Thời Bi Tráng

- tiểu thuyết -

Nguyễn Văn Thịnh

 

CHƯƠNG TÁM

Năm 1969…

Vậy mà đã gần hết một năm đầy căng thẳng. Nhiều tổ chức nội tuyến bị vỡ, nhiều cán bộ bị lộ, người hy sinh, người bị bắt, người mất tích, người phải rút về căn cứ. Thủy Tiên bị bắt do xuất hiện ở một điểm bị theo dõi nhưng cô khôn ngoan không để ai bị liên lụy vì mình. Dù sao mối liên hệ giữa ông giáo với ký giả Tường Minh không còn nữa. Trung tâm mời ông ra căn cứ.

Theo lời dặn của Nhài, ông giáo mặc bộ đồ lớn màu xám, đội mũ phớt cùng màu đi dạy học. Hết giờ giảng, ông đi taxi thẳng tới ngã tư Bảy Hiền. Tay trái ôm cặp, tay phải cầm tờ báo ngoại đi lững thững ra phía cầu Tham Lương. Một chiếc xe nhà binh trờ tới bấm ba tiếng còi pin… pin … pin… Ông giật mình nhận ra anh Chu… và chột dạ thấy có viên sỹ quan Mỹ ngồi sau. Nhưng không thể chần chờ, ông bước tới, như người không quen biết, rút ra tấm danh thiếp, xin quá giang về Tòa thánh Tây Ninh cho kịp giờ. Ông nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình. Ngồi bên viên sỹ quan Mỹ, ông giở tờ báo tiếng Anh News time ra đọc và cùng bình luận vui vẻ. Qua bao nhiêu trạm gác, xe chỉ cần giảm tốc độ để lính và cảnh sát kịp nhận ra hai ngài sỹ quan cấp tá Việt Mỹ vội đứng nghiêm chào rồi xe lại phóng đi vù vù. Tới một ngã ba gần tỉnh lỵ, ông cảm ơn và xin xuống xe… Vẫn tay cặp tay báo, mới đi được dăm thước đường ông đã nghe tiếng gọi:

- Ba!… Ba!

Một chiếc xe Honda dừng sát bên ông. Người phụ nữ mừng rỡ giục:

- Ba ngồi lên con chở về nhà…

Ông chỉ biết thực thi mệnh lệnh thật nhanh. Người ngồi trước đội chiếc nón vải rộng vành sùm sụp, đeo kính mát to, lại choàng thêm chiếc khăn chống nắng bụi che kín mặt và phóng xe băng băng để ông chỉ cảm nhận được cô ta là người tháo vát trẻ trung. Xe đi lòng vòng rồi lọt nhanh vào một con hẻm ngoại ô và dừng lại trong sân sâu của một căn nhà… Có người ra đỡ ông vào… Một ông già phong thái đĩnh đạc, trang phục như một vị chức sắc đạo Cao Đài niềm nở tiếp ông. Còn đang bỡ ngỡ trước sự lạ lẫm này thì cô gái chở ông trên xe hồi nãy bước tới, ông không kìm được cảm xúc nhận ra đó chính là ni cô Diệu Hương. Cô cười chào vui vẻ:

- Bác cứ coi như nhà mình. Chiều sẽ có người tới đón!

Thái độ mọi người trong nhà vui nhưng ý tứ coi như không ai để ý đến việc làm của ai khiến ông cũng phải giữ gìn thận trọng trong từng cử chỉ và lời nói. Cô gái dặn nhỏ ông trước khi ra đi:

- Bác đừng làm lộ mình ra, hạn chế tiếp xúc với người không cần thiết…

Chiều, khi có người tới rước đi, ông được vận vào bộ bà ba đen, khăn rằn, nón lá, chân trần… Khi bước trên những bờ ruộng quanh co, chân ông đau nhói mà phải cắn răng lại chịu đựng cố bước cho kịp người đi trước thoăn thoắt xa xa… Lúc tới bờ sông thì trời vừa tối, có chiếc ghe máy chờ sẵn đưa đi… Sông mênh mông man mác, từng mảng lục bình đen ngòm trùi trũi trôi ngược chiều làm ông rờn rợn… Tới vàm sông, chiếc ghe dừng lại, ông được chuyển sang chiếc ghe tam bản đi vào con kênh nhỏ… Đêm tối mung lung, tiếng mái chèo khua nước nhẹ êm. Ông thấy cảm giác huyền bí vừa lâng lâng vừa hồi hộp. Chiếc ghe lủi vào một bụi cây, có mấy người chờ sẵn kéo ông lên bờ. Một người trai trẻ nói:

- Ráng đi mau qua khu tam giác sắt này… Giặc thì mình chủ động đề phòng được nhưng bom pháo thì không chừng…

Anh ta tháo ra đôi dép râu cao su đưa cho ông, chỉ cách xỏ vào chân và dặn thêm:

- Tụi con lội bộ quen rồi. Lúc nào mệt quá thì bác cứ nói để tụi con chờ.

Cái mệt qua rồi dễ quên nhưng mấy trận bom pháo dội bất tử thì suốt đời không quên được. Ông không phải là người nhát gan nhưng khi tai điếc đặc vì những tiếng nổ quá gần, ngồi rung rinh đưa đẩy đến tức ngực trong trảng xê dưới những lùm cây lè tè trơ trọi hoặc trong một cánh rừng rậm rịt, có lúc ông thầm mong nếu lỡ sao thì được chết ngay không hay biết gì hết, chớ có bị thương. Ông chịu đau không nổi chứ chưa nói tới bao nhiêu điều rối rắm.

Lần đầu tiên gặp người phụ trách cấp cao mà ông từng loáng thoáng nghe được từ chính bộ máy an ninh tình báo của giặc đồn đại ra như một huyền thoại, ông bị hấp dẫn ngay bởi trí thông minh sắc sảo, niềm tin mạnh mẽ, lập luận thuyết phục, thái độ chân tình mà sâu sắc trong từng lời nói. Giọng ông Mười nhỏ nhẹ nghe xa xăm mà đọng mãi trong ông từng lời:

- Vừa qua, bởi nhận thức đây là trận quyết chiến cuối cùng nên ta tập trung hết sức và bộc lộ nhiều nguồn lực quí. Đấy là bài học cay đắng. Tầm nhìn của ta chưa vượt tầm khuôn khổ cuộc chiến tranh giải phóng đơn thuần. Con đường tranh đấu cho một quốc gia độc lập, phát triển không đơn giản được. Trừ khi vạn bất đắc dĩ thôi, những cơ sở tạo được vỏ bọc vững chắc lẽ ra phải biết để dành cho chặng đường tiếp còn dài.  

Cả hai người đều nghĩ tới ký giả Tường Minh nhưng không ai dám nói ra. Thấy vẻ mặt u uất của ông giáo, ông Mười không giữ im mãi được:

- Trong đấu tranh với địch, sai lầm nào cũng phải trả giá bằng sinh mệnh. Nhưng với công việc của chúng ta, dù mất một người cũng không dễ thay thế được. Để thành một tình báo viên tầm cỡ, anh ấy đã phải chịu đựng biết bao nhiêu mới vượt qua được sự miệt thị của đồng đội, đồng bào và sự nghi ngờ thẩm tra nghiệt ngã của đối phương. Nghi mình bị lộ, anh chạy ra ẩn náu ở giáo xứ Long Khánh nghe động tĩnh nhưng bị địch phát hiện ra. CIA ra lệnh ngầm thủ tiêu phi tang chứ không dám công khai bắt bớ vì anh có hai quốc tịch, quen biết rộng và là cộng tác viên uy tín của nhiều hãng truyền thông lớn. Tổn thất của chúng ta không chỉ thế thôi đâu!

Nhìn vẻ mệt mỏi của người phụ trách, người nghe cảm nhận được tổn thất vừa qua lớn qúa. Ông giáo nghẹn ngào:

- Tôi thật không dám nhìn phụ thân anh ấy mặc dù là tình bạn cố cựu rất muốn an ủi chia sẻ với nhau. Ông ấy như người thất thần lúc nào cũng nói thầm thì: Nó đã không đem chôn mình thì thà rằng mình đem chôn nó, dù có đau lòng nhưng đời người ta ai cũng đến ngày phải trở về với đất! Bây giờ không biết nó bỏ xác ở đâu? Ai giết nó? Và biết  thanh minh cho nó thế nào?

Ông Mười không ngần ngại nói ra sự thật trước những người hàng ngày phải đơn phương đối diện với quân thù :

- Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng. Câu triết lý muôn thuở ấy ai cũng nói được nhưng biết thế nào không dễ. Biết người đã khó. Biết mình còn khó hơn nhiều! Đây là cái giá chúng ta phải trả về cách vận dụng thích hợp quan điểm Bạo lực vũ trang và Bạo lực chính trị. Để có cái nhìn thấu triệt vô tư cần có thời gian suy ngẫm. Thực tế chúng ta đang ở thế đối mặt với kẻ thù. Không thể vì những mất mát đau thương mà nản lòng bỏ cuộc.          

- Lúc mới nghe súng nổ lòng tôi như mở cờ. Nhưng với những diễn biến tiếp theo tôi nghĩ ngay đại sự khó thành! – Ông giáo chen ngang.

Ông Mười buồn bã:

- Chính ta chưa biết hết ta nên mới coi thường địch. Mỗi cơ sở đều phóng đại lên thực lực của mình. Thậm chí còn quả quyết rằng phong trào nổi dậy của nhân dân đô thị đang như đồng khô, chỉ cần châm một mồi lửa là bùng cháy lên không gì dập nổi! Cứ như thế thành một dây chuyền tạo nên cái nhìn thiên lệch, làm tiền đề cho những nhận định chủ quan. Tưởng rằng khi tiếng súng Tổng công kích đồng loạt như pháo lệnh nổi lên là hàng triệu dân chúng từ thành thị đến nông thôn ào lên như nước vỡ bờ làm cuộc Tổng khởi nghĩa bất ngờ khiến kẻ địch thất thủ bó tay! Sẽ có hàng ngàn thanh niên thành phố, nông thôn tình nguyện xung phong gia nhập Quân giải phóng. Thực tế là đối phương có bị động về chiến lược nhưng vẫn nắm sức mạnh quân sự trong tay. Trong khi tiềm lực ta chưa đủ mạnh, lực lượng tiến công của ta có hạn lại bị tổn thất nhiều, không đủ sức làm đòn bẩy cho lực lượng tại chỗ chuyển động, thành ra cô lập. Kẻ địch nhân đấy phát hiện ra chỗ hở của ta trong khi chúng chưa mất sức, đã tập trung phản kích có bài bản lớp lang.

Ông nhìn người đối diện, chia sẻ nỗi lo của mình:        

- Sự nghiệp ta mới được nửa chừng mà đã sinh ra tâm lý công thần. Ai cũng sợ mình không hoàn thành nhiệm vụ, theo nhau tạo nên những thành tích ảo. Đấy là dấu hiệu của chứng tiền ung thư mới nhiễm, coi chừng nó phát triển thành khối u độc hại. Trong chiến đấu là những mất mát không tính nổi bằng mạng sống của bao nhiêu đồng đội. Trong xây dựng làm đổ vỡ những mục tiêu quốc kế dân sinh. Ngày giặc Mỹ mới cho máy bay ra đánh phá ngoài miền Bắc, ta có hạ được một số máy bay nhưng thổi phồng lên. Bác Hồ gọi những người có trách nhiệm lên căn dặn: “Ở Hàm Rồng, Mỹ thừa nhận bị mất 5 chiếc máy bay mà các chú bốc lên bắn rơi những 47 chiếc, có sợ nó cười cho không?”. Một chiếc máy bay rơi mà anh nào cầm khẩu súng bắn một phát lên trời cũng nhận là mình có công lao trong đó. Giống như ta đây, chỉ mới gây được một cơ sở nội tuyến, chưa biết chất lượng thế nào mà Binh vận, Trí vận, Thanh vận, Phụ vận, Nghiệp đoàn, Nông hội… ai cũng đưa vào báo cáo, nên một thành mười. Thậm chí những anh bể bạc, tình nguyện xin về nhà làm nội tuyến, coi như xin phép chiêu hồi công khai mà ta cũng vơ vào, báo cáo là cơ sở nằm vùng, coi như là ruột của mình rồi. Đến khi khởi sự, anh nọ nhìn anh kia, thấy chắc ăn mới xáp vô, còn lửng lơ thì lỉnh! Ham thành tích đưa tới dối trá, luôn là điều xa lạ với những người cách mạng!

Ông dừng lại suy ngẫm rồi giọng ông nhỏ và chậm lại như nhớ về một điều gì:

- Chỉ khi nào mỗi người cách mạng gắn bó chặt chẽ với nhân dân vì sự nghiệp chung thì ta sẽ có những chủ trương sáng suốt. Như hồi sau khi Diệm đổ, cách mạng có những bước tiến dài tưởng như thắng lợi đã nằm trong tay, có người xin với Trung ương cho đồng thời tiến hành cải cách ruộng đất như hồi ta đang đánh lớn ở Điện Biên Phủ. May là cán bộ ta rất sát phong trào, hiểu rõ thực tiễn, nhận ra rằng ở nông thôn miền Nam thực chất địa chủ không còn thế lực gì nữa, trái lại thành phần trung nông trong đó không ít là trung nông lớp trên đang là động lực quan trọng của cách mạng. Đó là từ lòng dân nảy ra ý Đảng. Nhờ có những cán bộ trung thành và trung thực như thế mà ta đã đẩy lên được phong trào toàn dân đoàn kết đánh Mỹ làm phá sản chiến lược chiến tranh đặc biệt, buộc Mỹ phải trực tiếp nhảy vào chuyển thành cuộc chiến tranh cục bộ. Ta có khó khăn hơn nhưng đó là thế cùng của Mỹ. Thắng không kiêu, bại không nản, phải nhìn toàn cục mới thấy rõ thắng lợi của ta. Trên bước đường đi lên, cách mạng Việt Nam không chỉ một lần vấp ngã.

Nét mặt tươi lên, ông đọc to mấy câu thơ Tố Hữu:

          Một lần ngã là một lần bớt dại

          Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần!        

Ông giáo dè dặt:

- Tóm lại Tổng công kích thì có nhưng Tổng khởi nghĩa thì chưa! Quần chúng chỉ có thể nổi dậy khi lực lượng ta áp đảo, quân địch không còn chỗ bấu víu, tinh thần tan rã. Không thể có sự trùng lặp lịch sử như Cách mạng tháng Tám thành công chớp nhoáng trên cả nước, cũng như cuộc đồng khởi Bến Tre chỉ ở mức độ phá thế kìm kẹp ở vùng nông thôn hẻo lánh mà thôi. Thế địch, thế ta mỗi thời mỗi nơi một khác. Cả hai thời điểm ấy tôi đều may mắn được là chứng nhân.

- Đúng là ta chưa hội đủ các yếu tố tạo nên cơ hội ấy! Giá như xác định đây chỉ là cuộc tập kích chiến lược bất ngờ làm cho kẻ địch hoang mang, bị động, không biết thực lực của ta, không thể có kế sách ứng phó hữu hiệu. Từ đó ta tùy tình thế phát huy thắng lợi, sẽ luôn giữ được thế vừa chủ động tiến công vừa chủ động đối phó với kẻ địch sau khi bị một đòn đau, ta sẽ không sớm bị hụt hơi mất sức! Nhưng thôi, những lời nói sau bao giờ cũng hay. Hãy bàn chuyện ta bây giờ phải làm gì? 

Ông giáo còn khắc khoải trong nỗi đau mất mát nói thẳng ra khúc mắc của mình :      

- Lẽ ra không nên có những đợt hai, đợt ba trong khi kẻ địch đã củng cố lực lượng, không bị bất ngờ nữa, biết rõ về ta và chủ động quay sang phản kích.

Ông nhớ tới ông Năm Tấn, mắt rơm rớm nước:

- Kẻ địch phải khâm phục chiến sỹ giải phóng ta như những con sư tử. Hơn nữa, họ là thánh tử! Tuy nhiên trong rừng không chỉ có chúa sơn lâm. Chưa bao giờ số chiêu hồi nhiều như lúc này. Có chỗ chiêu hồi tập thể. Không phải chỉ là những kẻ yếu bóng vía chưa qua thử thách hoặc phạm kỷ luật. Thậm chí không ít người là phụ trách, chỉ huy từng trải, bây giờ ngao ngán. Họ tỏ ra bi quan và không tin vào khả năng hồi phục.

Ông Mười trầm ngâm:

- Đánh bất ngờ mới làm cho kẻ địch giật mình hốt hoảng hoang mang là đủ. Rồi ta vẫn tiếp đánh bồi, đánh nhồi, đánh liên tục cho một mùa xuân đại thắng nên mới ra cơ sự! Cả một chặng đường dài tranh đấu bao khúc chông gai. Nói không có lúc bi quan là không thật bụng. Vấn đề là phải tỉnh táo nhìn nhận cho ra sự việc. Kẻ địch phóng đại lên chiến tích là để lên giây cót tinh thần cho chúng. Mc Namara – Bộ óc điện tử của nước Mỹ hiện đại, kiến trúc sư chủ chốt của cuộc chiến tranh cục bộ đã thốt lên rằng: “Chúng ta không thể đạt được thắng lợi ở Việt Nam bằng biện pháp quân sự nào. Vì thế chúng ta phải tìm một mục tiêu chính trị nhỏ bé hơn thông qua đàm phán!”. Tính đến thời điểm ấy, số thương vong của quân Mỹ tại Việt Nam gần tròn 140 ngàn, vượt hơn nửa chục ngàn trong chiến tranh ở Triều tiên! Đau nhất là ta mất đồng thời nhiều cán bộ và lực lượng nòng cốt từng qua nhiều thử thách, gây dựng lại không dễ chút nào. Quần chúng mất chỗ dựa tinh thần, nhiều cơ sở gian nan lắm. Tuy nhiên mất mát lớn chưa hẳn là sự nghiệp bất thành. Từ thế chủ động lùng và diệt, quân Mỹ phải co về phòng ngự. Tưởng Khe Sanh bẫy được đối phương mà chính mình mắc bẫy, Mỹ buộc phải  đưa quân về trấn an thành thị! Chiến tranh đang vào lúc leo thang cao điểm gay go nhất mà kẻ địch phải nghĩ tới việc phi Mỹ hóa, nghĩa là đẩy trách nhiệm thành bại của cuộc chiến cho kẻ khác! Ý đồ tăng thêm hai mươi vạn viện binh cho hơn nửa triệu quân đang bế tắc ở chiến trường bị bãi bỏ! Đương kim Tổng Thống Mỹ không thể đại diện cho Đảng Dân chủ của mình đang cầm quyền ra ứng cử nhiệm kỳ kế tiếp! Lực lượng địa phương của ta tuy bị tổn thất lớn nhưng vẫn nhận được sự chi viện toàn diện của hậu phương mà kẻ địch không làm gì được. Đó là thất bại nặng nề của địch không giấu nổi ai. 

Ông giáo rất khâm phục người cán bộ lãnh đạo tình báo dày dạn này từng thắng địch trong thế chủ động tiến công cũng như trong thế bị động giữa ngục tù. Ông chia sẻ với nhà cách mạng: 

- Coi như ta được quả thắng lớn trong một trận thua đau! – Miệng ông cười méo mó.

Ông Mười vỗ mạnh lên vai người trí thức yêu nước thân tình như bạn, cười thật lớn – một cử chỉ ít thấy ở ông :

- Trong chiến đấu, có chút lãng mạn cũng không phải là thừa… Đó là nghịch lý nhưng lại là sự thật!

Ông xướng lên mấy câu thơ hùng khí:

 Ai dám bảo ta là chiến bại

Khi kẻ thù nhìn ta sợ hãi ?

Ai dám bảo ta là xác chết

Khi chiến công ta vang dội lẫy lừng?

Ta dù hy sinh sẽ thành bất tử

Khi Tổ quốc ta về lại một nhà!

Đấy là niềm tin tất thắng của những người yêu nước trong nhà tù Mỹ-ngụy khi mà trước mắt họ chỉ một màu tăm tối. Cái chết sẽ đến sau một trận đòn khảo cung tàn bạo hoặc là một âm mưu thủ tiêu độc ác.

Giọng ông Mười quả quyết:

- Thắng hay bại là tùy theo cách nhìn, cách nghĩ của mỗi người. Thắng lợi lớn nhất của ta là đã đánh sụp ý chí chiến thắng của đội quân viễn chinh Mỹ ngay tại chiến trường, tác động trực tiếp làm lung lay niềm tin của nhân dân Mỹ. Nó đã thuyết phục nhiều người Mỹ đòi phải tìm cách kết thúc ngay cuộc chiến tranh. Ngày càng đông công chúng Mỹ không ủng hộ cuộc chiến không lối thoát này. Một phần ba số nghị sỹ Hạ nghị viện đã thông qua nghị quyết yêu cầu Quốc hội xem xét lại chính sách chiến tranh của chính phủ Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Ngay cả số Diều hâu trong chính giới Mỹ cũng nhận ra rằng nước Mỹ cần sớm thoát ra khỏi cuộc chiến vì không thể có chiến thắng ở đây. Thực tế là ta vẫn hiên ngang tồn tại, trưởng thành hơn, tư thế hơn trước mặt kẻ thù. Thế của cuộc chiến đã thay đổi có lợi cho ta, tất nhiên lực của ta sẽ mau chóng phục hồi và lớn mạnh. 

Chắc lúc này ông nghĩ tới sau những trận đòn thù thập tử nhất sinh mà người tù thân thể nát nhừ vẫn giữ vững tinh thần bất khuất bò lê về ngục thất trong khi kẻ thù mệt nhoài nhìn theo khuất phục:

- Chẳng lẽ ta đang thảm bại mà Johnson lại tự đi bước trướcđơn phương xuống thang và sẵn sàng cử đại diện đi tới bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào để thương lượng về một giải pháp chấm dứt cuộc xung đột? Hội nghị hai bên đang họp. Sẽ có hội nghị bốn bên. Uy tín của Mặt trận dân tộc giải phóng càng vững chắc. Lòng yêu nước của nhân dân ta không vì thế mà bị nhấn chìm. Trái lại nó trỗi dậy với một sức sống mới. Không ai ngờ nhiều bậc nhân sỹ trí thức tên tuổi như luật sư Trịnh Đình Thảo, kỹ sư Lâm Văn Tết, giáo sư Lê Văn Giáp… là những người quốc gia thuần túy, tưởng như thờ ơ với thời cuộc mà lại ra chiến khu thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam, bàn chuyện xây dựng một miền Nam Việt Nam hòa bình, trung lập, hòa hợp và hòa giải dân tộc. Đấy là tiền đề cho những thắng lợi tiếp theo.

Ông giáo nhìn xa xăm :

- Phi Mỹ hóa có nghĩa là tái diễn cái chiêu bài dùng người Việt đánh người Việt của kẻ xâm lược khi nhận ra mình bất lực! Tuy nhiên anh em con cháu Lạc Hồng nhà ta lại quần nhau phen nữa! – Ông thở dài: Nhưng lần này sẽ quyết liệt hơn nhiều! Anh có biết không, con cháu nhà tôi (ông nghĩ tới bé Bích Liên), học Tú Tài rồi mà nó ghé tai tôi thù thì ngơ ngác hỏi: Bác ơi! Việt cộng có đuôi hà? Giết người ta ghê lắm hà? trong khi cha nó là cộng sản! Hẳn là bạn bè con cháu của tôi ở ngoài kia cũng luôn nghĩ chúng tôi toàn là tay sai đế quốc, quên cả đất nước, tổ tiên, chỉ ham bơ sữa, dâng vợ hiến con, bưng bợ người ta! Chà! Tôi hình dung ra cái ngày giang sơn ta quy về một mối mà vợ chồng, anh em, con cháu ngơ ngáo nhìn nhau: hận thù, trách oán, nghi hoặc, giận hờn…  Đến bao giờ mới thở chung một nhịp?!

Ông Mười muốn xua tan nỗi buồn cho bạn :

- Anh Ba Nghóa (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) có lần tâm sự: “Người ta ai cũng có một gia đình để yêu thương, một quê hương để luyến nhớ, một tổ quốc để phụng thờ, một dân tộc để phục vụ và một niềm tin hướng thiện. Người trí thức càng thấm sâu hơn điều ấy!”. Đó cũng là tâm tư của những người trí thức Việt Nam tâm huyết. Mỗi thế hệ có đủ thời gian hoàn thành sứ mạng của mình là qúi hóa lắm rồi.

Ông thân tình vịn vai người đồng đội:

- Cuộc chạy đường dài, mỗi lần vấp ngã ta lại nhìn ra điều sơ xuất. Như người trèo núi, càng  gần tới đỉnh càng thấm mệt. Lúc rã rời đôi chân là tới đích. Cứ ráng hết sức mình đi! Không sợ hết người kế tục đâu. Những người như cháu Thủy Tiên là nguồn tiếp sức vô tận bởi sự nghiệp ta là chính nghĩa. Lẽ phải vốn có sức hút tự nhiên như trái táo Newtonấy!

Ông nói chậm lại nhấn vào từng ý:

- Cùng một lúc ta càng phải mở rộng cả hai mặt trận: trong nước và quốc tế. Mà trong nước là quan trọng. Tuy nhiên mặt trận quân sự vẫn là chủ yếu. Mỗi ngành, mỗi người phải gắng hết sức lo tròn phận sự của mình dù khó khăn đến mấy

Ông kéo bạn sát vào mình:

- Vai trò của anh lúc này càng quan trọng. Mỹ đã rút bài học từ Diệm, sẽ không thay ngựa giữa dòng. Nhưng phải tạo sức ép bắt Thiệu ngồi vào bàn hội nghị, đành rằng mọi chuyện đều quyết định ở chiến trường. Đồng thời xây dựng lực lượng thứ ba, chuẩn bị đáp ứng trong tình thế mới và tìm hiểu kế hoạch hậu chiến khi Mỹ rút quân. Tuy nhiên cần cảnh giác và tạo vỏ bọc cho chắc. Anh làm việc đơn tuyến. Trung tâm sẽ liên lạc với anh qua một đường dây mới.

Đêm trươc khi chia tay tại khu căn cứ, trên hai cánh võng sóng đôi trong căn hầm âm sâu dưới đất, bên ánh sáng hiu hắt của ngọn đèn dầu tự tạo, ông Mười nói vui với bạn:

- Cuộc chiến tranh này ví như trận đấu bóng đá đặc biệt giữa hai đối thủ không cùng đẳng cấp lại không có trọng tài. Một bên đá chân giầy siêu hạng với những hảo thủ nhà nghề, nhưng đòi hỏi phải có đầy đủ những yếu tố tốt như sân bãi và đãi ngộ trong khi các fan thì chia rẽ thờ ơ! Một bên đá chân đất với những cầu thủ yêu nghề tự luyện, chẳng đòi hỏi gì, lại được đá trên sân nhà với những fan máu lửa sẵn sàng lao vào thế chân khi có cầu thủ bị trọng thương! Địa hình đặc biệt của ta và lòng dân ta là sân bãi tuyệt vời mà đối phương luôn bị động lúng túng như gà mắc tóc. Họ không phát huy được sở trường là kỹ thuật và tốc độ, không thể đưa bóng vào vòng cấm địa và chỉ có thể sút bóng từ xa, tuy có hiểm nhưng ta biết miếng của họ rồi, banh khó mà lọt lưới. Bị mất sức lại nản lòng mà không biết kềm khóa chân ai. Lừa lúc họ lơ là cảnh giác ta chớp nhoáng phản công làm cho khung thành đối phương đôi phen xính vính. Tương quan hai bên như thế, chỉ cần trận đấu hòa không tỷ số đã là đại thắng lợi của ta và bẽ bàng cho họ. Phải thế không nào?

Ông giáo thích thú cười vang trong hầm tâm đắc mãi với cách ví von dí dỏm sinh động ấy.

Trở về thành phố, nhớ lại những ngày qua, ông thấy như người được tiếp sức khi trong mình qúa là mệt mỏi. Được gặp lại một số bạn bè, người quen trong thành phố mới ra căn cứ tham gia vào Mặt trận liên minh, có cả ông bạn từ ngày còn ở Hà thành rồi cùng theo dòng thời cuộc đưa đẩy vào đây, dạy Pháp ngữ trường tây lâu năm nổi tiếng và từng làm Chủ tịch Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc mà vì công việc ông không thể đứng chung nhưng vẫn lặng thầm đi bên họ. Nhiều sự thật bất ngờ cho ông thấy việc làm của mình không lẻ loi đơn độc. Người có lòng với nước còn tiềm ẩn rất nhiều, người nọ bên người kia, lớp sau tiếp lớp trước không bao giờ hết được. Tuy nhiên trước mạng lưới an ninh giăng giăng dày đặc và lực lượng quân sự của giặc phô trương hùng hổ, ông giáo nghĩ thầm: Người ở trong rừng sâu âm u mà có cái nhìn thật sáng để có một niềm tin vững chắc trong khi người ở chốn đô thành không thiếu gì ánh sáng vaø ñuû caùc nguoàn tin mà chỉ thấy tối tăm dao động… Dù sao thì con đường tới ngày đó còn dài và gian truân lắm. Nếu chẳng may mình có làm sao thì cũng mong như được lãnh trọn một trái pháo đại giữa chiến trường sẽ không ân hận hoặc lo lắng gì… 

  ô

Những ngày đầu tháng Chín, cả Sài Gòn xôn xao về tin Cụ Hồ qua đời. Báo nào cũng đưa lên trang nhất với dòng tít đậm. Có báo in kèm hình khổ lớn.

Trường Trung học tư thục Cổ Loa, trong ngày lễ khai giảng niên khóa mới, hàng trăm học sinh đứng thành từng khối lớp. Các thầy, cô giáo trang phục chỉnh tề. Ông hiệu trưởng mặc bộ đồ lớn với cà vạt sậm màu. Ông nói vài lời mở đầu, giọng nhỏ đều đều, nghe buồn ruột. Lời kết thúc của thầy hụt hẫng như cố nén lại một điều gì không thể nói ra. Mọi người ngầm hiểu cứ đứng lặng, nghển cổ lên chờ đợi. Giáo sư dạy Sử cũng là ngài nghị sỹ Hạ nghị viện Phan An Phú trong bộ đồ lớn trắng, cà vạt đen, trịnh trọng bước lên. Ông hiệu trưởng lùi lại phía sau nhường cho người đồng nghiệp khả kính đứng trước loa phóng thanh. Ông giáo Phú dỡ chiếc nón nỉ trắng xuống, hai tay nâng ra phía trước cùng chiếc cặp táp đen. Giọng ông trầm, đều và đĩnh đạc:

- Qua các phương tiện thông tin, qúy đồng nghiệp và các anh chị học sinh đều biết: Cụ Hồ Chí Minh đã qua đời vào sáng ngày 2 tháng 9 tại Hà Nội, trùng với ngày mà 24 năm trước đây, tại quảng trường Ba Đình, Cụ đã dõng dạc đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam mới, đồng thời chấm dứt hàng trăm năm nô lệ tây phương và hàng ngàn năm cai trị của nền quân chủ. Đồng bào cả nước hô vang lời thề hưởng ứng. Nước mất thì nhà tan, đó là điều hiển nhiên mọi thế hệ người Việt Nam đều thấm thía theo dòng lịch sử. Còn sung sướng nào hơn khi được hô to lên hai tiếng Việt Nam giữa trời đất bao la như con được nhìn lại Mẹ!

Ông buông chiếc cặp xuống cùng lúc ông Hiệu trưởng biết ý bạn tay nâng chiếc cặp lên, tay đỡ giùm chiếc nón. Hai tay không bị ràng buộc, ông nghị diễn đạt theo lời nói:

- Cho dù có nhiều chính kiến khác nhau nhưng những người Việt Nam yêu nước đều không quên giờ phút thiêng liêng đó. Năm tháng qua đi, lớp người trẻ lớn lên mù mờ về lịch sử, lớp người lớn bởi những dị đồng chính kiến phủ lên, một lúc nào có thể lãng quên một sự thật lịch sử được viết bằng máu của bao nhiêu thế hệ hàng trăm năm nối tiếp nhau đứng lên đòi độc lập tự do! Cụ Hồ Chí Minh mãi mãi là tấm gương yêu nước chói sáng mà người Việt Nam công chính không thể nào quên. Cũng có kẻ vấy bùn lên Cụ nhưng làm như thế khác nào nhổ nước bọt lên trời! Suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc ta, những danh nhân, anh hùng dân tộc được sùng kính, lưu truyền, thờ phụng như những bậc thánh linh thiêng, đều rạng rỡ công lao dựng nước và giữ nước. Không thiếu gì những người tài ba mà sự nghiệp của họ chỉ nhằm kiếm cho riêng mình quyền lực, công danh, phú qúy… không gắn với sự tồn vong của dân tộc, đều sớm bị lãng quên đi trong dòng đời vô tận. Bởi thế, lương tâm cho phép chúng ta được dành những giây phút thành kính tưởng niệm một nhà yêu nước lớn suốt đời quên mình, tận tụy đấu tranh vì sự trường tồn của tổ quốc Việt Nam.

Đưa hai tay lên ôm trước ngực, giọng ông xúc động:

- Cho dù thế sự ra sao thì Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ xum họp một nhà! – Ông buột ra một ý trong Di chúc của Bác Hồ vừa là lời động viên vừa là niềm tin với ông trong lúc bi quan tưởng như suy xụp.

Và ông cứ lặng lẽ đứng yên trong tư thế ấy. Cảm giác một bầu không khí linh thiêng trùng lắng ở đây. Nhiều người lớn tuổi hồi nhớ những ngày tháng hào hùng mà trong lòng nuối tiếc. Những người trẻ tuổi như được gợi mở không thể mơ hồ về qúa khứ của tổ quốc mình. Có số ít người dửng dưng nhưng không dám lộ ra sự trái ngược lẻ loi trước đông người. Một học sinh lớp Tú tài mạnh dạn giơ tay xin hỏi:

- Thưa giáo sư! Người ta nói Cụ Hồ mất đi là sụp đổ biểu tượng của cuộc đấu tranh cho độc lập, thống nhất và những người ở phía bên kia như rắn mất đầu. Vậy họ còn có thể đứng vững được nữa không?      

Đó là câu hỏi thật lòng của người có thiện tâm tỏ ra lo lắng đến vận nước, hay là cố ý khiêu khích thăm dò? Ông giáo Phú bình tĩnh, trả lời thận trọng :

- Tôi không phải là người ở phía bên kia để biết được tinh thần họ sẽ thế nào. Tôi suy nghĩ theo logic của người dạy sử: Trong dòng lịch sử Việt Nam, lúc nào có giặc ngoại xâm, quốc gia vong biến thì lúc ấy dân ta lại biết xóa bỏ mọi tị hiềm, cùng nhau đứng dậy, quyết chiến đấu giữ gìn non sông đất nước. Trong mỗi cuộc kháng chiến, người đứng đầu tiêu biểu là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chính nghĩa nào cũng thu hút được nhiều hiền tài, dũng tướng mới có thể làm nên chiến thắng. Tên tuổi họ đã được tạc vào bảng vàng bia đá, lưu danh thiên cổ. Như cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, không chỉ có các vua Trần anh minh, mà còn có các triều thần trung dũng như Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão… Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, không chỉ có một Lê Lợi anh tài, mà còn có những văn quan võ tướng như Lê Lai, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Đinh Lễ, Nguyễn Xí… Người nào cũng đức trọng, tài cao, đồng tâm hiệp lực, có khả năng tiếp tục sự nghiệp của người đi trước. Giặc càng hung hãn, tàn bạo thì ý chí phản kháng càng mãnh liệt. Nhân dân càng tỉnh táo sáng suốt nhận ra những kẻ ích kỷ dã tâm, coi thường vận mệnh quốc gia và đặt trọn niềm tin vào những người một lòng trung quân ái quốc. Vì thế mà đến hôm nay, Việt Nam vẫn còn là một quốc gia trên bản đồ thế giới! Phải chăng đó là truyền thống yêu nước qúy báu của nhân dân ta được hun đúc từ mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước cực kỳ gian khổ mà oanh liệt? Dòng máu đó vẫn còn nóng trong tim của mỗi người dân Việt! – Ông khoát rộng tay chỉ khắp mọi người đang đứng ở đây.

Ông vừa dứt lời, cả khối người dậy lên những tràng vỗ tay, những tiếng reo vui, những bộ mặt ưu tư buồn ràu tươi lại như vực dậy một niềm tin, như được thổi lên niềm dũng khí.

Ngay hôm sau, mấy nhân viên Nha Cảnh sát đô thành tới trường. Trước đông đủ thầy và trò, tên cầm đầu nhìn ông hiệu trưởng răn đe:

- Chúng tôi nghe nói trường này công khai tổ chức truy điệu lãnh tụ cộng sản và đòi thống nhất?

Ông hiệu trưởng trả lời từ tốn:

- Chúng tôi tập trung toàn trường nhân ngày khai giảng năm học mới!

Ông giáo Phú hỏi lại:

- Ông cảnh sát cho biết những lời tôi nói có gì sai không?

Viên cảnh sát lúng túng, trả lời ấp úng :

- Không sai! Nhưng có hại cho quốc gia, lợi cho cộng sản.

Ông giáo hỏi dồn:

- Chẳng lẽ quốc gia không muốn nhà trường dạy học trò lòng yêu nước? Không muốn họ hàng bà con anh em Nam Bắc đoàn tụ một nhà? Vậy các ông hô hào mọi người cầm súng để làm gì? vì yêu cái gì? Hay là các ông muốn nhà trường dạy học trò rằng nước Việt Nam không là một giải đất liền hình chữ S mà là hai cái dấu hỏi ngược xuôi đứt đoạn?

Đuối lý, y quay ra dọa học trò:

- Ai đã đưa ra câu hỏi cắc cớ cho ông thầy có dịp tuyên truyền?

Anh học sinh hôm qua tiến lên, nói lớn:             

- Ông không nghe trên đài phát thanh, mấy ông tâm lý chiến ngày đêm nói xa xả như vậy sao? Ông thầy còn nợ chưa trả lời rõ ra cho tui câu hỏi đó!

Viên cảnh sát nổi khùng, chỉ mặt anh học sinh, mắng văng nước miếng ra:

- Tú tài chi mà ngu! Chẳng lẽ ổng nói hoạch toẹt ra sao?

Y đùng đùng xăm xăm bước thẳng ra cổng kéo đám bộ hạ nhớn nhác theo sau và nhảy tót lên xe phóng vù đi trước những tiếng cười, tiếng huýt gió của hàng trăm học sinh, trong khi các thầy cô giáo nở dạ đứng nhìn đám học trò phấn kích.

Trong phòng làm việc, ông hiệu trưởng trầm ngâm tâm sự với bạn:                             

- Tôi nhớ lại hồi đầu đánh Pháp, Cụ Hồ kêu gọi: Toàn dân kháng chiến – Toàn diện kháng chiến. Bây giờ mới hiểu ra. Cụ đúng là bậc thánh!

Từ ngày người con trai trưởng của ông là ký giả Tường Minh mất tích, ông già sọm đi nhanh chóng, mái đầu bạc phơ, hay đăm chiêu tư lự và dường như ông không còn biết sợ mỗi khi cần bộc lộ rõ chính kiến của mình, đến mức ông giáo Phú cũng phải ngạc nhiên, e dè, khéo léo nhắc ông cần phải giữ mình.  

Suốt đêm, trong một căn chòi gần mí kênh giữa đồng trống trải, mấy cán bộ lắng nghe và góp ý xây dựng phương án tác chiến cho hai nữ chiến sỹ biệt động thành. Ông Tư, người chỉ huy lão luyện trong số hiếm hoi mấy người còn lại qua những năm trực tiếp chiến đấu ở nội đô, rủ rỉ:

- Phải giao cho các đồng chí công việc này là thế vạn bất đắc dĩ rồi. Những cán bộ gạo cội phần lớn hy sinh hoặc đang nằm trong các nhà tù của giặc. Nhiều cơ sở bị bể bạc chưa xây dựng lại được. Khắp các nẻo đường vào thành phố, đầy rẫy bọn mật vụ chỉ điểm và chiêu hồi đón lõng. Lâu nay chúng ta chưa có được những trận đánh gây chấn động lớn như mấy năm trước. Bộ tư lệnh Thành quyết định thành lập đơn vị Biệt động nữ. Các đồng chí có lợi điểm là dễ qua mắt địch. Từ sau Mậu Thân, nó chủ quan nghĩ rằng ta bị hốt gọn ổ rồi. Từ ngày Bác mất, bọn chúng càng hý hửng nghĩ ta xuôi lòng nản chí đuối sức lắm. Lúc này quân Mỹ kéo vô đông tới 550 ngàn tên và xem xém 100 ngàn quân đồng minh nữa bao gồm 50 ngàn lính Đại Hàn, 10 ngàn lính Thái, nửa chục ngàn lính Úc… Phải hành động như lời cảnh cáo cho chúng biết Sài Gòn không phải là chỗ dung thân cho bất kỳ tên lính ngoại bang nào. Bác tuy không còn nhưng sự nghiệp của Bác vẫn được thế hệ con cháu tiếp tục cho đến ngày tổ quốc ta sạch bóng quân xâm lược, hoàn toàn thống nhất và độc lập. Hai đồng chí là những người khởi sự, làm sao để đầu đi đuôi lọt.

Tám A nói gọn hơ:

- Có chi mà không làm được? Quy luật đi lại của bọn sỹ quan đồng minh ở đó, chị Út điều nghiên cả tháng nay rồi. Đường đi nước bước hai chị em tính toán kỹ lắm. Thao tác kỹ thuật em nắm chắc rồi. Cục bánh dành cho bọn nó, em đảm bảo đưa về nơi tập kết an toàn. Nhưng chất lượng bánh ngon hay dở  là thuộc về anh đó! – Cô chỉ vào anh cán bộ tác chiến ngồi bên ông Tư.

Ông Tư cười, vỗ vai người đồng đội trẻ:

- Em yên tâm đi. Anh đã kiểm tra rồi. Nó mà tịt ngòi thì anh… thiến luôn!

Hai cô gái bụm miệng không dám cười thành tiếng. Tám A nhìn người chỉ huy:

- Chú Tư ác qúa trời!

Út Ngoan đăm chiêu, đắn đo từng lời :

- Nhưng cái khó là phương tiện đi lại. Nhà cơ sở của mình nghèo, cái xe để người ta đi làm ăn hàng ngày. Mình mượn, một là lỡ sao thì bà con mang họa, hai là mất xe thì họ làm sao sống?

Ông Tư cắn răng, lắc đầu:

- Người thiếu, tiền yếu mà vẫn phải làm! Trên Khu cấp kinh phí dè sẻn lắm. Mình làm chưa ra trò gì, chưa dám mạnh miệng xin. Chẳng lẽ đành bó tay sao?

Ông rút tuột ra chiếc nhẫn đeo ở ngón áp út tay trái và lần mò móc khắp các túi, lôi ra được mớ tiền, đưa hết ra:

- Các đồng chí tạm cầm đi. Thiếu thì vận động bà con!

Út Ngoan suy nghĩ , trao lại cho người chỉ huy:

- Anh Tư để dùng vào việc khác đi. Em có của riêng một ít. Thiếu xin thêm cô bác anh chị, chắc được! – Trong đầu cô nghĩ tới bác giáo, chị Nhài.

Ông Tư một lúc nắm chặt cả hai bàn tay của hai chiến sỹ. Út Ngoan từng là ni cô, làm giao liên thành, mới được chuyển sang. Ông không biết nhiều về đời tư của cô nhưng biết rằng bên Thành chịu bàn giao sang cho ông bởi cần người cốt cán xây dựng lực lượng chớ không là chuyện dễ dàng đâu. Nhưng Tám A là lính của ông từ lâu rồi. Cô tên là Nguyễn thị Rí, con gái Gò Vấp, Gia Định. Gia đình là cơ sở ở Hạnh Thông Tây. Lúc ấy cô còn hồn nhiên vô tư lắm. Ông nhờ việc gì cũng làm dù biết là nguy hiểm. Thấy con bé nhanh nhẹn tháo vát, được việc mà kín đáo, ông nói với tía má cô cho con gái đi theo cách mạng. Cũng không mấy khó khăn gì. Mọi chuyện với nó đều đơn giản lắm. Đơn vị chuyển lên căn cứ Củ Chi, chỉ ít lâu mà anh xã đội đã nẫng tay trên trong khi ông có ý làm mai cho mấy thằng trong đơn vị. Vậy mà nó qua được mắt ông! Con bé nhìn ông:

- Chú Tư ơi! Lấy nhau cùng đơn vị mắc cỡ thấy mồ. Mỗi lần vợ chồng người ta gặp nhau, anh nào cũng nhìn hằm hằm dò xét như biết hết mọi chuyện rồi! Mới lại lấy biệt động thành dễ ở góa lắm! – Nó cười hí hí như trêu trọc.        

Thế mà nó lại sớm thành góa phụ khi mới mang bầu mấy tháng. Nó phải ở tuyến sau. Sanh con, chưa tròn thôi nôi, trong lòng nặng mối thù nhà nợ nước, nó nhất quyết gởi đứa nhỏ về cho ngoại để đi làm nhiệm vụ.

Vẻ mặt trang nghiêm và xúc động, người chỉ huy từng trải vừa nói được mấy câu:

- Đây là lần khai trận đầu của đơn vị mới…

Tám A nhanh nhảu kéo Út Ngoan đứng lên và nói:

- Chúng cháu biết chú Tư định nói gì rồi. Chú cứ yên tâm. Không xong việc không đứa nào về gặp chú Tư đâu!

Hai người te tái bước ra khỏi nhà, líu ríu chạy ra bờ con rạch nhỏ dìu nhau lịch kịch xuống ghe vừa cười rúc rích.

Người mũi người lái, chiếc ghe tam bản hướng ngược ra kinh sáng. Ông Tư đứng vịn vào thân cây trâm bầu nhìn theo mãi. Vừa ra kênh lớn thì một chiếc bồ nóc như con chuồn chuồn lượn vòng quanh cuốn sát trên đầu làm nước sông bắn lên tung toé. Hai cô gái quê mặc áo bà ba trắng, dỡ nón ra, tay giơ cao tấm thẻ căn cước rồng xanh lên. Thằng lính Mỹ đen tay lăm lăm khẩu AR15, nhe bộ răng trắng ởn như răng chó luộc, há hốc cái mồm đen ngòm ra không biết nó nói gì. Tám A giơ cái giỏ có chứa khối thuốc nổ lên, vỗ vỗ để nó hết nghi ngờ. Út Ngoan giơ nón lên vẫy vẫy. Nó đưa tay ra khua khua như hài lòng lắm. Chiếc trực thăng bay vọt lên khỏi rặng cây triền sông, hướng vô đồng. Tám A vừa giật máy koler vừa chửi đổng :

- Tổ cha tụi bay! Kiểm tra chi sớm vậy? Đừng ỷ mạnh, có ngày banh xác!

Chiếc ghe gắn máy chạy ro ro như người trong đồng ra chợ sớm ngoài lộ Bốn. 

Ni cô Diệu Hương trong bộ đồ thường, mớ tóc giả dưới chiếc nón rộng vành ghé vào cửa hàng vải của chị Nhài, như bạn hàng quen:

- Chiều nay em ghé nhà lấy hàng có được không?

Nhài cười đon đả, đưa ra xấp vải mẫu , nói to lên:

- Được chứ. Hàng này còn ít, để dành cho mối quen thôi!

Cô khách hàng nhận mớ vải, tươi cười cảm ơn. Đó là ám hiệu báo yên.

Nhài sắp xếp công việc trở về nhà sớm, trực sẵn ở cửa chờ đón khách. Nhài mừng lắm, đưa Diệu Hương lên thẳng phòng mình. Cả nhà về sau đều không ai biết. Chị em không ngủ, tâm sự suốt đêm:

- Lâu không biết tin gì của em, chị lo qúa! Bé Thủy Tiên bị đày ra Côn đảo. Nghe đài, xem TiVi thấy bên nó mạnh qúa trời. Chị cứ nghĩ dại chẳng lẽ đằng mình hết người rồi sao? 

- Chị xem như trước tết Mậu Thân, chúng nó hùng hổ lắm. Vậy mà ào một trận như gió lốc, thầy trò chúng nó xính vính cả lên! Hai bên đánh nhau như người ta đánh cờ, thấy người ta rim rỉm mà coi thường, sớ rớ là tướng sỹ bay đầu như chơi! 

Cô nói thật ra yêu cầu với chị Nhài:

- Em cần cái xe gắn máy để đi lại cho nhanh mà…       

- Em cần bao nhiêu, cứ nói ra đi. Có ít của để dành, chị không làm được như em thì chị phải giúp em. Cũng là một cách cúng dường Tam bảo như các vị chư tăng, Phật tử hiến dâng…

Diệu Hương không nhận hết số tiền của chị Nhài đưa:

- Em dọ giá rồi! Của riêng em cũng có một ít. Chị giữ hộ, khi cần em lại xin hoặc có người đến nói xin cho nhỏ Út!

Trước khi chia tay, Diệu Hương đưa ra tấm hình đen trắng, khổ vuông chừng lọt lòng tay, nước ảnh còn sáng bóng nhưng hình người thì nhỏ, phải quen lung mới nhận ra ai. Cô giải thích:

- Tấm hình này chụp lúc má và em đưa tiễn ảnh ra ngoải ở Cao Lãnh. Ảnh bị liệt, ngồi trên chiếc cáng tre đây, giữa má và em. Đứng sau là mấy chị mấy anh mới làm đám cưới đó. Giá như ngày ấy ảnh chịu thì em có chồng rồi. Ảnh hứa ra ngoải trị lành vết thương, ảnh sẽ trở vô. Nghe nói y tế đằng mình giỏi lắm, phải không chị? Lại vô tư nữa! Chớ ở trong ni, có thoát tội tù thì mình tiền đâu chịu cho đặng mà mong hết bịnh!

Nhài lật phía sau tấm hình, còn rõ mấy chữ ghi nắn nót: Miền Bắc trong tim tôi – Út Nước. Diệu Hương má ửng lên, cười mắc cỡ:

- Chỉ có một tấm hình này thôi. Ảnh xuống tàu rồi, em và má còn ở lại mấy hôm, không biết để làm chi nữa? Chị biết hôn, giá mà có chiếc cầu chạy thẳng ra tàu, em sẽ băng xuống với ảnh ngay rồi muốn ra sao thì ra. Lúc ấy sao em thấy lòng mình trống trơn hà. Loanh quanh, gặp chú chụp hình bữa hổm, cho em một tấm. Tấm hình không bao giờ xa em đâu dù lỡ nó bắt được thì nguy hiểm lắm. Nhưng em có cách nói chớ. Ai cấm được lúc tuổi trẻ người ta thương nhau? Bây giờ gởi chị giữ giùm em. Lỡ có chuyện chi… Em cầu mong một ngày nào ảnh sẽ hiểu em – Giọng cô nghẹn lại.

Tấm ảnh rung trong tay Nhài. Cảm giác có một luồng khí lạnh chạy dọc theo xương sống làm chị rùng mình, ôm chặt lấy em.

Út Ngoan đi rồi, Nhài lục tìm cái hộp giấu kín nơi đáy tủ, nhận ra cái túi vải cũ phai màu với mớ tiền người gánh dừa (tiền Đông Dương) và lá thư ngây ngô ngày nào từng là niềm hy vọng và cũng là nỗi thất vọng chua cay một thời con gái, cô dúi vội nó xuống nệm giường và run run đặt vào đó tấm hình mới như một vật thiêng. Dường như cái kỷ vật xưa kia đã thành xa lạ, chẳng còn dính dáng gì tới cuộc đời cô nữa.

Có xe, Út Ngoan giao cho Tám A đi thử nhiều lần từ điểm xuất quân tới Hotel trên đường Thoại Ngọc Hầu – Quận Năm để căn giờ chính xác. Xe chạy thẳng một hơi, tốc độ trung bình, không gặp điều chi trắc trở hết 31 phút. Chị em bàn nhau, dự phòng căn đồng hồ 45 phút thì điểm hỏa. Lỡ sớm một chút thì kiếm chuyện rình rang ra cũng được. Đám này là sỹ quan đồng minh hỗn hợp, chiếc xe lớn đúng 8 giờ 30 phút nổ máy chạy về hướng xa lộ Biên Hòa. Căn làm sao khi xe mình chạy tới nơi vừa đúng lúc bọn sỹ quan đã lên ngồi gọn hết trên xe bus. Người ngồi sau quăng giỏ cam xuống trước mũi xe và người lái phóng vọt đi. Bom nổ, đám cảnh sát, mật vụ quẩn quanh đây đó sẽ quýnh cả lên, trở tay không kịp.

Tám A ngồi trước, lái chiếc xe Honda mới mua. Út Ngoan ngồi sau, ôm giỏ cam trong có khối thuốc nổ đã định giờ. Xe nổ máy, chạy nhởn nhơ thong thả, hòa trong dòng xe nhộn nhịp. Đến ngã tư Bảy Hiền, dòng xe bị cản lại cho một đoàn quân xa chạy nối đuôi nhau. Xe nó phóng ào ào mà đông quá, bao nhiêu xe ùn tắc lại. Trong lòng hai người cồn cào nôn nóng. Tiến lui đều không được. Giữa đám đông, hai chị em không thể bàn bạc gì. Nếu bị kẹt lâu, mìn sẽ nổ tung ngay đây thì sao? Tám A nhấp nhổm như ngồi trên lửa. Út Ngoan luôn nhìn đồng hồ, chân tay đều muốn giật lên. Thế cùng, cô sẽ đành phải nhảy xuống, ôm giỏ chạy thẳng ra giữa đường cản mũi xe chúng nó, một mình hứng chịu thôi. May qúa, đám quân xa vừa dứt. Tám A nhìn đồng hồ, biết cận giờ rồi, cô bóp còi inh ỏi và lạng lách phóng vọt như điên. Mấy người bị va quẹt thét lên :

- Đồ qủy cái!

- Đồ chó đẻ!

- Mấy con đĩ ngựa!

Tám A phóng như bay. Cô biết chỉ còn mấy phút nữa thôi. Ráng lên thì kịp. Út Ngoan vòng tay ôm chặt Tám A như hai chị em cùng một quyết tâm. Nhìn thấy mục tiêu cũng là lúc xe nó vừa chuyển bánh. Cô ôm chặt bạn chiến đấu thét lên:

- Chặn đầu nó lại!

Tám A nghiến răng, mở hết tốc độ, áp sát thành xe rồi quặt ngang tay lái đúng tầm đầu xe nó lấn ra giữa đường. Một tiếng nổ ầm vang lên! Khói lửa mù mịt. Nhiều người quanh đấy không kịp hiểu sự thể ra sao.

Ngay chiều hôm ấy, cả thành phố xôn xao lên :

- Việt cộng nổ bom cảm tử giữa ban ngày. Giết hàng trăm sỹ quan đồng minh!

- Hai nữ đặc công Sài Gòn giương súng AK bá xếp lao thẳng vào đám sỹ quan đồng minh, vừa thét lên “Hồ Chí Minh muôn năm!”, vừa bắn xối xả. Lính kín và cảnh sát xông vô, một cô giơ cao trái bom cho nổ tung. Tất cả cùng banh xác. Xương thịt tung toé đầy đường!

- Hai nữ biệt động thành chở nhau trên một chiếc xe gắn máy, cản đầu chiếc xe bus chở đầy sỹ quan đồng minh, giật mìn cho nổ. Không một ai sống sót!

Nhài nghe tin ấy, ruột gan nóng như lửa đốt. Chiếc xe Honda Diệu Hương mua để làm gì? Cô thấy trong người nôn nao, dọn hàng về sớm. Cô rũ người xuống giường, mệt mỏi rã rời. Chẳng lẽ đó là chuyện thật? Cô bật dậy lục tìm tấm hình cô giấu kỹ đi. Đây là kỷ vật bao nhiêu năm Diệu Hương vẫn giữ theo mình, chẳng lẽ vô cớ Diệu Hương gởi lại? Nhài ngồi thẫn thờ nhớ từng lời Diệu Hương đã nói: Lỡ có chuyện chi… Em cầu mong một ngày nào ảnh sẽ hiểu em! Lúc ấy cô đã có cảm giác lạnh xương sống rồi... Nhài nằm lăn ra giường, hai tay ôm tấm ảnh áp chặt lên ngực. Cô không ngờ rằng lúc này, hình ảnh hai người yêu thương nhất đang ở bên cô. Ngày hôm sau, cô không ra cửa hàng được. Chiều tối, cả nhà vào buồng thăm cô. Nhài gượng ngồi dậy, nước mắt đầm đìa, cô linh cảm chuyện ấy không còn là điều nghi ngờ nữa :

- Diệu Hương hiến mình cúng dường rồi!

Cả nhà không hiểu đầu đuôi câu chuyện thế nào. Nhài thổn thức kể hết ra mọi chuyện và cô đưa ra cả tấm hình Diệu Hương gửi lại. Mọi người lặng thinh. Bà giáo và bé Bích Liên ngồi xuống giường, mỗi người nắm một tay Nhài. Cả ba cùng sùi sụt. Ông giáo trở về phòng mình, gieo phịch người trên ghế. Chuyện hai nữ chiến sỹ giải phóng cảm tử diệt đám sỹ quan đồng minh, ông nghe đồn và báo chí nói nhiều. Nhưng ông không ngờ có một người với ông đã là gần gũi. Ông nhớ lại hình ảnh ni cô kín đáo giữa chùa, nhận từ tay ông lá thư mật gửi ra căn cứ; hình ảnh cô gái lái chiếc ô tô sang trọng tới đón cha là ông Năm Tấn ở nhà ông, hình ảnh người nữ chiến sỹ tham gia đánh vào thành hồi tết Mậu Thân, bị kẹt lại giữa vòng vây của giặc, hình ảnh người nữ giao liên đón ông vào căn cứ. Ông ngửa người tựa vào lưng ghế, cứ để cho những giọt nước mắt chảy ra.

Người con gái xa lạ ấy bỗng nhiên thành người thân thiết và là nỗi thương đau của cả nhà này. Tuy nhiên, ông Tham, bà Phán đều không nhận ra người thương binh liệt ngồi trên chiếc cáng tre bên người con gái ấy chính là người thân của họ.

Bà giáo bỏ chợ, lòng dạ cuống cuồng lên:

- Con bé đi lễ từ chiều hôm qua đến giờ vẫn chưa về. Xưa nay nó có bỏ nhà qua đêm như vậy bao giờ đâu? Tôi chết mất!

Ông giáo bồn chồn nhưng còn bình tĩnh. Ông không sợ nó làm điều gì hư hỏng nhưng mấy tháng nay phong trào học sinh, sinh viên khuấy động cả thành phố này, nhất là từ dạo bên Campuchia, do Mỹ bật đèn xanh, lũ bầy tôi làm đảo chính lật đổ ông quốc trưởng Sihanouk, rồi tàn sát Việt kiều, đồng thời liên quân Mỹ-Việt hành quân vượt biên giới đánh thộc vào căn cứ phía bên kia. Cả thành phố cứ sôi lên vì uất hận, đặc biệt là giới trẻ. Không chỉ sinh viên các trường đại học, còn lan tới các trường nghề và cả các trường trung học nữa. Họ tụ họp thành những đám đông, hát vang lời ca nghe nôn nao thôi thúc lắm:

Dậy mà đi, dậy mà đi / Ai chiến thắng không hề chiến bại / Ai nên khôn không khốn một lần / Dậy mà đi, dậy mà đi / Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi / Đừng tiếc nữa cần chi khóc mãi / Dậy mà đi núi sông đang chờ / Dậy mà đi / Dậy mà đi / Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi / Bao nhiêu năm qua dân ta sống không nhà / Bao nhiêu năm qua dân ta chết xa nhà / Dậy mà đi / Dậy mà đi / Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi

Ông lo con bé bị cuốn hút vào, trong khi nhà cầm quyền thẳng tay đàn áp. Nó mà rơi vào cảnh như bé Thủy Tiên chắc bà chết thật. Dù đã bảo Nhài nghỉ chợ đi tìm em từ sáng sớm nhưng lúc này, ông đành phải điện báo cho anh nó biết.

Cửa nhà ngoài chỉ khép hờ, bật tung ra. Nhân Tín nắm tay em từ trên xe kéo vào, dẫn đến trước mặt mẹ:

- Cả nhà cưng qúa để cho nó lồng hổng, đi đàn đúm với đám con trai con gái lông bông ngoài đường phố thế này đây!

Bà giáo ôm chầm con vào lòng xoa xuýt:

- Con làm mợ sắp chết rồi!

Bích Liên quần áo lấm lem, nhàu nát vùng vằng nhìn anh:

- Anh bảo thế nào là lồng hổng?

Nhân Tín chỉ mặt em:

- Mấy tháng trước, biết mày lăng xăng chạy đi tiếp tế cho đám sinh viên chiếm tòa đại sứ Lolnol, tao đã làm ngơ đi.

- Bỏ cái thói đạo đức giả đi! Hàng ngàn hàng vạn bà con mình lớn bé già trẻ bị nó dồn cục lại, nã súng vào. Máu chảy thành sông! Dưới sông Tiền, sông Hậu, người ta vớt được bao nhiêu rọ và bao bố đầy những xác người trôi nổi lềnh bềnh! Chúng tôi làm lễ truy điệu, biểu tình đòi phải trừng trị bọn người lòng lang dạ thú thì bị đàn áp trong khi chính quyền lại xua quân sang gọi là để rước đồng bào về nước! Họ thương xót gì ai đâu? Chẳng qua là mượn cớ tràn sang đánh vào sau lưng người ta thôi. Vậy mà còn nói điều nhân nghĩa!

- Đấy không phải là việc của chúng mày! Chuyện mấy thằng thổ ấy xong rồi. Thế bây giờ lấy cớ gì mà chúng mày gọi là Đại hội sinh viên quốc tế? Để làm gì?

- Người ta khác máu tanh lòng mà cũng lặn lội tới đây ủng hộ mình đòi chấm dứt chiến tranh, hòa bình cho xứ sở!

- Hòa bình với cộng sản à? Rồi mày biết! Chỉ có mấy thằng nhãi ranh nhát gan trốn lính hoặc là vô công rồi nghề vác mặt sang đây kích quậy tưng bừng mà cũng gọi là đại biểu với đại hội!

Anh quay sang nói cho bác và mẹ biết:

- Từ sáng đến giờ chúng nó rủ rê nhau hàng đàn hàng lũ biểu tình ở quanh tòa đại sứ Mỹ, rước mô hình chim hòa bình, trưng khẩu hiện: Stop war! Peace now! Yankee go home!… rồi lại khiêng cả chiếc quan tài đỏ chót nói là để gửi tới Tổng Thống Mỹ mà lại đề thơ cộng sản: Căm hờn lại giục căm hờn / Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu! Thế có phải là khiêu khích người ta không? Ai mà chịu nổi? May mà con nhìn ra nó đang nỏ mồm hò hét giữa đám đông, vội bảo mấy thằng lính xông tới lôi ra. Chậm một chút là đám cảnh sát dã chiến nó chơi vòi rồng, lựu đạn cay, matraque… Nếu không què lết thì cũng bị xúc đi. Bảy thằng sinh viên mắt xanh mũi lõ mất dạy bị lôi ra sân bay tống cổ trục xuất liền. Còn đám a dua mũi tẹt da vàng này không biết bị gom vào đâu? Thế mà nó còn gào thét, giãy giụa, cắn xé người ta!

Bà giáo vừa kéo con vào nhà trong vừa nói:

- Con ơi, mình là đàn bà con gái. Đừng làm gì qúa để người ta cười cho!

Nhân Tín nhìn theo giằn giọng:

- Nhãi ranh. Xem gương con Thủy Tiên mà liệu cái thân!

Bích Liên ngoảnh lại cãi:

- Nếu ai cũng…   

Cô nói chưa dứt câu, một thanh niên quăng chiếc xe đạp ngay trước hè, lao vào nhà. Anh ta khựng lại nhìn mọi người, thở hổn hển, cúi đầu chào ông giáo :

- Con chào thầy! – và ngơ ngác nhìn mọi người.

Nhân Tín hầm hầm đứng lên:

- Anh hỏi ai?

- Dạ… Tôi là học trò cũ của thầy và…

Bích Liên chạy ra:

- Tiến Cường! Bạn đến đây làm gì?

- Trời ơi! Tưởng Bích Liên bị bắt nên mình chạy về đây…

Bích Liên vừa kéo bạn ra vừa nói:

- Cám ơn các bạn! Mình vô sự. Về lo cho các bạn khác đi!

Anh bạn nhẩy lên xe phóng vọt đi. Bích Liên quay vào, chẳng nhìn ai:

- Bạn ấy là sinh viên bên Nông–Lâm–Súc. Hàng ngàn vạn người già trẻ, chẳng lẽ đui, điếc, ngu dại hết cả sao? – Cô vùng vằng đi vào.

Còn hai bác cháu ngồi lại với nhau. Ông giáo nhỏ nhẹ:

- Nó nói cũng đúng.

Nhân Tín ngả người trên nệm, nhìn lên chiếc quạt trần quay tít, nói như muốn trút đi nỗi mệt:

- Quân lực Hoa Kỳ sẽ triệt thoái mạnh hơn. Sau kế hoạch Bình định cấp tốc và Phượng hoàng, đẩy được Việt cộng ra xa vùng ven các đô thị và đồng bằng. Dùng máy bay phun thuốc khai quang và B52 rải thảm bom hủy diệt các khu căn cứ. Thế là đối phương hết chỗ đứng chân! Liên quân chuyển sang chiến lược phòng ngự từ xa, huy động sáu trung đoàn quân lực Việt Nam cộng hòa với hai trung đoàn quân Mỹ tăng viện và hoả lực không hạn chế, đánh thẳng vào vùng hậu cứ của bên ấy tưởng như bất khả xâm phạm lâu nay.

Anh ngồi bật dậy, nhìn thẳng vào bác giáo:

- Bác biết không? Họ lại tương kế tựu kế, dựa vào ưu thế địa bàn, tập trung chủ lực phản công, làm mình điên đảo! Họ chiếm lại cho bọn Khmer đỏ bảy tỉnh liên hoàn, càng làm cho căn cứ của họ mở rộng ra và đường mòn Hồ Chí Minh thông suốt từ hạ Lào tới Tây Ninh!

- Cứ rêu rao là thắng lớn, quân quốc gia nhà mình mất toi một viên đại tướng và một viên trung tướng. Chiến lợi phẩm là mấy ông tướng lùa về được đàn bò hàng ngàn con và mớ vàng thổ phỉ từ các phố chợ, chùa chiền… Quan lính tẩu tán đi đâu hết?!

Bà giáo từ trong nhà bước ra, nhìn chồng và con, thở dài:

- Con cái lớn rồi, đứa nào cũng thế, mình không bảo được nó nữa đâu. Tôi tính cho con Bích Liên qua Pháp học. Ông với con nghĩ có được không?

Nhân Tín mặt tươi ra, bật đứng dậy:

- Con cũng nghĩ tới mà không dám nói ra sợ mợ buồn. Để nó ở nhà nhất định sẽ bị rủ rê lôi kéo!

Ông giáo nhìn Nhân Tín:

- Bác đã có ý đó từ lâu, khi cháu chưa đỗ tú tài kia đấy! – và thở dài lắc đầu.

Bà nhìn con lo lắng:

- Mẹ buồn và lo lắm con ạ! Thằng anh mày ở ngoài ấy có thoát khỏi cảnh phải khoác trên mình chiếc áo lính hay không?

Nhân Tín giải thích cho mẹ yên lòng:

- Con chỉ ngồi trên chiếc L19 đầm già thôi. Chẳng bắn vào ai đâu!

Ông giáo nghiêm khắc nhìn cháu:

- Suỵt chó bụi rậm. Việc ấy mới ác đấy!

Nhân Tín tiu nghỉu. Bà giáo nói như mếu:

- Chả biết phải trái thế nào. Cha mẹ để cho con cái bắn giết nhau là có tội!

Sau hai cái Tết buồn tẻ và vô vị, năm nay, Sài Gòn lại được đốt pháo vang lừng để người thành phố này tin rằng chiến sự đã bị đẩy lùi ra xa và hãy quên đi cái Tết Mậu Thân bất ổn: tiếng pháo, tiếng đạn xen nhau.

Trong năm, đại tá Phát Lộc mới được thăng hàm, lên Chuẩn tướng, đến chào anh chị sẽ không được ăn Tết ở nhà vì công vụ mà vẫn vui vẻ lắm:

- Hy vọng nền Đệ nhị cộng hòa sẽ có một cái Tết Quang Trung.

Ông giáo nắm chặt tay mừng cậu em mau thăng tiến:

- Chúc toa mã đáo thành công!

Chu bồn chồn nói với bác giáo:

- Họ đã hình thành một chiến dịch lớn lắm.

- Của người Mỹ hay của Sài Gòn?

- Không phải của Mỹ nhưng vẫn là của Mỹ. Nó được hoạch định từ lầu Năm Góc, mang biệt danh Deway Canyon II nhưng do quân lực Việt Nam cộng hòa thực thi. Tuy vậy mà các phòng của Bộ Tổng tham mưu chẳng biết gì. Nó kín như bưng! Chuẩn tướng nhà mình là một nhân vật quan trọng trong cuộc hành binh vì gần đây ông đóng đô luôn ở bên MACV (Cơ quan chỉ huy quân sự tối cao Mỹ tại Việt Nam).

- Anh có thể dự đoán chiến trường sẽ xảy ra ở đâu không?

- Theo sự điều chỉnh, điều động lực lượng và tướng tá, cháu nghĩ chắc sẽ xảy ra ở miền Trung và nhắm vào đường mòn Hồ Chí Minh vì theo các tin tình báo, việc chuyển quân và tiếp vận từ Bắc vào Nam tăng lên hàng chục lần so với thời kỳ sau Tết Mậu Thân.

Sau vụ Vũ Ngọc Nhạ và Phạm Đình Trọng chui sâu, leo cao tới chức cố vấn đặc biệt thường xuyên bên Tổng Thống, nắm được nhiều điều cơ mật và sang tận Hoa Kỳ tác động thối chí lui binh, CIA cảnh báo có hàng chục ngàn điệp viên cộng sản chui sâu, nằm vùng ở khắp miền Nam. Nhân viên trong các cơ quan chủ chốt của bộ máy quân sự và hành chính bị rà soát lại, kiểm tra bằng máy phát hiện nói dối và thanh lọc triệt để. Những người nắm những công việc trọng yếu bị theo dõi sát nên không dám hở ra chuyện kín quốc gia. Tình thế khẩn trương, không có thời gian để thu thập thêm tin tức, ông giáo viết thư mật gửi gấp ra hậu cứ :

Dự kiến đối phương sắp có trận đánh lớn vào đường tiếp vận ở Trung phần.

Ông tới cửa hàng thuốc tân dược của dược sỹ Dương Trọng Đức, đưa ra tờ giấy ghi tên thuốc cần mua. Người đứng bán cầm tờ giấy, quay vào tủ lấy thuốc trao lại cho khách hàng. Đó là trạm giao liên mật của Trung tâm đặt riêng cho ông. Ông nói với vợ chồng cô Thêm nhận giúp cho một người quen mà thực ra ông không biết người ấy là ai, đến đây phụ việc. Hai người liên hệ với nhau qua những mật hiệu thường xuyên thay đổi.

Thư gửi đi mà lòng ông dấm dứt không yên. Chưa bao giờ ông cung cấp cho Trung tâm một nguồn tin quan trọng mà lửng lơ, mơ hồ, ít lượng thông tin đến thế. 

Ngày Tết, Nhân Tín về nhà vội vàng chốc lát rồi đi. Bên chén rượu xuân không cạn, Chu và bác giáo chia nhau nỗi hồi hộp đợi chờ một điều gì chưa rõ sẽ là may hay rủi. Chu tỏ ra lo lắng:

- Cuộc hành quân mang tên Lam Sơn 719 đã mở màn! Mồng ba Tết, đích thân Tổng Thống ra tận nơi xuất quân úy lạo, lên giây cót tinh thần binh sỹ. Quân lực Mỹ hỗ trợ vòng ngoài với  hàng chục tiểu đoàn nghi binh ở bờ nam sông Bến Hải, yểm trợ tối đa phi pháo, các loại pháo lớn 105ly, 155ly, 175ly, 203ly, hàng ngàn lượt trực thăng chuyển quân và chiến đấu, hàng chục máy bay vận tải cỡ lớn C130, C123, hàng trăm phản lực cơ đánh phá, kể cả phi cơ chiến lược B52. Có tới chục tiểu đoàn quân đội hoàng gia Lào phối hợp càn quét ở phía tây. Quân lực Việt Nam cộng hòa triển khai ba sư đoàn quân tinh nhuệ: Bộ binh số 1, Dù, Thủy quân lục chiến, thêm ba lữ đoàn bộ binh, lại được tăng cường hai lữ đoàn Dù và Thiết giáp mạnh. Khởi đầu hợp quân ở Quảng Trị rồi bất chợt chuyển hướng theo đường Chín, chiếm lại Khe Sanh làm điểm tựa then chốt, vượt biên giới sang Bản Đông (A Lưới), nhằm mục tiêu là thị trấn Tchépone nằm sâu 40kilômét trong đất Lào, cắt đứt hoàn toàn con đường cuống họng của phía bên kia. Chuẩn tướng Phát Lộc làm tư lệnh một sư đoàn quân tiên phong. Lầu Năm Góc kỳ vọng vào trận đánh này, coi như hoàn tất kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh để tới cuối năm sẽ rút được khoảng hai phần ba quân Mỹ. Kế hoạch phòng ngự từ xa tỏ ra hữu hiệu.

Ông giáo trấn an:

- Cơ sở nội tình đằng mình không thể mất hết được đâu. Biết đâu còn ở những vị trí đặc biệt hơn mình! Tin rằng ta vẫn giữ được thế chủ động.

Trận chiến khởi đầu ào ào dũng mãnh, đánh chiếm A Lưới dễ dàng là đã đi được nửa chặng đường tới Tchépone, phá hủy được một số kho tàng và lấy đó làm cứ điểm. Nhưng càng tiến sâu vào hậu cứ của đối phương càng như đi vào một trận đồ bát quái giăng cài bẫy sẵn. Các báo hàng ngày đưa lên trang đầu những tin tổn thất. Số thương vong ngày một nhiều hơn. Trực thăng Mỹ hoạt động hết công xuất vẫn không hoàn thành công việc chuyển thương và xác về hậu cứ. Trái lại nhiều trực thăng bị bắn rơi khiến các phi công Mỹ biện nhiều lý do để không cất cánh hoặc đi không lại trở về không. Đích đến qúa nhiều bất trắc. Tổng Thống Thiệu ra lệnh: Các anh chỉ cần đặt chân tới Tchépone đái một bãi rồi ra ngay cũng được! Đến khi xe tăng T54 của phía bên kia xuất hiện, quân đội Sài gòn trở nên hoảng loạn. Nhằm mục tiêu chiến thắng tinh thần với sự trợ lực của hàng trăm chuyến trực thăng của quân lực Mỹ, hai tiểu đoàn quân Việt Nam cộng hòa nhảy được xuống phía đông-nam thung lũng Tchépone hoang tàn trơ trọi. Đây là trận đánh áp dụng chiến thuật “trực thăng vận” lớn và ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Sau hai ngày đêm trụ lại, bị Quân giải phóng xiết chặt vòng vây với những trận tập kích xuất thần và tăng sức ép hỏa lực đêm ngày, không có đường tháo lui ngoài một con đường duy nhất trông vào những chuyến trực thăng thoát được những làn hỏa lực. Tiếp đó căn cứ Bản Đông cũng bị đánh bật. Lại bị đối phương tổ chức truy kích trên mọi ngả đường rút chạy. Nhiều đơn vị tự tan rã kể cả những chiến đoàn thiết giáp xe pháo cũng bị bỏ lại, quan lính tẩu tán vào rừng, bơ vơ đói khát, bị bắt sống hoặc bỏ xác giữa rừng già. Một số bám vào càng trực thăng tải thương, bị rơi rụng xuống rừng rậm, vài mống may mắn thoát chết, mặt mày ngơ ngác in hình trên báo và tung ra những lời đồn khủng khiếp: Cộng quân đã chờ sẵn với lực lượng chủ lực thiện chiến đông gấp mấy lần. Xe tăng T54 như cua bò lổn nhổn khắp rừng. Hỏa tiễn Nga đêm ngày thi nhau thụt, biến căn cứ đóng quân thành biển lửa… càng làm hoang mang tinh thần binh lính và dân chúng. Không biết từ đâu tung ra câu vè truyền khẩu: Ai Lao đi dễ khó về / Khi đi áo giáp, khi về áo quan! Lính tuyến sau rủ nhau bỏ trốn. Nhà nào có chồng, con ra trận, nín thở chờ tin báo tử.

Sau 45 ngày, cả Mỹ và quân lực Sài Gòn lần thứ hai vội vã bỏ lại căn cứ chiến lược Khe Sanh nám đen khói đạn và ngổn ngang quân dụng khí tài vùi trong đất đá. Cuộc hành quân coi như kết thúc trong cảnh binh lính cộng hòa tan tác. Đại tá chỉ huy cùng bộ tư lệnh một lữ đoàn bị bắt, đài đối phương nêu đích danh tên tuổi, số thẻ bài quân và phiên hiệu đơn vị. Tướng tư lệnh cuộc hành binh may nhờ trực thăng Mỹ kịp thời cứu thoát.

Bộ Tư lệnh sư đoàn của Chuẩn tướng Phát Lộc bị kẹt giữa một vùng rừng núi. Điện xin giải nguy vô hiệu. Máy bay lảng vảng từ xa đã bị súng phòng không của đối phương cản lại bằng lưới đạn. Có chiếc bốc cháy lao xuống giữa rừng thẳm bạt ngàn. Nhìn đám quan và lính mặt mày xám ngoét, cuống cuồng như nai mắc bẫy, Chuẩn tướng đã biết rõ số phận của mình. Ông không ngờ được gọi về nước Chúa trong tình cảnh thế này. Ông dự liệu cho mình nhiều phương án nhưng nhất định không để bị bắt sống như viên tư lệnh sư đoàn nọ. Đến lúc có mấy tên lính trinh sát hớt hải tới trình Chuẩn tướng rằng đã nhìn thấy những chiếc xe tăng T54 cùng lúc với tiếng xích xe nghiến lên vật cản với tiếng động cơ nổ rù rì và Quân giải phóng phát loa kêu gọi đầu hàng. Ông chưa biết phán quyết thế nào. Nhìn lại, hơn một tiểu đoàn quân phục vụ và bảo vệ bộ chỉ huy mà chỉ còn lơ thơ một đám, kẻ ủ rũ, kẻ liêng láo bồn chồn. Ông vẫy họ lại:

- Chúng ta đã lâm vào bế tắc. Cụm lại càng dễ chết. Các anh được phép tùy nghi định liệu theo ý của mình. Cầu Chúa ban phước lành cho mỗi người! – Ông qùy xuống làm dấu thánh, mặt ngửa lên trời.  

Còn lèo tèo chừng một tiểu đội theo ông. Mấy hôm rồi, nhờ có ít cơm khô dã chiến cầm chừng. May là vào những ngày xuân, nhiều hố nước đọng trong khe, trong rãnh không làm ai chết khát. Nhưng mệt mỏi rã rời. Mỗi ngày lại có thêm người biến đi đâu. Trời sập tối, mọi người cứ theo sườn núi rậm leo lên, tới trước một cái hang đá hẹp mà sâu thăm thẳm. Ánh sáng của chiếc đèn ngoéo dã chiến cũng bị bóng tối ngăn lại, chỉ còn thấy mờ mờ một khúc. Hang bốc lên mùi hôi mốc và dưới chân lép nhép. Lổng chổng mấy bộ xương trắng mốc không rõ là người hay súc vật. Một cảm giác lạnh ẩm rợn rợn như cõi âm ty ập đến với mọi người. Mình đi trốn cái chết mà lại chui vào chỗ phơi xương với người tiền sử ! Không ai bảo ai, đều dừng lại và cùng lùi ra, thập thò trước cửa hang. Người nọ dựa vào người kia gà gật. Không còn quan lính, không còn giàu ngèo, không còn học vấn, không còn quê hay tỉnh. Nhưng nỗi lòng không ai nói ra. Có người trằn trọc. Có tiếng thở dài. Có tiếng ngáy nhưng chưa chắc là người nọ đã ngủ. Phía dưới kia là chân núi, đôi lúc lập lòe ánh lửa, lâu lâu vẳng lên tiếng loa vang vang vào vách đá dội ra:

- Hỡi anh em sỹ quan và binh lính quân đội Sài Gòn! Với âm mưu thâm độc Việt Nam hóa chiến tranh, dùng người Việt giết hại người Việt, đế quốc Mỹ xô đẩy anh em tới thảm cảnh này. Các anh em hãy mau mau ra hàng Quân giải phóng sẽ được hưởng chính sách khoan hồng, còn mong có ngày về với gia đình, xây dựng lại tổ ấm, quê hương! Ai đầu hàng thì sống! Chống lại thì chết vô nghĩa lý… A lô!… A lô!

- A lô!… A lô! Tôi là Tám Chơi, thượng sỹ truyền tin. Tôi đã ra đầu hàng Quân giải phóng và được đối sử tử tế. Không bị truy bức, đánh đập hay bỏ đói. Toàn bộ chiến trường đã vào tay Quân giải phóng. Anh em không có hy vọng gì tìm lại về xứ nữa đâu! Nếu không muốn chết vì đói khát và bỏ mạng giữa rừng sâu làm mồi cho thú dữ thì anh em hãy ra đầu hàng Quân giải phóng, hy vọng có ngày về với cha mẹ, vợ con…

Ai cũng nghe rõ từng lời mồn một lọt vào tai nhưng không ai nói lại với ai mình đã nghe được những gì. Giọng người nói trước nghe mạnh mẽ, phấn chấn đầy vẻ tự tin. Giọng người nói sau nghe run run, loạc choạc vì mắc cỡ hay vì áp lực? Thằng Tám Chơi, mới bỏ đi chiều hôm qua sau khi nó cười trơ trẽn, mếu máo kể chuyện tục quê ngoài Bắc:

- Ở quê tôi, hễ có ai chết mất xác vẫn được người nhà mai táng thân dâu, đầu gáo đàng hoàng, mộ xây chu đáo. Ngày giỗ lấy ngày khởi bước ra đi! Ngày ta động binh là ba hôm trước Rằm Nguyên tiêu năm Tân Hợi một nghìn… chín… trăm… bảy… mươi… mốt!

Miệng nó méo xệch đi. Giá như vào lúc khác, nó đã bị một viên đạn bắn vỡ toang cái mồm độc địa kia. Nhưng lúc này cần gì phải bắn vì mọi người đang đứng bên bờ vực thẳm, chỉ trước sau một bước chân thôi.

Chuẩn tướng chập chờn như trong cơn mộng mị. Đời người biến đổi nhanh đến lạ lùng. Ông đang gặp hội phong vân. Mấy hôm trước, tưởng chỉ tạm biệt vợ con, tạm biệt Sài thành ít ngày thôi. Nào ngờ bữa cơm ấy, ánh mắt ấy, nụ cười ấy, nắm tay ấy thành ra vĩnh biệt. Gần hai mươi năm trước, ông từ bỏ quê hương không vấn vương gì vì ở đâu có Chúa là có sự lành. Ông chưa hình dung nổi có một ngày nào trở lại nơi chôn nhau cắt rốn nữa không nhưng ông không từng thấy buồn vì có Chúa là chốn nương dựa, chở che. Thế mà bây giờ, giữa rừng sâu hoang vắng gặp nhau! Họ đã từng vào giữa đô thành. Không ai cản được bước chân của họ! Ông nhớ lời Chúa Jésus tiên đoán: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết. Cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát”!

Ông sờ khắp thân thể xem có còn là của mình không. Còn đây: một mảnh xương sườn của Chúa còn nguyên đây! Tiếng con chim rừng xao xác làm ông bừng tỉnh. Ông qùy xuống đọc kinh sám hối. Có người làm theo ông. Có người ngao ngán lắc đầu. Nhìn qua kẽ lá xa xa, ánh sáng đầu một ngày xuân tươi mát mà ở đây còn tối om om. Ông bảo mọi người:                

- Mỗi người có quyền chọn cho mình một cách sống hay là cách chết. Không ai lệ thuộc vào ai. Các anh em hãy đi theo con đường mình chọn. Nông nỗi này còn ai trách cứ gì nhau!

Ông cầm lại chiếc máy radio mà viên sỹ quan tùy tùng ôm khư khư mấy hôm nay dù chẳng ai thiết nghe làm gì những lời đã nhàm chán qúa rồi. Ông tháo từ vai viên thượng sỹ hầu cận chiếc túi mìn claymore giữ lại cho mình. Tay ông cầm khẩu súng ngắn đạn đã lên nòng. Ông đứng sững như tượng đá giữa cửa hang. Mọi người lầm lũi chia đi mỗi người mỗi ngả. Bỗng bật lên tiếng hét thật to A!… A! kéo dài rồi nghẹt lại như bị chọc tiết, tiếp theo là tiếng cành cây gãy đổ rào rào khuấy động lên một khoảnh rừng lúc còn mờ sáng.

Người nào đó xảy chân bị ngã hay cố tình nhẩy xuống từ lưng chừng núi? Ông nghĩ nơi đây bị động rồi. Ông nhìn chung quanh, lắc đầu dứt khoát, ông lần mò vào trong hang, tới chỗ ranh giới giữa tối và sáng thì dừng lại. Chỗ này không ẩn trốn mà cũng không tự lộ mình ra. Ông qùy xuống, đọc kinh:

Lạy Chúa Jésus! Con cầu Ngài! Cảm ơn Ngài đã chết trên cây thập tự vì tội lỗi con. Con xin mở lòng ra để tiếp nhận Ngài làm Chúa và làm chủ đời con. Xin Ngài cai quản đời con và biến con thành người như Chúa muốn – Amen!

Ông làm dấu thánh. Ông giơ khẩu súng lên sát màng tang. Mắt ông lim dim, mơ màng. Ông chợt nhận ra luật giáo hội không cho con chiên tự vẫn. Ông là người ngoan đạo. Nhưng ông không thể sống làm một thằng tù. Ông nhét súng vào trước bụng, kéo túi mìn lại sát bên mình. Tay ông lần tìm nút bấm đưa lên giữa hai lòng bàn tay chắp lại nâng lên trước ngực, lầm rầm đọc lời kinh:

Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả,  bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.  Anh em hãy vui mừng hớn hở vì phần thưởng dành cho anh em ở trên Trời thật lớn lao – Amen!

Ngoài cửa hang, tiếng động ào ào và xôn xao tiếng người. Tiếng thét gọi “Ra đi! Ra đi!”… Rồi có tiếng bước chân lép nhép…

Trong trạng thái lâng lâng, ông đưa hai bàn tay cao lên và dần dần khép chặt lại. Ông phó mình cho Chúa:       

- Amen! Lạy Chúa tôi! Con xin đón nhận mọi điều lành dữ theo ý của đức Chúa thánh tử vì chúng con!

Hai bàn tay ông ép dần chặt lại.

Vừa lúc có tiếng thét lớn từ cửa hang :

- Cảnh giác! Lùi lại ngay!

Tiếng nổ từ trong hang nghe một tiếng “Bùng”!…

Lửa và khói tuôn ra cuồn cuồn như từ miệng con qủy phun ra.

Ở Sài Gòn, người ta chỉ biết Chuẩn tướng Phát Lộc mất tích như bao chiến binh xông pha trận mạc. Tuy nhiên, ông vẫn được vinh danh Thiếu tướng và tổ chưc truy điệu như một anh hùng vị quốc vong thân. 

Ông bà Phan An Phú đứng trước tấm hình cậu em thân thiết được che chở bằng sự xả thân của Chúa trên cây thánh giá. Bà Phán nghẹn ngào:

- Lạy Chúa thánh tử vì chúng con! Xin cho con chiên lành Giacôbê Lê Phát Lộc được theo hầu Ngài nơi nước Chúa.

Ông giáo Phú như một cái máy, chào đáp lễ mọi người. Như một pho tượng, nét mặt buồn rầu đau đớn, ông lúc cúi đầu, lúc ngước nhìn lên ảnh cậu em. Không gợn chút buồn đau vương vấn, vẫn nét mặt tươi cười thoả mãn ấy, người trong ảnh muốn hỏi ông:

- Anh giáo! Nhờ ơn phước Chúa, tôi rõ mọi điều. Vậy chúng ta có còn là anh em nữa hay không? Anh với tôi là bạn hay thù? Tôi chết có là chiến thắng của anh không?

Mặt ông giáo tái xanh đi. Mọi người tưởng ông xúc động, đỡ ông vào nhà trong nằm nghỉ. Người vợ góa tới bên, cảm cái ân tình của ông đối với chồng bà :

- Nhà em lúc nào cũng kính trọng bác giáo lắm!

Ông nắm tay em dâu an ủi:

- Trong nhà, cậu em là người có hiếu và có nghĩa. Tôi rất qúy mến!

Về nhà, ông than đau đầu và đi nghỉ sớm. Nhưng ông có nghỉ được đâu. Trong đầu ông, bao nhiêu câu hỏi và bao nhiêu lời giải đáp. Ông không dễ chấp nhận một điều nào. Ông tặc luỡi: Mỗi đứa thờ một chủ. Không được! Máu mủ ruột rà thường vin cớ ấy để sát hại nhau. Nhưng khi ông chủ yêu thương và ban ân huệ cho mỗi người một khác thì anh em liệu có sào sáo nhau không? Ông ngồi bật dậy như thanh minh với người nào đấy:

- Nước của cậu là nước Chúa trên trời, dưới thế bao la. Nước của tôi là nước Việt Nam nhỏ bé khổ đau. Tôi chỉ ủng hộ những người chống lại kẻ vác cây thập giá dày xéo lên đất nước khốn khổ của tôi thôi! Tôi không tin vào một đấng siêu nhiên quyền uy tối thượng nào nhưng tôi tin vào sự minh chính của lịch sử khi phán xét những sự kiện đã qua.

Bà cũng làm sao ngủ được. Vừa thương em, vừa lo lắng cho chồng, bà vỗ về ông:

- Nghĩ nhiều làm gì càng thêm khổ. Mình hãy nghỉ đi!

Ông nhìn vợ như muốn được chia sẻ nỗi lòng nặng trĩu của mình :

- Chúng ta sống vào thời buổi tai nghiệt quá!

Rời trụ sở Bộ Thông tin – Chiêu hồi, chưa muốn về nhà, ông giáo Phú lái xe ngược lên Phú Nhuận. Tới chợ Tân Định, thấy mấy cô bé nữ sinh ôm cặp ôm túi nhởn nhơ qua đường. Chiếc xe nhà binh Mỹ ngược chiều trờ tới. Một cô giật mình để rớt gói hàng văng ra tung tóe. Cô bé lúng túng ngồi xuống ngượng ngùng với những trái cam lăn lóc trên đường. Hai viên sỹ quan Mỹ ngồi trên xe toe toét cười say đắm nhìn cảnh lạ. Bỗng mấy cô bạn tung vào xe những bịch xăng và quẹt lửa. Chiếc xe ngùn ngụt bốc cháy. Hai tên Mỹ quýnh quáng mở cửa xe chạy vô trong chợ. Bà con hò la xách cây rượt đuổi. Chúng nó chạy ngược ra chối chết. Ông giáo Phú áp xe lại mở rộng cửa ra. Chúng chui thụt ngay vào, cửa sập lại rồi vẫn còn run lập cập. Xe nhấn ga vọt đi nhưng ông giáo còn kịp nhận ra khuôn mặt cô gái ngơ ngác nhìn theo.  

Xe ông dừng ở khu cư xá sỹ quan Mỹ. Hai nạn nhân hoàn hồn ríu rít cảm ơn người cứu mạng:

- Tôi hoàn toàn không hiểu biết gì về xứ sở kỳ lạ này. Chỉ biết rằng ở Việt Nam đang có chiến tranh và đến đây  theo mệnh lệnh của cấp trên!

- Các anh đem quân tới một quốc gia mà không hiểu gì về lịch sử và con người của họ thì làm sao thắng nổi?!   

Ông trao cho họ tấm card ghi cả tiếng Việt và tiếng Anh: Giáo sư Phan An Phú – Nghị sĩ Hạ Nghị Viện Việt Nam Cộng hòa.

Trong bữa cơm tối, Bích Liên tỏ rõ ra giận dỗi. Đó là sự vô lễ chưa từng được phép xảy ra trong gia đình này. Bà giáo vừa giận vừa nghiêm nói thẳng ra ý nghĩ của mình nín nhịn lâu nay:

- Các chị các anh dù đã lớn khôn nhưng vẫn phải giữ phép nhà!

Từ ngày Thủy Tiên bị bắt bỏ tù, trong nhà chỉ còn ông bà với Nhài có thể chia sẻ những mối bận tâm thầm kín. Dù bé Bích Liên nay cũng lớn rồi nhưng nó chưa hiểu hết những suy tư sâu thẳm trong lòng có khi rất trái ngược nhau của những người ruột thịt trong nhà. Thằng Nhân Tín đã lấy vợ con một ông tướng người miền Trung, đã ra ở riêng. Bà mừng cho con thành đạt nhưng theo con đường ấy thì cha con anh em nó càng không có cơ hội đoàn viên giáp mặt với nhau. Thế sự rối rắm, việc không trọn nghĩa tao khang với cha chúng nó vẫn như một sự lỗi đạo, bà luôn đau đáu trong lòng. Thôi thì bà thành ngoại nhân đã đành nhưng cố làm sao đừng để cho cha con nó coi nhau như  kẻ cừu thù, máu đào hóa ra nước lã. Bà cảm thấy cái nguy cơ ấy ngày một rõ ra mà bà bất lực. Ông giáo thương vợ, ông âm thầm làm những việc họa chăng đỡ được cho bà gánh lo. Dù thương nhau, qúy nhau, thành tâm chia sẻ cùng nhau mọi vui buồn mà cả hai người không ai thổ lộ được ra tâm trạng ấy. Mỗi người lặng lẽ tưởng như mình cô đơn làm công việc của con dạ tràng xe cát.

Từ ngày thấy bác giáo bỗng dưng thoát ra cái tổ kén của một trí nhân ở ẩn, đi tìm những mối giao du rộng rãi bên ngoài, Thủy Tiên và Nhài từ ngạc nhiên đến thất vọng và xa lánh dần người mà xưa nay các cô vẫn coi như tấm gương mẫu mực về nhân cách. Nhưng dần ra các cô cũng hiểu được ông, càng kính trọng và cùng chia sẻ với ông. Nhân Tín biết người trong nhà có những chính kiến khác anh nhưng anh tin rằng những người thân thích ruột rà không ai hại anh và cũng không cản anh trên con đường thăng tiến. Mọi người phải chịu trách nhiệm về việc mình làm trước pháp luật. Thế thôi! Với Bích Liên thì khác. Cô vui vẻ hồn nhiên nhưng những gì xảy ra trong nhà, ngoài đường, trường học khiến cô không thể sống vô tư được mãi. Cảnh bị bắt bớ tội tù của Thủy Tiên. Sự kín đáo khó hiểu của chị Nhài. Vẻ ưu tư trầm mặc thường thấy trên nét mặt bác giáo. Thái độ bơ đời hãnh tiến trên đường công danh của người anh Nhân Tín mà xem ra lạc lõng ở nhà này. Nỗi âu lo bồn chồn của mẹ. Những biến động trên đường phố. Những tên lính ngoại bang xa lạ nhố nhăng. Ở trường, đám bạn con trai con gái túm tụm từng nhóm kín kín hở hở… Không ai nói ra điều gì mà cô cảm như một sự bất bình ngấm ngầm cứ âm ỉ tỏa lan ra khắp quanh cô. Một sức mạnh vô hình tự nhiên âm thầm xô cô về một phía. Đến hôm nay Bích Liên chứng kiến cảnh hai thằng lính ngoại nhân bẩn thỉu bị đàn bà, con nít, người già, người trẻ đều ghét cay ghét đắng xua đuổi như những con vật hôi tanh… mà một ông giáo nổi tiếng mô phạm với những bài giảng làm cho bao nhiêu thế hệ học trò bừng tỉnh ngộ để biết yêu sự lành, ghét sự dữ lại công khai che chở cho bọn người lẽ ra cần Sát Thátkia!

Ông giáo trầm tĩnh nhìn vợ, muốn làm dịu đi cơn giận của bà, nói mà chẳng nhìn vào ai:

- Dù đốt cháy hàng trăm hàng nghìn chiếc xe cũng chẳng ăn nhằm gì với họ!

Bích Liên không chịu được nữa cãi hỗn:

- Ít ra cũng thể hiện được lòng phẫn uất và khinh ghét loài chó đẻ!

Bà giáo không chịu được nữa, mặt đỏ bừng lên, giang tay giáng mạnh… Ông giáo kịp đỡ tay vợ tránh được hậu quả khó lường của một cơn giận quá phát và khuyến cáo cả hai người:

- Mọi phản ứng quá khích đều dồn đối phương tới chỗ cùng. Đó mới là tai họa! Mở ra con đường thoát mới là nghĩa hiệp!     

Nét mặt tỏ ra nghiêm khắc với thái độ cứng rắn và quyết đoán, ông chỉ tay ra hiệu mọi người hãy ngồi ngay quanh bàn, tuy nhiên giọng ông nghiêm nghị mà khoan dung:

- Bác không phản đối những việc cháu làm nhưng làm những việc bồng bột và nông nổi thì không bền được. Từ xưa, các bậc anh quân dũng tướng đều thắng giặc bằng trí thông minh, tài thao lược và sự khôn ngoan. Đành rằng có những lúc cần sự can trường dũng cảm nhưng khác hẳn với những việc làm liều mạng lửa rơm, chỉ là ngu xuẩn!

Nhìn ánh mắt đầy yêu thương và lời nói tha thiết chân tình của bác giáo, Bích Liên chợt thấy ân hận với những điều nghĩ không hay về bác, cô gục đầu trên bàn khóc nức nở:

- Con xin lỗi bác!

Có lẽ Bích Liên đã lờ mờ hiểu được những điều gì đang diễn ra trong nhà này.

Nghe tiếng chuông, Bích Liên chạy ra mở cửa.

Hai người trai trẻ một Á, một Âu đứng tự nhiên như chờ gặp người thân. Dường như biết người quen nhưng Bích Liên tỏ ra lạnh nhạt trước nét mặt và nụ cười cố gây thiện cảm của khách làm hai người lúng túng, buộc một anh phải lịch sự hỏi:

- Xin lỗi cô! Cho phép tôi được hỏi thăm bác… Phan An Phú là bạn của cha tôi?

Bích Liên hững hờ :

- Xin các ông chờ! – và quay vào nhà.

Ông giáo vui vẻ chào đón hai người khách :

- Lâu qúa không gặp, bác tưởng cháu bỏ xứ đi luôn rồi chứ!

- Quê hương vẫn là quê hương, bác ạ! Dù thương hay giận mà đi đâu vẫn nhớ!

Anh chỉ qua người bạn tây :

- Bác có nhận ra người này không?

Ông giáo nhìn người khách lạ, lắc đầu nhưng vẫn niềm nở mời ngồi. Người khách lạ trịnh trọng đưa ra tấm card giao lưu của ông giáo. Nhìn tấm card của mình, lại nhìn người khách nước ngoài, ông giáo gật gù:

- Tôi nhớ ra rồi! Hình như hai anh suýt chết trong một cuộc bị rượt đuổi ở chợ Tân Định hồi năm trước?

Anh bạn trẻ tây cười gượng, tự giới thiệu mình:

- Thưa ngài giáo sư! Lúc đó tôi là trung uý trong quân đội GI (Gouverment International = liên bang), sang Việt Nam làm nghĩa vụ quốc gia. Tôi làm sỹ quan trợ lý thông tin ở MAAG (Phái đoàn quân sự Mỹ). Hôm ấy nếu không gặp ngài, không biết sự thể sẽ ra sao nữa. Tên tôi là David Samas! Tôi đã giải ngũ và bây giờ đang… thất nghiệp!

- Chúng cháu tình cờ gặp nhau trong một teach in (cuộc hội thảo đặc biệt ngoài giờ học) tại trường đại học Michigan. Anh ta khoe với cháu tấm card này. Và cháu rủ anh ấy sang Việt Nam.

Bích Liên lo giúp bác tiếp khách. Thấy chuyện lạ, cô nán lại chờ nghe. Ông giáo vui vẻ:

- Bích Liên ngồi đây. Chỗ người nhà cả. Đây là anh Văn Khoa từng quen biết Thủy Tiên.

Thấy Bích Liên lịch sự với nụ cười tươi đón bàn tay của mình đưa ra, anh chàng David vui lắm :             

- Lần đầu nhìn ánh mắt của cô tôi sợ qúa. Tưởng như gặp lại những ánh mắt của các cô gái Việt Nam đốt xe ngày ấy. Nhưng bây giờ tôi thật sung sướng được thấy đôi mắt đẹp cười với mình!

Bích Liên lắc đầu, quay sang Văn Khoa:

- Anh đã biết chuyện chị Thủy Tiên bị bắt và đày ra Côn đảo chưa?

Văn Khoa tái mặt, tay run lên, để vội cái chén xuống làm tung tóe nước ra bàn.

Cả ba người nói thoải mái tiếng Anh với người khách lạ. Nhưng David không hiểu ba người Việt Nam nói gì với nhau. Anh ta muốn thanh minh:               

- Người Mỹ quen sống tôn trọng hiến pháp và luật pháp. Chúng tôi tin nước Mỹ giàu và dân chủ nhất thế giới, là thánh địa của tự do. Ai chống lại nước Mỹ là vi phạm nhân quyền và phải bị trừng phạt. Vì thế chúng tôi theo lệnh của Tổng Thống, sang giúp xứ sở này. Thế mà người Việt Nam lại không cần đến chúng tôi! Không phải chỉ là đối phương cầm súng chống lại ở ngoài mặt trận. Ngay giữa đô thành Sài Gòn này, cả những người già, trẻ con và các cô nữ sinh xinh đẹp cũng chống lại chúng tôi, trong khi họ sống bằng đủ thứ viện trợ từ nước Mỹ. Đúng là chúng tôi không hiểu gì về lịch sử và con người Việt Nam như ngài giáo sư nhận xét. Trở về nước chúng tôi mới biết bị Chính phủ mình lừa gạt. Tại sao người ta bắt chúng tôi đổi mạng để bảo vệ một xứ sở không cần đến sự có mặt của mình? Điều cay đắng là chúng tôi thoát chết trở về quê hương lại nhận được sự lạnh nhạt và khinh rẻ của chính nhân dân mình. Họ coi chúng tôi như những tên tội phạm ghê tởm, không ngần ngại nhổ bọt ngay trước mặt mình! Cha tôi hỏi: Mày có ở Mỹ Lai–Sơn Mỹ không? Con bạn gái đã bỏ đi theo thằng khác, nhìn mặt tôi, chỉ nói một câu: Anh đừng buồn! Tôi làm sao biết anh có nghiền ma túy hay không? Cả nước Mỹ coi những thằng lính sang Việt Nam chiến đấu bảo vệ thế giới tự do đều dính dáng đến chuyện giết người và nghiện ngập! Trong khi những thằng chống quân dịch hoặc trốn lệnh sang đánh nhau ở Việt Nam bị ngồi tù, được coi như những anh hùng, hiệp sỹ thì những thằng VET (cựu chiến binh hồi hương) chúng tôi lại bị coi là loại người bỏ đi! Đến đâu cũng nhận được sự hờ hững và những con mắt nghi ngờ khó chịu, giống như cô lúc đầu mới gặp… Dinkydaw (Điên cái đầu)! – Anh ôm lấy đầu.

Bích Liên hỏi:

- Thế anh còn qua cái xứ sở kỳ quái này làm gì nữa?

- Lần trước tôi đi cho xong nợ công dân. Tôi không để ý gì ngoài việc mong chóng hết hạn một năm, về nước. Nhưng về nhà, người ta lại vạch ra bao nhiêu điều xấu xa, vô lý mà quân đội chúng tôi đã gây ra ở đây… Tôi muốn biết rõ sự thật.

- Thế anh đã biết được sự thật gì chưa?

- Điều tôi nhìn ra trước tiên là chính phủ Sài Gòn không được lòng dân. Vậy tại sao chính phủ Mỹ cứ đổ tiền của và cả máu của chúng tôi ra để nuôi béo nó? Họ nói rằng chúng tôi phải có mặt ở đây để giúp một quốc gia bạn đang bị cộng sản xâm lăng? Chẳng lẽ mấy hôm nay, cảnh sát và quân đội đang đàn áp cộng sản ngay giữa thành phố Sài Gòn? Bên nước chúng tôi, người ta đi biểu tình chống chiến tranh đông hơn rất nhiều! Giữa thủ đô Washington, người ta đeo băng tang, thắp nến cầu nguyện cho những người chết trận và đòi rút ngay quân đội ở Việt Nam về nước. Thì tại sao ở đây, những người cầm súng chống quân đội Mỹ lại là cộng sản? Cả những người già, trẻ, gái, trai công khai trương lên tấm bảng US Go home (Mỹ cút đi) trên các đường phố cũng bị coi là cộng sản? Những người con gái đẹp như cô, ngài dân biểu đã cứu mạng cho hai viên sỹ quan Mỹ đây, đều là cộng sản? Và cả ông mục sư Martin Luther King – người được trao giải thưởng Nobel về hòa bình, quyết liệt đòi quyền bình đẳng cho người Mỹ đen cũng như đòi phải chấm dứt ngay cuộc chiến tranh ở Việt Nam vì đó là một trong những cuộc chiến tranh tàn bạo và vô nghĩa nhất trong lịch sử. Và ông bị giết vì đòi sự công bằng hay vì ông là cộng sản? Unthinkable! (Không thể nào hiểu nổi) – Anh giơ cao hai tay lên.

Ông giáo cười xòa:                  

- Tôi giải nguy cho anh là vì cuộc sống đã dạy chúng tôi đừng đẩy ai tới bước đường cùng. Chính người Mỹ đã đẩy người Việt Nam tới chỗ không có con đường nào khác đấy.

Bích Liên đã thiện cảm với anh VET này:

- Chị tôi là bạn của anh Văn Khoa, cũng vì không chấp nhận sự hiện diện của quân đội Mỹ ở đây mà đang bị tù đày.

David lúc này mới hiểu nỗi buồn của bạn mình, nắm tay chia sẻ và ngước nhìn Bích Liên bằng đôi mắt long lanh tự hào:

- Bây giờ là lúc lương tâm nổi loạn. Như bên nước chúng tôi, để chống bị đăng lính đẩy sang Việt Nam, người ta nói chỗ đứng duy nhất của một người có lương tâm là trong nhà tù! Từng nhóm thanh niên Mỹ trắng, Mỹ đen hét to lên “We won’t go” (Chúng tôi sẽ không đi) rồi cùng nhau đốt hoặc ném trả từng đống thẻ quân dịch trước đám đông công chúng mà không sợ sẽ bị vào tù. Có tới hơn phân nửa số thanh niên ở tuổi quân dịch chống lệnh nhập ngũ sang Việt Nam, trong đó hàng chục ngàn người bỏ trốn ra nước ngoài chấp nhận cuộc sống lưu vong. Họ còn lòng dạ nào vác súng sang đây để nếu không chết thì cũng thành người vô dụng bị khinh khi? Hàng trăm ngàn binh lính đào ngũ và con số ấy vẫn gia tăng. Không ít sỹ quan và binh lính hết hạn tham chiến ở Việt Nam về ném trả những tấm huân chương ra đường vì họ đã nhận ra những việc làm vô nghĩa bẩn thỉu ở đây. Đó là điều chưa từng có trong quân đội Hoa Kỳ. Chúng tôi không có tội. Những kẻ lừa dối chúng tôi mới có tội. Võ sỹ quyền Anh vĩ đại Mohammet Ali của chúng tôi tuyên bố: Không có lý do gì để chống lại Việt Cộng! Cũng không có người Việt Nam nào đối xử tồi tệ với người da đen cả! Và anh thà đi tù chứ không đi lính! Hàng trăm ngàn người làm theo anh. Chính phủ Mỹ không thể tiếp tục lừa dối chúng tôi để mở rộng chiến tranh sang Campuchia nữa!

Anh ta nhìn thẳng vào Bích Liên, hai tay chắp trước ngực, nói như lúc xưng tội trước Chúa:

- Thực ra đã có người sớm tỉnh ngộ nhìn ra sự phi lí của cuộc chiến tranh này nhưng liền bị loại ra khỏi guồng máy chiến tranh và bị Lầu Năm góc gán cho cái biệt danh là Người đàn ông nguy hiểm nhất nước Mỹ! Đó là lời buộc tội đầy ác ý. Dù sao với những chứng cớ ông đưa ra đã thuyết phục nhiều người có thái độ trung lập đứng về phía chúng tôi, dứt khoát phản đối cuộc chiến tranh này. Người ấy chính là ngài Daniel Elsberg, một trợ lý quan trọng của Bộ Quốc phòng.

Quay qua ngài nghị sỹ, giọng anh trầm xuống như trong đầu vừa loé lên tia hy vọng:

- Ở nhiều nước bên Âu-Mỹ, phong trào Phe tả mới trong giới trẻ đang bùng lên dữ dội. Họ không theo tư bản, không theo cộng sản, chỉ đòi tự do–bình đẳng–hoà bình trong tình yêu thương nhân loại và giữ môi trường sống trong lành.

Ông giáo trầm ngâm nói một mình:

- Huyền thoại về một Pax Americana (nền Hoà bình thế giới kiểu Mỹ) đã tan thành mây khói và nước Mỹ đang dấn sâu vào cuộc khủng hoảng lớn về tinh thần…

Văn Khoa bình tâm lại, kể chuyện bên nước Mỹ:

- Cháu qua Mỹ với ý định hoàn thành khóa luận để chuẩn bị cho một luận văn Tiến sỹ. Không ngờ phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam, đòi rút ngay quân Mỹ về nước náo động qúa. Không chỉ là các cuộc biểu tình trên khắp nước Mỹ, có hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người tham gia mà còn có các cuộc hội thảo ở rất nhiều trường đại học, tranh luận về tính pháp lý – có hợp pháp và nhân đạo hay không của cuộc chiến tranh. Họ trưng ra khẩu hiệu “Be true to yourself !” (Hãy thành thật với chính mình). Tham dự có nhiều người hiểu biết sâu về nhiều lĩnh vực luật pháp, lịch sử, triết học, nhà văn, chính khách cựu trào, cả những người từng tham chiến ở Việt Nam về. Lúc đầu cháu đi dự vì sự tò mò. Sau thấy hấp dẫn bởi sự sâu sắc về tính lịch sử và nhân văn của nó. Được nghe, được đọc nhiều tài liệu giúp mình nhìn bao quát cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Người Mỹ yêu nước đến cực đoan nhưng khi họ thức tỉnh hiểu ra thì họ sửa sai quyết liệt lắm! Họ biểu tình tuần hành khắp nơi, có khi nằm, ngồi, tuyệt thực, tự trói mình, thậm chí đã có hàng chục người đàn ông, đàn bà già, trẻ theo nhau tự thiêu để phản đối cuộc chiến tranh vô nghĩa… Tiến sỹ thần học Martin Luther King làm người Mỹ nổi giận khi chứng minh rằng Tổng Thống Johnson tiêu tốn USD 322.000 để sát hại một du kích quân ở Việt Nam nhưng chỉ chi USD53 cho mỗi đầu người trong cuộc chiến tranh chống nghèo đói ở Mỹ. Nghĩa là những lời hứa về một “xã hội vĩ đại” đã bị bắn gục trên chiến trường Việt Nam! Ông thuyết phục được dân chúng Mỹ tin rằng “đường lối của Mỹ ở Việt Nam là đáng xấu hổ và phi chính nghĩa”! Cũng từ cuộc chiến tranh phi lý của người Mỹ ở Việt Nam đã thức tỉnh giới trẻ Pháp đứng dậy và được sự hưởng ứng nhiệt tình của thanh niên nhiều nước. Cùng với cuộc đấu tranh đòi Black Power (Chính quyền cho người da đen), có người nói nước Mỹ đang như ở đêm trước một cuộc cách mạng… Cháu thấy ân hận là người Việt Nam mà bấy lâu nay thờ ơ với lịch sử của chính dân tộc mình. Khác nào thiếu trách nhiệm với vận mệnh tổ quốc mình. Cháu cảm thấy mình có lỗi và hổ thẹn với người!

Ông giáo vui như gặp người tri kỷ:

- Người Mỹ chỉ thấy sai khi nhận ra là họ bỏ ra qúa nhiều công của và tốn hao bao nhiêu xương máu mà chẳng nhận được gì! Ai đã không cho họ làm được điều ấy nếu không phải là những người mà ta gọi là ở phía bên kia! Người Mỹ đáng tự hào về truyền thống tự do và luôn biết làm mới mình. Người Việt Nam cũng có quyền tự hào về truyền thống chống ngoại xâm giữ nước. 

- Bây giờ bác khuyên cháu phải làm gì ?

Ông giáo suy nghĩ. Bích Liên bật dậy:

- Anh phải đi tìm bằng được chị Thủy Tiên và đòi chị ấy ra!

Văn Khoa cắn môi suy nghĩ:

- Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu? Người Mỹ trọng thực chứng trong khi ở đây không ai tin tôi cả!

- Bích Liên sẽ giúp! – Cô ngoéo ngón tay trỏ đưa về phía anh.

Bích Liên tới hotel gặp Văn Khoa và David. Cô chỉ anh bạn cùng đi giới thiệu:

- Bạn Tiến Cường sẽ giúp các anh! Bích Liên lo chuẩn bị nay mai sang Pháp. Phải xa Sài Gòn, Liên nhớ nhiều thứ lắm nhưng được đi du học cũng là điều hấp dẫn. Dù ở đâu Liên cũng hướng về các bạn!

Cô nhìn bạn với ánh mắt thật buồn và quay sang hai người bạn mới:

- Các anh hãy tin bạn của Liên. Đó còn là trách nhiệm… công dân!

Cô bắt tay mọi người mà không nhìn ai và quay đi, chạy thật nhanh.

Tiến Cường nắm chặt tay hai người:

- Chúng ta lạ đã thành quen. Tôi có thể giúp gì cho các bạn?

- Chúng tôi muốn gặp một người tù ở Côn đảo để từ đó lần ra manh mối bạn tôi.

- Không phải chỉ là một… Ngoài tôi, còn có bốn bạn sinh viên nữa vừa thoát khỏi cái địa ngục ấy trở về đây!

David mừng qúa:

- Chúng tôi sẽ bố trí cho các bạn gặp nhà báo và có thể cả mấy ông nghị sỹ Mỹ hiện đang ở Sài Gòn để tìm hiểu sự thực về các nhà tù ở đây. Họ vừa có nghiệp vụ, vừa có uy tín với nhà chức trách sở tại, sẽ không ai gây khó được.

- Tuy nhiên việc làm của chúng ta phải được giữ kín vì chúng tôi như cá nằm trên thớt, dưới tay dao của giới cầm quyền và… còn không ít người Mỹ các ông vẫn đang tiếp tay cho việc làm của họ.

Cuộc gặp bước đầu gây xúc động và lóe lên một sự thực mà lâu nay những chính khách có lương tâm vẫn nghi ngờ. Những chứng nhân khuyến cáo:

- Nếu đến với chức danh khách lạ tới tham quan một Trung tâm cải huấn, các ông dễ thấy hài lòng vì những trò giả dối họ bày ra che mắt. Các ông chớ có phỏng vấn những người được cài ở những vị trí trực chờ, vì đó là những kẻ phản bội đê tiện nhất đang cần dịp để lập công. Không ai dám công khai chỉ cho các ông những nơi cần đến nếu như các ông không chủ động tìm đến những nơi các ông cần biết…

Họ chỉ vẽ cho khách sơ đồ để tìm ra chuồng cọp khét tiếng ở nhà tù Côn đảo.

Đoàn đại biểu Thượng Hạ nghị viện Mỹ ra thăm Côn đảo nhằm mục sở thị những điều dư luận đang gây rối thêm trong bối cảnh cuộc chiến tranh Việt Nam làm cho nội tình nươc Mỹ chia rẽ sâu sắc chưa từng thấy. Có một số phóng viên tháp tùng. David và Văn Khoa nhập vào trong số ấy.

Viên Trung tá  tỉnh trưởng kiêm giám đốc nhà tù, có cả cố vấn Mỹ cùng nghênh tiếp và dẫn các vị khách đi tham quan Côn Sơn như một chuyến du lịch sinh thái nguyên sơ giữa trùng khơi hùng vĩ. Nơi đây, từ giữa thế kỷ XIX, người Pháp đã biến thành một đảo tù đầy tai tiếng. Nhưng dưới thể chế Việt Nam cộng hòa, đã chuyển đổi thành một Trung tâm cải huấn đúng tinh thần nhân đạo và kỷ cương pháp luật. Đã có chủ định, đoàn đi lớt phớt qua các trại và không phỏng vấn ai. Viên Tỉnh trưởng khoe:

- Dưới thời ông Diệm, bởi chế độ bạo ngược gia đình trị biến tù nhân thành những kẻ bất trị, hay nổi loạn. Đã từng có một ông tướng cảnh sát từ Sài Gòn ra đây. Muốn thể hiện uy quyền võ dũng, ổng cho dựng lên hai cái cổng. Bên hữu đề chữ “Quy chánh quốc gia”. Bên tả đề chữ “Cộng sản ngoan cố”. Ổng kêu tù nhân xếp hàng dài phía trước và ra lệnh: Bước! Kẻ nào vô cổng bên tay mặt thì yên. Kẻ nào vô cổng bên tay chiêu bắn bỏ liền! Vậy mà cổng bên phải chỉ có mấy đứa cắm đầu chạy vô thật nhanh, không dám quay mặt lại. Trong khi cổng bên trái, người chết gục chồng lên nhau, phải kéo xác ra bước qua vũng máu. Cuối cùng ngài thiếu tướng toát mồ hôi, ra thẳng máy bay dông mất!

Y dừng lại thở rồi cao giọng lên:

- Nhưng đến thời Đệ nhị cộng hòa, có sự viện trợ hào hiệp cả về tài lực và nghiệp vụ của Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ, chúng tôi cảm hóa được tù nhân. Họ nhận ra chống lại quốc gia là phạm pháp, chấp nhận ngồi tù theo án lệnh, chừng nào hết hạn sẽ được trở về với gia đình, hòa nhập vào xã hội dân chủ, tự do. Đúng với nghĩa là trung tâm cải huấn.

Ông ta dừng lại ở một nơi gọi là Trạm xá, có mấy người nằm, ngồi, có người đang được truyền “nước biển”. Trong khi viên Trung tá tiếp tục thao thao với các ông nghị, một người tù nói nhỏ, Văn Khoa thông dịch cho mấy phóng viên nghe:

- Tôi bị tù không có án từ thời Diệm vì tham gia kháng chiến chống Pháp. Tôi không còn nghĩ tới ngày được tha. Tất cả đang diễn kịch theo ý họ! Chúng tôi ăn còn không đủ, ngay đến cả cọng rau cũng thiếu huống chi bịnh tật, làm sao có được một viên thuốc chứ đừng nói tới có người thăm khám. Chúng tôi theo nhau chết dần.

Tới trước cổng trại Phú Tường, một ông nghị đưa ra bản danh sách tù nhân và yêu cầu gặp họ. Viên Trại trưởng và các cố vấn sửng sốt nhìn nhau, nêu nhiều lý do khăng khăng từ chối. Theo sơ đồ ghi nhớ trong đầu, đoàn đi qua cổng, tiếp là một cổng nữa nhưng đoàn rẽ vào những luống rau bên phải, phát hiện ra dưới những luống rau là một lối mòn, lập tức dấn bước đi. Viên Trung tá vượt lên, ngăn đoàn dừng lại ngay trước một cái cổng sắt nhỏ và thấp đóng im ỉm. Một ông nghị muốn đi qua chiếc cổng đó nhưng viên trưởng trại to tiếng cản. Lính gác bên trong nghe xôn xao tiếng người, cứ theo lệ, mở banh cửa ra. Cả đoàn ồ lên, lách qua cái ngách bé tẹo để vào… chuồng cọp, trong khi viên cai tù kể cả cố vấn hầm hầm bỏ đi. Các vị khách vội leo lên boong, qua những song sắt từ trên trần nhìn xuống từng ngăn hai bên như những cái chuồng chật chội, trong đó những người tù rách rưới, gầy mòn héo hon đang ngồi chen chúc.

Thấy đoàn khách lạ tây ta nhốn nháo, những người tù đứng bật dậy la lên:

- Đả đảo đế quốc Mỹ xâm lược!

- Đả đảo bọn tay sai bán nước!

- Đả đảo chế độ lao tù hà khắc, tra tấn, bức hại tù nhân!

Tiếng la hét phản đối lan truyền dọc theo hai dãy mấy chục cái chuồng hôi hám chật hẹp dồn ép mấy trăm con người. Trên đường boong có những cái khạp chứa đầy thứ nước nhờ nhợ hôi hôi hoặc là vôi bột. Chưa mấy người hiểu ra đó là những khí cụ để hành hạ người tù. Một ngài dân biểu giơ hai tay lên và nói thật to:

- Chúng tôi đại diện cho nước Mỹ qua đây điều tra thực chất chế độ lao tù ở đồng minh Việt Nam cộng hòa.

Một giọng nữ nói tiếng Anh vọng lên :

- Chính nước Mỹ là thủ phạm gây nên bao nhiêu đau thương tang tóc cho nhân dân Việt Nam trên khắp nước này!

Mọi người dồn mắt nhìn xuống một cái chuồng, nhận ra mấy người phụ nữ đang ngước nhìn lên với ánh mắt giận dữ và nét mặt căm hờn, nổi lên một bà già gầy guộc, mặt hốc hác, bận chiếc áo cánh sáng màu, đeo kính đen giơ cả hai tay lên chới với. Một người vực bà đứng dậy và nói to lên lời tố cáo:

- Bà mẹ này bị mù là do bị hành hạ trong các nhà tù của người Pháp và người Mỹ vì tội bà yêu nước! Phụ nữ chúng tôi ở đây da thịt bị lở loét khắp người. Thuốc của các ông là những thùng vôi bột và thứ nước thánh người ta bày ra đó! Một hơi thở, một giọt nước, một hột cơm người tù chúng tôi cũng phải trả bằng máu! Đây là nhân quyền của thế giới tự do sao?!

Đúng là địa ngục ở trần gian! Mọi người lộ rõ vẻ xúc động. Nhiều người tới tấp quay phim, chụp ảnh. Linh cảm vụt đến mách bảo, Văn Khoa ngồi thụp xuống, kêu thật to lên:

- Thủy Tiên! Thủy Tiên đấy phải không?

Một người phụ nữ hét lên giận dữ:

- Anh Khoa! Anh theo chúng nó tới đây làm gì?

- Anh không theo ai cả… Anh đi tìm em đây!

Văn Khoa không biết nói gì. Anh ngồi bệt xuống dùng cả hai tay đập mạnh lên những chiếc song sắt nhớp nhúa đen đủi cứng chắc không hề lay chuyển… Giá như bẻ được những cây sắt này, anh sẽ lao ngay xuống, bất cần gì. Anh ngồi đấy uất ức mà bất lực trong khi thời gian ào qua nhanh quá. Dưới sức ép của các nhân viên sở tại, mọi người lục tục quay ra. Văn Khoa gào lên:

- Thủy Tiên! Anh phải làm gì đòi em ra khỏi nơi này?

Hình như có mấy người cùng nói vọng lên:

- Đấu tranh! Hãy đấu tranh đòi một miền Nam hòa bình và trung lập!

Ra khỏi khu vực trại giam, một vị dân biểu Mỹ đi đến bên Văn Khoa nói:                             

- Tôi chia sẻ nỗi buồn và niềm vinh quang của anh. Nếu bạn gái của anh là cộng sản, tôi vẫn kính phục. Nếu cô ta chưa là cộng sản thì tôi tin rằng ra khỏi nhà tù này bạn gái của anh sẽ là cộng sản… Chúng tôi phải xem xét lại ý niệm của mình về Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam.

Về Sài Gòn, Văn Khoa lao ngay tới nhà, ôm lấy Bích Liên:

- Em ơi! Thủy Tiên khốn khổ và… một bầy khốn nạn!

Anh nhiều lần nén lòng mới kể hết ra câu chuyện… rồi ngồi thừ người ra.

Bích Liên mắt ướt lonh lanh, nắm tay Văn Khoa lôi đi:

- Phải đến ngay Ủy ban đòi cải thiện chế độ lao tù của cô giáo em, có cả luật sư Dương Trọng Đức để tố cáo và đòi người của mình về – Cô lôi băng băng anh bạn chạy theo mình.

Tuy nhiên, chỉ mấy hôm sau, tấm hình bà má Sáu – người nữ tù già mù với chiếc kính đen, gầy guộc hom hem ngồi giữa những nữ tù tuổi hàng con cháu lọt dưới trần song sắt trong chuồng cọp ở nhà tù Côn Đảo đã lan truyền đi khắp thế giới càng làm cho dư luận thêm phẫn nộ. Và khi các ông nghị Mỹ vừa rời khỏi Sài Gòn thì một lô phóng viên trong đó có cả David và Văn Khoa nhận được tống đạt của nhà chức trách buộc phải rời khỏi Việt Nam trong 24 tiếng đồng hồ.

Bích Liên và Văn Khoa cùng sang Pháp trên một chuyến bay mà trong lòng day dứt về số phận của người chị, người bạn gái chưa biết sẽ ra sao.

Nhân Tín dẫn một anh bạn về nhà, giới thiệu:

- Đại uý Nguyễn Phước Bảo Lộc, cùng chỗ làm với cháu. Gia đình mới từ Huế tị nạn vào đây. Con xin bác và mợ cho tạm trú ở nhà mình ít bữa.

Nhìn bạn con dáng bơ thờ, bà giáo dễ dàng chấp thuận:

- Anh em gặp lúc khó, phải đỡ chứ sao! Nhà mình suốt ngày đi vắng hết, có người đến ở càng vui.

Đại úy thanh minh:

- Thưa hai bác, bên Giải phóng chiếm thị xã Quảng Trị rồi! Người Huế lại một dịp hốt hoảng, dắt rủ nhau bỏ chạy tán loạn. Mạ cháu không muốn đi nhưng cháu sợ lỡ xảy ra chuyện chi thì mang tội. Nhà cháu ruột thịt không có ai ở đây. Nhờ vả bà con họ tộc phiền lắm. Bác cho cháu có thời gian lo tiếp.

Gia đình viên đại úy chỉ có bà mẹ với người vợ là cô giáo tên Tôn nữ Dạ Lan và một đứa trẻ chừng 4-5 tuổi, sinh hoạt nền nếp, gia phong lắm. Bà mẹ lúc nào cũng ôm đứa cháu trai như cục qúy. Một lúc sơ ý, nó chạy tọt ra mở cửa, phốc ra hè. Bà hớt hải lôi cháu vào nhà than:

- Ngày Tết năm Thân, nó còn nằm trong bụng mẹ. Cả nhà cài chặt cửa không dám ló mặt ra. Vậy mà người ta vẫn đến kêu ông hắn đi biệt tích! Ông nộị cha hắn ngày xưa cũng bị tây bắt đem đi biệt xứ, không biết nơi mô mà tìm! Giờ chỉ còn một chắc hắn đây. Tui biểu đặt cho nó cái tên Nguyễn Phước Bảo Thân. Chui cha! Cả một đời người tao loạn. Theo bên mô cũng chết. Cầu Trời Phật cho một bên thắng hẳn đi, chớ cù cưa mãi nỏ biết mô tê chi ra răng rứa!

Theo đà triệt thoái quân ngày một gia tăng. Đầu năm 1972, còn hơn một trăm ngàn quân Mỹ gom lại ở các căn cứ đóng quân chờ lệnh rút. Nhân Tín chuyển qua Bộ Tổng tham mưu quân lực Việt Nam cộng hòa sau khi qua căn cứ Philippine tu nghiệp ở Trường Tham mưu mấy tháng. Công việc của anh ngày càng nhiều. Viên đại úy nói với ông giáo:

- Bên kia không vô Huế được. Họ đang bị kẹt. Thành cổ Quảng Trị giờ như một pháo đài. Bên cố thủ. Bên công phá. Hình như bên Giải phóng quyết tử chiếm một thị xã gần vĩ tuyến 17 làm thủ đô nếu có hiệp định hai bên ngưng bắn. Bên Quốc gia không đời nào chịu, lại được bom pháo Mỹ chi viện tối đa. Trung tá đang ở Huế, trong Bộ chỉ huy hành quân tái chiếm thành Quảng Trị. Lính quốc gia gọi con đường từ Huế ra nớ là “Đại lộ kinh hoàng”! Cháu hy vọng có thể cho gia đình hồi hương sớm.

Báo chí đầy những tin khủng khiếp về một mùa hè đỏ lửa ở miền Trung.

Bà giáo nghe tin, ruột gan rối bời lên. Bà than thở với ông:

- Nó ra đánh nhau ngoài ấy liệu hai anh em nó có biết nhau mà tránh đi không?

Tuy nhiên, tiếng súng ở thành Quảng Trị chưa yên, Nhân Tín đã được gọi về Tổng hành dinh. Anh nói với bác giáo:

- Cuộc hòa đàm đang vào lúc gay cấn. Bên nào cũng ra sức chiếm đất, giành dân để có thế đứng trên bàn hội nghị. Sức ép của dân chúng Mỹ không cho Tổng Thống Nixon để chiến tranh kéo dài dây dưa mãi. Tuy nhiên Tổng Thống Thiệu không đủ tự tin miền Nam này có thể đương đầu với miền Bắc một khi không còn quân Mỹ ở đây!

- Thế quân đội của cháu có đủ sức chọi lại với bên kia không?

- Bên kia là ai? Điều cốt tử là ở đấy. Nếu tách rời ra, bên kia chỉ là lực lượng du kích và lính địa phương của miền Nam thôi thì ăn nhằm gì, mình dư sức. Nhưng bên kia gồm cả lính Cụ Hồ và tướng Giáp nữa thì khó lòng chơi lại. Đó là cái gốc mà tình hình chiến sự đang được hai bên đẩy cao lên. Hình như đối phương đã lại sức sau mấy năm kiệt quệ. Trong khi tiến đánh ngoài Trị–Thiên thì ở Nam Bộ, họ mở chiến dịch Nguyễn Huệ, đồng loạt nổ súng khắp các tỉnh từ miền Đông đến đồng bằng. Thị trấn quan trọng Lộc Ninh bị mất, Tây Ninh bị áp lực, đe dọa con lộ chiến lược 22 từ biên giới tây bắc về thẳng Sài Gòn. Vùng Bốn chiến thuật không còn là nơi yên ổn. Những gì ta giành được từ chiến dịch Bình định cấp tốc và Phượng Hoàng đang có nguy cơ xôi hỏng bỏng không.

- Biết mình khó trụ nổi trong khi Mỹ muốn lảng ra. Vậy điều gì sẽ đến?

- Chỉ có Chúa mới biết được thôi! – Nhân Tín nhún vai.

Ông giáo nhìn cháu thương hại:

- Cháu hãy nhìn tấm gương cậu Phát Lộc đấy! Danh lợi chẳng là gì. Bây giờ vợ góa con côi!

Nhân Tín đanh mặt lại:

- Đã lên võ đài, không ai tháo găng, ném kiếm đi đâu!

Ông giáo nghiêm nét mặt:

- Tìm ra con đường sống hoặc chọn một cách chết cho mình. Đó là lúc cần có sự quyết định tỉnh táo, khôn ngoan trong một đời người!

Nhân Tín nhìn lên tượng Chúa, làm dấu thánh như một con chiên thực thụ:

- Chúa là tình thương. Xin Người che chở cho chúng con!

Ông giáo từ cuộc họp ở Hạ nghị viện về, nói với bà:

- Việc buôn bán cầm chừng thôi, xem binh tình ra sao đã!

- Tôi nghe ngoài chợ người ta đồn trước kia ông Diều hâu Nixon bênh ông Thiệu, xúi ông ấy chống lại không cho ông Bồ câu Johnson hội nghị rút quân mà?  

- Cùng phường mạt cưa mướp đắng cả! – Ông giáo cười khẩy:… Dù Diều hâu hay Bồ câu, đều phải vì nước Mỹ, lợi thì vơ vào, bất lợi thì phải nhả ra thôi!

- Mà sao bây giờ ông Thiệu lại công khai chửi Mỹ quyết liệt thế? Xem chừng ông Nixon không dám coi thường ông ấy đâu!

- Một thằng Sở Khanh không dám muối mặt dứt tình với một thằng con hoang trời đánh! Nhưng rồi cũng đến lúc phải dứt nhau ra. Mâu thuẫn giữa chính quyền Mỹ và Việt Nam cộng hòa ngày càng lộ ra công khai. Quốc hội như cái chợ trời đầy lũ buôn lậu lẫn ăn mày, vừa tranh giành chửi bới lẫn nhau vừa cầu xin thê thảm. Lâu nay quen bám đít ngoại bang, bây giờ nó phủi sạch, thằng nào cũng sợ đái ra quần!

Trung tá Chu nói với bác giáo: 

- Quan hệ giữa tòa Bạch Ốc với dinh Độc Lập căng thẳng lắm. Ông Kissinger bay qua báo cho Tổng Thống Thiệu biết nội dung Bản Hiệp định giữa Bắc Việt và Hoa Kỳ đã thoả thuận với nhau. Tổng Thống tức lắm vì họ quyết định vận mạng mình mà không thèm hỏi ý kiến của mình và ông tuyên bố thẳng thừng: “Nếu tôi ký vào Hiệp định là tôi tự sát”! Ông Kissingger bỏ về, để lại lời đe dọa sẽ không bao giờ quay lại Sài Gòn lần nữa. Bây giờ, Tổng hành dinh nháo nhác cả lên trước tin Tổng Thống Nixon tuyên bố Hiệp định xem như đã hoàn thành và ông Kissinger nói: “Hòa bình trong tầm tay”!

- Đương nhiên Thiệu chưa muốn rời cái ghế ngồi đang ấm chỗ. Nhờ Mỹ mà ông ta thắng cử dù là trò độc diễn chẳng hay ho gì. Nhưng rồi ông ta được mặc sức độc quyền chứ không bị ai cản mũi trêu ngươi như khóa trước: Tổng Thống, Phó Tổng Thống cùng ở trong phủ đầu rồng mà một cái cầu thang cũng chia ra làm hai lối riêng mạnh ai nấy đi! Ông ta dựa vào đâu mà dám nói toạc ra rằng sẽ từ chức nếu ngày nào người Mỹ ngưng viện trợ? Bây giờ người Mỹ lại nói rằng họ đã hoàn thành kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh rồi thì họ rút! Tại cuộc họp lưỡng viện mới đây, ông Thiệu tuyên bố nếu Mỹ ép qúa thì ông ta không chịu ký!

- Liệu người Mỹ có chịu không?

- Người Mỹ đến và đi đều là quyền của họ. Trước kia, vì họ bỏ tiền ra dựng anh lên mà không làm được việc. Bây giờ là do họ không thể chết mãi cho anh. Biết điều thì họ còn để cho ngồi đấy. Nếu không họ thiếu gì người. Lôi thôi ngang ngạnh thì họ phủi toẹt đi. Đầy tớ dù không mất mạng rồi lại lẽo đẽo chạy theo thầy. Lúc đó chỉ có đi ăn mày thôi!

Đang lúc dư luận hồi hộp chờ xem Hiệp định hòa bình lúc nào sẽ đến thì vào dịp nhộn nhịp cuối năm, Sài Gòn nhốn nháo lên nghe tin không lực Mỹ đem B52 ra dội bom hủy diệt thủ đô Hà Nội và thành phố cảng Hải Phòng.

Cô Thêm hớt hải tới nhà ông giáo. Bà giáo mấy hôm nay nghỉ chợ, ruột gan cứ như lửa đốt. Cô Thêm mắt đỏ hoe:

- Nghe nói một chiếc B52 chở được hàng trăm quả bom, mỗi quả những mấy tạ. Mà mỗi tối nó ra hàng trăm chiếc thì còn gì nữa chị ơi?

Cô gục vào lòng bà chị khóc hu hu:

- Nghe tin sắp có hòa bình, em đi chùa lễ bái cầu Trời-Phật phù hộ cho thầy đẻ em mạnh khỏe chờ đến ngày con được về nhìn cha mẹ một lần rồi sao cũng được. Nhưng bây giờ bom đạn thế này… Chồng em nghe tin đài ở đâu nói số bom nó dội xuống Hà Nội ước bằng năm quả bom nguyên tử và có tới hơn hai vạn người chết dập chết vùi thảm thương lắm… Em cứ nghĩ thế thì chẳng còn ai sống được đâu! Mỗi khi nhớ tới cái chết của anh Năm em hồi đầu kháng chiến mà đau lòng qúa, chị ơi!

Bà giáo càng hoảng sợ. Nhà bố con nó ở gần cầu Long Biên chắc gì đã yên !

Ông giáo thu thập tin nhiều đài, kể lại chuyện Hà Nội bắn rơi nhiều máy bay và bắt sống nhiều phi công Mỹ, cũng chẳng làm các bà yên lòng:

- Nó rơi mấy chiếc máy bay, mấy thằng bị bắt chứ mình thì phố phường tan hoang, bao nhiêu mạng người vùi trong đống đổ nát ấy chết chẳng toàn thân, họa chăng còn ai sống sót cũng ngắc ngoải hoặc là chẳng ra hình dạng con người nữa rồi cũng chết dần chết mòn đau đớn lắm! Lại cảnh bơ vơ màn trời chiếu đất, làm sao sống được hở trời?

Cô Thêm ngơ ngẩn hỏi ông giáo:

- Vậy mà em gặp anh nhà báo chồng chị Hoa lại cười hể hả. Anh ấy bảo tự bên kia dồn ép qúa nên người Mỹ nổi điên lên. Chỉ cần quân Bắc Việt rút hết đi khỏi miền Nam này sẽ là yên ổn! Em chả hiểu ra làm sao cả?

Ông giáo giận đỏ mặt lên, không giữ được bình tĩnh nữa:

- Đồ vô liêm sỷ! Báo thơ gì nó. Nghe bọn vô lại ấy làm gì! Ngay tại nước Mỹ dân chúng đang lên án hành vi đó là “sự dã man của thời đồ đá”! Nixon và đồng bọn là “kẻ không còn tính người”! Chính viên Đại sứ Mỹ ở miền Nam này có đứa con chết trận ở Khe Sanh mà cũng phải thốt lên: “Đó là điều chúng ta không nên làm”! Cả thế giới coi đó là “tội ác diệt chủng” lớn nhất thời đại!

Một mùa giáng sinh thật nặng nề và đau đớn âm thầm trong lòng biết bao người.

Nhận tin từ ông Mười, ông giáo Phú đến truyền đạt lại cho ông giáo Kiến :

- Nixon và Kissinger chơi canh bạc cuối cùng, được ăn cả, ngã về không, nhằm hai mục đích: Với Sài Gòn, coi như họ đã hết mình. Với Hà Nội, họ ra đòn quyết liệt đòi phải sửa Hiệp định theo ý họ. Logíc của họ là dân chúng không chịu nổi ác liệt sẽ hoảng loạn và gây áp lực, buộc Chính phủ phải nhân nhượng Mỹ. Nhưng họ không ngờ húc đầu vào tường đá! Hà Nội không khuất phục trước hành động bạo cường. Dư luận thế giới và trong nước Mỹ phản đối mạnh mẽ hơn. Họ càng cô lập và tình thế không xoay chuyển được. Mất mát và đau thương to lớn thật nhưng ta đạt được mục đích cuối cùng: Hiệp định sẽ được ký có lợi cho ta. Một tương lai tươi sáng đang mở ra với những người Việt Nam yêu nước.

Nhìn người bạn, người cha mất con ngồi ngay như tượng đá, hai hàng lệ rưng rưng đọng trong đôi mắt già nua thăm thẳm, ông giáo Phú cảm thấy lòng mình nhũn ra. Ông choàng ôm vai bạn thì thầm:

- Thằng này “non hột”, không dám cứng đầu cứng cổ đâu, coi chừng là mạt vận. Nixon nổi cơn điên nói toạc ra với Chủ tịch Hội đồng an ninh Mỹ rằng: “Tôi sẽ làm bất cứ điều gì dù là tệ nhất, kể cả việc cắt lấy đầu hắn ta nếu việc đó là cần thiết”!

 

(trang 481)

 

Link http://sachhiem.net/VANHOC/N/NguyenvThinh_TBTg.php

ngày 24-Dec-2016

_________________

• Các bài của Nguyễn Văn Thịnh: link http://sachhiem.net/VANHOC/N/ListNVTh.inc.php

Trang Văn Học