Về vụ TGM Ngô Quang Kiệt xách động giáo dân thắp
nến cầu nguyện và mang kìm búa đến phá trụ sở của vài cơ quan Nhà Nước trong khu
vực tòa Khâm sứ cũ, Vatican đã chính thức lên tiếng qua bức thư của Hồng Y
Tarcisio Bertone gửi ông Ngô Quang Kiệt vào ngày 30/1/2008 vừa qua
(http://www.sachhiem.net/TONGIAO/Vatican.php).
Trong văn thư nầy, Hồng Y Bertone tỏ ý lo ngại là
“nếu
cứ tiếp tục tụ họp như vậy có thể chỉ gây thêm lo âu, vì, như thường thấy trong
các trường hợp tương tự, việc không kiểm soát được tình hình và biến những buổi
tụ họp ấy thành bạo động trong lời nói cũng như hành động là một nguy cơ thực
sự” . Thực tế là chuyện này
không còn là “nguy cơ” nữa mà chỉ sau mấy ngày “cầu nguyện”, bạo động do giáo
dân gây nên đã thực sự xảy ra. Hồng y còn khuyên ông Kiệt hãy
“can thiệp, để
tránh được những hành động có thể gây mất trật tự chung và giúp tình hình trở
lại bình thường. Nhờ đó, trong bầu khí lắng dịu hơn, việc đối thoại với các cấp
Chính Quyền sẽ được nối lại, để tìm ra một giải pháp thỏa đáng cho vấn đề tế nhị
này.”
Hồng Y Bertone cũng hứa với TGM Ngô Quang Kiệt
rằng “Tòa Thánh sẽ luôn truyền đạt những khát
vọng chính đáng của người công giáo Việt Nam lên Chính Phủ của nước Ngài.”
"Phần cập nhật ngày 02 tháng Giêng, 2008:
Ngài Tổng Ngô Quang Kiệt vâng lệnh Chủ Chăn, trong niềm khấp khởi, gửi cho đàn chiên non một
bức Tâm Thư mới đăng trong sachhiem.net có đoạn như sau:
..Qua bức thư hiệp thông của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, anh chị
em cũng biết rằng Đức Thánh Cha Bênêđictô và Tòa Thánh luôn ở bên chúng ta. Và
kết quả cuối cùng sẽ tốt đẹp như lòng chúng ta mong ước ..."
Vậy những người này có phải là "một phần máu thịt" của dân tộc ta (như một vài người đã ra ngoài hiện thực và "thi vị" hóa câu nói) hay chỉ là
những tế bào ung thư cần phải mổ phăng đi để cứu lấy các bộ phận khác trong cơ
thể dân Việt?
Trước
hết, lời hứa nầy xác định một điều rất rõ ràng, không còn chối cải gì nữa:
Người
công giáo “việt nam” là công dân của một nước khác cho nên mới được “chính phủ nước ngoài”
(ở đây là tòa thánh Vatican) thay mặt để “truyền đạt khát vọng” ở cấp nhà nước
lên chính phủ Việt Nam.
Nói cách khác, người Công giáo Việt Nam thật ra chỉ là …
“Vatican kiều”, cũng như Mỹ kiều, Ấn kiều, Pháp kiều
đang tạm trú trên quốc gia Việt Nam, khi có vấn đề với chính quyền sở tại
thì được chính phủ mẩu quốc can thiệp. Minh họa cho rõ hơn, nếu một ông Nguyễn
văn Xoài nào đó ở phố Tràng Tiền Hà Nội có tranh chấp đất đai với Ủy ban Nhân
dân quận Hoàn Kiếm thì sẽ chẳng có chính phủ nước ngoài nào can thiệp cho ông ta
cả, mà vấn đề sẽ được giải quyết giữa người Việt Nam với nhau, theo luật pháp hiện hành
của Việt Nam. Vì
ông Xoài là người Việt Nam chứ không phải công dân Vatican, hay Mỹ, hay Ấn, hay Pháp …
(Điều nầy
cũng giải thích vì sao người công giáo Việt Nam rất thoải mái và hãnh diện sử
dụng hai danh từ “dân
Chúa” và “nước Chúa” thay vì “dân Việt” và “nước Việt”).
Ngoài ra, chúng tôi cũng hi vọng Hồng Y biết đến
một chút lịch sử về vấn nạn tòa Khâm sứ và xét xem việc đòi đất tòa Khâm sứ có
phải là khát vọng “chính đáng” của người công giáo Việt Nam hay không? Hồng Y
cũng cần để ý đến dư luận của quần chúng Việt Nam, ở trong nước cũng như
ở hải ngoại, mà tuyệt đại đa số cho rằng việc đòi đất tòa Khâm sứ vừa không có
căn bản pháp lý và hợp lý, vừa là một thách thức văn hóa và lịch sử với dân tộc
Việt
Nam.
Ngay sau khi bức thư của Hồng Y Bertone gửi
cho TGM Ngô Quang Kiệt, nghĩa là một vấn đề nội bộ công giáo, và chưa có tiếng
nói chính thức nào đối với chính quyền Việt Nam, thì ở hải ngoại, trang nhà công
giáo Vietcatholic đã tung tin là Nhà Nước Việt Nam sẽ nhượng bộ và sẽ hoàn trả
tòa Khâm sứ cho công giáo sử dụng để tỏ thiện chí và lòng kính trọng đối với
giáo hoàng, coi như sự đã rồi (fait accompli). Chúng tôi nghĩ rằng Nhà Nước Việt
Nam đã tỏ quá nhiều thiện chí trong vụ việc này rồi, nhưng còn Nhà Nước có cần
phải tỏ lòng kính trọng giáo hoàng hay không, và giáo hoàng có đáng để cho Nhà
Nước kính trọng hay không, thì đó lại là chuyện khác, hoàn toàn khác.
Xét đến những lời phát ngôn của
giáo hoàng về các tôn giáo khác, nhất là về Phật giáo trước đây, thì Nhà Nước
không có lý do gì để mà kính trọng một con người như vậy cả.
Trước dư luận quần chúng về vụ
việc đòi đất tòa Khâm sứ, chúng tôi nghĩ Nhà Nước Việt Nam sẽ không đi
ngược lòng dân để mà chiều theo ý đồ bất chính của những đứa con hoang trong đại
khối dân tộc. Vả chăng, sự nhượng bộ của Nhà Nước đối với một thiểu số quần
chúng sẽ tạo ra những hậu quả dây truyền không thể tránh được mà Nhà Nước phải
đối phó với rất nhiều khó khăn nếu không muốn nói là không thể đối phó.
Xét những biến động và tranh chấp
có dính líu đến Vatican trong lịch sử cận đại, ta có thể thấy rằng Hồng Y
Bertone viết thư khuyên răn TGM Ngô Quang Kiệt như trên là chỉ vì muốn nhường
một bước để đẩy mạnh sự thiết lập bang giao giữa Vatican và Nhà Nước Việt Nam.
Sau khi có bang giao rồi thì không ai có thể tính được bước kế tiếp của Vatican
để thao túng chính trường Việt Nam như thế nào. Và khi đó, những hành động của
công giáo Việt Nam, bất kể là như thế nào, sẽ được Vatican ủng hộ và can thiệp
với tất cả áp lực của một quốc gia nửa thế tục nửa tôn giáo.
Cứ đọc Tông huấn Á châu (Ecclesia
in Asia) của giáo hoàng Gioan Phaolồ 2, một văn kiện thiết kế chiến lược
truyền đạo đầy thủ đoạn của Vatican tại các nước châu Á, thì sẽ thấy kế hoạch
tiêu diệt các nền văn hóa bản địa và khuynh loát quyền lực chính trị địa phương
của Vatican như thế nào đối với các nước như Việt Nam.
Hi vọng Nhà Nước Việt Nam có đủ sáng
suốt để trước hết, ý thức thật rõ Việt Nam đang phải đối phó với thế lực nào, từ
đó cân nhắc thật kỹ những động thái chính trị và ngoại giao với Vatican hầu có
những quyết định hợp lý, hợp với lòng dân, và hợp với dòng lịch sử của Việt Nam,
và nhất là giữ uy tín của Nhà Nước đối với người dân.
Xin trích đăng một phần của bài viết “THIẾT LẬP
BANG GIAO VỚI VATICAN - VÀI SUY NGHĨ TỪ GÓC ĐỘ TRIẾT LÝ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM”
của tác
giả Phạm Phú Bổn. Bài nầy phân tích Tông Huấn Á châu với Việt Nam như mục tiêu
hàng đầu của Vatican:
Tông huấn Á châu (Ecclesia in Asia)
– Thủ tiêu văn hóa bản địa
|
Tại Á châu (nơi số tín đồ
Công giáo chiếm 2.2% trên tổng số 3.3 tỉ người), chính sách ngoại giao của
Holy See nằm trong một sách lược truyền đạo tổng thể được chỉ đạo bởi văn
kiện “Ecclesia in Asia” (Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á), do chính Giáo
hoàng Gioan-Phaolồ II chính thức ban hành nhân chuyến công du mục vụ tại Ấn Độ
vào tháng 11 năm 1999. Trong số các quốc gia Á châu, Việt Nam sẽ là đối tượng
hàng đầu của Tông Huấn nầy vì ba lý do chính đã tạo hoàn cảnh chín mùi cho kế
hoạch truyền đạo của Vatican:
i. Lịch sử gần 400 năm hình thành đầy oan trái của giáo hội Việt Nam địa phương, đặc biệt
lên đến cao điểm dưới chế độ kỳ thị tôn giáo Ngô Đình Diệm, vẫn còn hằn
in những vết thương sâu dài chưa kết thành sẹo mà dân tộc Việt Nam không thể nào
quên được.
ii. Số lượng tín đồ cuồng tín đứng hàng thứ nhì tại châu Á (sau Phi Luật Tân), nhưng lại đứng hàng thứ nhất thế giới về số 117 “thánh tử
đạo” do chính cố Giáo hoàng Gioan Phaolồ II gấp rút tấn phong hàng loạt chỉ
trong vòng một năm.
iii. Chế độ chính trị Xã
hội Chủ nghĩa “vô thần” đương quyền đang tiếp tục “đổi mới” kinh tế với tất cả
những yếu kém hoặc sơ hở xã hội và cạm bẫy văn hóa để tìm cách hội nhập theo cung cách Tây
phương vào xu thế toàn cầu hóa.
Ta biết rằng “Tông Huấn”
là văn kiện mang tính chất giáo huấn của Giáo hoàng (vị “chăn dắt chủ chiên”)
cho các vị chức sắc giáo phẩm và tín đồ (“con chiên”) tuân theo mà làm. Nội dung
của Tông Huấn Á châu đề cập đến từ những vấn đề lớn như kinh tế, chính trị, xã
hội đến những vấn đề nhỏ như nợ nước ngoài, thông tin đại chúng, môi trường.
Thậm chí cả những vấn đề nhỏ như AIDS, mại dâm, ma túy ...cũng được nhắc đến.
Tuy nhiên, trọng điểm của Tông Huấn dĩ nhiên là vấn đề văn hóa, nhấn mạnh một số
tiền đề lý luận, các nhận thức văn hóa chỉ hướng, và những phương thế tiếp cận
với văn hóa Á châu để thủ tiêu, rồi thay thế, những nền văn hóa bản địa nầy:
▪ Ngay từ phần nhập đề, bất chấp hệ quy chiếu lịch sử – nhân văn rằng
cách đây 2000 năm chưa có một thực tại địa lý gọi là “Á châu”, Tông Huấn đã xác
nhận chắc nịch một tiền đề nửa thần học nửa lịch sử rằng Thật vậy, chính tại châu Á, ngay từ đầu,
Thiên Chúa đã mặc khải và thực hiện
ý định cứu độ của Ngài ... Ngài sai con duy nhất của mình xuống, là Đức Giêsu
Cứu Thế mang hình
hài người Á châu.
Tiền đề khiên cưởng nầy rất cần
thiết cho Tông Huấn, sau nầy, đóng chốt một kết luận rất hàm hồ nhưng cũng rất
hấp dẫn vừa cho cả “dân Chúa” lẫn “dân ngoại”: Chúa đã có mặt nơi các dân tộc ấy một cách nào đó rồi . . .
mà chỉ có Chúa mới biết
(Số 21). Tiền đề đó cũng là một lời hiệu triệu động viên và
kích thích các thừa sai rằng Không cá nhân nào, không dân tộc
nào, không văn hóa
nào có thể dửng dưng trước tiếng
gọi của Đức Giêsu (Số
14).
▪ Cũng trong phần nhập đề nầy, đoạn số 1 với tiêu đề Kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa tại
châu Á, Tông Huấn mô tả quá trình
truyền đạo và vạch ra mục tiêu của Giáo hội tại Á châu như sau:
Nếu trong thiên niên kỷ thứ
nhất, thánh giá đã được trồng trên đất Âu châu, trong thiên niên kỷ thứ nhì,
thánh giá được trồng trên đất Mỹ châu và Phi châu, thì chúng ta có thể cầu xin
trong thiên niên kỷ thứ ba, Giáo hội sẽ gặt được một mùa gặt lớn
trên lục địa vừa rộng lớn vừa tràn
trề sức sống nầy. (Số 1). Điểm đáng nói là Tông Huấn đã tránh không đề cập đến quá trình trồng
thánh giá đó đã diển ra bằng những cuộc thánh chiến đẫm máu, bằng những tòa án
dị giáo độc ác, bằng những giáo triều dâm loạn và hiếu sát ... đã đẩy Âu châu
vào Thời đại tăm tối (Dark Age) và đã tiêu diệt văn hóa, cưởng chiếm đất nước
của bao nhiêu dân tộc tại Nam và Trung Mỹ. Lại càng không nhắc gì đến tình trạng
suy sụp và khủng hoảng nội sinh hiện nay của Giáo hội Công giáo La Mã tại Bắc Mỹ
và Âu châu mới thật sự là lý do chính để Giáo hội ... di tản chiến thuật qua
châu Á nghèo nàn về kinh tế nhưng phong phú và sung mãn về tôn giáo !
▪ Sau đó, bằng thái độ ngạo mạn của tâm cảnh đế quốc thần quyền của thế
kỷ thứ 17, Tông Huấn đánh giá tình trạng tôn giáo tại Á châu như sau:
Do Thái
giáo, Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Bái Hỏa giáo
(Zoroastrianism), đạo Giaina (Jainism), đạo Sikh và Thần đạo (Shintoism). Các
giá trị tôn giáo mà các đạo ấy giảng dạy thì
đang chờ được hoàn thành trong Đức
Giêsu Kitô (Số 6);
và xác định một khả thể rằng
Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo
thật sự đều đang khai sáng mọi người ... điều ấy không loại trừ việc họ được
kêu gọi đến nhận lãnh
đức tin và phép Rữa như
Chúa hằng mong muốn hết cho mọi người (Số 31). Hai đánh giá hoang tưởng đó là
để Tông Huấn đi đến một kết luận khiên cưỡng khác rằng ẩn sâu trong các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo Á châu
nầy luôn luôn có
một sự khao khát “nước hằng sống”, một sự khao khát do chính Chúa Thánh Thần khơi dậy và chỉ
mình Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể thỏa mãn (Số
18). Trắng trợn hơn, đoạn số 2
của Tông Huấn còn viết: Đức Kitô là trung gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và loài người. Ngài là đấng cứu chuộc duy nhất của thế giới,
khác hẳn vói các vị
sáng lập các tôn giáo khác. (Số
2) ... Các giá trị
tôn giáo mà các đạo ấy giảng dạy đang chờ được hoàn thành trong Đức Giêsu Kitô (Số 6).
▪ Còn về mặt chính trị thì Tông Huấn phân tích rằng Tại Á châu ngày
nay, tình hình chính trị vô cùng phức tạp, với đủ mọi ý thức hệ, từ những hình
thức chính phủ dân chủ đến những hình thức cai trị thần quyền, các chế độ độc
tài quân sự và các ý thức hệ vô thần đang có mặt rất rõ ... tại một số nơi, Kitô
hữu không được phép giới thiệu Đức Giêsu cho người khác (Số 8) để,
từ đó và do đó, cất lên lời hiệu triệu xuất quân chính trị rằng ... khắp nơi tại châu Á, càng ngày người ta
càng ý thức hơn rằng mình có khả năng thay đổi những cơ chế
bất công đó ... ngày càng có nhiều
người đòi hỏi tham
gia chính phủ ... Chúa
Thánh Thần luôn giúp đở và hổ trợ các nỗ lực của dân chúng muốn thay đổi xã hội
nhằm thỏa mãn khát vọng của họ là
được sống dồi dào hơn như Chúa hằng mong muốn (Số 8).
▪ Sau đó, trên cơ sở quyền năng của
Chúa Thánh thần biến đổi , tái tạo xã hội và văn hóa
loài người ... gieo hạt giống
chân lý vào các dân tộc, tôn giáo, văn hóa và triết lý của họ (Số 15)
và, đi xa hơn,
Chúa Thánh thần thống nhất mọi hạng người
với những phong tục tập quán khác nhau (Số 17)
... Chúa Thánh thần từng hoạt động tại châu Á (Số 18), Tông Huấn nhìn nhận rằng
Vấn đề cho Kitô giáo gặp gở các
văn hóa và tôn giáo lâu đời của địa phương đã trở nên cấp thiết. Đây là một
thách đố lớn đặt ra cho việc phúc âm hóa,
nhưng là loại thách đố dễ giải
quyết vì các hệ
thống tôn giáo ở đây như Phật giáo, Ấn Độ giáo
đã mang tính chất cứu độ rõ rệt.
Đánh đồng ý niệm (mỗi người) tự độ của Phật giáo với (chỉ Thiên Chúa mới) cứu độ của Công giáo, cũng như cố tình quên đi
rằng nội dung cốt lỏi của Phật giáo là
giải thoát chứ không phải cứu độ (Phật thuyết: “Cũng như nước đại dương chỉ có một vị mặn, giáo pháp của ta chỉ
có một vị là giải thoát”), Giáo hội Công giáo La Mã đã nhập nhằng đánh đồng các
giá trị của tôn giáo Á châu với giá trị của Kitô giáo để dễ ... truyền đạo ! Ta
đã thấy sự nhập nhằng gian dối nầy nơi một số Linh mục và giáo dân Việt Nam
trong nỗ lực đồng hóa Thiên Chúa với khái niệm “Trời” và “Ngọc hoàng Thượng đế”
của tín ngưỡng dân gian Việt Nam, cũng như một Linh mục giáo sư Việt Nam đoan
quyết rằng thi hào Nguyễn Du đã được gợi hứng từ ... Kinh thánh để sáng tác ra
Truyện Kiều !
▪ Cuối cùng là phương pháp tiến hành mùa gặt lớn: Về chính trị thì vung lá bài hai mặt đánh đánh – đàm
đàm vừa
đòi hỏi tham gia chính phủ nhưng lại
vừa phát động việc thay đổi cơ chế ,
về tôn giáo thì liên tôn để cải đạo người dân trên quan điểm Kitô
giáo, đối thoại liên tôn không phải chỉ là một cách để giúp các bên hiểu biết
nhau và làm giàu cho nhau, mà còn là một phần trong chính sứ mạng phúc âm hóa của Giáo hội
(Số 31), về
xã hội thì núp sau chiêu bài đấu tranh có điều kiện cho công bằng xã hội,
Giáo hội phải làm hết sức
mình để khắc phục những tệ đoan ấy, để hành động thay mặt những người bị bóc lột
nhiều nhất và để tìm cách
dẫn những con người nhỏ bé ấy đến với tình yêu của Đức Giêsu (Số 34).
Quyết tâm của Tông Huấn đã rõ: Sẽ san bằng đám cỏ
văn hóa bản địa để trường kỳ bắt đầu mùa gặt lớn vì
Trái tim Giáo hội sẽ không bao giờ
nghỉ ngơi bao lâu
toàn bộ châu Á chưa tìm được sự nghỉ ngơi trong Đức Kitô (Số 10).
Rõ ràng là nói gì thì nói,
làm gì thì làm, Tông Huấn Á châu đã không những vi phạm chủ quyền của các quốc
gia Á châu mà còn trịch thượng xem thường các giá trị văn hóa, tôn giáo, triết
lý Á châu, và xem tất cả các giá trị nầy như là chướng ngại vật cần thủ tiêu cho
tiến trình phúc âm hóa toàn bộ châu Á. Nói như Mac Kher, “Tông
huấn Á châu là một lời tuyên chiến chống nền văn hóa Á đông, các tôn giáo Á
đông, và xã hội Á đông nói chung, Ấn Độ giáo nói riêng”
Ý đồ của Tông Huấn đã rõ, các mặt trận ngoại giao
của Holy See đã bắt đầu, Việt Nam đối trị ra sao ?”
Tài liệu về ECCLESIA IN ASIA (Tông Huấn Á Châu)
http://www.ewtn.com/new_evangelization/asia/synod/exhortation.htm
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/apost_exhortations/documents/hf_jp-ii_exh_06111999_ecclesia-in-asia_en.html
http://eapi.admu.edu.ph/eapr00/prior.htm
http://eapi.admu.edu.ph/eapr00/pcphan.htm
Các bài cùng đề tài... |