|
02-Aug-2012 |
Tin nhà văn Nguyễn Mộng Giác ra đi dạo đầu tháng 7
vừa qua vẫn tiếp tục gây bồi hồi xúc động cho tôi.
Đã có rất nhiều người, nhứt là trong văn giới, viết
về ông. Thân thiết thì có cây bút tạp ghi Quỳnh Giao
của báo Người Việt, người đã xem sự ra đi của ông như
“một cột trụ quý báu” của văn đàn Việt nam hải ngoại
vừa “gãy” đổ. Mới thoáng quen như Trịnh Hội mà cũng
đã có những mỹ cảm và tâm đắc với tác giả của bộ trường
thiên tiểu thuyết “Sông Côn Mùa Lũ”.
Tôi chưa có đủ tư cách làm một nhà văn để được Nguyễn
Mộng Giác nhắc đến trong “Bạn văn một thuở” của
ông. Nhưng tôi không sợ phải mang cái mặc cảm của một
người “thấy sang bắc quàng làm họ” khi nhắc đến nhà
văn lớn này. Bởi lẽ tôi quen ông không như một nhà
văn, mà trước tiên như một con người. Thực vậy, tôi
gặp Nguyễn Mộng Giác lần đầu tiên trong trại tỵ nạn
Kuku, Nam Dương vào khoảng cuối năm 1981. Trước năm
1975, thỉnh thoảng tôi cũng có nghe nhắc đến tên ông
và cũng biết ông đã từng là tác giả của truyện dài
“Đường một chiều”, được giải thưởng Văn Bút của Việt
nam Cộng hòa năm 1974. Nhưng trong trại tỵ nạn, dường
như mọi người đều vứt bỏ mọi thứ vỏ bọc hào nhoáng
của mình để cho con người thật của mình được hiện ra
nguyên hình nguyên trạng. Và tôi đã gặp được nhà văn
Nguyễn Mộng Giác với tất cả con người thật của ông
trong một tháng sống tại trại Kuku và hơn nửa năm tại
trại Galang. Luôn ngưỡng mộ các nhà văn lớn, tôi cứ
tưởng trên đầu họ có một thứ hào quang mà người thường
không có. Nhưng khi gặp nhà văn Nguyễn Mộng Giác, tôi
lại thấy ông không những bình thường như mọi người,
mà còn tỏ ra khiêm tốn, nhún nhường, nhã nhặn, nhân
ái, thân thiện hơn rất nhiều người. Nếu một nhà văn
lớn có được bao phủ bởi hào quang thì đây mới thực
sự là hào quang của Nguyễn Mộng Giác. Trước mặt ông,
ngồi gần ông bên ly cà phê, tôi chưa bao giờ cảm thấy
bị trấn áp, “khủng bố” như phải hầu chuyện với một
số người có tên tuổi trên văn đàn hay trong xã hội.
Năm 1988, gặp lại ông trong một quán cà phê ở Westminster,
quận Cam, tôi thấy ông cũng vẫn “vậy”: vẫn với nụ cười
kín đáo, nhưng chân thật, vẫn giọng nói nhỏ nhẹ như
thể sợ phải làm phật lòng người khác, vẫn khiêm tốn
đến độ không bao giờ nói về mình. Không riêng tôi mà
hầu như bất cứ ai sau một lần gặp ông cũng đều có nhận
xét như thế. “Với nụ cười hiền, thái độ từ tồn,
tĩnh như một dấu lặng, tôi bắt gặp nó ở ông, bất cứ
nơi nào ông đến, ông đi, ông dừng lại...Tôi không biết
có phải vì bản tính không, mà mỗi lần ông đến dự các
buổi họp mặt bạn bè với chúng tôi, ông đều ít nói” (Trịnh
Thanh Thủy, Ngựa đã ngã, Biển đã động, tưởng niệm nhà
văn Nguyễn Mộng Giác, Việt luận 13/7/2012).
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Ảnh http://tienve.org/
Quen nhau trong trại tỵ nạn không quá một năm, gặp
lại nhau bên Mỹ cũng không được nhiều lần, quan hệ
giữa tôi và nhà văn Nguyễn Mộng Giác chưa sâu để trở
thành tình bạn. Nhưng trong cuộc sống, có những người
mình rất thường xuyên gặp gỡ nhưng chẳng tạo được cho
mình một ấn tượng nào. Trái lại, có những người, dù
chỉ mới thoáng qua, đã để lại một nụ cười, một ánh
mắt hay ngay cả một sự thinh lặng khiến mình cứ nhớ
mãi. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác là một con người như
thế đối với tôi. Nếu văn là người thì quả thật tôi
đọc văn ông xuyên qua chính con người của ông.
Khi ông nằm xuống, tôi mới biết ông là một Phật tử
thuần thành với pháp danh “Thiện Ngộ”. Ông đã
đi tìm và đã gặp được Chân Như và Tuệ Giác. Với riêng
tôi, gặp được ông quả thật cũng là một “thiện ngộ”.
Ông không thuyết pháp cho tôi bằng kinh điển Phật giáo,
mà bằng cả con người của ông. Nhìn ông trong những
tấm hình mới nhứt, với khuôn mặt tròn trịa, phúc hậu,
hiền từ khác với nét khắc khổ trong trại tỵ nạn, tôi
luôn nghĩ đến “Bụt” hay “Bồ Tát”.
Ngày xưa, những đứa trẻ Công giáo như tôi luôn được
cha mẹ và các vị chức sắc trong Đạo dạy dỗ không được
thờ lạy “Bụt, thần, ma quỷ”. Trong sự hiểu biết non
dại và óc tưởng tượng phong phú của tuổi thơ, tôi đồng
hóa “Bụt” với “thần” hay với “ma quỷ”. Và dĩ nhiên,
do bị nhồi nhét vào đầu óc những thứ kiến thức lệch
lạc, không những tôi không dám ăn của cúng trong chùa
chiền, đình làng, mà lúc nào cũng chỉ nhìn thấy “bụt
thần ma quỷ” trong khói hương của các tôn giáo khác.
Nhưng càng thêm tuổi đời, càng tập sống khoan nhượng,
tôi cảm thấy được “giác ngộ” đôi chút để hiểu biết
hơn về “Bồ tát” trong phật giáo. Tôi đặc biệt biết
ơn bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, tác giả của tuyển tập “Cành
Mai Sân Trước”. Ông đã giải thích như sau: “Bồ tát
là dịch từ Bodhisattva, có nghĩa là người đã giác ngộ,
đã tỉnh thức và đang giúp cho người khác cũng được
giác ngộ, tỉnh thức như mình.
Đoàn Trung Còn giải thích rõ hơn: Quán Tự Tại Bồ
tát tức là Quan Thế Âm. Bodhisattva phiên Hán là Bồ
đề tát đỏa” (Bồ đề: giác ngộ trọn vẹn, Tát đỏa: chúng
sanh), nghĩa là người đã giác ngộ trọn vẹn rồi nhưng
vẫn còn làm “chúng sanh”, chưa “lên” địa vị Phật, hoặc
đã lên địa vị Phật, nhưng vì lòng thệ nguyện mà vẫn
còn ở hàng chúng sanh để cứu độ chúng sanh (Đoàn Trung
Còn, Tâm Kinh Bổ Khuyết, Kim Cang Kinh)
Osho nói: Thiền là đủ giải quyết các vấn đề của
bạn nhưng còn thiếu lòng từ bi. “Từ bi giữ một vị Phật
còn là Bồ tát ngay trên đường biên”.
Vậy đó, Bồ tát mới dễ thương làm sao! Bồ tát mới
“người” làm sao, mới “trần gian” làm sao (Ta là ai
mà còn trần gian thế? Ta là ai, là ai, mà thương quá
đời này! TCS). Có tài liệu gọi Bồ tát là “Phật hữu
tình”, có lẽ đúng. Chứ Phật mà vô tình thì chán chết!
Phật vô tình thì thành tượng, thành robot rồi. Lòng
từ bi giữ một vị Bồ tát mãi là Bồ tát, tuy đã tự thân
là Phật, đã tự do, tự tại, nhưng chính lòng thương
“cõi người ta” làm cho họ nấn ná lại, giúp người, giúp
đời. Vậy chẳng thú vị, chẳng dễ thương sao?” (Bs
Đỗ Hồng Ngọc, Cành Mai Sân Trước, NXB Văn hóa thông
tin, 2003, trg 201-202).
“Bồ tát mới dễ thương, mới “người” làm sao”! Trong
những ngày vừa qua, tôi thường nghĩ về nhà văn Nguyễn
Mộng Giác với hình ảnh của Bụt hay Bồ tát như thế.
Dĩ nhiên, ông là một nhà văn lớn. Ông là một bậc thày
trong văn giới. Đã từng là người đứng trên bục giảng,
nhưng có lẽ ông không truyền đạt kiến thức cho bằng
cuộc sống và với ông, sống là cố gắng tìm kiếm và thể
hiện “Chân Thiện Mỹ” bằng những gì rất là “người” trong
cuộc sống thường ngày của con người.
Tôi luôn quan niệm sống là không ngừng lên đường, là
ra đi, là “lữ hành”. Trong cuộc hành trình ấy, có nắng
cháy, khô cằn, sỏi đá nhưng cũng có vô số những bóng
mát bên vệ đường. Những bóng mát ấy chính là những
vị “Bồ tát” hay “Bụt” bằng xương bằng thịt mà tôi gặp
gỡ mỗi ngày. Họ không phải là thiểu số mà là số đông.
Đông đến độ ra ngõ là gặp. Hiếm khi họ làm những điều
vĩ đại hay phi thường cho tôi. Thường chỉ là một lời
chào, một cái gật đầu, nhứt là một nụ cười, một ánh
mắt thân thiện. Tôi cảm thấy cần những vị “Bồ tát”
như thế hơn những “thần tượng”. Thần tượng vốn không
có thật, bởi vì trong đa số trường hợp, thần tượng
là do con người dựng lên. Hôm nay người ta đưa lên
bệ thờ, ngày mai người ta lại kéo xuống. Tôi cần có
“Bụt” hơn “thần” nhứt là “thần” đứng trong cái chữ
“thần tượng”. Tôi thích chiêm ngắm “Bụt” hơn tôn thờ
thần tượng.
Trong mục tạp ghi của báo Người Việt, Quỳnh Giao có
nói đến hiện tượng “Phát điên vì thần tượng”. Theo
bà, hiện tượng này chẳng có gì là mới mẻ. Ngay từ thế
kỷ 19, người nhạc sĩ tài ba Franz Liszt của Hung gia
Lợi cũng đã từng tạo ra được một hiện tượng điên loạn
như thế. Mỗi lần người nhạc sĩ dương cầm này độc tấu
thì thế nào cũng có màn khách mộ điệu, nhứt là phụ
nữ, nhào lên sân khấu ôm lấy ông, tranh nhau sờ cho
được tóc của ông hoặc ngay cả sà vào người ông mà tung
cả xiêm y lên.
Mới đây, khi “thần tượng” choai choai Justin Bieber
của Gia nã đại đến Úc đại lợi trình diễn, người ta
cũng nói đến một hiện tượng tương tự. Có lẽ nắm bắt
được lòng sùng mộ của khán thính giả, nghệ sĩ trẻ này
đã tung ra một Album với tựa đề “Believe” (tin tưởng).
Động từ này thường được dành để chỉ “niềm tin” trong
tôn giáo. Chính vì thế mà “Believer” chỉ “người tín
đồ”. Trong cơn sốt “tự phát”, những người hâm mộ người
ca sĩ trẻ này đã tự nhận là “tín đồ” của cậu. Không
có dịp và dĩ nhiên cũng chẳng muốn công khai trở thành
“tín đồ” của Bieber, tôi đã tò mò mở YouTube xem thử.
Quả đúng như Quỳnh Giao đã mô tả, những người ái mộ
người ca sĩ trẻ này đã “thẫn thờ, gào thét, ngất
xỉu hoặc bần thần” khi nghe Bieber trình diễn.
Gần đây, ở Việt nam, các “tín đồ” của thần tượng Jung
Ji Hoon hay còn gọi là Bi Rain còn đi xa hơn nữa khi
họ nhào lên sân khấu không phải để bắt tay hay ôm lấy
anh, mà để hôn lấy chiếc ghế anh đã ngồi khi trình
diễn. Báo Tin Mới trong nước số ra ngày 13 tháng 7
vừa qua, đưa tin: “Trong con mắt của một bộ phận
giới trẻ, thần tượng biến thành thiên tài, được xem
như thần thánh, Fan sẵn sàng hi sinh luôn liêm sỉ và
văn hóa của bản thân để thể hiện tình yêu với thần
tượng. Hàng loạt các bạn nữ đã hôn chiếc ghế mà ca
sĩ Bi Rain ngồi là hiện tượng khiến nhiều người cảm
thấy kinh tởm. Những biểu hiện bệnh hoạn, quá khích,
lệch lạc là hồi chuông báo động cho toàn xã hội.”
Cũng theo tờ báo, “một Fan cuồng nữ đã tuyên bố
trên diễn đàn: “Em sẵn sàng giết bố mẹ nếu không cho
em đi xem Suju (tức ban nhạc trẻ Super Junior của Nam
Hàn) biểu diễn”. Những dòng bình luận của Fan cùng
hội cùng thuyền tiếp theo: “Khi cha mẹ trở thành vật
ngáng đường con cái đến với tình yêu đích thực của
đời mình chỉ còn cách là tiêu diệt”. “Gia đình là phù
du, Suju là tất cả” là một tuyên ngôn gây “Shock” đã
được rất nhiều người hưởng ứng”.
Tôi không ngạc nhiên khi đọc những dòng trên đây. Thời
nào và ở đâu mà chẳng có hiện tượng điên loạn vì thần
tượng. Nhưng ở Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam ngày
nay, dường như mức điên loạn đã lên đến “đỉnh điểm”.
Ở các nước, các tín đồ của các thần tượng có thể gào
thét, ngất xỉu, nhưng có lẽ người ta chưa bao giờ nghe
nói đến những lời “thề độc” như sẵn sàng giết cha mẹ
hoặc từ bỏ gia đình mình như ở Việt nam.
Câu chuyện trong Kinh Thánh vẫn còn có ý nghĩa. Trên
đường tiến về Đất Hứa, người Do thái đã bỏ mặc nhà
lãnh đạo Môi sen trên núi để gom góp vòng vàng lại,
đúc thành một con bò vàng và sắp mình thờ lạy nó. Câu
chuyện đã trở thành tiêu biểu của mọi thứ tôn thờ thần
tượng trong lịch sử nhân loại. Thần tượng, dù là thần
tượng bằng xương bằng thịt, cũng vẫn là một sản phẩm
do con người tự tạo ra. Mặc cho các chuyên gia tâm
lý có giải thích như thế nào đi nữa, hiện tượng này
vẫn nói lên sự trống rỗng trong tâm hồn con người.
Khi không còn nhận ra những giá trị đích thực đáng
để đeo đuổi và sống chết cho, người ta chỉ còn biết
tìm cách lấp đầy tâm hồn bằng những giá trị và thần
tượng giả trá. Xã hội Việt nam là một điển hình. Nhiều
người vẫn nói đến cái “lỗ hổng đạo đức”, tức sự trống
rỗng các giá trị đạo đức trong xã hội. Nếu lớp trẻ
ngày nay có cuồng loạn chạy theo thần tượng là bởi
họ chẳng còn nhìn thấy trong xã hội những giá trị làm
nền tảng cho bất cứ một lý tưởng cao đẹp nào.
Tôi cũng thấy thật tội nghiệp cho các “tín đồ” Việt
nam của Bi Rain. Bởi vì họ đang sống trong một xã hội
không những có rất nhiều lỗ hổng đạo đức mà còn là
một xã hội gần như thiếu hẳn hình bóng của “Bụt” hay
“Bồ tát”. Không hề nhìn thấy biển từ thưở lọt lòng,
làm sao người ta có thể hình dung ra biển? Cũng vậy,
làm sao người ta có thể hiểu được thế nào là sống có
“ý nghĩa” khi không cảm được “ý nghĩa” từ môi trường
và những người chung quanh?
Tôi đã gặp được “Bụt” Nguyễn Mộng Giác. Tôi cũng đã
gặp được vô số những “Bụt” như thế trong cuộc sống
hàng ngày. Tôi cần có “Bụt” hơn thần tượng, bởi vì
nhờ “Bụt” tôi lại tiếp tục thấy cuộc đời vẫn mãi mãi
còn “dễ thương”
Chu Thập
(nguồn http://viet-luan.com/270712/ButvaThan.html)