Thời Bi Tráng

- tiểu thuyết -

Nguyễn Văn Thịnh

 

 

Chào mừng 1000 năm Thăng Long – Hà Nội

 

 

LÝ THƯỜNG KIỆT

 

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

 

 

[Đất nước Nam vua nước Nam ở

Rành rành định phận tại sách trời

Cớ sao lũ giặc tới xâm phạm?

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!]

 

 

LỜI TỰA

Nửa sau thế kỷ XX là thời kỳ biến động lớn nhất trong lich sử Việt Nam. Vì độc lập tự do và thống nhất tổ quốc, người Việt Nam liên tục phải đương đầu với mọi thế lực bành trướng lớn nhất trong lịch sử loài người.

Thành thị là nơi hợp lưu người tứ xứ. Nhưng mỗi nơi hình thành những đặc trưng cư dân khác nhau. Người Hà Nội là đặc trưng của nền văn hóa sông Hồng, tiêu biểu là nền văn hóa Thăng Long. Qua những biến thiên thời cuộc, người Hà Nội trải khắp theo chiều dài đất nước và tỏa đi tứ xứ, tiếp thu nhanh văn minh thời đại. Kết hợp với truyền thống văn hóa Đại Việt họ luôn hướng về cội nguồn dân tộc, góp phần xứng đáng vào việc bảo vệ tổ quốc để dân tộc trường tồn.

PHÚT THĂNG HOA (NXB Thanh niên–2005) và THỜI BI TRÁNG (chung khảo cuộc thi tiểu thuyết 2006–2010 của Hội NVVN) là tiểu thuyết bộ đôi về thời kỳ lịch sử ấy. Tinh thần yêu nước tiềm ẩn trong mọi tầng lớp từ vua-quan-sỹ-dân bừng tỉnh sau hàng trăm năm nô lệ tây phương đã làm cuộc Cách mạng tháng tám thành công và tiếp sau là cuộc kháng chiến trường kỳ bi tráng.

Lời tự sự của nhà văn Thiếu Sơn cũng là tâm tư của những người trí thức chân chính trước vận nước biến nguy: “Bọn xâm lăng không nhằm cá nhân tôi mà xúc phạm. Chúng đã xúc phạm tới cả một dân tộc! Tôi thấy tôi không thể tách rời khỏi dân tộc mà có được sự kính nể của ngọai bang”. Kẻ sỹ trong những thăng trầm của lịch sử, trước sứ mệnh cao cả với tổ quốc, đã vượt qua mọi thử thách cam go, đồng hành cùng dân tộc đi tới mục tiêu độc lập, hòa bình, thống nhất giang sơn.

Từ cái nôi văn hóa Thăng Long, lớp lớp người trí thức tiếp bước trên con đường không ít gian truân. Kẻ sỹ Việt Nam trăn trở tìm chỗ đứng cho mình! Bao nhiêu trí thức trong những hoàn cảnh xã hội khác nhau dù đứng ở đâu, suốt đời mang nặng một lòng riêng u ẩn. Với họ, câu hỏi lớn về tổ quốc vẫn chưa có lời giải nào trọn vẹn. Nhưng trong tiềm thức sâu xa, trách nhiệm trước sự tồn vong của dòng dõi con Lạc cháu Hồng, lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” hướng họ tới điểm đồng nhất là lòng yêu nước Việt Nam không thể mất đi.

Trong tâm thức của người trí thức, ranh giới của con sông Bến Hải cũng như con sông Gianh là nỗi đau phải dứt bỏ bởi dù trong hoàn cảnh nào trái tim họ vẫn hòa nhịp đập cùng trái tim tổ quốc. Sự ra đời của Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc tại Sài Gòn vào những năm 1966-1967 bao gồm hàng trăm trí thức tên tuổi không phân biệt Bắc, Nam, Kinh, Thượng đủ mọi chính kiến, thành phần là sự thể hiện ý thức và trách nhiệm của giới trí thức cả nước với tiền đồ của dân tộc.

Cuộc xum vầy Nam Bắc buổi đầu tuy có đớn đau nhưng cây Việt Nam dần hồi phục tốt tươi. Tác giả dẫn người đọc nhìn toàn cảnh gần xa và cũng nêu lên cả những khiếm khuyết trong bước đi lên và những điều còn trăn trở.

Tác giả sinh ra và lớn lên ở đất Hà thành và trôi nổi theo dòng thác biến động xã hội lớn lao suốt mấy mươi năm từ Bắc vào Nam, lòng còn mang đậm ký ức tuổi thơ và niên thiếu về cố đô Thăng Long. Những kỷ niệm của tuổi ấu thơ ngọt ngào và tuổi thanh xuân buồn vui trong khói lửa chiến tranh cùng cuộc sống xô bồ trong buổi giao thời.

Bộ truyện là chuỗi hồi ức sống động mang nét sử thi với nhiêù nhân vật vương bóng những con người thật, nổi chìm theo sự đổi thay trong bối cảnh thời gian và không gian đất nước rộng dài. Những sự kiện và diễn biến thời cuộc được sưu tầm cẩn trọng, phong phú, công phu gần với tiến trình lịch sử.

Những sự kiện ngày một mờ đi. Những con người ngày càng vắng bóng. Nhưng những dấu tích còn vương lại nơi trang sách, họa là chút gợi nhớ với lớp chứng nhân và gợi cảm với lớp người sau về một qúa khứ bi hùng.

 

Nhà văn VŨ HẠNH

Giải thưởng Nhà nước về Văn học

Nguyên Tổng thư ký Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc     

Nguyên Tổng thư ký Hội LHVHNTTP. Hồ Chí Minh

MỤC LỤC

Câu chuyện trong quyển tiểu thuyết Thời Bi Tráng dựa trên các dấu mốc lịch sử và được chia ra như sau:

Chương 1: Ngày trở về

Chương 2: Sài Gòn hoa lệ

Chương 3: Hà nội thao thức từng đêm

Chương 4: Chiến tranh đặc biệt - Lửa cháy ngất tòa sen

Chương 5: Chiến tranh phá hoại - Tàu Maddox đưa lính nhà trời Mỹ vào khách sạn Hilton Hà Nội

Chương 6: Chiến tranh cục bộ - Lầu năm góc phương Đông ăn Tết Mậu thân

Chương 7: Hậu phương lớn - Trận Điện Biên Phủ trên không

Chương 8: Sài gòn - Dậy mà đi núi sông đang chờ

Chương 9: Dù hy sinh sẽ thành bất tử khi tổ quốc ta về lại một nhà

Chương 10: Nỗi đau thời hậu chiến

Chương kết: Hợp - Tan - Tan - Hợp.

CHƯƠNG MỘT

Hà Nội, mùa thu Mậu Tuất 1958.

Vào một buổi trưa, cuối đê La Thành đầu ô Đống Mác, trên con đường trải đá xanh lởm chởm, một người tàn tật mặc quân phục, đội chiếc mũ gắn ngôi sao vàng quân hiệu điều khiển chiếc xe lăn quanh quẩn nhiều lần, đưa mắt dò tìm khắp hai dãy phố. Trời bỗng sầm tối lại. Cơn dông ập tới. Con lốc xoáy chạy dọc trên đê cuốn theo khối bụi mịt mù lẫn rác và lá bay lả tả. Những giọt mưa nặng hạt đập lộp bộp rải rác lưa thưa trên những mái nhà, tán lá. Người ta nháo nhác chạy tìm chỗ trú. Anh thương binh dừng xe, cúi gằm xuống, một tay ghì cần lái, một tay giữ chặt mũ cho gió khỏi giật đi. Những hạt mưa mau hơn rải đều lan ra phát lên tiếng rào rào hỗn tạp. Đám mây như con trâu đen trũi ầm ầm chạy qua, đuổi theo sau lại là khoảng trời quang đãng mênh mông rực nắng. Anh thương binh ngẩn ngơ nhìn trước nhìn sau lại thủng thỉnh cho xe đi dò dẫm. Cơn mưa bóng mây ào ào chợt đến, chợt đi. Lại vang lên những tiếng người gọi nhau í ới, những tiếng còi và chuông xe đủ loại pin… pin! kính… coong! ếp ... ếp! và những tiếng thét vội vã cáu kỉnh tục tằn của cuộc sống phố phường thường nhật. Bầu trời lại hiện ra cao ngất ngằn ngặt trong xanh với những áng mây trắng muốt mỏng tang nhởn nhơ đuổi nhau bay về phía chân trời. Anh thương binh dừng xe trước Nhà máy nước, ngại ngùng nhìn con dốc đối diện bên một ngôi nhà tầng cất dở dang nhưng vẫn trưng tấm biển Nhà hộ sinh to tướng. Mấy người đàn ông đứng lơ ngơ quanh đó chạy tới vồn vã hỏi:

- Đồng chí bộ đội tìm ai hay muốn vào trong làng?

- Vâng! Tôi vào làng trong.

Họ xúm nhau lại khiêng cả anh thương binh cùng chiếc xe xuống dốc và ríu rít thân mật hỏi :

- Đồng chí bị thương à?

- Đồng chí vào nhà ai? Có việc gì không?

- Xin cảm ơn các bác! Tôi về nhà tôi.

Giọng anh run run và đôi tay anh lập cập điều khiển chiếc xe bon bon như chạy.

Con đường làng quen thuộc đây! Những viên gạch dày cộp mòn trũng mấp mô. Dưới gánh nặng của thời gian, rìa đường từng mảng nứt trĩu xuống như muốn rời ra. Con sông Tô Lịch làm ranh giữa làng trong với làng ngoài đôi bờ hẹp lại, nông toèn, đen đặc, tỏa ra một không khí nặng nề. Anh thương binh nhẹ tay đẩy, thủng thẳng nhận ra từng địa danh dấu tích: Đây là hồ Trung! Bên đây là hồ Cổ Ngựa! Mấy đứa trẻ con tò mò nhìn anh xa lạ. Mấy người lớn ngờ ngợ nhưng chiếc xe đã lăn qua khiến họ chưa kịp nhận ra người cũ. Đình làng Hương Thể mình đây! Đình chùa đều bị chiến tranh tàn phá, hơn chục năm rồi vẫn là mái ngói mái tranh tạm bợ trên cốt tường cũ loang lổ gió sương. Cái giếng trước cổng chùa ngày nào nước trong xanh là thế, cả làng ra đây gánh nước về ăn, giờ chỉ còn là cái ao toen hoẻn đặc bèo tổ ong xám ngoét. Cổng đình xưa cao to ngất ngưởng uy nghi giờ là một khoảng trống thông thống với đường làng. Cây đa phủ bóng rợp sân đình, rễ của nó làm bật tung lên những viên gạch lát mòn. Anh dừng xe áp sát vào khúc tường tào xá sứt mẻ rêu phong, hướng ra hồ Đình, ngày xưa có kệ gạch xây rộng lắm. Chiều chiều lớp nhỏ và các anh lớn ra đây vẫy vùng thỏa thích, bây giờ lềnh bềnh những mảng bèo tây. Cái giếng thơi to tướng giữa sân đình đã bị san phẳng đi rồi, mấy đứa trẻ quần nhau một quả bóng bưởi, nhễ nhãi mồ hôi… Anh ngửa mặt nhìn lên tán đa cổ kính già nua, không để ý có người dừng lại dõi nhìn theo. Tiếng ai hỏi làm anh giật mình quay lại:

  - Ai như là Nghĩa… phải không?   

Anh bỏ mũ ra. Người ta chạy lại, xúm quanh, nhận ra người làng mình, tíu tít:

- Thằng Nghĩa!

- Anh Nghĩa!

- Cậu Nghĩa!

- Cháu nội cụ Hai Mùi!

- Con ông Hai Nhàn… Ông ấy chết sớm lắm!

- Cháu gọi ông Ba Thanh bằng chú đấy!

- Sao đến bây giờ mới về?

- Tưởng chết ở mãi đâu rồi chứ!

Thấy anh tần ngần, một người giải thích:

- Những ngày đầu kháng chiến, lính Pháp nã vãi đạn pháo vào làng, người chết rải rác khắp nơi. Sau nó tràn vào, bắt người sống quăng xác người chết xuống giếng đình nên dân làng phải lấp đi!

Nghĩa dần nhận ra từng người nhưng anh không thể trả lời những câu hỏi dồn dập được. Mấy đứa trẻ sấn tới xăm xăm đẩy xe đi:

- Chú bộ đội… thương binh về nhà ai?

Người ta theo nhau dặn với:

- Đất nhà cụ Hai Mùi ở dọc hồ Dài!

- Ông Ba Thanh giờ ở… trên phố!

- Bà Gái… à bà Bình ấy là cháu nội còn ở đấy!

Chiếc xe chạy băng băng dưới sức đẩy của đám trẻ háo hức nhiệt tình và tranh nhau hỏi: 

- Chú bộ đội bị thương ở đâu thế?

- Chú có đánh trận Điện Biên không?

- Chú còn đi được nữa không?

- Chú không có vợ con à?

- Chú Úy hay là Tá?

- Là lính… trơn! – Anh trả lời bâng quơ.

Một đứa ra vẻ người lớn, giải thích:

- Chú giấu sao được bọn cháu. Đi bộ đội lâu thế, bị thương nặng thế, “bốn túi chân trì” lại được cấp xe riêng… bét cũng phải là Đại úy!

Trong sự ồn ào náo nhiệt của đám trẻ vô tư, anh vẫn nhận ra cảnh cũ lần lượt lướt qua… Con đường lát gạch chạy dọc theo làng chênh vênh giữa hai bên là những ao hồ. Vùng này vốn trũng, xưa là địa điền của một dòng Chúa Trịnh. Cư dân hợp thành từng cụm ở trên những gò đảo, chung quanh nước mênh mông. Con cháu, dâu rể đông đúc thành đàn, gò đảo thành ngõ xóm. Tuy nhiên từ đầu tới cuối làng vẫn là những hồ ao lớn. Ao Cung Đường này xưa rộng lắm, giữa có hòn đảo phong cảnh hữu tình. Bà nội kể hồi xửa hồi xưa vào những đêm rằm gió mát trăng thanh có những cô tiên xiêm y rực rỡ từ thượng giới hạ cánh xuống đây tắm mát, vui vầy múa hát. Sáng ra còn trơ lại hòn đảo xanh rờn đẫm nước, lau sậy phất phơ… Bây giờ chia ra thành hồ Làng, hồ Bà Đắc, hồ Bà Biện một bên, hồ Xứ một bên. Nước đen ngòm từ những cống trong thành phố đổ ra, chảy theo con sông Tô Lịch tràn vào các ao ruộng. Bạt ngàn một màu xanh rau muống và những dặng ổi quả xanh quả vàng chĩu chịt đung đưa.

Khi chiếc xe dừng lại để đám trẻ chạy vào gọi người nhà, anh nhìn dọc ngang khắp lượt. Đây là hồ Dài với lối ngõ đi về nhà nội. Bây giờ nó bé tẹo! Những ruộng rau muống hái dở đám dày xanh mượt, đám trụi vàng hoe. Bụi cúc tần đầu ngõ lơ thơ mấy sợi tơ vàng nõn xen những sợi khô úa héo.

Anh Bình chạy ào ra. Hai người trước kia là bạn chiến đấu, bây giờ đã là anh em trong nhà, ôm nhau nước mắt giàn giụa không để ý những người lớn trẻ con vây quanh cười mà nước mắt cũng trào ra.

Anh Nghĩa lặng người ngồi trên xe dưới bóng cây xoan giữa sân. Những gì gắn bó với tuổi thơ và niên thiếu của anh chỉ còn là cái sân gạch cũ nát gồ ghề này, cái bể nước kia nứt rạn rêu phong và cây thìu lựu nửa tươi nửa héo với những chiếc lá vàng lơ thơ tàn tạ như bóng già còm cõi chẳng còn sống được bao lâu nữa. Người lớn lảng đi để anh có những phút giây hồi nhớ kỷ niệm xưa. Mấy đứa trẻ cứ loanh quanh luẩn quẩn trên thềm, ngoài ngõ nhìn anh nửa sợ nửa muốn làm quen. Nhìn đám trẻ vừa gần vừa xa. Chúng đều là anh em con cháu trong họ ngoài làng. Trong anh chợt bật lên bài thơ Đường ngày xưa anh học: Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi / Hương âm vô cải mấn mao tồi / Nhi đồng tương kiến bất tương thức / Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai?!(Khi đi còn trẻ, lúc về đã già / Giọng quê không đổi tóc da tồi / Trẻ con nhìn lạ không biết ai / Hỏi rằng khách từ nơi nào tới?!).

Bây giờ hai chú cháu anh cùng đơn độc.  

- Thím cháu đi Nam, cũng là tại chú! Lúc đầu tưởng đơn giản, chỉ hai-ba-bốn năm là cùng. Nhưng tình cảnh này chưa biết đến bao giờ! – Chú lộ rõ vẻ buồn rầu thất vọng.   

- Cháu bây giờ không mấy ai biết tên là Nghĩa đâu. Cháu là Hà Giang! Cháu bị thương lúc hiệp định Genève sắp ký, ta tranh thủ thế tiến công lúc địch đang hoang mang cực độ để mở rộng vùng giải phóng. Vết thương cột sống! Cháu từ Nam bộ tập kết theo chuyến tàu 100 ngày và được tổ chức đưa ngay sang nước bạn mong chữa cho kịp thời. Cháu ở Trung quốc mấy tháng rồi được qua Liên Xô. Khoa học còn bất lực với một vết đạn xuyên cắt ngang tủy sống! Cháu được bạn đặc biệt ưu tiên cho vào Viện an dưỡng phục hồi chức năng. Cháu tranh thủ thời gian học tiếng Nga và theo học hàm thụ Khoa triết học. Tấm bằng đỏ tốt nghiệp Đại học làm cháu tin rằng mình chưa đến nỗi thành phế nhân. Cháu về nước mong có thể làm được việc gì có ích. Cháu mới về được ít ngày nay, tạm nằm bệnh viện kết hợp điều trị Đông y trong khi chờ ý kiến của trên.

Chú loanh quanh kể chuyện nhà:

- Chuyện tình duyên của anh Bình với chị Gái cũng éo le khốn đốn một thời nhưng rồi qua được. Bộ đội cho anh ấy chuyển ngành, giờ làm công đoàn thành phố. Ruộng vườn phần của bố cháu và của chú, anh em con cháu không làm hết thì giao cho Hợp tác xã. May là mình đi kháng chiến đấy chứ không là địa chủ rồi. Của cải trong tay lúc này là phúc, lúc kia là họa, khôn lường.

Cả hai chú cháu chưa ai động đến một chuyện tuy trong lòng mỗi người cùng nghĩ đến.

Hương Giang một lòng chờ đợi anh. Cả cô và chú đã tìm đến các đơn vị tập kết hỏi dò tin tức về anh, tìm đến nhiều anh em Nam tiến trở về. Hàng ngàn hàng vạn người rải khắp từ miền thùy dương Trung bộ gió cát và đất cằn khô sỏi đá tới đồng bằng Nam bộ nơi kiệt cùng đất mũi xình lầy. Trong bấy nhiêu năm chiến tranh dòng dã liệu mấy người còn và dễ mấy ai biết được nhau đâu! Nhiều anh em ra đi đổi cả họ tên quê quán lại càng như mò kim đáy biển…

Hồi chiến tranh, thời gian đi chậm hơn rùa nhưng thời bình nó như ngựa phi nước đại! Hương Giang là người nghiêm trang đứng đắn và nhiều nghị lực. Nhiều người để ý và xa gần tỏ lộ cảm tình riêng. Anh Trần Quyết Tâm quen biết cô từ ngày còn ở chiến khu. Anh thường gần gũi và giúp đỡ cô những điều thiết thực. Dù có cảm tình đặc biệt với cô nhưng anh kín đáo tuy rất kiên trì. Có lăn vào công việc thì dù sao cô vẫn là người con gái. Cô coi chú Thanh như cha:

- Cháu hết hy vọng rồi và cháu không còn tình yêu nữa đâu! Cháu cũng không biết đời mình rồi sẽ ra sao. Anh ta là người ham học cầu tiến lắm và tổ chức nhiệt tình ủng hộ. Bác Tuần cứ giục cháu nhiều lần rồi.

Có lần ông tới thăm, ông Tuần cũng nhắc chuyện này:

- Tôi thấy anh ta là người tử tế. Con gái có lứa có thì thôi!

Ông Thanh xót xa vô cùng. Hòa bình mấy năm rồi mà Nghĩa vẫn bằn bặt không tin. Càng nhớ thương cháu, ông càng xót thương cô. Nghĩ tới anh Tham, ông cứ bồn chồn gan ruột. Ông coi con bé như con. Nhưng trong tình cảnh này ông thật khó nói ra. Anh Trần Quyết Tâm bây giờ là một trong những cán bộ trẻ cốt cán được tín nhiệm của các anh trên thành phố. Từng vào Nam ra Bắc, qua Cải cách ruộng đất rồi Sửa sai , anh là cán bộ hăng hái trung thành, giao việc gì cũng lăn xả vào làm. Được đi học Bổ túc công nông nâng cao văn hóa. Thật là cán bộ nguồn đáng qúy. Tuy nhiên anh ít muốn gặp ông trừ khi không tránh được. Ông luôn xưng hô với anh là đồng chí với tôi. Còn anh chỉ cười cúi đầu chào và không bao giờ chủ động đưa tay nếu ông không vồn vã đưa tay ra trước. Anh lúng túng trong cách dùng ngôi thứ, chỉ thăm hỏi mấy câu thường lệ rồi lánh qua chỗ khác.

- Con gái lớn khôn rồi. Cháu có thể tự quyết định tương lai được!

Biết mối quan hệ của cô với ông Thanh, một cán bộ tổ chức đại diện cơ quan thân chinh đến gặp:     

- Chúng tôi thấy cặp ấy xứng đôi. Tuy hoàn cảnh mỗi người một khác nhưng bổ sung cho nhau càng tốt. Cả hai đều có ý chí tiến thủ, từng qua thử thách và có nhiều triển vọng.         

- Tuy là anh chị có gửi cháu cho tôi nhưng dù là cha mẹ cũng chỉ dìu dắt con cái lúc nó còn thơ dại. Bây giờ cháu nó trưởng thành rồi là tùy ở cháu. Với lại vợ chồng cũng là duyên nợ!

- Đồng chí mà vẫn còn duy tâm như vậy sao? – Khách tròn mắt nhìn ông với vẻ ngạc nhiên.         

- Việc chung, việc nước thì tôi theo duy vật. Nhưng việc riêng thì thật tình là tôi còn nệ cổ! – Ông cười hiền trả lời thủng thẳng và thở dài hướng khách nói qua chuyện khác .         

Chuyện đã được tổ chức thông qua, coi như ván đóng thuyền rồi, chỉ còn chờ đến ngày hôn lễ.

Ông nhìn cháu đầy thương cảm và có ý trách:

- Sao bấy lâu cháu không tin gì về? Riêng cho chú thôi cũng được!

- Lúc đầu cháu hy vọng trị lành được vết thương. Ngày về sẽ thật là vui. Nhưng khi biết mình mang thương tật suốt đời, cháu không muốn mình sẽ là gánh nặng cho ai. Cháu tìm một hướng đi riêng cho mình để không bị thành phế nhân!

Ông càng thương và cảm phục cháu. Ông tin vào nghị lực của cháu ông và quyết định nói cho cháu biết chuyện nhà. Chỉ duy có một điều ông không nói ra người hôn phu của bạn gái cháu là ai.

Nghĩa bình tĩnh nghe nhận tin ấy trong khi ông chú cứ vừa nói vừa sụt sịt và nhiều lần lấy khăn tay lau mắt mà cháu ông vẫn ngồi yên, mắt nhìn xa xăm, cũng không hỏi thêm một câu nào. Cuối cùng anh thở ra một hơi mạnh và dài :

- Bấy lâu cháu chỉ sợ một điều là cô ấy vẫn đợi chờ. Xin đừng làm đảo lộn cuộc sống của cô ấy nữa!

Sau ngày cưới, Hương Giang lo thi vào Đại học trong khi chồng cô chuẩn bị đi du học ở Liên Xô. Ý anh muốn vợ theo học một truờng đào tạo cán bộ xây dựng đoàn thể. Nhưng sẵn có vốn tiếng Pháp, tiếng Anh, cô theo ngành Ngoại ngữ, học đỡ cực hơn vì cũng lớn tuổi rồi.

Và khi anh lên đường thì cô lại được cắp sách đến trường.

Bé Cẩm Nhung vừa hết bậc Trung học phổ thông cùng vào trường với chị nhưng bé  học khoa Văn.

Một hôm trên đường đi học về, Cẩm Nhung đột nhiên hỏi chị:

- Em mới đọc truyện ngắn Bản tính Nga của Alexi Tôlstôi chị ạ! Chiến tranh tàn khốc thật nhưng hậu quả của nó còn nghiệt ngã hơn. Vết sẹo ấy làm sao lành được? Người ta vẫn mang nỗi đau đớn suốt đời. Phải thế không hả chị?    

Chị em đang vui chuyện mà Hương Giang bỗng lặng thinh. Suốt cả chặng đường dài cô cắm cúi đạp xe, tư lự. Cẩm Nhung đạp xe theo và mải mê với suy nghĩ của mình. Tới Bờ Hồ, Hương Giang bảo em:

- Chị buồn quá. Em về nhà với chị đi!

Nhà chỉ có hai chị em thôi mà chẳng ai biết gợi chuyện gì. Cẩm Nhung cảm thấy câu hỏi vu vơ của mình bởi một cảm xúc văn chương về thân phận con người một thời lửa đạn biệt ly dường như động tới cõi lòng sâu kín của chị. Cô chợt nghĩ tới anh mình và chuyện tình dang dở của hai người. Cô vừa xúc động vừa lo sợ vì cậu đã căn dặn cả hai chị em cô và Nhân Trí không được nói chuyện về anh Nghĩa với chị Hương Giang và cũng không được nói chuyện với anh Nghĩa về chị đã lấy ai. Câu chuyện tình cờ mà bỗng dưng động đến cả hai người cô đều yêu qúy. Hương Giang giọng buồn buồn:

- Em tưởng người con gái cứ đi lấy chồng là có hạnh phúc rồi sao?! – Cô gục vào vai em thổn thức.

Cẩm Nhung thương chị quá, buột ra lời an ủi:

- Thế bây giờ chị có muốn gặp lại anh Nghĩa nữa không? – Bé nhận ra mình lỡ lời thì không kịp nữa rồi!

Hương Giang nắm vai em lay mạnh:

- Em nói vậy nghĩa là sao?

Trong ánh mắt cô lộ vẻ vừa cầu xin vừa như biết hết cả rồi:

- Em giấu chị điều gì? Trời ơi… Lâu nay em giấu chị!

Như đứa trẻ hoảng sợ trước sự đau đớn và giận dỗi của bề trên, cô bé vội vàng khai ra hết:

- Anh Nghĩa… về rồi! Về từ trước ngày chị đi lấy chồng ấy. Nhưng…

Hương Giang nước mắt dàn dụa:

- Nhưng sao? Anh ấy có vợ con rồi phải không?!

- Không đâu! Không đâu! Chị đừng nghi oan cho anh ấy!

- Mà sao mọi người đều giấu tôi? Các người ác thế!

- Không ai ác cả đâu! Mọi người đều thương anh, thương chị!

- Không ai thương tôi cả! Không ai thương tôi cả… Trời ơi! – Hai tay ôm mặt, cô khóc oà lên.

Bé Cẩm Nhung cuống quýt:

- Đừng khóc nữa chị ơi! Mọi người đều khổ cả. Cũng như anh lính Nga ấy ngày hậu chiến. Nhưng khác… chị ạ! – Cô bé lắc đầu lia lịa.

- Khác gì? Anh ấy khác gì?

Cẩm Nhung mếu máo:

- Em thương anh ấy lắm! Ai cũng thương anh ấy. Chị không tưởng tượng nổi đâu. Người ta bị phỏng khắp người vẫn còn đi đứng được. Nhưng anh em bị… liệt hai chân!

Hương Giang ngồi như người mất hồn, cô hồi tưởng lại điều gì và như nói với ai:

- Ngày cưới, chú không đến dự! Trong lòng tôi vẫn phân vân không hiểu nổi. Chú với ba hai người qúy nhau lắm. Chú là người sống rất nghĩa tình. Chuyện tình cảm của hai đứa cả chú và ba đều biết. Có lần chú thím đã che chở cho… Hay là... Từ lâu rồi, tôi linh cảm có điều gì không hợp nhau giữa chú với chồng tôi… Hai người ít muốn giáp mặt nhau!

- Chị đừng hiểu lầm cậu em! Cậu chưa bao giờ chê trách anh ấy một điều gì đâu. Cậu em thương chị lắm!

Hương Giang như tỉnh lại:

- Thế bây giờ anh Nghĩa đang ở đâu? Em nói ngay đi… Nói ngay đi cho chị biết!

Phòng khách của bệnh viện rộng thênh thang. Những bộ cánh trắng sọc mờ đồng phục của bệnh nhân xen giữa những bộ áo quần đủ màu, đủ kiểu. Người ta ngồi tách ra từng đôi, từng nhóm. Những nét mặt buồn, vui, đăm chiêu, hy vọng. Tiếng cười vui vẻ, tiếng sụt sịt như cố nén lại cho tiếng khóc khỏi ùa ra. 

Anh thương binh ngồi trên chiếc xe lăn tự đẩy vào phòng. Anh không đưa mắt tìm kiếm ai cả, cứ để ai nhận ra anh thì đến và anh cũng không mong có ai đó đợi mình. Một người phụ nữ từ phía bên lao tới ôm chầm lấy anh và bật lên tiếng thét nghẹn ngào:

- Anh! – Chị gục vào lòng anh và tiếng khóc không cầm được nữa vang lên làm mọi người đổ dồn mắt nhìn cảnh ấy.

Một thoáng bàng hoàng, anh Hà Giang nhận ra người đang gục vào lòng mình thổn thức. Mặt anh tái đi, hai tay run bắn lên nâng mặt người phụ nữ. Hai bàn tay anh lại trĩu xuống đầy tràn những giọt nước mắt nóng hổi của sự chờ đợi nhớ thương. Kịp nhận ra điều gì, anh ráng sức nâng mặt người phụ nữ ấy lên, nét mặt anh cố thẳng ra để không lộ ra biểu cảm gì, giọng anh vẻ bình tĩnh mà vẫn run run:

- Em! Mà ai nói cho em biết anh đang ở đây?

- Đừng hỏi thế! Anh ơi! Không ai nói cả. Em vẫn đợi anh! Em vẫn chờ anh! Em biết. Em tìm đến đây! – Hương Giang lại vùi đầu vào lòng anh mà khóc cho vơi đi nỗi nhớ, mong vợi được nỗi đau…

Anh bất lực không đủ sức làm gì nữa, ngồi ngây ra. Nhiều người có mặt ở đây không cầm lòng được trước xúc cảm của anh và những giọt nước mắt đau thương của chị. Có những tiếng nấc nghẹn chia sớt cảm thông. Cô y tá trực ban đi tới nhẹ nhàng an ủi và nhắc nhở:  

- Chị ơi… Vui lên đi chứ! Bao năm chinh chiến mà còn gặp lại nhau là mừng quá đi rồi chị ạ!

- Vâng! Mừng lắm! Mừng lắm! Các chị các anh ơi!       

Nhìn gương mặt đầm đìa nước mắt, cô y tá lắc đầu bỏ đi như chạy vì sợ mình cũng khóc theo. Cẩm Nhung đứng sau xe vừa khóc theo chị lại vừa sợ anh mình.

Hương Giang thường đến thăm anh vào những ngày cô được nghỉ. Trên giường, trên tủ quanh anh đầy sách. Nhìn những cuốn sách triết học dày cộp Hương Giang lắc đầu:

- Em sợ món này lắm! Bao nhiêu thứ triết lý mà xem ra ai cũng phải! Nếu dở thì họ in ra làm gì? Ai đọc?! Họ đấu trí, đấu khẩu, đấu võ, đấu gươm, đấu súng… dai dẳng, không ai chịu thua ai, có khi thiệt thân nữa chứ!

- Vậy mà xưa nay nó luôn là ngọn đuốc soi đường cho nhân loại đi lên. Nó là kết tinh trí tuệ của mỗi thời đại đấy!

Anh lôi từ tủ sách văn học ra cho cô xem một tập báo có đăng những truyện ngắn anh dịch từ nguyên bản tiếng Nga.

- Những truyện này anh dịch gửi về từ bên nước bạn.

Hương Giang lật từng tờ báo, xem từng mục.

- Có những truyện em được xem rồi. Cảm động lắm! Cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Liên Xô vĩ đại quá và những đau thương của bạn to lớn quá! Nhiều người đọc cũng nghĩ như em.

Cô nhìn anh gặng hỏi:

- Nhưng anh định làm nhà lý luận hay nhà văn?

- Ngày xưa anh ước được làm trạng sư tranh biện công khai để bảo vệ lẽ công bằng. Nhưng bây giờ ngồi một chỗ thế này anh phải làm gì hợp với sức mình để không là người báo hại!

- Anh làm những việc ấy em không thích chút nào! Anh biết không, tình hình bây giờ phức tạp lắm. Vướng vào toàn những chuyện mơ hồ đúng sai không biết đâu mà lường cả. Bút sa gà chết! Lỡ ra thì cũng không ai dám bênh mình!

- Gần đây, ở Liên Xô và mấy nước Đông Âu tình hình còn rối hơn nên anh mới phải về sớm trước dự định.

- Anh còn nhớ bác sỹ Nguyễn Đức Phúc không? Bị đuổi ra khỏi quân đội rồi và treo bút vì dính vào hội Nhân Văn–Giai Phẩm đấy! May mà có ông thầy là giáo sư Bửu Quốc đỡ cho, ông nhận anh về bệnh viện làm với ông chứ không nơi nào dám nhận!

- Anh mới về chỉ nghe dư luận và đang tìm hiểu. Trong nước, ngoài nước đều có những chuyện lớn lao chao đảo. Người cầm bút không tỉnh táo cẩn trọng thì dễ oan gia lắm. Anh sẽ tới thăm anh Đức Phúc.

- Đừng anh ạ! Chồng em làm việc bên Tổ chức có dặn là phải thận trọng trong các mối quan hệ với mọi người. Anh Đức Phúc với anh Bắc Hà bây giờ cũng khác.

- Anh biết! Hai người ấy làm sao gắn được với nhau. Trong hoàn cảnh nào đó họ dựa vào nhau nhưng không lâu dài được. Nhưng đấy là cá tính. Chẳng lẽ đồng đội bao nhiêu năm sống chết vì một mục tiêu lý tưởng mà bây giờ lại sống trong hồ nghi, đố kỵ?

- Em chọn đi học ngoại ngữ là để được neutre (trung lập) đấy!

- Phải tự tin ở mình chứ! Họ có lỗi chứ không có tội. Không nên coi họ như thù địch!

Anh đưa ra một xấp bản thảo dày:

- Anh sắp dịch xong cuốn tiểu thuyết này. Một chuyện tình chiến tranh ly kỳ lắm. Người chết trở về trong ngày cưới của người yêu!         

Hương Giang nâng niu xấp giấy, báo trong lòng

- Không ngờ Hà Giang và Nghĩa… chính là anh! Người ấy hiển hiện trong những dòng chữ cho em bao nhiêu cảm xúc mà sao em không nhận ra một cô Giang Hà Nội đã thay vào đó? Em cứ đi tìm mãi… ở đâu và thất vọng! Ngày cưới, em buồn lắm! Có ai bắt em đi lấy chồng đâu? Thế mà em tự dẫn thân đi!

Không dằn lòng được, cô gục vào lòng anh nấc lên:

- Em mang… thai rồi anh ạ!

Anh đỡ cô ngồi dậy. Hai bàn tay cô lạnh giá, đôi mắt vô hồn.

- Dù em chưa mang một mầm sống mới thì tình cảm của chúng mình cũng chỉ đến thế này thôi. Thời gian qua đi, nỗi buồn vơi dần và em sẽ tìm thấy hạnh phúc, ít ra thì cũng với các con em. Đừng lo gì cho anh cả!

Giáo sư Bửu Quốc có trí nhớ của một nhà bác học. Nhìn người ngồi trên chiếc xe lăn, ông ngạc nhiên một chút, lục tìm trong trí nhớ… rồi mắt ông sáng lên, tay chỉ thẳng vào anh:           

- Anh là… cháu ông Phán… à… ông Thanh! Lần cuối cùng ta gặp nhau ở bệnh viện trong rừng Chiêm Hóa sau trận càn Việt Bắc nhớ đời ấy? Mà tên anh khác kia?

- Vâng. Đúng. Tên là Nghĩa!

- Anh còn là bạn của hai anh Đức Phúc và Bắc Hà? Chắc anh đến đây không phải là bệnh nhân đến tìm thầy thuốc? Để tôi gọi Đức Phúc lên đây!

Hai người già, trẻ mừng rỡ thăm hỏi nhau những ngày xa cách.

- Vợ tôi đã qua đây và tôi cảm thấy hạnh phúc thật đủ đầy – Giáo sư cố tránh ánh mắt nhìn người bạn trẻ.

Đức Phúc vừa gõ đã tự mở toang cửa ra, thủng thỉnh bước vào:

- Thầy cần tôi?

Giáo sư chỉ qua người khách ngồi trên xe lăn giáp bên một chiếc ghế bành. Hà Giang đưa hai tay ra đón bạn. Đức Phúc nhíu mày, nhận ra nhưng không vồn vã. Anh ngồi xuống ghế, đủng đỉnh:

- Nhớ ra rồi! Nhớ ra rồi! Cố nhân nguyên là công an xung phong thành Hoàng Diệu!

Anh tựa lưng vào thành ghế, mắt lim dim hướng lên trần nhà như muốn ngủ.

Giáo sư và Hà Giang nhìn nhau. Vẫn không đổi tư thế, Đức Phúc hỏi bâng quơ:

- Anh đến tìm giáo sư giám đốc?

- Vâng! Tôi đến đây gặp giáo sư như con đến chào cha và thăm một người bạn là anh!

Đức Phúc ngồi ngay lên, thở ra, dịu lại, châm thêm trà đầy vào chén bạn nhưng giọng còn cay cú:

- Tôi là Nhân Văn! Anh không sợ à?

- Tính khiếp sợ là bản chất của kẻ yếu đuối. Tôi dù tàn tật thế này nhưng còn khỏe lắm! – Hà Giang gồng tay lên trêu bạn.

- Cám ơn! Cám ơn! Lần thứ hai anh kéo tôi ra khỏi nỗi chán chường. Tưởng không còn ai dám đến gần tôi nữa chứ!

Anh nhìn bạn làm lành và nói tuột ra cốt để thanh minh:                                     

- Thế mà chung quanh người ta rất sợ tôi. Người ta không hiểu tôi làm gì, nghĩ gì nhưng người ta cứ đố kỵ tôi, cách ly tôi, nói điều ràng buộc cho tôi! Họ đem thơ văn tôi ra phê phán, vặn vẹo, xỏ xiên. Thậm chí đưa ra giữa đám đông gọi là tập thể quần chúng bình văn, bới bèo ra bọ, moi móc từng câu từng ý để quy kết rằng thơ tôi là phản động. Đương nhiên tôi cũng là thằng phản động! Như anh Bắc Hà khi mới về thành, cảm tình đồng đội, tôi cho vợ chồng con cái đến ở chung nhà mà rồi anh ấy nỡ bảo tôi không đáp ứng được với yêu cầu phát triển của quân đội nữa! Nghĩa là họ tống cổ tôi đi? May là nhờ ông thầy đây có uy có thế chứ không tôi là kẻ bơ vơ! Trong khi vẫn ở nhà tôi mà anh ta ngang nhiên tuyên bố: Cha mẹ tôi là tư sản đã theo giặc chạy vào Nam thì tôi dù là con nhưng không có quyền thừa kế. Nghĩa là anh ta không ở nhờ tôi mà là anh ta có quyền được ở đấy như hưởng phần qủa thực !

Anh dừng lại thở và nhấp thêm ngụm nước lấy hơi. Nghĩa và giáo sư cảm thấy nặng nề muốn lảng sang chuyện khác thì anh đưa tay ra ngăn lại:

- Đến nỗi vợ tôi cũng trách tôi: Tưởng làm vợ một anh trí thức Thủ đô thì vẻ vang sung sướng lắm! Nó cũng bị giần điêu đứng. Cố moi ra cái tội của chồng là: Anh ấy khinh tôi, coi tôi là thổ mừ ngu ngốc, không biết văn chương nghệ thuật là gì, cứ tự cho mình là hay, muốn gì là nói là làm nên mới đẻ ra cái bài thơ phản động! Nó khổ vì tôi và nó chán tôi. Thì tôi cũng chán nó! Hai đứa cùng chán nhau mà không bỏ được!

Anh nhìn giáo sư :

- Thầy là chủ hôn mà không chứng cho tôi được cái cảnh nguyệt lão xe tơ! Tôi lại bị khép thêm cái tội bản chất giai cấp phản động xấu xa không từ bỏ được! Cứ ôm nhau mãi làm gì? Thằng Nhân Văn là đồ bỏ đi! Có chồng Nhân Văn một đứa nữa thêm khốn nạn! Là con Nhân Văn càng điêu đứng! Cả nhà bất hạnh! Tôi chủ động ly thân với vợ và bảo các con trong lý lịch đừng khai tôi là bố! Cô ta cự: Thế tôi chửa hoang à? Ừ! Con hoang là con của kẻ bị cường quyền cưỡng bức còn hơn chán vạn thằng bố Nhân Văn!

Anh thở dài ngao ngán. Hà Giang nhìn bạn thông cảm:

- Thôi, sóng gió sẽ qua, trời mưa rồi lại nắng!

Bạn anh gay gắt:

- Từ Hải ngày xưa còn được chết đứng giữa đời. Tôi bây giờ như… cái thây ma trôi nổi dập dềnh!

Ông thầy nói dịu đi:

- Hai anh bây giờ đều là thương binh cả!

Đức Phúc chua chát:

- Đều tê liệt cả. Nhưng một thằng liệt chân, một đứa liệt đầu! – Anh nhìn thẳng vào bạn: Hai đứa đều bị thương. Nhưng một đứa do đạn thù, một đứa do đồng đội bắn! – Anh cười gằn: Anh mới là thương binh. Tôi là thằng thương tật dù cơ thể hoàn toàn lành lặn! Thương tật vô lý vô duyên vô dụng suốt đời!

Giáo sư  nửa đùa nửa thật chân tình:

- Anh chết vì vạ miệng. Thời nào cũng vậy, mấy anh văn nghệ sỹ đều chết vì vạ miệng!

Đức Phúc nổi sùng lên:

- Khốn nạn là ở chỗ trời giao cho họ đôi con mắt và con tim nhậy cảm. Thấy gì trái lòng là phải nói. Nói đúng như sự thật chứ không đặt điều! Tôi viết văn không phải mơ được thành kỹ sư tâm hồn hay là người nổi tiếng hướng đạo cho ai. Tôi đến với văn chương bởi sự xúc cảm tình cờ trước nỗi đau của một sinh linh bé bỏng cũng như tôi lấy vợ không phải vì tình mà bởi sự hứng cảm trong men say chiến thắng. Tôi đi thực tế ở bên Bắc, có một bà già xưa là cô đầu hát ả đào hay nổi tiếng, dân Khâm Thiên kháo nhau ai được cầm nhịp chầu với bà dù chỉ một lần cũng đủ sướng suốt đời. Bao năm theo nghiệp cầm ca, dành dụm được ít tiền, lúc hết thời về quê mua dăm sào đất, nuôi thằng cháu gọi bằng cô làm con để lấy chỗ dựa dẫm cuối đời. Vậy mà cải cách quy cho bà thành phần địa chủ câu kết toàn với những thành phần bóc lột ăn chơi! Thằng cháu trời đánh đứng ra trước dân làng vạch tội bà cô không chịu từ bỏ thói dâm ô trụy lạc, đêm nào cũng lén đem cái phách ra i ỉ hát những gì rồi còn chảy nước mắt ra luyến tiếc cái thời phong kiến thực dân! Sáng ra người ta thấy bà thắt cổ trước bàn thờ, quần áo chỉnh tề đỏm dáng lắm với cái phách, cây gõ rơi ở dưới chân. Lòng tôi như sợi dây đàn âm trầm nó bật rung lên.

Hà Giang điềm tĩnh nói:

- Về nước, tôi để thời gian tìm hiểu và đã đọc đủ cả mấy tập Giai phẩm mùa Xuân, Thu và Đông, mấy số Nhân Văn, cả tập san Đất Mới của sinh viên và Trăm Hoa của nhà thơ Mười hai bến nước. Nhiều bài thuần túy nghệ thuật nhưng cũng có những bài tranh biện bóng gió hoặc công khai về quyền tự do trong sáng tác và đời sống. Nó là chuyện thế sự muôn thuở và giống như một trào lưu bên Đông Âu và nước bạn láng giềng, tất nhiên phải tác động tới ta. Phải trái hiện tình khó ngã ngũ, chờ hạ hồi phân giải nhưng tôi thấy cả hai bên đều quá! Tự do sáng tác là nhu cầu vô hạn của người nghệ sỹ cũng như quyền tự do của con người là vô hạn. Nhưng người cầm lái nào cũng muốn đất bằng biển lặng huống chi trong lúc xã hội âm ỉ nhiều biến động. Và kẻ thiệt tất nhiên là người… yếu!

Anh bạn ấm ức:

- Người ta cứ dọa chỗ này động đất, chỗ kia sóng thần để mọi người cứ run lên mà yên vị rồi lầm tưởng rằng mình sống được là nhờ tay những người cầm lái. Thật vô phúc cho kẻ nào dám đứng dậy và nói to lên: Biển lúc nào không sóng? Đất lúc nào không động? Hãy cho tôi được thở!

Giáo sư chêm vào:          

- Anh không còn trẻ nữa, lại đọc bao nhiêu sách rồi vẫn chưa ngộ ra! Có sùng bái thánh thần mới thiêng và người ta mới theo nhau đi lễ bái cầu xin chứ! Huống chi là người trần lại mang phẩm trật thì có ai không muốn được sùng bái cá nhân mình? Tôi là thầy thuốc nếu được sùng bái thì chữa bệnh gì cũng hết và có làm chết người cũng không ai kiện cáo hại mình được đâu.

Ông nhìn học trò nghiêm khắc:

- Người ta mới nói bách gia tranh minh – bách hoa tề phóng, các cậu vội tưởng là được ngay trăm hoa đua nở – trăm nhà đua tiếng, bày ra hổ lốn các loại hoa, đua nhau nói bừa đi câu khôn thì ít câu dại thì nhiều, rõ tỏng ra ngay cái gót Achille của từng người. Có ai bị trảm đầu cẩu cũng là bài học đáng giá đấy!

Ông lim dim mắt như một triết nhân :

- Chống sùng bái với người chưa làm được gì nên chuyện đã mệt rồi huống chi với người đã có chút công lao đang mê mị được người đời! Đừng tưởng cứ thấy gì nói nấy là ai cũng vỗ tay đồng tình đâu. Thuyết nhật tâm vũ trụ của Copernicus là sự thật của đất trời nhưng trong lúc cái đầu của giáo hội còn mê muội thì những người nhiệt tâm ủng hộ nó như Galilei phải công khai chối bỏ trước Tòa án giáo hội mới thoát chết trong khi Bruno khăng khăng bảo vệ chân lý thì bị coi là dị giáo và đưa lên dàn hỏa trước đám đông điên rồ cuồng tín! Đành rằng lịch sử sẽ nhìn ra nhưng là giải minh cho chân lý chứ không thể giải oan cho từng người được nữa!

Hà Giang an ủi bạn:

- Tôi đã xem bài thơ Đứa bé mồ côi của anh:

Cha em là địa chủ

Bị đem bắn chết rồi

Mẹ con em bị đuổi

Ra  chuồng trâu ở thôi !

Bạn bè em vui lắm

Được chị Đội thương yêu

Cho đi hô khẩu hiệu

Cho múa hát sớm chiều…

Bé thơ nhìn chị Đội

Như muốn hỏi điều chi

Chị Đội ơi chị Đội

Em là giai cấp gì ?

Chiều mờ che bóng chị

Heo hút khóm tre già

Thẫn thờ em  hỏi mẹ:

Giai cấp nào thương ta ?!

Tôi lại nhớ đến thằng bé Nghĩa Sỹ đã làm anh rung cảm để viết được một truyện ngắn hay Ngọn lửa căm thù. Và anh đã bỏ được thói bàng quan, đứng vào hàng ngũ Vệ quốc quân!

- Đúng! Loài người sẽ trở về thời hỗn mang nguyên thủy khi cả xã hội vô cảm trước nỗi đau của đồng loại! Chỉ biết thương yêu thù ghét theo khẩu lệnh thì sẽ chẳng còn những trái tim rung cảm nữa. Lòng nhân ái thành liều thuốc đắng! Người ta quyết định kỷ luật tôi một năm “treo bút” nhưng tôi trả lại thẻ nhà văn.

- Nghĩa là sao? – Anh Hà Giang tiếc cho bạn.

- Văn nghệ sỹ là những người cô đơn và yếu đuối nhất trên cõi đời này! Anh thấy không? Người ta giết oan hàng vạn con người, hành hạ đến tàn tạ điêu đứng bao nhiêu thân phận, làm cho bao nhiêu gia đình thống khổ, trẻ con người già mất nơi nương tựa, đàn bà con gái góa bụa bơ vơ mà chỉ cần sùi sụt, xuề xòa vài lời kiểm điểm lỗi này tại anh tại ả – tại cả đôi đường, thế là xong! Còn anh văn nghệ sỹ hứng lên nói vài câu lạc điệu thì bị quy cho là mất lập trường, đem nọc ra giữa sân đình, thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh cho đến thân tàn ma dại mà thiên hạ không ai dám có một lời can gián! Lúc thì hiện tượng chỉ là vỏ bọc, không hẳn là cái bên trong. Lúc thì bản chất biểu hiện ra hình thức. Biện chứng pháp biến thành trò chơi chính trị! Ai dám bảo sẽ không còn sai lầm nữa và liệu nó có tệ hại hơn không? Đến lúc ấy người ta sẽ ngoảnh mặt đi với những thân lươn thân trạch! Liệu văn nghệ có phải là tiếng nói bênh vực những con người lương thiện, yếu đuối, khổ đau, bất hạnh nữa không?

Giáo sư nói lên nhận xét của mình:

- Một lý thuyết được coi rằng đúng là nó đã được kiểm định trong thực tiễn cuộc sống chứ không phải là ở trong đầu, trong sách, trong labô hoặc giữa trường tranh biện. Và khi đã thành điều xác tín thì nó đương nhiên được mọi người thừa nhận. Tuy nhiên một điều cần nhớ là trên đời này không có gì bất biến! Vũ trụ vẫn là nhỏ bé khi nó vận hành trong một tổng thể siêu hình. Mọi học thuyết, luận thuyết luôn được bổ sung đổi mới và mới nữa. Văn học nghệ thuật cũng như khoa học dù là tự nhiên hay xã hội, nó luôn là sự nổi loạn của tư duy. Chuyện thật đơn giản mà cũng là quy luật!

Ông nhìn học trò thương hại:

- Tuy nhiên các anh nổi loạn khi người ta đang thiết chế một khuôn mẫu mới, ắt sẽ xảy ra tai vạ! Thiên không đúng thời. Địakhông đắc lợi và Nhân chưa hòa.

Ông nhìn Hà Giang tưởng như anh là người có quyền thế lắm, dằn từng tiếng theo nhịp ngón tay:

- Không được đẩy ai tới chỗ cùng đường. Hà cớ gì để khổ cho nhau? Coi chừng các anh phong thánh cho người ta đấy!      

Con bé Lý Thảo Nguyên, con anh bộ đội liệt sỹ Điện Biên vẫn coi ông Lý Quý Dân là bố thật. Dù nó đã 5 tuổi rồi nhưng mẹ nó, cô Bùi Thị Ngọt vẫn không muốn cải chính với con vì cô nghĩ  để đứa bé biết thân phận mồ côi thì tội lắm. Vả nữa, cô vẫn hàm ơn ông và thương cảnh ngộ của ông.

Một dạo, ông Lý Qúy Dân đang trên đường thăng tiến thì bị gọi về quê vì có nghi can đến những phần tử phản động ở địa phương. Ông thoát ly gia đình đi hoạt động bí mật từ ngày Cách mạng còn trong bóng tối. Lang bạt đó đây, đói rét tù đày, vào sinh ra tử mấy ai biết đâu. Tuy nhiên thời trai trẻ mới lớn, giao du với bạn bè cùng trang lứa trong làng, ngoài tổng… làm sao biết được ai sau này sẽ nên gì. Thời cuộc đẩy đưa, mỗi người mỗi cảnh, kẻ theo phe này người theo phái nọ. Khi cải cách ruộng đất, có người bị qui kết là phản động, tay sai phong kiến thực dân mà truy ra trước kia từng thân thiết với ông, thế là nhân dịp chỉnh đốn tổ chức, người ta phát hiện ra sự liên can ấy. Mới về tới đầu làng, du kích đã bắt trói gô ông lại tống giam phòng tối. Khi người ta tra xét về mối quan hệ của ông với mấy phần tử Quốc Dân Đảng kia, ông thành thực khai rằng: Hồi ấy mấy người Quốc Dân Đảng hăng hái chống thực dân đế quốc nên tôi ủng hộ! Như là cái thòng lọng thắt vào cổ ông rồi. Ông bị tòa án cách mạng quy là phần tử phản động nguy hiểm tay sai của đế quốc phong kiến chui vào phá hoại nội bộ ta và bị tuyên án tử hình! Chờ ngày đưa ra trường bắn chung với mấy tên tề nguỵ địa chủ cường hào ác bá có nợ máu với nhân dân. Mấy gian nhà gạch mái ngói hương hỏa từ mấy đời truyền lại đến ông bị tịch thu làm trụ sở Đội. Chiếc tủ thờ bằng gỗ lim to tướng bị dọn sạch làm kho chứa hồ sơ tài liệu. Các đồ thờ tự bị quẳng ra sân biến dần thành củi. Vợ ông bị đuổi xuống ở một góc nhà ngang làm bếp, một thân lủi thủi xác xơ điêu đứng! Lòng ông đau đớn lắm. Thà chết dưới tay kẻ ngoại bang, loài bán nước còn là cái chết vinh. Nhưng chết dưới tay đồng chí của mình thì oan ức qúa, nỗi nhục muôn đời không sao rửa sạch! Tuy nhiên ông vẫn chuẩn bị tư thế khí phách của một người trung dũng chết oan. Ông tự nhủ trước khi gục xuống sẽ phải hô thật to lên: Hồ Chủ tịch muôn năm! Đảng Cộng sản muôn năm! – Ông tin là Bác không biết chuyện này! Đảng Lao động Việt Nam giết ông nhưng lý tưởng cộng sản ông giữ vững!… May mắn làm sao, đêm trước ngày đem ông ra xử bắn thì trời nổi trận giông tố đùng đùng, mưa bão ào ào kéo dài suốt mấy hôm liền. Đội vẫn quyết nghị thực thi bản án để tỏ rõ quyết tâm giai cấp nhưng phúc làm sao súng của du kích kỵ… nước mưa. Thế là phải hoãn! Khi trời tạnh ráo, nắng vừa hửng lên thì cũng là lúc có lệnh hỏa tốc của Trung ương đình lại những bản án tử hình! Trung ương ta sáng suốt phát hiện sai lầm, kịp thời chỉ đạo sửa sai nên ông thoát nạn và được phục hồi. Lúc ấy thì ông tin là Người cứu ông. Mãi khi về già thì ông nghĩ lại là Trời cứu. Ông không thắc mắc gì với tổ chức cả vì con đường đi của cách mạng tất nhiên có những lúc khúc khuỷu quanh co!Nhà ông vẫn là trụ sở của Đội sửa sai. Vợ chồng ông lại là tấm gương trung kiên với Đảng. Không ít gia đình có người bị chết oan đòi nợ máu phải trả bằng máu. Kẻ cốt cán tố xằng bị người oan khuất rạch miệng bôi vôi! Ông bà là người hòa giải có uy tín nhất, kêu gọi mọi người xóa bỏ hận thù, ai có sai thì sửa, người bị oan hãy rộng lòng tha thứ, kết đoàn nhau lại ổn định xóm làng, tuyệt đối tin tưởng vào Chính phủ, vận động nhân dân đi vào con đướng làm ăn tập thể áo ấm cơm no. Không vướng bận mẹ-cha-con-cháu, hai ông bà lăn vào lo chung việc nước. Bà làm công tác phụ nữ xã rồi lên huyện. Ông phụ trách tuyên giáo tỉnh nhà. Tưởng đã qua được khúc thác ghềnh thì thuyền ông gặp nạn! Ước mơ ngàn đời của người nông dân là có được mảnh ruộng với con trâu cày đến bây giờ mới thành hiện thực. Nụ cười chưa tắt trên môi thì thửa ruộng lại gom vào tập thể, có cũng như không! Con trâu con bò vẫn ở trong chuồng nhà mình, vẫn sớm chiều do con mình chăn dắt nhưng nó lại bị người ta điều hành sai phái đi làm đủ việc gần xa nặng nhọc mà mình dù xót ruột cũng không dám có ý kiến gì! Con lợn con gà vẫn ở trong chuồng, trong sân vườn nhà mình, do mình nhịn bớt phần ăn chăm bẵm nó nhưng đã là sản phẩm do tập thể quản lý chứ không thuộc về mình! Thì ra mình vẫn là người đi làm thuê! Ngày xưa ông chủ là kẻ bóc lột hiện hình bằng xương bằng thịt. Bây giờ nói mình làm chủ mà mơ hồ lắm, mình đấy mà chẳng phải là mình! Hợp tác xã nhỏ còn dễ bảo nhau. Hợp tác xã lớn chỉ mất thời giờ họp hành tối ngày mà nói rát cổ cũng chẳng tới tai ai. Là trưởng Ban Tuyên huấn mà xem ra ông cũng ngả theo ý của những người nông dân lạc hậu quen thói làm ăn manh mún cá thể thì làm sao nước nhà tiến nhanh lên Chủ nghĩa xã hội được? Ông bảo: Chúng ta thường nói phải để người nông dân có thời gian suy nghĩ ngay trên luống cày của họ mà thực tế ta ép họ! Thế là ông bảo thủ, ông chậm tiến, lạc hậu, không theo kịp thời đại mới rồi! Có sự lãnh đạo sáng suốt, bạn ta tiến một năm bằng ba mươi năm ở những nước đế quốc già nua! Người ta thông cảm ông tận tụy trung thành nhưng không có điều kiện để trau giồi lý luận nên sắp xếp cho ông đi học để nâng cao nhận thức. Ông khăn gói đem cái thân già đi học cả năm trời. Khi trở về thì tỉnh ưu tiên cho ông xuống huyện nhà để có điều kiện sát với phong trào. Ông được giao chức Trưởng ban nông nghiệp. Trong những cuộc hội họp cán bộ đầu ngành của huyện, vợ chồng ông nhiều khi có những ý kiến khác nhau và ông thường ít người ủng hộ. Có lần bà thẳng thừng phê phán ông:                               

- Anh chẳng được cái tích sự gì! Chỉ thị nghị quyết sáng rõ như vậy rồi mà trong đầu anh lúc nào cũng phải nghĩ ra một cái gì khác thế!

- Thực tế rất phong phú và phức tạp, không phải ta nói gì là làm được như thế ngay đâu. Ngày xưa, dù có chỉ thị đưa xuống, nếu thấy không sát với thực tế, cơ sở có thể điều chỉnh rồi báo cáo lại sau, miễn là ta vẫn giữ được lòng dân!

- Lúc nào anh cũng bám vào quá khứ để khoe mẽ cái công thần của mình ra lòe thiên hạ!

Ông thở dài tự nghĩ: Có những quá khứ quên đi được nhưng cái quá khứ đổi bằng xương máu của nhiều người thì phải nhớ để luôn lấy đó mà soi! Có nói ra vợ ông cũng không hiểu được. Nhiều lúc ông thấy đơn độc chạnh buồn. Vợ chồng lấy nhau bao nhiêu năm mà thời gian ăn ở với nhau chỉ là những giờ khắc thoáng qua vội vã. Bây giờ cái tuổi sinh nở của người đàn bà ở vợ ông như ngọn đèn dầu leo lét… Trông gì?! Vợ chồng thi thoảng mới gặp nhau cũng vội vàng, qua quýt, không mấy mặn mòi. Bà mải mê với phong trào, tất bật những báo cáo, thỉnh thị, bận rộn những cuộc họp hành tổng kết, triển khai. Ngoài những lúc bù đầu vào công việc rồi ra ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân, ông thấy lòng trống trải. Những lúc lên thành phố họp, ông thường lấy nhà ông Thanh làm chỗ đi về. Hai người vẫn giữ được tình bạn từ thời còn gian khổ.

Cô Ngọt tá túc ở đấy. Ngày ấy, về thành phố, cô Thảo Tâm được ông anh rể Trịnh Huy giới thiệu tiếp tục theo nghề dạy học. Được làm cô giáo ở một trường tiểu học danh tiếng của Thủ đô, cô mãn nguyện lắm. Cô Ngọt ít chữ lại không có nghề gì, xoay ra đi buôn. Cô buôn gà vịt ở chợ Bến Nứa–Bắc Qua, cũng dễ sống nhưng không nhà không cửa vất vả lắm. Nhà ông Thanh gần đấy, lại rộng rãi trên gác dưới nhà mà chỉ có ba bố con ở thôi. Cha đi làm, con đi học, suốt ngày nhà trống vắng lạnh tanh. Cô Thảo Tâm bàn với ông Thanh cho mẹ con cô Ngọt ở qua lúc khó khăn. Ông vốn là người dễ tính hay thương người, biết cảnh ngộ cô éo le cần giúp đỡ, cha con ông cùng thuận. Cô Ngọt vốn người quê, khoẻ mạnh, tháo vát, đảm đang chợ búa nên ngoài việc lo làm ăn cô cũng giúp cha con ông nhiều việc nội trợ rất là thiết thực. Tình cảm gia đình ông với cô Ngọt như là chỗ anh em cô cháu trong nhà.

Mỗi bận ông Lý Qúy Dân về đấy, con bé Lý Thảo Nguyên bu lấy không chịu rời ra. Cô Ngọt chăm sóc ông chu đáo tận tình. Cả hai người tìm thấy ở nhau một sự an ủi và ấm cúng. Lúc chia tay ông thấy lòng bịn rịn và người ở lại trong lòng khắc khoải nhớ mong.  Một lần nâng niu con bé ngủ trong lòng, tay ông lúng túng đung đưa, miệng ông ngượng nghịu cất lời ru âu yếm: Ạ ơi… Cha con chết trận Điện Biên… Mẹ con vất vả… à… à… kiếm… ơ… ơ… tiền… nuôi con! Cúi nhìn khuôn mặt trẻ thơ yên ả thanh bình quá. Những giọt lệ từ mắt ông tự nó lăn ra, nhỏ xuống đôi má thơ ngây lem luốc mà sao thương thế… Cô Ngọt bất chợt nhìn thấy, không kìm lòng được nữa, mắt cô chớp chới lòa nhòa, đôi môi bụm lại rung rung. Cô đến ngồi bên ông, thì thào sát bên tai:

- Anh muốn có… con không?

Ông lắc đầu thất vọng:

- Hết… thời rồi!

- Em cho anh! Có được không?

Ông thật tình:

- Làm sao nuôi nổi!

Cô vòng tay áp sát vào người ông:

- Em nuôi cho! Anh có sợ không?

Ông quay qua phía cô. Hai khuôn mặt chạm sát vào nhau. Ông nhận ra một điều khác lạ. Ông run quá:

- S… ợ! Sợ lắm… cô Ngọt ạ!

Cô Ngọt chạm môi vào má ông:

- Sao anh khổ thế?!

- Có khổ gì đâu?! – Lời ông như từ trong máy phát ra.

- Các anh lạ qúa! Dở dở ương ương. Người trần mà cứ làm bộ người trời! Sao không dám nói thật lòng ra? Khổ thế em không chịu nổi. Em chẳng sợ gì đâu. Chỉ thương anh thôi! – Cô vòng cả hai tay ôm ông thật chặt.

Ông không cưỡng lại được nữa!

 

Cô Ngọt đã là người từng trải. Chuyện gì phải đến cô biết trước rồi và cô chủ động được. Duy có một chuyện là cô đành chịu thôi. Xưa nay cô không dấu chị Thảo Tâm điều gì.

- Chị ơi! Em ăn ở với anh Dân và có thai rồi!

Thảo Tâm hết hồn, không tin ở tai mình:

- Em nói gì, chị không hiểu nổi?

- Xưa nay em có dấu chị điều gì đâu? Chuyện thật đấy chị ạ!

- Chết thật! Liệu có ai biết không?

- Ngay cả anh Dân em cũng chưa báo cho biết đâu. Chị là người đầu tiên em nói ra đấy!

- Đúng là em… gan vàng thật đấy! Biết làm gì bây giờ hả em?

- Mọi chuyện em đều lo được. Chỉ có một chuyện này ngoài chị ra không ai giúp được em!

- Em bảo chị làm gì được nào?

- Em chỉ sợ anh Thanh mà biết là anh cấm cửa!

- Đúng rồi. Chị cũng sợ. Anh ấy nghiêm và ghét chuyện này lắm đấy!

- Nhưng bây giờ chỉ có chị mới nói được với anh ấy thôi!

- Ối giời ơi! Chị sợ chuyện ấy lắm!

Cô Ngọt gục vào Thảo Tâm và khóc hu hu:

- Chị ơi! Chị đừng nghĩ em là đồ mèo mả gà đồng! Em có con vì em thương anh bộ đội biết đi là không có ngày về nữa. Con em không biết mặt cha. Ngày giỗ vọng như cúng cô hồn! Em không biết quê quán anh ấy ở đâu để cho cháu về nhận họ. Em còn trẻ phải không chị? Mà thời nay cán bộ ai lỡ có vợ rồi thì chịu chứ tưởng giai cấp vậy mà người ta tầng lớp lắm. Họ không thèm ngó dân bán buôn đầu chợ cuối bến như em đâu. Mà cặp với những người cuối sông đầu bãi em sợ lắm. Con bé nhà em cứ tưởng anh Dân là bố thật nên nó cứ quấn lấy. Hai con người ấy thương nhau lắm! Anh ấy thèm con và đời anh ấy cũng gian nan đau đớn lắm. Em thương anh ấy và em tự nguyện cho anh ấy đứa con. Em không tranh giành chồng của ai đâu. Em chịu cảnh không chồng bỗng thành gái góa cam phận nuôi con bao lâu nay rồi. Em không đòi hỏi gì ở anh ấy cả. Em đủ sức nuôi con em. Sau này nó lớn lên, anh ấy cần đến nó thì em cho con về với bố !

Thảo Tâm mủi lòng, sụt sịt:

- Chị biết anh Dân là người tốt mà lắm gian truân. Nhưng bây giờ chị biết nói ra thế nào đây?

- Bây giờ mà anh Thanh đuổi đi thì mẹ con em chỉ biết ra đầu đường ở thôi. Chẳng lẽ đứa bé này đẻ bên thùng rác?!

Thảo Tâm chợt nghĩ ra:

- Chuyện này phải bàn với anh Trịnh Huy và chị Bảo Ngọc. Hai người ấy có uy tín với anh Thanh lắm.

- Trăm sự em chỉ biết trông vào chị thôi. Xong chuyện rồi em mới nói cho anh Dân biết!

Ông Thanh ở thế khó xử. Dù là ông coi chuyện này không nặng nề gay gắt lắm nhưng nó lại xảy ra ngay ở nhà ông. Ai thanh minh được ông không là người chứa chấp những chuyện chả nem vụng trộm mà những người đứng đắn không muốn dây vào? Nhưng những người này với ông không xa lạ gì, mỗi người mỗi cảnh thật khó nói là đáng thương hay đáng trách. Tặc lưỡi rũ sạch ngay cho xong thì ra ông nỡ đoạn tình. Con gái ông giận lắm, nó bảo:

- Tưởng bác ấy là người đứng đắn mà hóa ra có thói giăng hoa, phản bội! Còn cô ấy lỡ rồi thì cứ yên phận nuôi con đi, lại còn giở thói lẳng lơ đưa đẩy thì người đàn ông mới sán lăn vào chứ?!

Nó mới lớn sống theo nếp nhà thì nó nhìn đời như thế. Nhưng liệu nó có hiểu ông dễ dãi với chuyện gió giăng không?

Ba người đàn bà nóng lòng chờ đợi lúc nào cũng nhìn ông bằng đôi mắt van lơn thúc giục. Một cô chưa nói đã nước mắt ròng ròng rồi bỏ chạy. Hai cô thì gợi ở ông cái tình cái nghĩa và lòng thương cảnh đời cơ nhỡ. Cuối cùng ông giao phần quyết định cho con gái ông:

- Con bé lớn rồi, giống tính mẹ, nó không ưa những chuyện thế này. Nhưng nó tin và qúy cô Thảo Tâm lắm. Cô làm sao nói cho nó xuôi thì tôi cũng chịu.

Cô em, cô chị chỉ còn hy vọng cuối cùng vào cô giáo.

Cô Thảo Tâm tỉ tê với bé Cẩm Nhung:

- Cậu cháu bảo giao cho cháu quyết chuyện này!

Con bé lắc đầu quầy quậy:

- Cháu không thích những chuyện thì thụt vụng trộm như thế đâu. Trai gái dại khờ gì nữa? Cả hai người đều to đầu rồi chứ! Ngày xưa mợ cháu không bao giờ thèm nghe những chuyện như thế. Cậu giao cho cháu là để thử cháu chứ cháu biết cậu xưa nay không ưa những chuyện ấy đâu!

Thảo Tâm buồn rượi rượi, nước mắt rơm rớm hàng mi:

- Cậu không thử cháu đâu, mà cậu tin cháu đấy! Bao lâu nay cháu thấy hai người ấy thế nào? 

- Bạn của cậu mợ cháu toàn là người tử tế. Ai cháu cũng qúy. Nhưng không ngờ bác và cô ấy làm cháu mất lòng tin!

- Cháu có biết rõ tình cảnh của mỗi người không?

- Cháu không thích tò mò đời riêng của ai. Nhưng cháu cảm thấy hai người ấy không ai hạnh phúc cả!

- Cháu cô tinh lắm đấy! Thế là cháu lớn khôn rồi chứ không còn thơ dại nữa đâu. Cậu và cô biết những người ấy từ lâu rồi. Họ là những người tốt, rất tốt. Nhưng đời họ không may nhiều thứ lắm. Không ai cần hiểu họ. Người đời ích kỷ lắm cháu ạ. Thậm chí ngay cả người thân thích của mình cũng thế! Cô nghĩ hai người ấy đến với nhau không phải là chuyện nam nữ quàng xiên đâu. Mà là cái tình đời. Họ thương nhau và muốn nương dựa vào nhau!

- Nhưng nhà cháu bị mang tai mang tiếng! Dù mợ cháu không ở đây nhưng cậu dạy chúng cháu coi như mợ lúc nào cũng có ở nhà!

Thảo Tâm thở dài :         

- Tai tiếng là do người đời nghĩ sao nói vậy, khi đúng khi sai. Thậm chí có kẻ ác tâm đặt điều ra nữa. Nhưng tốt xấu cốt yếu ở mìmh. Đừng câu nệ ở miệng thế gian.

- Cháu chưa hiểu ý cô?

- Giữ mình là điều cần thiết nhưng đừng để cạn kiệt tình thương cháu ạ! Mà phải có lòng tha thứ mới thương người được. Cô rất qúy anh Thanh… cậu cháu ở tấm lòng thương yêu độ lượng với mọi người. Cháu có biết không, Victor Hugo coi đức khoan dung làm con người trở nên thánh thiện?

Cẩm Nhung nhìn cô uỷ thác:

- Cô góp ý cho cháu cụ thể trong chuyện này đi!

- Bây giờ chỉ cần cháu lắc đầu thôi là một người mẹ và hai đứa trẻ sẽ bơ vơ màn trời chiếu đất ở ngoài đường!

Cẩm Nhung gục vào vai cô sợ hãi:

- Cháu không đến nỗi ác thế đâu. Cháu chỉ muốn đừng có ai phản bội!

Thảo Tâm ôm cháu vào lòng:

- Sẽ không có ai phản bội cháu đâu!

Cả hai cô cháu nước mắt nhạt nhòa.

Hôm nay nhà ông Thanh đông vui quá. Bao nhiêu người hân hoan mừng ngày đầy cữ tháng thằng con qúy. Nó không thể hiểu được ngay từ khi mới thành hình hài một cái bào thai là nó đã chìm trong những phút giây run rẩy sợ hãi lo âu và những nỗi đe dọa một mạng sống sau này. Bây giờ nó đang nằm trong tay cha là ông Lý Qúy Dân khư khư ôm nó trong lòng. Trông ông vừa trẻ vừa già, vừa buồn cười vừa thương hại. Chắc là ông quên không biết mình là ai nữa. Ông tươi quá, nói to quá, cười vui quá làm mặt ông càng nhăn nhúm. Có lẽ đây là nỗi sung sướng nhất của đời ông. Trên đời này có ai ở cảnh như ông mà còn được thằng con trai rứt ra từ máu thịt của mình như cái thân thể hon hỏn ông đang bế đây?! Ông lúng túng đưa nó đi vòng quanh chào từng người mấy lượt. Ai cũng khen nó giống ông có lẽ vì mặt nó nhiều nếp nhăn quá hay là vì cái miệng nó động đậy không biết là khóc hay cười. Từ cái miệng ấy bật lên tiếng o… e… o… e… Ông nâng con lên, chúi đầu vào giữa hai đùi nó hít hà. Khi ngẩng lên, mặt ông ướt đầm. Nước mắt của ông hay là… của con ông?! Mọi người như trẻ lại. Cô Bảo Ngọc hỏi:

- Anh đặt cháu tên gì?

- Cha cháu là Qúy Dân thì cháu là Qúy Quốc… Lý Qúy Quốc!

- Các ông hay chữ chứ như dân quê chúng em thì cứ là quen với những Ngọt–Bùi–Cay–Đắng… mãi rồi! – Mẹ nó cười.

Ông Trịnh Huy dí dỏm:

- Sau này sao chưa biết nhưng nhờ có nó hôm nay chúng ta được một bữa “văn hóa cao” đây!

Cô Ngọt không hiểu ý:

- Ấy chết! Em văn hóa thấp, thật tình nghĩ sao nói vậy. Xin bác…

Mọi người cười ồ lên. Cô Bảo Ngọc vội thanh minh:

- Ý nhà tôi nói thời buổi bây giờ được một bữa no nê đầy đủ quá thế này là như được dự đại tiệc đấy!

Ông Thanh nâng ly rượu lên nói bâng quơ:

- Nào… tửu nhập ngôn xuất nhưng tửu này nhập là… á khẩu đấy!

Ông bạn già bế thằng con chạy tới :

- Lạy ông này nhiều lạy đi con. Ông ấy khơi mào lắm chuyện ly kỳ hậu hồi khó giải đấy!

Cô Bảo Ngọc ý nhị:       

- Khó mấy rồi cũng giải được tất. Anh ấy mát tay có hậu lắm đấy! – Cô cười nhìn ông Thanh rồi nhìn qua cô em người chồng trước.

Mặt Thảo Tâm hơi ửng lên nhưng cô vội quay đi có ý buồn. Ông Thanh nhìn Thảo Tâm rồi nhìn ông Lý Qúy Dân nhắc lại chuyện xưa:

- Tại ông đấy! Ngày ấy lúc nào ông cũng nhắc tôi phải cảnh giác với bản thân để tránh những cám dỗ của…

Ông Trịnh Huy chuốc cạn ly rượu cười khà khà:

- Ôi dào… văn chương chữ nghĩa bề bề… Uống đi! Ta cùng uống đi!

Hương Giang dắt thằng bé tới bên ông Thanh và anh Hà Giang nhắc con:

- Chào ông! Chào bác!  Xin cho cháu về !

Ông chủ lễ bế con tới cảm ơn:

- Cháu bé tên gì nhỉ?

- Dạ, cháu tên Chiến… Trần Quyết Chiến!

Cô đỡ lời con và giải thích:

- Ba cháu… qui hoạch sẵn cả rồi. Con trai thì Quyết Chiến, Quyết Thắng. Con gái thì Hòa Bình, Hữu Nghị đấy ạ!

Anh Hà Giang ngồi trên xe kéo thằng bé lại nựng hôn và đưa tay dìu tiễn nó.

Hương Giang bịn rịn lay cánh tay anh:

- Anh cho em về!

Cô dắt tay con đi ra thật nhanh không quay đầu lại.

Anh Hà Giang bần thần nhìn theo mãi cái bóng dáng thân quen.

Trong phòng cấp cứu, Thảo Tâm nằm mê man bất động, sùi bọt mép ra. Ông Thanh ngồi bên, lau mặt, nắm tay cô lay gọi:

- Tâm… Thảo Tâm ơi! Tỉnh dậy đi! Tỉnh dậy!

Bên ông, Bảo Ngọc lau nước mắt liên hồi, cô Ngọt khóc thành tiếng thút thít.

Thảo Tâm trăn trở, nghe văng vẳng tiếng ai quen quen gọi mình. Cô từ từ mở mắt ra. Ánh sáng chói lòa nhức óc, cô nhắm mắt lại… lim dim. Tiếng người gọi rõ dần bên tai. Cô ráng mở mắt to ra, ngơ ngác nhận ra ông Thanh cúi xuống nắm vai mình. Những tiếng reo vui mừng nho nhỏ:

- Tỉnh rồi! Thảo Tâm… tỉnh dậy đi em!

- Chị ấy tỉnh rồi!

Tay cô muốn thoát ra khỏi bàn tay ai nắm chặt:

- Sao không để cho tôi chết đi? Tỉnh nữa làm gì!

Mấy bàn tay thay nhau lau đi những giọt nước mắt người bệnh tuôn trào ra trong khi mắt người nào cũng ướt. Bàn tay người bệnh xuôi ra bất lực: 

  - Thà chết còn sướng hơn! Làm người lương thiện sao khó thế này?

Ai cũng sợ lời an ủi của mình càng làm cho người bệnh tủi thân hơn. Trong sự im lặng nặng nề mọi người như bất động.

Cô Thảo Tâm uống thuốc ngủ quyên sinh!

Địa phương phát hiện ra cô đang dạy học trên thành phố đã gửi công văn tố cáo cô là con địa chủ phản động, có nợ máu với cách mạng vì anh cô là một phần tử Quốc dân đảng nguy hiểm bị ta trừng trị ngay từ hồi đầu kháng chiến. Nhà trường gọi cô lên thông báo và yêu cầu cô nghỉ dạy. Cô đau đớn trở về nhà, im lặng. Cú sốc lần này nặng qúa vì thêm nhiều nỗi buồn âm ỉ chồng chất bấy nay. Đời cô dằng dặc cô đơn. Mồ côi mẹ từ nhỏ, ông bà nội nuôi cho khôn lớn nhưng học hành dang dở. Cha và anh lên thành phố lo phận mình để cô ở lại với cái trang trại mênh mông và thay lo được chữ hiếu thì chữ tình bỏ lỡ! Khi nhận ra mình quá lứa rồi thì gia đình tan tác, thế sự đổi thay. Sự giàu sang phú qúy chỉ hưởng chút dư thừa nhưng tai ương của nó một cô gánh hết, nặng nề, dai dẳng! Quê hương ruồng rãy, đô thành không để dung thân! Nỗi đau ngày càng lớn dày vò day dứt mà không thể cùng ai chia sẻ. Một mình không chịu nổi, cô muốn thoát nợ đời! Không ai biết rõ nguồn cơn, tưởng cô bị ảnh hưởng tâm thần. Cô lặng lẽ giấu đi những liều thuốc an thần gom lại. Khi người nhà phát hiện ra thì cô ở trong trạng thái mê man bất tỉnh rồi! Cũng may còn cứu được.

Thảo Tâm bình phục dần.

Chẳng lẽ cứ ngồi không sống dựa vào người?

Cửa hàng sách của người chị dâu nhập vào quốc doanh rồi, có phụ việc mãi cũng không lương!

Xã hội chủ nghĩa ưu việt không còn kẻ bóc lột và không cho ai ăn bám. Kẻ tước đoạt đã bị tước đoạt sạch rồi! Mọi người đều phải lao động để tự cải tạo mình và đóng góp dựng xây xã hội. Nhưng mỗi người một cảnh, muốn lao động theo nghề mình, theo ý mình không dễ. Xã hội tổ chức lao động theo cơ cấu kinh tế quốc doanh và tập thể với các hình thức hợp tác xã đủ loại từ thấp đến cao. Kinh tế cá thể thoi thóp từng ngày. Con người được quản lý chặt chẽ trong vòng cương tỏa ấy. Phải là công nhân, viên chức và người làm ăn tập đoàn mới được coi là chủ thể chính danh trong đời sống cộng đồng. Những người lao động cá thể và hành nghề tự do bị miệt thị và săn đuổi, nơm nớp như cá trong nơm. Muốn dạy học thì trường công lập chối từ, không có trường tư thục và không ai cần đến gia sư.

Cô Ngọt từ ngày sinh thêm con nhỏ không chạy chợ gà chợ vịt nữa. Cô xoay ra bán thịt. Lúc đầu là cái bị, cái mẹt đầu đường góc chợ. Sau người ta gom vào hợp tác, cô nhanh nhẹn khoẻ mạnh ra đứng một quầy. Cô bàn với ông Thanh:

- Để em rủ chị Tâm ra chợ với em?

Ông Thanh lắc đầu lia lịa:

- Đừng! Đừng! Khối cô hàng thịt, hàng cá, hàng rau… cày cục xin vào cơ quan nhà nước, đi học y tá, y sỹ, kế toán hay công tác đoàn thể… còn có cơ tiến bộ. Liệu xem cô ấy có chịu không?

Cô Ngọt tự ái đùng đùng :

- Các anh chị chết vì bệnh sỹ. Đau không dám kêu. Tức không dám nói. Đói không dám than… để được tiếng giác ngộ trung thành! Thấy người gặp nạn không dám cứu. Thấy bạn ngã không dám nâng. Thấy kẻ khó không giúp được mà lòng không đau… Có phải là nhát gan? ích kỷ? hay lòng dạ đã phẳng lỳ? Tưởng các anh giác ngộ mà thực ra coi khinh lao động qúa! Trên đời này có nghề gì bỏ đi đâu nào? Đói ăn vụng – Túng làm càn. Nhưng mình đây không ăn vụng của ai, cũng không làm điều gì càn rỡ hại người là lương thiện quá rồi. Cứ tụm nhau lại rung đùi xơi nước móc người chán rồi bới toàn chuyện trên trời dưới biển mà chẳng biết mình đang ở đâu. Sẽ đến lúc cả nhà đói rã phải đi xin ăn thì còn ai trọng nữa?! Mấy ông anh đấy đã giúp gì được cho em gái chưa? Anh còn muốn chị ấy tiến lên thiên đàng nữa sao? Phải ăn thì mới sống được chứ! Các ông cán bộ lúc nào cũng như ở trên mây!

Ông Thanh phật ý nhưng đúng là ông không giúp được gì.

Thảo Tâm đành chịu nghe theo cô Ngọt. Lúc đầu còn ngượng nghịu, cô đứng thu tiền. Lỡ gặp người quen cô lảng đi. Dần cô phụ một tay rồi thay đứng bán. Gặp ai từng biết mình, cô cúi gập đầu xuống mà mặt vẫn đỏ bừng rồi tái ngắt, tay cứ run lên, lóng ngóng, quên cả thu tiền. Có lần dao sớt vào tay chỉ biết nuốt cái đau vào trong mà nước mắt trào ra.

Cô Ngọt biết được động viên:

- Đời người có lúc này lúc khác chị nghĩ làm gì! Chờ ai thương mình? Phải biết tự lo cho mình chứ. Chị có làm điều gì xấu xa đâu mà cứ vừa… làm vừa run thế?!

Thảo Tâm  nguôi ngoai dần, dạn dĩ  hơn rồi quen đi .

Một ngày chủ nhật, người đàn ông trẻ dắt chiếc xe đạp và người đàn bà khoảng ngũ tuần, dáng cán bộ dưới quê lên, đi lại trước cửa nhà ông Thanh, nhìn chòng chọc vào mấy căn nhà quanh đó ý muốn tìm ai.

Con bé chừng bảy, tám tuổi và thằng bé chừng ba, bốn  tuổi đang chơi trước hè. Thằng bé nghênh mặt nhìn người lạ. Bà cán bộ reo lên:

- Nó đây này!

Nghe tiếng quát, thằng bé sợ rúm người, ôm lấy chị. Hai đứa líu ríu dắt nhau chạy tọt vào nhà. Người đàn bà đuổi theo và tri hô lên:

- Cái mặt nó lồn lột ra đây… Trốn mãi! 

Nghe tiếng con thét thất thanh, người mẹ chạy ra bế xốc con lên. Người lạ sấn vào cùng lúc cha nó vừa bước tới. Người đàn bà chỉ mặt cha con :

- Này nhé! Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai mà vụng trộm giấu giếm mãi tôi!

Hai đứa bé kia chính là thằng Lý Qúy Quốc và con chị Lý Thảo Nguyên.

Ông Lý qúy Dân sau phút bàng hoàng lúng túng kịp thời đấu dịu:

- Thôi tôi xin… mình ơi! Ta bình tĩnh cùng nhau giải quyết.

Bà vợ ông chỉ vào hai mẹ con thằng bé :

- Ông lừa vợ, gạt họ hàng làng xóm, dối tổ chức đoàn thể, lên thành phố đàng điếm hủ hóa với hạng con buôn đẻ ra loại đầu trộm đuôi cướp này đây!

Cô Ngọt bị chạm nọc, nổi cơn lên:

- Chị bảo ai là hạng, là loại hả? Tao vả vào mồm cho bật hết răng ra cái đồ quen thói ăn nói càn rỡ quàng xiên coi người như rơm rác – Cô giơ tay xông tới.

Anh thanh niên cùng đi bước lên chặn lại:          

- Xin giới thiệu với mọi người đây là đồng chí Phó chủ tịch huyện!

Cô Ngọt có sợ gì:

- Huyện gì ở đâu thì về đó mà ỉa lên đầu người ta chứ đất có thổ công, sông có hà bá. Con này không sợ ai đâu!

Bà ta cố ghìm cơn giận, lấy lại tư thế cán bộ, chỉ mặt ông chồng:

- Anh sa đọa thoái hóa biến chất! Hỏi xem con người ấy có xứng đáng với anh không? 

Cô Ngọt hiểu ra sự thể phải đương đầu, cô giành chủ động: một tay nâng cao thằng bé lên, một tay chống nạnh, mặt vênh lên khiêu khích:

- Thử xem ai xứng đáng hơn ai nào? Con này là đàn bà chính hiệu con nai vàng hẳn hoi chứ không phải là cái giống cá rô đực đâu đấy nhé! 

Đến ngữ này thì bà ta không chịu được nữa rồi. Bà chỉ mặt ông chồng ra lệnh:

- Anh phải rời ngay lập tức khỏi cái động thổ này!

Người ta đứng đầy nhà mà chưa ai có cách nào gỡ ra được trước cảnh nước sôi lửa réo này. Nhưng nghe câu nói đó, thằng Nhân Trí điên lên, nó xông tới cầm tay bà lôi xềnh xệch ra khỏi nhà:

- Đây là nhà tôi đàng hoàng tử tế. Không ai được nói động tới đâu!

Ông Lý Qúy Dân không còn hồn vía nào, tức tốc lấy xe luýnh quýnh theo vợ về quê.

Xưa nay cực khổ nhưng gia đình yên ổn vì bà biết nhịn, ông biết nhường. Từ ngày bà ra làm cán bộ thì vì cái sự quan điểm lập trường phải rõ ràng dứt khoát nên ông bà thường bất đồng mà ấm ức hậm hực với nhau. Nhưng ông không biết làm lành. Ông thờ ơ chán chường lúc gần bà. Tưởng rằng cứ im thin thít là mọi chuyện đều xong. Đó cũng là điểm yếu của giới mày râu có vướng sự đèo bòng. Huống chi ông luống tuổi rồi mới được một thằng con trong cảnh hiếm muộn khát khao thì làm sao không lộ ra ý này ý khác. Trong nỗi cô đơn, bà càng tức giận sinh nghi. Bà tò mò tỉ mỉ tìm hiểu, điều tra, theo dõi. Việc bà phát hiện ra và lần tìm tới tận hang ổ cũng không có gì lạ cả.                          

Khi trở lên thành phố với thằng con qúy, trông ông như một cái xác không hồn. Mắt ông trũng lại, thâm quầng, đờ đẫn, ngồi đâu như rũ người ra, thật tội nghiệp. Không ai nỡ giận. Chỉ mỗi khi ông nhìn thằng bé người ta còn cảm thấy trong đôi mắt u buồn đau đớn kia le lói lên ánh lửa. Ông đặt thằng con ngồi trong lòng, buồn bã nhìn ông Thanh và nói như người đứt hơi:

- Xin anh đừng giận tôi! Tôi mất hết cả rồi! Đời tôi không còn gì nữa ngoài chút xíu này ra.

Về quê, đương nhiên là ông bị lôi ra kiểm điểm. Ông không giấu giếm gì, thành thật bộc hết nỗi lòng. Ông nhận lỗi với vợ, với tổ chức và mong mọi người thấu hiểu tình cảnh của ông. Nhưng bà nhất quyết không chịu. Bà là cán bộ lãnh đạo quan trọng của cả huyện mà sao chấp nhận một anh chồng bạc tình, bội nghĩa, sa đọa mất lập trường như vậy được? Bà dứt khoát quan điểm, làm đơn ly dị. Nào ai dám khuyên can bà nữa? Ông ngày đêm năn nỉ xin bà nghĩ tình chồng vợ lâu nay, coi như đứa con chung mà thương nó. Nhưng bà vẫn khăng khăng cãi lý:

- Anh đau khổ thì tôi còn đau khổ gấp vạn lần! Thời son trẻ, vợ chồng gặp nhau còn hiếm hơn cả vợ chồng Ngâu mà tôi vẫn cắn răng chung thủy đợi chờ. Bây giờ anh bỏ tôi, đi lang chạ kiếm đứa nối dõi tông đường. Giá mà lúc trước tôi đi đánh đĩ kiếm thằng chống gậy thì anh có chấp nhận cả mẹ lẫn con không? Đã bạc với vợ thì sao trung thành với Đảng với Dân được chứ? Là cán bộ mà không gương mẫu thì còn nói ai nghe? Ai tin vào lãnh đạo nữa?

Cuối cùng ông phải ký vào Đơn ly dị do chính tay bà viết với lời trần tình:

“Tôi có lỗi nặng với đồng chí vợ tôi. Đồng chí thấy tôi không xứng đáng là chồng nữa thì tôi đành phải chịu. Nhưng tôi xin hứa mãi mãi vẫn thương qúy đồng chí ấy!

Tôi thành khẩn ký tên dưới đây

  Lý Quý Dân”

Bị tổ chức phê bình gay gắt, ông ngồi ngậm tăm, chịu nhận hình thức kỷ luật nào cũng được, chỉ xin cho nhận đứa bé về nuôi. Một bên là thằng con bất hợp pháp với một bên là đoàn thể, ông chỉ được nhận một thôi. Nhưng ông không có lập trường dứt khoát. Tưởng rằng bao nhiêu năm đi làm cách mạng, ông đã rũ bỏ được cái tư tưởng phong kiến kiếm con cầu tự đi rồi nhưng mà đầu óc ông còn bảo thủ nặng nề ngoan cố lắm. Nếu như sanh ra đứa con gái liệu ông có dám đánh đổi cái sinh mạng chính trị của mình không? Suy cho cùng vẫn là cái tư tưởng trọng nam khinh nữ. Tiếc người, tiếc danh! Ông không xứng đáng đứng trong đội ngũ những người giác ngộ giai cấp tiên phong nữa! Đồng thời để thể hiện tính nghiêm minh của Đảng và để làm gương cho những ai coi thường phép nước, ông bị loại khỏi hàng ngũ giai cấp tiên phong và đào thải khỏi cơ quan nhà nước. Ông được nói lời cuối cùng trước hội nghị:

- Lúc tôi không sai, Đảng bỏ. Tôi vẫn một lòng. Rồi Đảng hiểu ra. Bây giờ tôi có sai, chỉ mong được Đảng rộng lòng. Con trung thì mẹ thứ cho!

Ông sinh ra trong một gia đình trung nông khá giả. Thuở thiếu thời cũng được đi học. Lúc đầu là chữ nho, sau là quốc ngữ. Học vấn không cao nhưng cũng được xếp vào lớp người có học trong làng, trong tổng. Vốn là người có chí khí, ghét cái thế lực cường quyền cổ hủ và kẻ ngoại bang thống trị, ông thường giao du với những người chống đối, tham gia vào tổ chức Việt Minh rồi được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Già nửa đời người đi theo cách mạng, từ lúc nằm gai nếm mật tới lúc đỉnh chung, không chỉ một lần ông bị đoàn thể nghi ngờ từ bỏ nhưng vẫn một lòng một dạ trung thành, rồi các đồng chí cũng nhận ra, nhìn lại. Lần thứ nhất, lúc bị đày ải trong lao tù thực dân đế quốc, ông tỏ tình thân với mấy anh em Quốc dân đảng ôn hòa, bị đoàn thể nghi ngờ. Nhưng ông nghĩ họ bị tù cũng vì yêu nước mà sao ta đố kỵ? Kẻ hèn, kẻ phản bên nào chẳng có. Những người một lòng với nước sao nỡ bỏ nhau? Lần thứ hai lúc bị chính đồng chí mình bắt bớ giam cầm tra tấn, ông vẫn không hề oán Đảng. Đến lần này thì không hy vọng gì nữa vì ông hết thời rồi!

Ông đau khổ nhớ lại những ngày bị tù ta, chờ đem ra hành quyết. Ngày nào bà cũng tiếp tế nắm cơm, chén tương với mấy quả cà cho chồng ăn đợi chết. Ông hỏi bà xuống ở nơi xó bếp còn mang được cái gì không. Bà bảo chỉ có mấy bộ quần áo cũ và giấu theo mấy tấm… huân chương! Ông lén dặn bà làm sao gởi vào được cho ông những kỷ vật cao qúy tự hào ấy. Bà khôn khéo mỗi lần gói độn một tấm vào giữa nắm cơm. Ông dự định lúc đi ra pháp trường sẽ ngẩng cao đầu, thẳng người ưỡn ngực lên với những tấm huân chương trong tư thế tôi trung mắc nạn. Nhưng mấy bạn tù bảo nhau bây giờ người ta không bịt mắt và trói vào cột nữa đâu vì sợ kẻ sắp chết ngoan cố hô khẩu hiệu bất lợi náo động lòng người. Trong lúc giải tù, người ta bất ngờ bắn từ sau lưng tới! Ông tự nhắc mình: Vừa bước ra khỏi nhà giam là cứ hô liên tục, hô thật to lên cho mọi người biết. Chết đến nơi rồi còn sợ gì đau cổ nữa. Nếu các người bắn thẳng thì những tấm huân chương này vấy máu. Các người bắn tới từ sau thì nó lấm bùn. Làm nhơ bẩn những tấm huân chương này là tại các người! Nhưng trớ trêu thay, tới hôm nay, ông có tự làm nhơ những tấm huân chương đó?! Già đời rồi vẫn không giữ trọn! Cảm thấy điều gì tủi hổ, ông bẽ bàng gỡ xuống.

Bị buộc thôi việc, ông vẫn được lĩnh một khoản tiền theo số năm cống hiến. Ông đưa hết cho bà: 

  - Đạo vợ chồng không trọn là lỗi ở tôi. Bà từ tôi nhưng cha mẹ, ông bà tôi không từ bà. Ở nhà này bà vẫn có quyền. Khi giỗ ngày tết tôi xin được về kính viếng tổ tiên, trông nom phần mộ và khi con lớn khôn nó sẽ thay tôi!

Bà quăng bọc tiền ra sân, không nói một lời, không thèm nhìn mặt.

Ông đem số tiền ấy gửi ngân hàng, ý định chờ thằng cu lớn lên sẽ giao cho nó lo chuyện gia tiên.

Bây giờ phải làm thường dân ông thấy ngượng ngùng lúng túng lắm. Cô Ngọt bảo:

- Ông buồn làm gì cho tổn thọ. Tôi chỉ cần ông thôi chứ Đảng coi lũ người như tôi nào có ra gì?! Lúc làm cán bộ quen nói áp chế người ta rồi, vặn ngược bẻ xuôi thế nào cũng đúng. Lẽ phải luôn nằm trong miệng các ông. Làm dân chỉ được hiến của, hiến người, nộp thuế, vỗ tay thôi! Lúc cùng này tập làm dân cho biết. Trước mắt ông ở nhà trông con rồi sau sẽ tính… Khối việc làm, chỉ cần ông bỏ được thói sĩ diện hão đi thôi.

Nhưng biết ăn nói làm sao cho xuôi với ông Thanh đây?

Cha con ông Thanh bất bình lắm và sự việc gây phiền hà liên luỵ đến ông. Bà vợ ông Lý Qúy Dân giận cá chém thớt lây cả sang ông. Bà làm đơn gửi lên thành phố tố cáo ông a tòng chứa chấp những kẻ làm điều xằng bậy. Ông phải tường trình thanh minh mãi. Dù sự việc cũng qua đi nhưng ông lại bị thêm một tỳ vết không đáng có trong hồ sơ lý lịch. Ông Lý Qúy Dân phải cầu cứu tới thượng cấp xưa là bác Trịnh Huy.    

Ba người đàn ông này biết rành nhau và từng trọng nể nhau lắm. Không ai xấu cả tuy nhiên mỗi người một cảnh chìm nổi ba đào, làm sao nỡ lòng đành đoạn với nhau được.

- Xin anh đừng đuổi tôi đi! – Ông Lý Qúy Dân như mếu, van vỉ người thuộc cấp xưa. 

Ông Trịnh Huy vào hạng trưởng thượng công thần, với cả hai ông đều tin và quý như những người em tâm phúc mà trong cảnh riêng của mình thấy nói ra cũng kẹt, chỉ lấp lửng nước đôi:

- Chuyện này tưởng dễ mà xem ra cũng khó! Thôi thì tùy gia chủ xử sao cho anh em vẫn giữ được cái tình trước nghĩa sau.

- Các anh gặp họa nhưng còn có phúc. Tôi đường ngay lộ phẳng mà toàn hứng những… tai bay vạ gió! – Ông Thanh miễn cưỡng thở dài.

Thực ra mẹ con cô Ngọt có đăng ký hộ khẩu ở đây rồi, đố ai bảo được họ chịu bước ra khỏi cửa nhà ông!

 

(trang 56, đón đọc Chương 2)

Link http://sachhiem.net/VANHOC/N/NguyenvThinh_TBT.php

ngày 06-Jan-2017

_________________

• Các bài của Nguyễn Văn Thịnh: link http://sachhiem.net/VANHOC/N/ListNVTh.inc.php

Trang Văn Học