẹp giữa hai nền văn-hoá. Kẹp giữa hai thế-hệ
Bố mẹ chúng tôi và chúng tôi cùng một làn sóng di-cư (cho
dù trong số chúng tôi có những người đã đi trước) nhưng hai điều
khổ-tâm cũng có điều khác-biệt.
Quả thật vậy, chúng tôi vẫn cùng một nền văn-hoá với bố mẹ, cùng
một nền giáo-dục do cha ông truyền lại. Bố mẹ chúng tôi vẫn được
sống với chúng tôi như lúc còn ở Việt-Nam, với nền-tảng Phật-Lão-Khổng,
cùng một nhân-sinh quan, cùng một đạo làm người. Chúng tôi vẫn nói
tiếng Việt với bố mẹ, tiếp-tục yêu thương, kính-nể bố mẹ, để tiếp-tục
lưu-truyền phong-tục, tập quán.
Trong khi chúng tôi giờ bắt-buộc phải chấp-nhận văn-hoá con cháu
chúng tôi như một văn-hoá ít nhiều là ngoại-Việt.
Vì sự lưu-truyền đó sẽ gián-đoạn từ đây. Con cái chúng tôi
đã bắt-đầu nói một thứ tiếng khác và những điều chúng tôi cố-gắng
răn-dậy con cái khó lọt qua được màng-lưới thế-giới bên ngoài.
Tôi đã được chứng-kiến một cảnh-tượng mà tôi không bao giờ quên được.
Hôm đó, một người bạn có tổ-chức một buổi tiệc họp mặt với hơn sáu
mươi bạn hữu để ăn uống, hát hò, nhẩy đầm.
Về khuya, chúng tôi tạm ngưng chương-trình để ăn một bát cháo gà
cho ấm bụng và lấy sức chơi tiếp. Lúc đó, đứa con trai chủ nhà từ
trên lầu đi xuống với mấy đứa bạn, bật máy truyền-hình lên và nằm
xem, ngay giữa sàn nhẩy. Chúng tôi đã bị “chiếm đất” và đợi một lúc,
không thấy tình-hình biến-chuyển, quan-khách lần-lượt xin kiếu-từ.
Tôi á-khẩu. Làm sao tôi có thể tưởng-tượng được cảnh này, với nền
giáo-dục của tôi? Hôm đó, tôi đã chợt hiểu nền “độc-tài” của con
trẻ trong cái quốc-gia tự-do nhất thế-giới này. Nhưng điều tôi phân-vân
nhất là trong tình-trạng đó, hai vị chủ nhà, nghĩa là bố mẹ cậu trai
trẻ đó, không hề lên tiếng can-thiệp, hầu như làm ngơ, không nhìn
thấy điều gì cả.
Trong khi tôi, đầu đã bạc phơ mà mỗi lần sang thăm nhà, Mẹ bảo tôi
cạo râu hay đi cắt tóc là tôi vui vẻ làm ngay, chỉ để vâng lời Mẹ,
để cho Mẹ vui. Ngược lại, bên Mỹ này, con gái mới mười lăm tuổi đã
đánh mắt, thoa son đi học, bố mẹ nói gì được khi trong trường, bạn
bè chung quanh đều như vậy, vả lại có thầy bà nào cấm cản đâu? Bên
này, con cháu đi xâm mình (tattoo) hay đục vòng sắt vào môi, vào
mắt (piercing) thì bố mẹ nào, ông bà nào ngăn cản được?
Nhà chúng tôi lúc trước không giầu có gì nên không bao giờ dám phí-phạm
bất cứ gì, ăn cơm phải vét sạch từng hạt, trong khi con trẻ bên này
lấy cho đầy đĩa nhưng không ngần-ngại đổ tuốt nửa đĩa thức ăn khi
chúng cảm thấy no.
Tôi đã tận mắt thấy những bố mẹ phải khóc tức-tưởi khi bị lũ con
xúm vào “mắng”. Ngày nay, bố mẹ nào dám đánh con mà không sợ chúng
nó gọi “911”?
“Trời làm một trận lăng-nhăng, ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông”.
Ngày nay, thế-giới đảo lộn và chúng tôi đi lộn đầu, để con cái
trèo đầu, trèo cổ thôi.
Lúc trước còn ở bên Pháp, tôi vẫn cố gắng mỗi năm lấy máy bay sang
thăm bố mẹ, và giờ đây sống bên Mỹ, tôi vẫn đi thăm Mẹ (vì không
cùng tiểu bang) và ngoài ra, còn phải đi Pháp thăm con.
Hoá ra, chúng tôi ở trên thì lo cho bố mẹ, ở dưới thì
lo cho con cái (ở bất cứ tuổi nào); ở trên thì bị bố mẹ mắng, ở dưới
thì bị con trách !?!
Kẹp giữa hai thế-hệ.
Xung-đột cả thế-hệ lẫn văn-hoá
Nói như vậy không phải để trách mắng con cái. Đâu phải do lỗi chúng
nó nếu chúng nó không nói được tiếng mẹ đẻ? Đâu phải do lỗi chúng
nó nếu chúng nó sinh sống tại hải-ngoại? Đâu phải do lỗi chúng nó
nếu chúng nó hoà mình với môi-trường bên ngoài nhiều hơn là với môi-trường
gia-đình (nhất là trong cái tuổi thành-niên này)?
Tôi đã có nghe những đứa trẻ nói với bố mẹ: “Bố
mẹ đừng trông mong chúng con trở thành người Việt. Văn-hoá của
bố mẹ không phải là văn-hoá của chúng con. Chúng con là người Mỹ!” Phũ-phàng thay, đau lòng thay,
nhưng chúng nó làm sao hiểu được văn-hoá chúng ta khi chúng nó sống
trong một thế-giới mà nền-tảng là “tự-do” và “đồng đô-la”? Làm sao
chúng nó có thể nghe lời bố mẹ trong khi sự-thật bên ngoài hầu như
khác hẳn?
Có lẽ chính chúng nó có lý. Bổn-phận cha mẹ là giúp con cái thành
công cuộc đời chúng nó chứ không phải cuộc đời cha mẹ, giúp chúng
nó thành-công ngoài đời, trong môi-trường chúng nó đang sống chứ
không phải môi-trường bố mẹ chúng đã sống. Sống ở đâu mà không theo
văn-hoá nơi đó thì chỉ có thất bại, mà đâu có cha mẹ nào muốn con
mình thất-bại khi ra đời, cho nên đành ngậm cay, nuốt đắng mà thôi.
Đây không phải chỉ là vấn-đề xung-đột thế-hệ (thời-điểm nào chả
có vấn-đề này, cho dù không “gây cấn” như vậy), mà còn rắc-rối thêm
vấn-đề xung-đột văn-hoá nữa. Làm sao bố mẹ và con cái có thể hiểu
nhau và chấp-nhận nhau khi đôi bên không cùng một nền-tảng, cùng
những đặc-quan, cùng một nhân-sinh-quan?
Nỗi buồn u-uẩn
Dĩ nhiên tôi không dám vơ đũa cả nắm, không dám nói gia-đình Việt-Nam
bên hải-ngoại nào cũng như trên, nhưng có lẽ phần đông là như thế
(?)
Nói lên vài điểm cho dễ hiểu, nhưng vấn-đề không giản-dị như vậy
và tôi không có khả-năng phân-tích nhiều hơn.
Dù sao đi nữa, đây cũng chỉ là nỗi buồn u-uẩn, ám ảnh tôi từ bao
lâu nay, trong mối liên-hệ với tâm-hồn, với văn-hoá, với gốc rễ của
mình.
Tôi không tức-giận, không chua chát. Tôi chỉ cảm thấy buồn, tôi không
luyến-tiếc quá-khứ, chỉ là tôi cảm thấy buồn.
Vướng mắc giữa hai quê-hương, giữa hai nền văn-hoá, giữa hai thế-hệ,
chúng tôi là một thế-hệ "bánh mì kẹp” (đôi khi còn là “bánh
bao” nữa). Ngoảnh nhìn lại chỉ còn kỷ-niệm, nhìn về đàng trước thì
tương-lai đã bít kín.
Nhưng thôi, đã biết là mình vướng mắc, là mình “chấp ngã” (như lời
Phật dậy) thì chỉ còn có nước “phá chấp”, nghĩa là “buông”, là chấp-nhận.
Vả lại, cha mẹ chúng tôi không có vấn-đề này, con cháu chúng tôi
không có vấn-đề này, chỉ có chúng tôi mới có vấn-đề này. Ngày nào
cái thế-hệ chúng tôi đi hết rồi thì vấn-đề này sẽ không còn ai bàn
đến nữa.
Chúng tôi chỉ là một giai-đoạn chuyển-tiếp, một thế-hệ bị mất mát,
bị hy-sinh để dân-tộc di-dân chúng tôi có thể lật qua một trang sử
mới.
Để đời sau, con cháu chúng tôi có hy-vọng thành-công trên đất người,
đi tiếp con đường mà chúng tôi đã không đi hết.
Được như vậy, chúng tôi cũng sẽ mãn-nguyện lắm rồi.
Xin cảm-ơn Trời Phật, xin cảm-ơn phúc-đức ông bà.
Tháng 3-2012
Yên Hà
(nguồn http://www.nang21.com/index.php?categoryid=24&p2_articleid=2495)