Những Nhà Hiền Triết Tây Phương Xưa
Nghĩ Gì Về Thời Đại Chúng Ta?
Nguyễn Văn Hùng
http://www.sachhiem.net/VANHOC/N/NguyenvanHung.php
03-Dec-2011
Thắm thoát, nhân loại chúng
ta đã sống đến thế kỷ thứ 21.
Mặc dù những tiến bộ về khoa
học và kỹ thuật đã làm cho thế giới nhỏ lại, đời sống của nhân loại vẫn đảo
lộn, căng thẳng, và mọi quốc gia vẫn tranh đua bằng bạo lực. Trước tình thế
đó, người ta có cảm tưởng rằng những tư tưởng về xã hội và chính trị thời
nay đã đến lúc bế tắc. Vậy những tư tưởng chúng ta đã vội đọc hay học qua,
ngày còn trẻ, đã lỗi thời trong thế kỷ hiện đại chưa?
Nào là John Locke, Montesquieu,
Voltaire, Diderot, Rousseau; nay những tư tưởng đó đã lạc về đâu? Áp dụng
vào thời nay thì sẽ được diễn nghĩa ra sao ?
Tuy trong tiềm thức của chúng
ta họ là những nhân vật rất xa xăm, nhưng sách vở cũ đã nhắc chúng ta rằng
họ là những nhà hiền triết của thế kỷ thứ 18 - một thời vàng son gọi là "Siècle
des Lumières", "The Enlightenment", hay "Thời Đại Quang
Minh". Họ là những nhân vật có lý tưởng cao, nghiên cứu sâu xa về nhân
bản, để tự biết mình biết người, rồi liều lĩnh đi ngược hẳn những thành
kiến của những xã hội Âu Châu thời đại ấy, cách mạng mọi quan niệm xã hội
và guồng máy lãnh đạo quốc gia.
Vì những thành đạt của họ thì
sâu xa và có ảnh hưởng đến tận đời nay, ta nên ôn lại những tư tưởng xưa để
giúp đỡ cho những suy nghĩ không (hay thiếu) định hướng của chúng ta ngày
nay. Với ước mong ấy, ta hãy lần lượt xem lại những tư tưởng của John Locke,
Montesquieu, Voltaire, Diderot, Rousseau, và tự hỏi rằng những nhà hiền triết
ấy sẽ nghĩ gì nếu họ sống trong thời đại chúng ta ?
John
Locke (1632-1704)
Người
đã phân tích những quyền lợi tự nhiên của con người là John Locke. Theo
ông, những quyền lợi căn bản ấy là quyền được sống trong tự do, và được quyền
giữ tư sản. Chính quyền có trách nhiệm bảo vệ những quyền tự nhiên ấy của
người dân. Vì thế, một khi chính quyền đã không làm tròn trách nhiệm mà lại
còn bắt bớ, cướp của, và bịt miệng dân, thì người dân cũng có thêm quyền lật
đổ chính quyền ấy, và thay thế bằng một chính quyền khác.
Ông cũng tin rằng con người
ta không ai bẩm sinh ra là đã sẵn tốt hay sẵn xấu, khôn ngoan hay ngu dốt.
Hơn nữa, tâm tính và sự hiểu biết của mỗi người đều đã do kinh nghiệm bản
thân tạo nên. Người ta bước vào đời như một trang giấy trắng. Trên trang giấy
ấy, những tư tưởng sẽ được viết lên bằng những cảm xúc trong cuộc sống. Ông
cũng thấy rằng với những điều kiện tương đương, những đứa trẻ nghèo cũng sẽ
học hành chẳng kém ai. Theo lý lẽ đó, con người đã được tạo ra bằng nhau,
giàu hay nghèo, một khi được học tập thì đều có thể giúp bất cứ ai trong mọi
tầng lớp biết lý luận, giữ luân lý, và trở thành những công dân hạnh phúc.
Sự hiểu biết về nhân bản của
John Locke, vì thế đã rất được hoan nghênh. Theo ông, người ta xấu xa chẳng
phải vì thiên nhiên mà vì hoàn cảnh xã hội. Vì lẽ đó, nếu cần thay đổi, người
ta phải cải cách xã hội chứ chẳng phải thay đổi bẩm sinh con người. Vượt được
sự ngu dốt, dị đoan, thành kiến và độc tài, thì bất cứ ai cũng có thể trở
nên những con người tốt.
Lẽ dĩ nhiên, nếu ông John Locke
là người Việt Nam, thì ông cũng đã bị bắt bớ ở bất cứ thời buổi lịch sử nào,
ở Nam, Trung hay Bắc. Mà nếu ông là người Mỹ trong hiện đại, thì chắc chắn
ông cũng đã chẳng tha những sự ngu dốt, dị đoan, thành kiến và độc tài của
một đế quốc tự cảm thấy mình có quyền đem quân đi tàn sát những kẻ "xấu" nước
khác, ngay tại lãnh thổ của họ, hoặc tra tấn họ để biến họ thành những con
người tốt.
Montesquieu
(1689-1755)
Baron de Montesquieu là người
đã chống đối mọi chính thể độc tài và tàn bạo. Ông đã chỉ trích quyền thế
tuyệt đối của vua chúa Pháp. Quyền thế vô hạn định đó đã khiến vua Pháp
đàn áp mọi tự do. Ngược lại, ông đã rất khâm phục những thay đổi trong chính
phủ nước Anh, vì họ biết cách hạn chế lại quyền thế nhà vua, và đưa ra những
biểu quyết bảo vệ quyền tự do ngôn luận, báo chí, và tín ngưỡng. Tuy nhiên,
ông cũng nói rõ ràng hơn là Tự Do đó không phải là tự do vô hạn định. Nó cũng
suy tàn khi người ta cảm thấy rằng không cần phải theo luật lệ nào nữa.
Theo suy luận ấy, "Tự do là quyền làm bất cả những gì luật lệ cho
phép".
Trong quyển De L’Esprit
Des Loix, Montesquieu đã đề nghị ra một chính thể không đặt quyền thế
vào bàn tay của một cá nhân, hoặc một nhóm người quá nhỏ nào - quyền lực
phải được phân chia cho ba nhánh của chính quyền. Một nhánh, Législatif,
tạo ra luật pháp. Nhánh thứ hai, Exécutif, thi hành luật pháp. Và
nhánh thứ ba, Judiciaire, diễn giải luật pháp. Ông nghĩ rằng khi
phân chia quyền lực như vậy, không cá nhân hay một nhóm người nào sẽ có
quyền kiểm soát tuyệt đối, và nhờ thế, quyền tự do sẽ được bảo vệ. Nguyên
tắc phân chia quyền lực đó đã là căn bản cho hiến pháp nước Mỹ.
Hơn nữa, ông Montesquieu cũng
đã lên án việc sử dụng nô lệ, bắt bớ tín ngưỡng, và kiểm duyệt. Ông cũng chỉ
trích mọi hình thức tra tấn, nhấn mạnh rằng bất cứ ai cũng vô tội, cho đến
khi chứng minh được rằng người ta đã phạm lỗi. Ông Montesquieu cũng mạnh mẽ
tố cáo phong trào lập nên quân đội. Ông đã viết: "Một căn bệnh mới
nay đã lan tràn khắp Âu Châu, và đang tấn công mọi hoàng tộc. Căn bệnh ấy
bắt họ phải nuôi dưỡng một số lượng quân nhân quá vô lý. Nó càng ngày càng
phải tăng lên, và lây sang khắp nơi, vì lập tức sau khi một quốc gia tăng
thêm quân số, thì những quốc gia kia cũng phải tăng theo, và vì thế, chẳng
ai được lợi lộc gì hơn là một sự tàn lụi chung."
Ở thời đại chúng ta, khi nghĩ
đến Baron de Montesquieu, người ta hay nhầm tưởng rằng vì nước Mỹ đã có
một hiến pháp dựa theo những tư tưởng của Montesquieu, họ xứng đáng làm gương
cho thế giới.
Suy nghĩ sai lầm ấy đã được
chính phủ Mỹ lợi dụng triệt để, và làm biết bao nhiêu kẻ đã hăng say, quyết
chiến cho đế quốc Mỹ, để thiết lập một quốc gia mới với một hiến pháp tương
tự. Những người theo Mỹ nầy nghĩ rằng cứ theo Mỹ là giải phóng cho quyền tự
do, hy vọng rằng hiến pháp tương tự hiến pháp của Mỹ sẽ giảm bớt quyền lực
của một chính phủ độc tài. Họ cũng tin tưởng như thế, vì người Mỹ đã chứng
minh được bằng cách áp dụng trong xã hội Hoa Kỳ. Họ (người theo Mỹ) cũng sẵn
sàng cầm súng giết người đồng hương mà không biết rằng hành động như thế,
họ đã lâm vào cảnh ngộ trở nên quá khích.
Sự sai lầm ấy rất dễ bị vướng
phải, vì nó cũng chẳng khác chi lối suy nghĩ của những lớp quan lại và giới
thượng lưu Việt Nam theo Pháp trong gần 100 năm đô hộ. Hạng quan lại vô dụng
đó đã thấy nước Pháp "văn minh" hơn, và vì thế, trong tư tưởng
của họ, người theo Pháp như họ cũng là kẻ muốn nước nhà tiến mau đến nền "văn
minh" kiểu Pháp. Với sự tin tưởng ấy, hạng quan lại theo Pháp xưa đã
hăng hái bắt bớ và ám hại người yêu nước - cho rằng những kẻ tranh đấu chống
thực dân Pháp là đi ngược lại con đường tiến đến văn minh, và ghì chặt Việt
Nam trong cảnh lạc hậu.
Vì thế, để tránh bị mê hoặc
bởi những xã hội lý tưởng, nào là như Mỹ, với hiến pháp dựa theo Montesquieu,
nào là như Pháp, với nền văn minh đẹp như mộng, câu hỏi chính xác hơn mà
chúng ta nên đặt ra là: Trước hoàn cảnh hiện tại của mọi quốc gia ngày nay,
trong một thế giới đã thu hẹp lại, thì một nhà đại tài như Montesquieu có
muốn Hoa Kỳ và Đồng Minh Tây Phương đảm nhiệm cả ba chi nhánh Exécutif, Législatif,
và Judiciaire cho toàn thế giới hay không ?
Chắc chắn là KHÔNG !!!
Thật ra, ngay sau thời đại
Enlightenment, khi những nước Tây Phương cấu kết chặt chẻ với nhau trong việc
xâm chiếm khắp hoàn cầu, họ đã vứt bỏ tất cả mọi tư tưởng của Montesquieu,
đi ngược lại hẳn tất cả những lý tưởng tự do và những hiểu biết về nhân bản
của đời trước. Với đà tiến mạnh của cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ (Révolution Industrielle),
họ đã quá lộng quyền vì không còn gì hạn chế quyền thế họ được nữa. Họ đã
dùng sức mạnh quân đội chiếm cả thế giới, và độc quyền mọi lề lối cai trị.
Vì lẽ đó, ta cũng chẳng cần
phải nhìn đến hiến pháp Hoa Kỳ để bị mê hoặc. Nó chỉ là cái bánh vẽ. Ngay
sau khi lập nên hiến pháp đó, ngay tại Hoa Kỳ, họ vẫn tiếp tục chính sách
dùng con người khác chủng tộc để làm nô lệ, tiếp tục diệt trừ thổ dân da đỏ,
và nhất là ủng hộ thực dân Pháp, rồi tự tay tàn sát biết bao nhiêu dân ta.
Ngay cả Thomas Jefferson, nhân vật chính mượn tư tưởng Montesquieu để tạo
nên hiến pháp ấy, cũng đã còn giữ biết bao nhiêu là nô lệ trong trang tr ại
đồ sộ của ông ta. Trong suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam 1954-1973, hiến
pháp ấy vẫn chỉ là lối quảng cáo của Hoa Kỳ, và giúp họ nắm cả 3 lãnh vực
Exécutif, Législatif và Judiciaire của một thế giới mà họ đã đương nhiên làm
chủ. Vượt qua mảnh giấy ấy, ta sẽ thấy rằng sự thật là bao nhiêu triệu người
dân Việt Nam ta đã chết vì lối tuyên truyền tàn nhẫn ấy.
Khi một quốc gia còn ở tình
trạng nhược tiểu, dân trí còn quá thấp và hiểu biết chính trị còn giới
hạn, thì đòi hỏi cho được tự do vô hạn định mà lại muốn bắt chước Hoa Kỳ để
tạo nên một loại chính phủ lỏng lẻo, cho đối lập tự do vu khống và dấy loạn,
thì chúng ta sẽ cho phép bọn Tây Phương dùng tiền mua chuộc tạo nên đối lập,
và dùng mọi lối tổ chức tinh vi của Tây phương để chỉ dẫn đám đối lập ấy xâm
nhập cướp lấy chính quyền. Để rồi sau đó, dành giựt được những hợp đồng
bóc lột, những khế ước quá dài hạn. Và sau rốt, những thế lực Tây phương sẽ
chỉ cần dùng những tòa lãnh sự, ổ gián điệp, và căn cứ quân đội của họ để
điều khiển mọi việc nội trị của chúng ta. Họ cũng thay thế hay lập ra những
chính phủ "ngụy" khác một cách dễ dàng, bằng những cuộc bầu cử giả
tạo, bằng lối loan tin như màn ảnh Hollywood, để rồi đưa ra sân khấu một thành
phần tay sai bán nước khác.
Dựa theo những sáng kiến xuất
sắc của ông Montesquieu, chúng ta sẽ rất dễ tưởng tượng được rằng nếu ông
sống ở thời đại chúng ta, có lẽ ông cũng đã tìm cách đề nghị ra những cách
phân chia quyền lực khác nhau giữa mọi quốc gia, để thuyên giảm sự lộng quyền
của mọi đế quốc, để rồi dần dần đưa đến một chính phủ có lợi chung cho nhân
loại, do những quốc gia trên thế giới thứ tự thay phiên nhau đề cử người đảm
nhiệm các lãnh vực Exécutif, Législatif và Judiciaire - trong một chính phủ
chung của nhân loại.
Thật ra, những tư tưởng của
Montesquieu còn có biết bao nhiêu là khía cạnh sâu sắc nữa. Ông đã viết rằng: "Tự
do là quyền làm bất cứ những gì luật lệ cho phép". Nhưng tiếc thay,
khi đến Việt Nam, thì câu đó đã biến thành: "Tự do là quyền làm bất
cứ những gì luật lệ - còn sơ khai - cho phép !". Vì lý do ấy chúng
ta rất dễ hiểu tình trạng tham nhũng lộng hành tại quê hương.
Trong một hoàn cảnh mỏng manh
của buổi giao thời hậu chiến, dân trí quá thấp, luật lệ vẫn khắt khe về phương
diện quốc phòng, nhưng còn quá lỏng lẻo trên phương diện thương mại, kinh
doanh. Và cũng vì thế, trên phương diện chính trị, người ta vẫn giữ lấy lối
tổ chức chính quyền và những luật chiến tranh nghiêm khắc. Nhưng trên phương
diện thương mại, kinh doanh và hành chánh, những luật lệ sơ khai của một thời
mới thanh bình đã đưa đến một tình thế tham nhũng lan tràn và cần những thay
đổi quan trọng.
Mở rộng tự do trong chính trị,
chấp thuận một thành phần đối lập, cũng không phải là chuyện dễ làm khi nước
ta còn nghèo yếu, dân trí thấp và dễ bị ngoại bang mua chuộc, chia rẽ, lũng
đoạn như chúng ta đã thấy rõ. Thay đổi trong những luật lệ thương mại, kinh
doanh và hành chánh để bớt tham nhũng, là những việc rất tỉ mỉ, công phu,
cần phải có một tầng lớp người tài, mà những tài năng đó đã phải được rèn
luyện cho phù hợp với một thời bình - với những nhu cầu rất khác thời chiến.
Muốn giải quyết nạn tham nhũng một cách gấp rút thì sẽ phải đổ máu, mà như
thế, với dân trí thấp kém, nạn vu khống sẽ lan tràn khắp nơi, tạo nên một
tình thế hành chánh càng thêm nguy nan.
Khi luật pháp còn quá thô sơ,
nếu "Tự do là quyền làm bất cứ những gì luật lệ - còn thô sơ - cho
phép", thì biết bao nhiêu kẻ sẽ lạm dụng những tự do ấy. Trước hoàn
cảnh đó, nhà chức trách cũng đã phải tùy cơ ứng biến, dùng cả những hạng
người không đủ tài để diễn nghĩa pháp luật, vì khốn thay, hạng bất tài ấy
quá đông vì đám đông nầy đã không may mắn được ăn học trong suốt thời kỳ chiến
tranh. Tình thế khó khăn ấy đã gây nên rất nhiều chỉ trích tại nước ngoài.
Nhiều cuộc bàn luận xây dựng cũng đã cố tâm đưa ra nhiều giải pháp hữu ích
cho nước nhà. Bàn luận nghiêm trọng và đứng đắn, nhưng than ôi, những tiếng
nói xa xăm ấy đã chìm đắm như những tiếng vang, suy tàn trong một khung cảnh
tự do vô hạn định. Những tiếng nói xây dựng đó không mấy được ai lưu tâm đến,
như để chứng minh rằng Montesquieu vẫn chí lý, khi ông đã đưa ra một quy luật
người ta không vượt qua được: Đó là, tự do cũng suy tàn khi người ta cảm
thấy rằng không cần phải theo luật lệ nào nữa.
Trong một khung cảnh cần thay
đổi cấp tốc thì không phải cứ thay đổi tư duy của người Cộng Sản là sẽ
đưa đến tự do, vì người tranh đấu cho dân tộc đã quen lối hy sinh tự do
trong hiện tại để đổi lấy tự do cho những thế hệ mai sau. Cải cách luật pháp
Việt Nam cho gọn gàng, trong một môi trường người tài muốn phục vụ, cho
thích hợp với những nhu cầu thời bình thì những giới hạn của quyền tự do cũng
sẽ rõ ràng hơn, và bớt đưa đến những sự bất công.
Francois-Marie
Arouet Voltaire (1694-1778)
Ông Voltaire là người đã chỉ
trích những quá khích về tôn giáo, và nghĩ rằng đại đa số những giáo điều
trong các tôn giáo đều do mê tín dị đoan tạo nên, và vì thế người hiểu biết
không nên chấp nhận. Ông cũng tin rằng nếu Thượng Đế đã cho con người bộ óc
biết suy luận thì con người phải biết tôn trọng lý trí. Hơn nữa, ông cũng
đã tin rằng Thượng Đế là Đấng điều hành vũ trụ chứ chẳng phải là một vị Cha
làm phép lạ huyền hoặc của Thiên Chúa Giáo. Tinh hoa của đạo đức trong tôn
giáo là luân lý. Kẻ dùng lý trí và luân lý để đối xử với tha nhân là kẻ phục
vụ Thượng Đế. "Người của Thượng Đế là ai?" Ông hỏi."Là
kẻ nói với Thượng Đế là tôi thờ phụng và thương Ngài, là kẻ nói với người
Thổ Nhĩ Kỳ, người Trung Hoa, người Ấn Độ, và người Nga, là tôi thương các
anh". Ông Voltaire cũng đã xem những giới giáo quyền là những tổ
chức đã chỉ củng cố địa vị cho các giáo hội, thay vì giúp con người cải thiện.
Họ bắt người ta phải tuân theo những tín điều ngược hẳn lý lẽ thông thường.
Vì đã tin chắc chắn rằng mình không thể sai lầm, họ đã nhân danh Thượng Đế
để đi bắt bớ những kẻ thuộc tín ngưỡng khác.
Trên phương diện xã hội, ông
Voltaire đã đề nghị phá tan những ưu quyền của giới quý tộc, giới giáo quyền,
và thay đổi hẳn các luật lệ đánh thuế. Ông đã kêu gọi cho quyền tự do ngôn
luận, báo chí, tín ngưỡng, và sự công bình của mọi giai cấp trước luật pháp.
Lẽ
dĩ nhiên, nếu ông sống trong thời đại chúng ta, khi Thiên Chúa Giáo đã
bị những thế cờ chính trị Tây Phương lợi dụng để xâm chiếm, tàn sát khắp nơi
như Đế quốc Tây Ban Nha tại Mỹ Châu, Đế quốc Pháp tại Việt Nam, Đế quốc
Mỹ (và Do Thái) tại Trung Đông, thì chắc chắn ông Voltaire cũng sẽ phản kháng
rất kịch liệt. Ông sẽ đem những hành động khủng bố của những đế quốc hung
tợn ra ánh sáng. Ông cũng sẽ lên án chính người Pháp của ông đã lấy cớ
bảo vệ những nhà truyền giáo để xâm chiếm nước Việt Nam. Ông cũng thẳng thắn
chỉ trích Hoa Kỳ kiểm duyệt báo chí, đảo lộn tín ngưỡng tại Nam Việt khi thay
thế thực dân Pháp tại miền Nam. Một người yêu chuộng công bình và tự do
như ông chắc chắn sẽ không ngớt chỉ trích những thành tích độc tài vô lối
của một bọn thực dân, nhất là khi những chính thể độc tài ấy đã được đem ra
áp dụng để đàn áp những dân tộc khác, ngay trên lãnh thổ của họ.
Một điều đáng chú ý nhất trong
thời đại chúng ta là ông Voltaire cũng không tin cậy chính thể dân chủ. Ông
nghĩ rằng người thường dân không đủ tài năng tự điều khiển lấy chính mình,
và nói rõ: "Khi đám dân đen bắt đầu lập luận thì tất cả tiêu tan hết;
tôi không đồng ý với việc giao phó chính quyền cho quần chúng".
Ở thời đại xưa, trong hoàn
cảnh chưa có nền giáo dục quốc gia như thời nay, Voltaire đã thấy rằng đám
dân đen là những kẻ "điên cuồng và mọi rợ" cần phải kiểm
soát một cách khéo léo. Nhà lãnh đạo phải là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt,
và quen thuộc với mọi tư tưởng của những nhà hiền triết. Vị vua như thế sẽ
đem lại những cải cách cần thiết trong xã hội; và trong xã hội ấy, giới trung
lưu sẽ giữ vai trò then chốt.
Platon (424/423 BC – 348/347 BC)
Thật ra, Voltaire đã không
phải là người đầu tiên đặt nhiều nghi vấn về chính thể dân chủ. Ở một thời
đại còn xa xưa hơn, cách đây hơn 2,400 năm, thì Platon nước Hy Lạp cũng đã
nêu lên rất nhiều khuyết điểm của chính thể dân chủ. Chẳng khác gì Voltaire,
ông Platon cũng đã chỉ trích chính thể ấy ở hai điểm mà Voltaire đã nêu lên.
Thứ nhất, là việc giao phó quyền thế cho dân đen; và thứ nhì là sự bất tài
kém cỏi của giới lãnh đạo.
Ông
Platon đã nghĩ rằng khi giao phó quyền thế cho đám dân đen thì chính phủ đó
sẽ chẳng làm được việc gì nên hồn, vì đại đa số người dân có biết gì đâu.
Họ không có kiến thức và không đủ kinh nghiệm để tham gia vào những quyết
định về chi tiêu của chính quyền, hoặc quyết định về chiến tranh, hoặc việc
liên minh với nước khác, hoặc việc tạo nên những luật pháp mới. Những quyết
định phức tạp ấy đòi hỏi đến trí phán đoán sáng suốt và sâu sắc. Ông đã thấy
rằng người dân trung bình không thể có những cá tính ấy vì họ dễ bị lẫn lộn,
kết luận vội vàng không suy nghĩ. Những quyết định của họ đều bị những thành
kiến ảnh hưởng. Dân chủ, theo ông Platon, là một chính thể dân đen cai trị.
Ngoài ra, Ông Platon cũng đã
tin rằng nền dân chủ không đưa đến một giới lãnh đạo xuất sắc. Những nhà lãnh
đạo ấy thường chỉ muốn củng cố địa vị hơn là nghĩ đến bổn phận người hành
động theo lẽ phải. Họ mị dân, và nếu người dân muốn chiến tranh thì họ cũng
không cố gắng tranh đấu cho hòa bình.
Cũng như Voltaire, ông Platon
tin tưởng rằng quyền lãnh đạo phải được đặt trong tay những nhà hiền triết
khôn ngoan, không những cho một quốc gia, mà còn cho cả nhân loại nữa.
Câu hỏi mà chúng ta nên đặt
ra là: Tại sao hai bậc hiền triết đó, Platon và Voltaire, tuy sống xa cách
nhau cả hơn 2,200 năm, đã có cùng một lối suy nghĩ khi họ bình luận về chính
thể dân chủ ? Tại sao họ đều không đặt một tí tin tưởng nào vào đám dân đen,
dễ khích động, và vội vàng phản ứng không suy nghĩ ?
Khi Platon và Voltaire đều
e sợ đám dân đen kia thì những nhà hiền triết ấy cũng nhắc cho chúng ta nhớ
đến dân tộc Việt Nam ngày nay, dễ bị khích động, kết luận vội vàng, suy nghĩ
nông cạn, và chưa thể tham gia vào những quyết định quan trọng của chính quyền.
Hai nhà triết gia ấy đã cùng sống chung ở những thời đại mà người dân chưa
được hưởng một nền tảng giáo dục quốc gia; dân trí còn quá thấp kém. Đặc tính
ấy vẫn còn trầm trọng tại những nước mới phát triển như tại Trung Hoa, Việt
Nam, hoặc tại Pháp quốc trong thời đại Voltaire. Chẳng phải tự nhiên mà Voltaire
đã chỉ trích đám dân đen là "điên cuồng và mọi rợ" mà rồi
đến cuối đời ông, thiên hạ vẫn hoan nghênh yêu chuộng ông. Ông đã nói lên
sự thật như thế, là đã ghi lại những ngày dân trí nước Pháp còn quá thấp,
giới vô học còn quá nhiều, và người ta không dám mơ màng đến một chính thể
dân đen cai trị.
Như thế, nếu Voltaire là người
Việt Nam ở thời đại chúng ta thì chắc chắn ông ta cũng không đặt tin tưởng
nào vào đám dân đen thất học, vì dân tộc Việt Nam ta cũng vừa chỉ mới thoát
khỏi ách cai trị của Pháp, rồi chấn thương sau một cuộc chiến tranh đàn
áp của Mỹ, để đòi lại độc lập. Rất có thể Voltaire cũng sẽ phải đặt tin
tưởng vào một loại chính phủ như lối cai trị tại Trung Hoa và Việt Nam hiện
nay, vì chính thể quân chủ cũng đã không còn nữa, mà chính thể dân chủ theo
lối Tây Phương thì cũng không thích hợp với những quốc gia còn mỏng manh,
dân trí còn quá thấp.
Thật ra, chính thể dân chủ
của Tây Phương chỉ thích hợp cho một hoàn cảnh kinh tế đang tiến nhanh,
dân trí cao, và không nước ngoài nào mua chuộc được giới lãnh đạo. Khi
quốc gia còn nghèo, dân trí thấp, nếu đám dân đen lại có thể cầm quyền trong
một loại chính quyền tự do đối lập, thì bàn tay bí mật của ngoại bang cũng
dễ hoạt động, mua chuộc để len lách vào những vị thế then chốt trong chính
quyền, rồi làm rối loạn nền an ninh quốc gia. Như thế, nền kinh tế dễ bị rơi
vào sự điều khiển của ngoại bang, mua chuộc một giới - dùng làm đối lập -
để đoạt lấy chính quyền.
Việc đó rất dễ hiểu mà thôi.
Vì tuy Hoa Kỳ luôn giả vờ kêu gọi hô hào cho một chính thể dân chủ, nhưng
họ cũng đã ủng hộ triệt để những chính quyền quân chủ thối nát tại Nga,
Trung Đông, và Nam Mỹ, để tha hồ cho các công ty Mỹ xâm chiếm lấy nguồn
lợi của những quốc gia ấy. Đáng lẽ ra, miền Trung Đông đã phải là một miền
giàu sang, phong phú, và tân tiến nhất hoàn cầu, kể cả về khoa học, trí thức
và kinh tế.
Nước Mỹ đã giàu không phải
là vì dân chủ, mà là vì thương mãi, kỹ nghệ và khoa học. Nhưng khi kinh
tế xuống, ta sẽ thấy trong một tương lai gần đây, những nước giàu mạnh
hơn Hoa Kỳ cũng sẽ lại phù trợ riêng cho một đám Mỹ thật giàu, và khuyến khích
họ chỉ lo riêng cho tư lợi ích kỷ, đem tài sản đi chỗ khác, đầu tư ở những
chân trời xa xăm rồi quên hẳn quyền lợi của bao nhiêu công dân Mỹ khác.
Những đám thật giàu có đó tại Hoa Kỳ, một ngày nào đây, cũng sẽ chẳng khác
chi một đám quan lại Trung Hoa dưới đời nhà Thanh. Khi ấy, nền dân chủ Mỹ
như ta thấy ngày nay sẽ chỉ còn là những dư âm. Chuyện đó không phải là chuyện
hoang đường. Một khi giá trị đồng dollar xuống hẳn, nếu như tiền bạc Trung
Hoa quá mạnh thì sức mua chuộc của họ cũng tăng lên gấp bội, và sức chống
trả của Hoa Kỳ cũng yếu hẳn đi, và người Mỹ cũng sẽ phải đưa ra những biện
pháp hạn chế mọi tự do hầu kiểm soát thương mại, kinh doanh chặt chẽ hơn.
Và đến khi lâm nguy hẳn hoi, một chính thể cảnh sát công an cũng sẽ thành
hình để bảo vệ cho non sông, đất nước của họ - chẳng khác gì những tổ chức
của những quốc gia Cộng Sản sau những ngày kiệt quệ nội chiến, đã tổ chức
chống lại sự xâm lược của Tây Phương. Khi ấy, Hoa Kỳ cũng sẽ thấy rằng lối
tổ chức chính quyền dân chủ, với tự do đối lập, có những bất lợi không vượt
qua nổi mặc dù dân trí Mỹ tương đối không thấp. Họ sẽ phải tuyên truyền mạnh
mẽ hơn, nhưng tuyên truyền là ngu dân, và sẽ làm dân trí thấp hẳn đi.
Chính vì những lý do đó, như
Voltaire và Platon đã nghĩ, giải pháp tốt đẹp nhất cho mọi quốc gia vẫn phải
là những nhà lãnh đạo sáng suốt và có đầu óc của những nhà hiền triết khôn
ngoan. Những nhà lãnh đạo lý tưởng đó sẽ phải biết nghĩ vượt qua mọi biên
giới quốc gia, biết yêu thương nhân loại, và không đặt quyền lợi ích kỷ của
quốc gia mình trên hết.
Denis Diderot (1713-1784)
Người viết ra quyển "Encyclopedia" là
Diderot. Mục đích của ông là lưu lại cho hậu thế những thành đạt của nhân
loại trong thời đại Enlightenment, kể cả những tư tưởng khôn ngoan của
những nhà hiền triết thời ông. Trong quyển sách đó, nhiều định nghĩa đã
phản ảnh tư tưởng độc đáo của ông Diderot, nhất là những lời bình luận về
trạng thái "quá
khích", "chiến tranh" và "việc sử dụng
nô lệ".
Ông Diderot đã định nghĩa thế
nào là "quá khích" như sau: "Quá khích là một trạng thái
mù quáng, đam mê, do mê tín sinh ra, và đã làm cho người ta làm những việc
kỳ quặc, bất công, và tàn nhẫn, không biết ngượng và hối hận, mà lại còn cảm
thấy vui và yên dạ". Ở thời đại đó, ông đã so sánh được những cuộc
tàn sát xa xưa như những thời thánh chiến Croisade, thời những tòa
án dị giáo Inquisition, với những cuộc đổ máu giữa Tin Lành và Công
Giáo đang xảy ra tại khắp Âu Châu.
Định nghĩa của hai chữ "quá
khích" ấy rất chính xác, ngay cả với người Việt Nam ta, vì ai ai cũng
vẫn còn nhớ đến những quá khích trong tôn giáo tại nước ta. Một trạng thái
mù quáng, đam mê, do mê tín sinh ra, đã làm những lớp người như gia đình
Ngô Đình Thục/Diệm/Nhu, muốn Thiên Chúa Giáo lan tràn tại Việt Nam. Dưới sự
điều khiển của Hoa Kỳ, họ đã cho Radio Sài Gòn tự do tẩy não người dân. Họ
đổ lỗi mọi tàn phá của chiến tranh chống Pháp cho một lý thuyết Cộng Sản điên
cuồng. Họ dùng một hoàn cảnh chiến tranh bất đắc dĩ khi người Việt tranh đấu
cho độc lập bị ngoại xâm dồn vào, và gọi cảnh lầm than ấy là Thiên Đàng Cộng
Sản. Họ, những người lãnh đạo chính trị Thiên Chúa giáo đó, còn vu khống cho
những người quyết tranh đấu cho tổ quốc là mê tín, theo một dị giáo, đồng
chí hướng đeo đuổi một lý tưởng điên rồ - vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn
giáo -.ròng rã biết bao nhiêu năm trời. Họ bảo rằng những kẻ đấu tranh chống
ngoại xâm kia chỉ đến được mục đích là tạo nên Hỏa Ngục Trần Gian.
Nước Chúa nào đã lan tràn được
đâu. Người ta chỉ thấy dòng máu và nước mắt lan tràn khắp nơi.
Cho đến nay, có lý thuyết nào
tồi tệ đến độ đã làm con người điên đảo đến thế đâu. Hoa Kỳ vẫn làm bạn với
Cộng Sản, và bỏ rơi những con người đã dại dột theo Mỹ, vốn trở nên quá khích
đến độ thẳng tay giết chóc người tranh đấu cho độc lập và tự do trên nhửng
mảnh đất vun xới bằng mồ hôi nước mắt Tổ Tiên của chính họ.
Cũng trong quyển Encyclopedia
đó, Ông Diderot đã định nghĩa "Chiến Tranh" như sau: Chiến tranh
là một "căn bệnh tàn khốc, làm tan nát ruộng nương và tiêu rụi thị
trấn. Nếu còn biết suy luận, thì con người không bao giờ nên siêu lòng giận
dữ theo những điên cuồng của chiến tranh".
Tội nghiệp thay cho người Việt
Nam ta; họ đã thừa biết chiến tranh là gì, nhất là lối định nghĩa bằng những
vết thương. Người ta đã chọn chôn vùi quá khứ kia để tìm thấy những thứ khác
đỡ vô lý, và cần ghi nhớ hơn. Người ta muốn định nghĩa của thanh bình, và
của tất cả những gì đơn sơ mộc mạc mà thời buổi chiến tranh đã cướp mất.
Nhưng than ôi, cho đến ngày
nay, khối Tây Phương vẫn còn tiếp tục đường lối cũ. Họ vẫn còn tham lam giữ
lấy ưu thế bằng cách tiếp tục gửi quân đội đi khắp nơi, nghiên cứu mọi khí
giới bảo đảm đưa đến điêu tàn, đặt căn cứ quân sự ở mọi phương trời, để giữ
lấy ưu thế trong một thế giới họ đã quen làm chủ. Nhưng, trong lịch sử nhân
loại, có đế quốc nào mà vững mãi được đâu. Những di tích cũ của các nền văn
minh đã suy tàn kia rải rác khắp thế gian, để nhắc cho ta rõ định luật ấy.
Khoa học tàn phá cũng đã đến tay kẻ khác. Người ta sẽ phải hiểu sớm rằng học
hỏi được sự khôn ngoan qua những kinh nghiệm cũ thì vẫn khó hơn là phát minh
thêm những kỹ thuật chiến tranh tàn phá mới.
Ngay trong buổi sinh thời,
ông Diderot đã không dùng Encyclopedia để đề cao một xứ sở như Hoa Kỳ, lúc
ấy còn đang đặt nền kinh tế trên việc sử dụng nô lệ.
Là một người tin tưởng vào
quyền tự do, chống trả lại độc tài và lên án việc sử dụng nô lệ, Ông đã viết
rằng : "Không một ai được thiên nhiên giao phó cho quyền điều khiển
kẻ khác". "Tự do là một quà tặng Trời cho, và mỗi cá nhân
đều có quyền hưởng nhận" Vì lẽ đó, "Con người và quyền tự
do của họ không phải là những món hàng buôn bán được - bằng bất cứ giá nào.
Thành thử, không một kẻ khốn nạn nào trong đám nô lệ mà lại không có quyền
được giải phóng".
Ở trường hợp Việt Nam ta, khi
nước Pháp in đồng bạc Đông Dương tại Pháp, và làm loãng đi mạch máu của
dân ta, thì Hoa Kỳ lại viện trợ cho Pháp để kéo dài hình thức nô lệ ấy
- mà lại còn rêu rao là giúp người dân trong tự do ! Khi tượng Nữ Thần Tự
Do được nước Pháp tặng cho Hoa Kỳ năm 1886 thì hai năm sau, năm 1888, đồng
tiền Đông Dương được phát hành, với hình ảnh Nữ Thần đó ngồi trên đồng bạc
của chúng ta. Lúc ấy, khi người dân Việt phải đổ mồ hôi đổi lấy đồng tiền
ấy mà mua lấy bát cơm, thì người Pháp chỉ cần in thêm tiền piastre tại
mẫu quốc, để rồi đoạt lấy bất cứ gì quý giá trong nước ta !!! Nữ Thần đó được
gọi là Tự Do hay sao ? Hình ảnh đó có thể biểu tượng tự do ở xứ sở người khác,
vì những đất thuộc địa kia đã làm giàu cho người dân đế quốc, giúp họ tạo
ra một xứ sở quá giàu, gọi là "xứ sở của cơ hội" - The Land of Opportunity.
Nhưng ở một phương trời đáng thương như nước ta, nó đã tượng trưng cho
một hoàn cảnh nô lệ, khiến người Việt chúng ta đã phải vùng lên để phá
bỏ mọi xiềng xích !!!
"Chúng Tôi Muốn Sống !" là
tiếng hét lên như thế, chứ chẳng phải là một cuốn phim rẻ tiền vô giá trị
do Mỹ ứng tiền ra mà ngày nay không ai dám đưa ra quần chúng Mỹ, để phanh
phui ý định tồi tàn và tàn nhẫn của một bọn người vô liêm, đã chủ tâm gây
nên hoảng hốt, để nhẫn tâm lừa gạt và chia rẽ dân ta, đưa đến tương tàn
và thù oán. Chẳng cần phải đi xa, ta cũng thừa biết rằng biết bao nhiêu loại
phim như thế cũng đang được tung ra tại Trung Đông để lừa dối dân lành,
và đem dầu lửa về Hoa Kỳ với giá hạ thấp bằng máu người dân bản xứ.
Jean-Jacques
Rousseau (1712-1778)
Có
lẽ những chỉ trích mạnh mẽ nhất của Thời Đại Quang Minh là của ông Jean
Jacques Rousseau. Theo ông, sự bất công trong xã hội đã trở nên rõ rệt khi
một hạng người thì quá giàu mà kẻ khác vẫn phải chìm đắm trong cảnh nghèo
khổ. Những quyền lợi đặc biệt dành cho giới thượng lưu là những bất công.
Và truyền thống đặt quyền thế vào tay của những đứa bé làm vua, vua ngu, vua
độc tài, cũng là những điều vô lý.
Hơn nữa, ông cũng không tin
chắc chắn rằng mọi tiến bộ trong khoa học và nhân sinh đã giúp con người khá
hơn. Con người sống trong văn minh đã không hạnh phúc, trở nên bất ổn, và
ích kỷ. Ông cho rằng người đời xưa sống trong rừng hoang thì tốt và hạnh phúc
hơn là một người Pháp văn minh; vì không tham lam, họ cũng không đối xử tàn
tệ với tha nhân. Ông đã than rằng: "Con người sinh ra thì tự do, nhưng
đâu đâu cũng thấy bị xiềng xích". Khi bản chất con người là tốt,
người ta phải biết cứu giúp - không để cho xã hội làm bản chất đó bị sa đọa,
và biến thể. Tuy nhiên, vì ông thừa biết rằng người ta không thể nào quay
lại cuộc sống đơn giản thuở xa xưa, giải pháp thực tế của ông Rousseau là
phải thay đổi xã hội và chính trị, để con người, tuy ràng buộc trong văn minh,
vẫn được thản nhiên sống với bản chất tốt tự nhiên, hướng thiện và hạnh phúc.
Một giải pháp giúp người ta
trở nên tốt hơn là sự cải cách trong phương pháp giáo dục, giúp thiếu niên
được phát triển theo bản chất thiên nhiên của nhân tính, thay vì bị gò
bó trong những khuôn khổ chật hẹp, làm mất hẳn tính cách cá nhân của mỗi
học trò. Hơn nữa, ông Rousseau cũng tin rằng vì tuổi thơ quý báu rất chóng
qua, điều cốt yếu là phải biết thương trẻ nhỏ, vì chẳng mấy lúc chúng sẽ
phải gánh vác bổn phận người lớn.
Ngoài ra, ông cũng biết rằng
nếu chỉ thay đổi nền giáo dục mà thôi thì không đủ đưa đến cải cách xã hội.
Người ta còn phải thay đổi cả lối tổ chức chính quyền nữa. Về khía cạnh ấy,
không như những nhà hiền triết cùng thời đại, ông Jean Jacques Rousseau đã
đặt tin tưởng vào chính thể dân chủ. Ông cũng muốn phá tan những bộ luật dành
ưu tiên cho một giai cấp này, đặt trên giai cấp khác. Luật pháp, theo ông,
phải có lợi cho toàn thể cộng đồng.
Một điểm quan trọng rất khác
biệt trong tư tưởng của Rousseau là ông đặt tin tưởng vào người thường dân
nhiều hơn là Voltaire và Platon, mặc dù người dân lúc đó phần đông còn thất
học. Ông tin rằng khi trả lại quyền thế cho người dân, người ta cũng dễ tìm
lại được quyền tự do trước kia của họ. Ông đã cảm thấy rằng, khi người dân
cùng chung sức, thì họ cũng đủ khả năng làm những quyết định khôn ngoan. Ông
không đồng ý với những ai cho rằng những kẻ nắm quyền thế cổ truyền - các
vị vua, hoàng tộc và giáo quyền - đã có biệt tài cai trị quần chúng. Chính
vì Jean Jacques Rousseau tin rằng quần chúng phải có quyền tự trị, ông đã
là một tiền bối, một cha đẻ, của chính thể dân chủ.
Một điều đáng chú ý, như ta
đã thấy, là ông Rousseau đã đặt tín nhiệm vào đám dân đen, và tin tưởng rằng
họ cũng biết chung sức để tạo nên khả năng làm những quyết định khôn ngoan.
Niềm tin đó cũng đã hoàn toàn đi ngược hẳn những tư tưởng của Voltaire và
Platon. Hai nhà hiền triết nầy đã quyết liệt chống lại sự tham gia của quần
chúng thất học thời đại họ, vì nền giáo dục đã chỉ dành riêng cho một thành
phần được ưu đãi.
Vậy thì: Ai có lý ? Platon/Voltaire
hay Jean Jacques Rousseau ?
Nói một cách khác thì: Ta có
nên đặt tin tưởng vào sự tham gia của đám dân đen trong chính quyền hay chăng
?
Người cảm thấy Voltaire và
Platon có lý, thường đặt tin tưởng vào một giai cấp lãnh đạo biệt lập, có
khả năng riêng, và không còn mấy tin tưởng vào đám dân đen nữa. Trong cách
phân tích hiện đại, thì họ cũng thuộc về thành phần khuynh hữu, muốn đặt guồng
máy lãnh đạo vào tay một thành phần chọn lọc, không để đám dân đen làm chính
quyền thêm vướng víu. Khuynh hướng của Platon còn được gọi là Elitism,
nghĩa là thiên về giới thượng cấp ưu tú.
Ngược lại, người cảm thấy Rousseau
có lý, thường đặt tin tưởng vào người dân trung bình và hạ cấp, tin rằng họ
cũng chẳng thua kém chi những kẻ may mắn hơn. Trong cách phân tích chính trị
xã hội ngày nay, thì họ có khuynh hướng thiên tả, mà cực tả thì tương đương
với Cộng Sản.
Tuy nhiên, phần đông chúng
ta thường không có tư tưởng hoặc khuynh hướng nhất định.
Ta có thể lúc này tin theo
chiều hướng của Rousseau, đặt mọi tin tưởng vào đám dân đen hăng hái đấu tranh
cho dân tộc Việt Nam ta. Nhưng đến khi họ tổ chức những cuộc tố khổ dã man,
khi chứng kiến đám dân đen đó reo hò trước một cảnh tượng gớm ghê, người ta
vẫn có thể đổi ý và thấy Voltaire vẫn có lý hơn.
Nhiều người Việt Nam chúng
ta cũng đã hoan hỉ ngày Giải Phóng đuổi giặc xâm lăng, đưa đến chiến thắng
vinh quang. Nhưng khi đói khổ, ốm đau, chết chóc trong cảnh hòa bình, mà thấy
đám dân đen kia cũng chẳng làm nên chuyện gì, ngoài những Trại Cải Tạo, thì
họ cũng chẳng còn tin tưởng gì ở một chính quyền dựa vào đám dân đen nữa.
Họ thù oán chính quyền đó, thay vì chấp nhận cảnh hậu chiến. Và họ sẵn sàng
bỏ cả quê hương, khi thấy đám dân đen kia nắm quyền cai trị.
Chính vì lý do đó mà ngày nay,
người Việt Nam tại Hoa Kỳ vẫn thường có khuynh hướng thiên hữu.
Họ, những người Mỹ gốc Việt
nầy, đã quên hẳn một thời xa xưa, khi người ta đã thấy bao kẻ lầm than, gầy
guộc, bị người Pháp tra tấn cho đến không còn gì để đáng sống thêm. Lúc đó,
người ta cũng vẫn muốn hòa mình với đám dân đen kia, đoàn kết trong cuộc sống
chui rúc, để nhất tâm giải phóng quê hương. Trong hoàn cảnh xa xưa đó, người
ta thường vẫn tin tưởng đám dân đen hơn là thực dân Pháp, và tìm thấy trong
tư tưởng của Rousseau bao nhiêu ý nghĩa khác. Khi đó, chúng ta có khuynh hướng
thiên tả.
Cũng vì khuynh hướng thiên
tả đặc biệt đó, mà những tư tưởng của Jean Jacques Rousseau gần với cuộc Cách
Mạng Pháp hơn. Tuy mặt ngoài, những suy nghĩ của ông chỉ có vẻ thản nhiên,
nhưng nó chứa chất biết bao nhiêu mãnh lực tiềm tàng, và trở nên rất nguy
hiểm đối với giới thống trị. Vì thật ra, khi hoàn cảnh đất nước trở nên nguy
nan, khi người thông minh và tài giỏi phải sống trà trộn với đám dân đen,
sinh trưởng ngay trong đám dân đen đó, thì không khí chính trị trở nên rất
mỏng manh. Giới thống trị kia cũng sẽ lung lay, khi hết đáp ứng những nhu
cầu căn bản của người dân. Chỉ bỗng chốc, như một cơn gió độc, những tư tưởng
kia lại trở về, và người ta ai nấy đều đặt tin tưởng vào đám dân đen hơn.
Họ là Giặc Cờ Lau. Họ đã theo Anh Hùng Áo Vải. Họ đã ở trong tất cả mọi phong
trào khởi nghĩa.
Những căng thẳng trong xã hội
Pháp ngày đó - trước cuộc Cách Mạng Pháp - thật ra chẳng mấy khác những
căng thẳng ngày nào giữa những khuynh hướng cực tả và cực hữu trong cuộc chiến
tranh lạnh Cold War. Sự tương tự ấy sẽ rõ ràng hơn khi ta nhận định lại
những định luật ràng buộc xã hội, chính trị và kinh tế. Hai khuynh hướng thiên
hữu và thiên tả đã luôn luôn hiện hữu trong mọi xã hội. Trong hoàn cảnh một
nước độc lập, dân chủ và tự do, xã hội thường vẫn ngả nghiêng, nay khuynh
tả, mai khuynh hữu, theo thời cuộc. Yếu tố mạnh nhất làm xã hội đó đổi chiều
là tình hình kinh tế. Khi kinh tế đang lên, thì một giai cấp đại phú xuất
hiện trong xã hội. Ảnh hưởng giai cấp đó trên chính trị thường sẽ tạo nên
một chính thể khuynh hữu thuận lợi cho kẻ giàu làm ăn. Vì xã hội thịnh vượng,
ai ai cũng tiến và thấy lối thoát, người ta không đặt quan trọng vào sự chênh
lệch gia sản giữa người giàu và kẻ nghèo, hoặc những đặc quyền của giai cấp
lãnh đạo. Xã hội khuynh hữu đó còn được gọi là "tư bản" hay "tự do".
Người dân đặt tin tưởng ở giới lãnh đạo và cho họ được ưu thế, kể cả những
lợi tức vượt bực. Ngược lại, khi kinh tế đang xuống, một giai cấp bị thiệt
thòi, quá thiếu thốn sẽ xuất hiện; mọi khác biệt trong các giai cấp xã
hội sẽ dễ bị đem ra soi bói, và xem như những bất công trầm trọng. Hoàn cảnh
ấy sẽ tạo nên những áp lực chính trị thuận lợi cho chính sách hướng về quân
bằng tài sản, đánh thuế người giàu để lo cho những chương trình xã hội. Xã
hội đó đã trở nên khuynh tả, và đã là tình thế ngày đó của xã hội Pháp.
Trong Cold War, sau cả thế
kỷ bị nội chiến và bị Tây Phương liên tiếp tấn công, nền kinh tế những nước
chống lại Tây Phương xuống dốc đến nguy nan. Hoàn cảnh ấy đã đưa đến những
áp lực chính trị thuận lợi cho chính sách hướng về quân bằng tài sản. Vì bị
Tây Phương triệt để bao vây, dồn vào cảnh kinh tế bế tắc trong suốt thời buổi
đó, những nước chống lại Tây Phương đã bị kiệt quệ. Hiện tượng phải quân bằng
cho đến cùng cực đã đồng nghĩa với tình trạng người ta đã phải chia sẻ từng
miếng ăn, từng hộ khẩu để tránh nội loạn. Họ cũng đã phải kiểm soát khắt khe
mới giữ được an ninh. Sự quân bằng trong hoàn cảnh lâm nguy ấy, và lối kiểm
soát nghiêm nghặt, đã chỉ là những biện pháp chứ không phải là mục đích tối
cao. Người ta dùng hình ảnh lối sống chung, miễn cưỡng quân bằng, kiểm soát
tối đa như thế để bảo rằng, đó là mục đích của một dị giáo; chứ thật ra, đó
đã chỉ là một hoàn cảnh bất đắc dĩ. Họ đã phải vừa sống sót, vừa tạo nên một
bộ máy chiến tranh để đương đầu với những nước Tây Phương mạnh gấp bội, kể
cả về kinh tế, đồng minh, và vũ khí.
Ngược lại, trong suốt thời
kỳ Cold War, vì kinh tế những nước Tây Phương đang thịnh vượng, người dân
không đặt trọng sự chênh lệch giữa người các giai cấp, nên họ cũng tuyên truyền
rằng sự cách biệt ấy đã khiến người nước họ hết sức tranh đấu để làm giàu,
đưa Thế Giới Tự Do đến thành công, biểu hiệu bằng những nhà chọc trời cao
chót vót.
Nhưng thế cuộc đó nay đã đổi
thay. Những nước Cộng Sản xưa, từ Nga đến Trung Quốc và ngay cả Việt Nam,
đã không còn quân bằng tài sản nhân dân nữa, như để chứng minh rằng, cảnh
hòa bình và thịnh vượng đã biến những quốc gia ấy thành những xã hội và chính
phủ khuynh hữu, lập hẳn nên một giới đại tư bản, dùng làm lực lượng tiền phong
cho nền kinh tế đang lên của họ. Ngược lại, trong hoàn cảnh kinh tế bế tắc,
các nước Tây Phương đã thấy khuynh hướng họ phải đổi chiều, đặt lại ưu tiên
cho những chương trình xã hội để lo cho người thất nghiệp. Họ sẽ chăm chú
vào những bất công trong xã hội và tìm cách đánh thuế hạng đại phú, và từ
từ trở nên những chế độ khuynh tả, quen thuộc với những kêu gọi của Jean Jacques
Rousseau hơn.
Thật ra, nhìn một cách thật
đại cương, thì sau Thời Đại Quang Minh, khi Cách Mạng Kỹ Nghệ (La Révolution
Industrielle) làm nền kinh tế của Tây Phương vượt trội hẳn lên, thì họ cho
quân đội đi xâm lăng cả hoàn cầu. Sự cách biệt xa xăm giữa Tây Phương và hoàn
cầu đã giúp họ nâng cao mực sống và làm chủ nguyên liệu khắp nơi. Nhưng sau
vài thế kỷ, những quốc gia đông dân cư đã tìm cách kháng cự lại, giữ gìn nguyên
liệu và tìm cách kỹ nghệ hóa. Cách kháng cự của họ có thể chia làm hai thành
phần, một là bất bạo động (Ấn Độ), hai là dùng bạo động và trang bị vũ khí
như Nga và Trung Quốc (Khối Cộng Sản). Thời gian chạy đua trang bị vũ khí
ấy là Cold War. Trước hiểm họa diệt vong, tất cả mọi lực lượng ấy đều đã phải
đình chiến. Trong thời gian ngưng chiến ấy, lợi dụng một lúc mọi biên giới
mở tung ra cho những kỹ nghệ Tây Phương tràn ngập, những nước Đông Phương
nhiều dân cư đã học hỏi và đuổi kịp Tây Phương trong công cuộc kỹ nghệ hóa.
Sự cách biệt giữa hai mực sống Tây Phương và Đông Phương đã giúp mọi sản phẩm
làm tại Đông Phương rẻ hơn, cạnh tranh mạnh mẽ, và vì thế, nền tài chính trên
hoàn cầu cũng đang đổi trọng tâm, và giúp cuộc kỹ nghệ hóa đó càng ngày càng
nhanh.
Đáng lẽ ra Cách Mạng Kỹ Nghệ
đã phải lan ra trên hoàn cầu nhanh chóng hơn. Nhưng Tây Phương đã giữ lại
độc quyền ấy, chiếm đoạt lấy nguyên liệu của hoàn cầu, và duy trì sự chênh
lệch giữa một giới quá giàu và đại đa số nghèo - một sự bất công căn bản mà
ông Rousseau đã nêu lên.
Thật vậy, dù đã đến thế kỷ
thứ 21, nền quân chủ trên hoàn cầu của bao nhiêu quốc gia lạc hậu, vẫn còn
tồn tại nhờ những nước quá giàu mạnh khối Tây Phương ủng hộ. Giới lãnh đạo
khối Tây Phương đã chọn thế cờ ấy - duy trì những chế độ bất tài, kể cả chế
độ quân chủ - hầu chiếm đoạt những hợp đồng quá dễ dàng, quá rộng rãi và quá
dài hạn, để giúp những công ty khổng lồ của họ bành trướng từ thế kỷ này qua
thế kỷ khác. Hoàn cảnh ấy đã tạo nên một sự chênh lệch quá lớn lao tại những
nước nhược tiểu kia. Một bên là giới hoàng tộc hoặc thượng lưu bán nước, ký
kết với những công ty Tây Phương. Còn một bên là đại đa số quần chúng nghèo
không đủ sức phản kháng lại những bất công. Với sự thỏa thuận của những hoàng
tộc và giới thượng lưu vô dụng phung phí kia, những cường quốc vẫn tiếp tục
đem quân đội đàn áp, tàn sát người dân miền Trung Đông.
Lẽ dĩ nhiên, chẳng những ta
đã thấy thế cờ đó ở Việt Nam, khi Pháp tìm cách duy trì chế độ quân chủ suốt
đời của Nhà Nguyễn, ta còn thấy thế cờ ấy ngay bên Trung Quốc, khi những nước
Tây Phương giúp duy trì Nhà Thanh. Hoa Kỳ cũng đã phù trợ chế độ quân chủ
của Nga Hoàng Romanov trong thời buổi nội chiến tại Nga, âm thầm gửi quân
đội Mỹ qua Nga để giúp bên Bạch quân (theo Nga hoàng) chiến đấu chống Hồng
quân cách mạng của Lénine. Và ngày nay, ta cũng thấy rõ khối Tây Phương phù
trợ cho bao nhiêu triều đình khác của những đế vương hoang phí tại Trung Đông,
để mặc sức hút dầu lửa của người dân bản xứ.
Một ví dụ rõ ràng nhất là tại
Iran, năm 1953, khi liên minh Hoa Kỳ và Anh Quốc dùng những tổ chức gián điệp
của họ (CIA và MI5) để phá tan chế độ dân chủ của Iran do thủ tướng Mohammad
Mosaddegh lãnh đạo, hầu lập lại chế độ quân chủ của Hoàng Đế Reza Pahlavi.
Những hành động tàn phá của những đế quốc ấy đã khiến ông Mosaddegh bị giam
đến cuối đời, sau khi đã lập nên bao nhiêu cải cách xã hội, giúp đỡ giới nông
thôn và thợ thuyền. Nhưng than ôi, chỉ vì quốc hội của Thủ Tướng Mosaddegh
đã đồng nhất trong việc quốc hữu hóa dầu lửa của nước Iran, bị cướp đoạt bởi
công ty Anglo-Iranian Oil Company (tên cũ của BP, British Petroleum) dưới
ách thống trị của Đế Quốc Anh, mà thảm họa kia đã ám ảnh quốc gia lẻ loi đó,
cho đến tận ngày nay.
Tại Nam Mỹ, khi không còn chế
độ quân chủ nữa thì trước đây, đế quốc Mỹ đã cho những công ty của họ mặc
sức lộng hành, cướp giựt lấy tài nguyên, nông trại, và lập nên những chính
phủ bù nhìn. Họ còn dùng những căn cứ quân đội của họ để mặc sức tiêu diệt
người phản kháng, đổ lỗi cho một dị giáo có tên gọi là Cộng Sản. Trong khi
đó, những chính phủ bù nhìn kia, vì sống trong cảnh loạn lạc, bất an ninh,
đã đem tiền bạc Mỹ hối lộ trở về những ngân hàng của Hoa Kỳ, và tiếp tục làm
giàu cho nền kinh tế đế quốc. Ông Allende của Chili, vì đã chống Mỹ và có
chương trình cải cách như Thủ Tướng Mosaddegh nước Iran, cũng đã bị Hoa Kỳ
ám hại.
Vì thế, chúng ta đã rất dễ
nhận định rằng Tây Phương đã luôn ủng hộ giới chính trị cực hữu của những
quốc gia kia, kể cả những đế vương vô dụng. Sự ủng hộ thiên lệch của họ đã
tạo nên một hoàn cảnh đi ngược hẳn quyền tự do của người dân bản xứ. Tại những
nước nhược tiểu bị đàn áp ấy, chính quyền không còn phản ảnh khuynh hướng
chính trị của xã hội đó nữa. Như ta đã thấy, ở những nước mạnh và độc lập,
khi xã hội khuynh tả, hoặc khuynh hữu, thì người dân cũng đã chọn một chính
quyền phản ảnh những khuynh hướng chính trị ấy. Nhưng ở những xã hội bị Hoa
Kỳ đàn áp, khi xã hội đó trở nên khuynh tả cần cải cách, thì sự điều khiển
của những Tòa Đại Sứ Mỹ vẫn đưa đến những chính quyền khuynh hữu, hoặc cực
hữu, và đã làm phong trào chống Mỹ nổi lên khắp nơi để phản kháng hố sâu giữa
người dân và chính phủ của họ. Ngày trước người chống lại thì gọi là Cộng
Sản, và đến ngày nay thì gọi là Khủng Bố, vì đà tiến của Trung Hoa đã làm
danh từ kia trở nên lỗi thời trong chiến tranh tuyên truyền.
Nhìn thấy sức tàn phá của những
vũ khí tối tân, một hành tinh đang lâm nguy, và những lề lối tuyên truyền
dựa vào khoa học tối tân, người ta đã không khỏi ngờ vực những tiến bộ của
văn minh. Lý do đã đưa đến tình trạng ấy vẫn bắt nguồn ở một trạng thái mà
ông Jean Jacques Rousseau đã vạch rõ. Đó là con người văn minh vẫn ích kỷ
và ít ai hạnh phúc. Ngay trong các trường học, lối giáo dục thiếu niên xưa
đã trở thành một lối cạnh tranh giữa các quốc gia. Họ cũng đã thi nhau đặt
gánh nặng ấy trên vai đàn trẻ, để rồi chúng phải quên đi những màu nhiệm của
một ngày thơ chóng qua. Trong các phòng thí nghiệm, họ đã tranh đua phát minh
thêm những kỹ thuật chiến tranh không còn ai kềm chế được nữa. Sự điên rồ
ấy đã khiến những chi phí cho cách tiêu diệt nhau trong hoàn cầu, vượt biết
bao nhiêu lần ngân quỹ cho sức khỏe; mà trong đó Hoa Kỳ đã chiếm hẳn một nửa.
Riêng với người Việt Nam chúng
ta, lối suy nghĩ của ông Jean Jacques Rousseau đã phù hợp nhất với ngày tranh
đấu của đất nước chúng ta, một đất nước tràn ngập lũ dân đen. Thay vì hất
hủi đám dân thất học, ông Rousseau đã là người duy nhất đề nghị đưa quyền
tự trị vào tay đám dân đó, khi thực dân Pháp chê bai, cho rằng người Việt
Nam ta chỉ là một đám ngu si, vô phương cách dẫn đến văn minh. Tuy không mấy
biết đến ông Jean Jacques Rousseau, người dân đen chúng ta cũng đã tin rằng
khi đoàn kết, họ cũng đủ sức làm những quyết định khôn ngoan. Họ cùng chịu
khổ, chịu đói, chịu dấu mặt, chịu mọi cực hình để tiếp tục đấu tranh, hầu
gìn giữ nền văn minh phong phú của chúng ta. Họ đã chọn nhà lãnh đạo Việt
Nam, thay vì một bọn ngoại quốc xâm lăng và bọn tay sai bản xứ. Vì đã tin
rằng quần chúng phải có quyền tự trị và dân chủ, tư tưởng cách mạng của ông
Rousseau vẫn là ngọn đèn pha của những dân tộc như người Việt Nam chúng ta.
Nicolas
de Condorcet (1743-1794)
Để
kết luận, có lẽ không gì hay bằng những tiên đoán của Marquis de Condorcet
như sau:
"Rồi đến một ngày nào
đó, mặt trời sẽ chỉ soi sáng cho những người tự do, khi họ biết rằng chỉ
lý trí họ mới làm chủ họ, chứ không ai khác. Lúc ấy cũng là lúc ta biết
dùng lý trí để nhận định được những mầm móng đầu tiên của sự đàn áp và mê
tín, hầu diệt ngay trước khi nó dám xuất hiện lại trong chúng ta. Sau cùng,
khi tất cả mọi quốc gia đã đồng lòng về những nguyên tắc chính trị và luân
lý đạo đức, thì tất cả những lý do đã đầu độc sự liên hệ giữa những quốc
gia cũng dần dần biến đi, để rồi chẳng còn gì khuyến khích những
quốc gia đó phải lao đầu vào những cuồng nhiệt của chiến tranh."
Những nhà hiền triết kia cũng
đã chẳng là những kẻ mờ mắt vì mộng mơ. Ông Diderot cũng đã viết: "Ta
hãy rên khóc cho những lý thuyết. Ta diễn giải sự khôn ngoan cho những kẻ
điếc, và còn thấy Thời Đại của Lý Trí quá xa xôi."
Than ôi, sau một Thời Đại Quang
Minh ấy, sức mạnh vô biên của kỹ thuật và khoa học đã vượt quá xa những lý
lẽ khôn ngoan. Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ (La Révolution Industrielle) ở những
nước Tây Phương kia, cũng đã tạo nên những xiềng xích quá sức con người, khiến
Engels, thế kỷ thứ 19, đã phải viết:
"Rất thường xuyên người
ta đã thấy một lũ trẻ từ 14 đến 20 đứa châu đầu lại trong một căn phòng
nhỏ, làm việc suốt 15 tiếng trong 24 tiếng mỗi ngày mà toàn là những công
việc kiệt lực. Những đứa trẻ con từ 9 đến 10 tuổi đã bị kéo ra khỏi những
cái giường bẩn thỉu, từ 2, 3, 4 giờ đêm, bắt phải làm việc cho vừa đủ sống
sót, cho đến 10, 11, hay 12 giờ đêm, tay chân rũ rượi, người héo lại, mặt
nhợt ra, và cả nhân phẩm của chúng nó đã biến thành một trạng thái tê lạnh
như đá, tuyệt đối ghê rợn khi nhìn vào."
Vì thế, khi lòng người đã nổi
trận cuồng phong, vì không còn cách nào khác hơn, thì Karl Marx và Engels
cũng đã phải kết luận Communist Manifesto bằng những dòng cuối cùng như sau:
"Những người Cộng Sản
công bố rằng, những mục đích của chúng ta sẽ chỉ đạt được bằng cách lật
đổ mọi điều kiện xã hội hiện tại. Hãy làm những giai cấp cai trị phải run
sợ trước cuộc cách mạng cộng sản. Giới bần cùng sẽ chẳng mất gì ngoài những
xiềng xích, nhưng sẽ có cả một thế giới đợi ta.
Nhân công trên toàn cầu,
hãy đoàn kết!"
Nếu Karl Marx và Engels đã
sống trong thế kỷ thứ 18, thì hai nhà hiền triết ấy cũng đã chẳng khác gì
những người như John Locke, Montesquieu, Voltaire, Diderot, Rousseau và Condorcet,
vì họ đều đã cùng một lý tưởng tranh đấu cho quyền tự do, và cho nhân loại.
Nhưng vì họ đã sống ở một thời buổi gay gắt hơn, khi giai cấp tư bản tham
lam đã tàn nhẫn hơn, nên sự phản kháng đã phải quyết liệt hơn.
Lời kêu gọi đó của Karl Marx
và Engels đã hoàn toàn hợp lý trong khung cảnh bị đàn áp của nước ta, chứ
chẳng phải những lý thuyết gì xa xăm, vì nó cũng chẳng khác gì những lời kêu
gọi của những nhà hiền triết thời đại Enlightenment. Nó chỉ thêm cường độ
gay gắt hơn, vì hoàn cảnh nghiêm trọng hơn, khi một dân tộc này đã làm chủ
một dân tộc khác và sẵn sàng tàn sát người chống đối.
Nếu mục đích của người ta là
chinh phục được lòng người, thì không gì hay bằng thấu hiểu thiên nhiên của
con người để biết người biết mình. Cũng vì lẽ đó, những nhà hiền triết xưa
đã nghiên cứu về nhân bản, để hiểu người hiểu mình và lập nên cả một Thời
Đại Quang Minh. Nhưng đến thế kỷ sau, khi văn minh Tây Phương phụ bỏ những
hiểu biết sâu xa ấy, thì họ đâm ra ích kỷ, tham lam, quên đi những nhu cầu
căn bản của con người, chà đạp bừa bãi lên tự do của những nước lạc hậu khác.
Họ đã thay thế những hoàng tộc Âu Châu xưa, trong một thế giới họ làm chủ.
Họ đã lộng hành và mặc kệ những hiểu biết căn bản về thiên nhiên con người.
Họ đã đặt tinh thần quốc gia ích kỷ trên tình đồng loại, vì thế, họ đã thất
bại.
Người ta phải biết đặt nặng
tình đồng loại trên tinh thần quốc gia thì thế gian mới có thể đi đến một
tương lai tươi sáng hơn. Nhưng vì những đế quốc vẫn còn hò hét cho quyền lợi
ích kỷ quốc gia họ nên cũng đã đi ngược lại những tư tưởng đại đồng của những
nhà hiền triết đời đó. Và khi họ dám xem dân tộc Việt Nam ta như một hạng
người nòi giống khác, phải hầu hạ cho quyền lợi quốc gia họ, thì lời kêu gọi
của Karl Marx và Engels đã trở nên đồng nghĩa với ý chí bất khuất của chúng
ta. Trong thâm tâm, người Việt Nam ta đã tranh đấu cho những quyền lợi căn
bản của con người, được ghi trong các dòng tư tưởng của một Thời Đại Quang
Minh. Vì những sự tương tự đó, cuộc giải phóng của người Việt Nam chúng ta
cũng đã gợi lại tất cả những hình ảnh oai hùng, nhưng cũng ghê rợn, của cuộc
cách mạng Pháp năm xưa, 1789, vì cuộc cách mạng ấy cũng bắt nguồn từ những
lý tưởng chung của con người. Đó là quyền sống trong tự do, và quyền giữ một
mảnh quê hương tổ tiên để lại.
Nguyễn Văn Hùng
12/2011
Trang Văn Học