|
ngày 04 tháng 8, 2008 |
[Nhân Đọc Bài: Kế Hoạch Cho Ngày Tàn Của Phật Giáo]
Tôi
mới đọc trên
giaodiemonline.com bài của Allen Carr,
điểm cuốn "Peoples of the Buddhist World:
A Christian Prayer Guide" [Các Dân Tộc Của Thế Giới Phật Giáo: Một
Hướng Dẫn Cầu Nguyện Của Người Ki Tô Giáo] của tác giả Paul
Hattaway. Cuốn sách của Paul Hattaway viết nhằm mục đích giúp
các nhà truyền đạo Tin Lành thiết kế chiến lược cải đạo các tín đồ tôn
giáo khác, nhất là Phật Giáo, sao cho có hiệu quả. Đây không phải là
điều lạ lùng gì, vì trong thế giới Tây phương, Ki Tô Giáo nói chung đang
suy thoái trầm trọng, không phương cứu vãn, nên cả Công giáo và Tin Lành
đều có kế hoạch cải đạo ở Phi Châu và Á Châu với mọi thủ đoạn, tập trung
vào những cộng đồng người dân ít học, ngờ nghệch và sống trong hoàn cảnh
kinh tế khó khăn. Sách lược truyền đạo của họ chỉ có thể thành công
phần nào trong những cộng đồng như vậy. Nhưng dù sao đây cũng là một
hiểm họa, có ảnh hưởng lâu dài đến tương lai của đất nước, và do đó
chúng ta cần phải quan tâm.
Chỉ cần đọc vài câu của Hattaway viết về Phật Giáo, với những luận
điệu cũ kỹ của những giáo sĩ truyền giáo trong mấy thế kỷ trước, chúng
ta có thể biết ngay Hattaway chẳng qua chỉ là một tên ngu đạo, nghiện
Chúa, mê tín, cuồng tín [tổng hợp của ngu dốt, kiêu căng, hợm hĩnh]
không kém gì những thừa sai Ca-tô trong thế kỷ 17-19, thí dụ như
Alexandre De Rhodes khi đến Việt Nam vào thế kỷ 17..
Thật vậy, Allen Carr đã nhận định về cuốn sách của Paul Hattaway như sau:
Trong suốt cuốn sách, Hattaway đã lập lại những điều dối trá
cũ mèm, những xuyên tạc và những sự thật nửa chừng mà các người truyền
đạo đã dùng trong thế kỷ 19 và các người theo đạo Chúa chân chánh đã gạt
bỏ từ hơn trăm năm nay.
Như đám ruồi nhặng bu quanh một con vật sắp chết, các người
truyền đạo bám lấy các cộng đồng đang bị nguy khốn để kiếm cách cải đạo
trong khi ngụy trang công việc của họ dưới hình thức cứu gíúp và viện
trợ nhân đạo.
Và trong phần Dẫn Nhập của Giao Điểm, chúng ta có thể đọc 2 nhận
định về cuốn sách của Paul Hattaway:
Robert Schaefer (thành phố Frisco, tiểu bang
Texas): “Đây không phải là một cuốn sách giúp người Tin Lành tìm
hiểu về Phật giáo mà là một cái nhìn giản lược về tôn giáo nầy với mục
đích duy nhất là “cải đạo” người Phật tử thành tín đồ Tin Lành. Lịch sử
quá trình truyền đạo của các giáo sĩ Tin Lành trong các vùng đất Phật
giáo thật đáng kinh sợ, nếu không muốn nói là hoàn toàn thất bại. Vì lý
do đó, tác giả Hattaway đã tiếp cận từ một góc độ khác, góc độ “hãy biết
kẻ thù của mình” [This is not a book about helping Christians to
understand Buddhism, it is a reductionist perspective of Buddhism for
the exclusive purpose of "converting" Buddhists to Christianity. The
track record of Christian missionaries in Buddhist areas of the world
throughout history has been awful, not to mention a near perfect
failure. For this reason, a new angle is being taken by Hattaway, a
"know thy enemy" approach ].
Dahasak Mal (thành phố Dover, tiểu bang
Delaware): Tôi thấy “cuốn sách nầy thật hèn hạ. Cuốn sách
được viết như một cuốn chỉ dẫn cho các tên thợ săn đạo. Một loại thợ săn
tìm mồi là những cá nhân tín đồ của các tín ngưỡng khác. Bản thân tôi
cũng đã biết một vài nhóm như thế, loại tôn giáo chính thống, hoạt động
trong các nước thuộc thế giới Thứ Ba dưới nhiều hình thức ngụy trang.
Bọn nầy dùng tình trạng nghèo khó hay bất an xã hội như một điều kiện
cần thiết để tác động lên các nạn nhân của chúng” [ I find this
book is vile. It’s written as a guide-book for the religious hunter. A
hunter who can prey on individuals of other faiths. I myself know of
various groups, fundamentalists acting in many third world countries
under many disguises. They use poverty or a civil unrest as a necessary
pre-condition to act-upon innocent victims].
Allen Carr và Dahasak Mal nhận định không sai. Tôi đã từng viết:
Tin Lành là một hiểm họa, một họa rất nguy hiểm cho nhân loại nói chung,
cho Việt Nam nói riêng, nếu Việt Nam để cho Tin Lành tự do truyền đạo.
Tại sao? Vì Tin Lành là nô lệ của cuốn Kinh Thánh, tuyệt đối tin rằng cuốn Kinh Thánh là
những lời mạc khải của
Thiên Chúa nên không thể sai lầm. Nhưng họ không bao giờ thật sự giảng
Kinh Thánh mà chỉ đưa ra vài điều chọn lọc kỹ trong đó để mê hoặc quần
chúng. Hiểm họa Tin Lành là ở chỗ này, vì Kinh Thánh có rất nhiều điều
sai lầm về thần học cũng như về khoa học, khoan kể là trong đó còn có
đầy những chuyện ác độc, dâm ô, loạn luân, phi luân, và có tính cách ngu
dân, không thể nào chấp nhận được trong thời đại ngày nay.
Một học giả, Neale Donald Walsch, đã nhận định trong cuốn The New Revelations, trang 51:
“Những nhà bảo thủ Tin Lành tin rằng con đường tiến tới là con
đường đi giật lùi, giật lùi về đúng những lời nguyên thủy của cuốn Kinh
Thánh – một cuốn sách phải đọc nguyên văn, và áp dụng từng câu từng
chữ.”
(Fundamentalists believe that the way forward is the way backward,
to the original and exact words of the Holy Scripture – to be read
verbatim, and applied literally).
Trong cuốn “Đạo Tin Lành Và Sự Đàn Áp” (Protestantism and
Repression, Orbis Books, New York, 1985), Mục sư Tin Lành Rubem Alves,
giáo sư đại học ở Campinas, Brazil, đã phân tích rất sâu sắc về mọi khía
cạnh của đạo Tin Lành, đặc biệt là về tâm thức của những người tân tòng
trong Chương 2: Cải Đạo: Cái Khuôn Xúc Động Tình Cảm Của Tin Lành
(Conversion: The Emotional Matrix of Protestantism), dài 22 trang giấy,
từ trang 22 đến 46. Đây là một cuốn sách dày 215 trang, rất hữu ích cho
những người nào muốn tìm hiểu về đạo Tin Lành, từ cấu trúc tình cảm,
nhận thức thực tại, cho đến phương pháp tẩy não, nhồi sọ những giáo điều
mà Tin Lành chấp chặt bất kể đến những bằng chứng về lô-gic, về khoa
học, về xã hội, những bằng chứng trái ngược với Kinh Thánh một cách rất
hiển nhiên. Chúng ta hãy đọc một đoạn ngắn trong mục “Cải Đạo và
Khổ” (Conversion and Suffering), trang 43-44, để thấy rõ Tin Lành
đã lợi dụng những tình trạng khủng khoảng về vật chất và tinh thần của
con người như thế nào để kéo họ vào trong vòng mê tín của Tin Lành:
Sự phân tích vấn đề của chúng tôi đưa đến kết luận là, kinh
nghiệm cải đạo là sự đáp ứng của một tình trạng khủng khoảng. Sự cải
đạo giải quyết một ngõ bí tình cảm.
Đó là tại sao giáo hội phát triển nhanh hơn trong những địa
phương mà ở đó những tiến trình xã hội đã gây ra sự khổ, đặc biệt là từ
hoàn cảnh ngoài lề xã hội và sự sụp đổ ý nghĩa của cuộc đời. Những địa
phương như vậy là ưu tiên số một của các nhà thờ ở địa phương, mà những
nỗ lực để tạo nên đời sống trong giáo hội được chú trọng trong những địa
phương này.
Tôi không nói điều gì mới lạ đối với những người Tin Lành.
Không có sự cải đạo (vào Tin Lành) nếu không có sự khủng
khoảng, không có sự cải đạo mà không có sự khổ. Cải đạo là một quá
trình mà con người hấp thụ sự khổ thành một ý nghĩa mới của cuộc đời và
làm cho nó có ý nghĩa...
Có phải là khó hiểu không khi mà
(vai trò của) Giê-su không thể rao giảng được cho những
người cảm thấy mình an toàn, hạnh phúc, cho những người cảm thấy đời
sống thật đáng sống, cho những người không đang ở trong cơn khủng
khoảng? Có phải là kỳ cục không khi mà Giê-su chỉ có thể trình bày và
làm cho có ý nghĩa trong những tình trạng bệnh hoạn trong đó con người
bị nhiễm bởi sự bất an, bởi những cảm xúc tội lỗi, và sợ hãi cái chết?
Chúng tôi bắt buộc phải kết luận rằng thế giới chỉ mở
chỗ cho Giê-su khi thế giới cảm thấy ốm đau, bệnh hoạn.
Có một lý do thần học nào để giải thích là tại sao sự sợ hãi cái chết
lại là những bí tích đặc quyền của sự cứu rỗi? Nói cách khác, kinh
nghiệm cải đạo giả định là điểm gặp nhau giữa Thiên Chúa và thế giới là
sự khổ và thống khổ. Có phải là có một cách nhìn thực tại một cách tự
mãn trong sự đau khổ (sadomasochistic
vision of reality) tiềm ẩn ở đàng sau giả định như vậy? [Tác giả
dùng từ sadomasochistic nghĩa là phối hợp của sadism (thỏa mãn trong sự
độc ác) và masochism (cảm thấy thích thú khi bị thống trị hay bị bạc
đãi). Về điểm này, Tin Lành không khác gì Ca-tô Giáo Rô-ma. Trong một
cuộc hành hương cùng với hàng ngàn những tín đồ đau ốm bệnh hoạn tại Lộ
Đức (Lourdes), Giáo hoàng John Paul II đã phát biểu là ngài chia sẻ sự
đau đớn vật chất của các tín đồ và bảo đảm với họ là những sự đau đớn
bệnh hoạn của họ là nằm trong “kế hoạch kỳ diệu” của Thiên
Chúa. (Pope John Paul II joined thousands of other ailing pilgrims
at Lourdes... telling them he shares in their physical suffering and
assuring them that the burden is part of God’s “wondrous plan”.)]
Sự khổ được biến đổi thành một dạng ân sủng, vì nó mang đến
cho kẻ tội lỗi một cơ hội để gặp Giê-su. Sự khổ càng lớn thì
những cơ hội truyền đạo càng nhiều. Phải chăng điều này hàm ý là Giáo
hội được đặt trong một vị thế khó hiểu là thường cầu nguyện cho nhân
loại bị khổ nhiều hơn để cho con người có thể chấp nhận thông điệp của
giáo hội? Đây là câu hỏi mà Dietrich Bonhoeffer [Một nhà thần học
Ki-tô bị chết trong nhà tù của Đức Quốc Xã] đặt trước Giáo hội.
Vậy những nhà biện hộ cho đức tin Ki-tô, những người mang
những “tin lành” thực sự đã làm những gì?
Họ chứng tỏ cho những người đang ở trong tình trạng an toàn,
hài lòng, hạnh phúc, thực ra là chẳng sung sướng gì, tuyệt vọng, và
không ý thức được rằng mình đang ở trong tình trạng nghiêm trọng mà mình
không biết gì về nó, từ đó chỉ có họ (những nhà truyền bá phúc âm)
mới có thể cứu được. Bất cứ ở nơi nào mà có sự khỏe mạnh, sức sống, sự
an toàn, bình dị, họ dò xét để kiếm những trái cây ngọt ngào [những
kẻ ngờ nghệch, nhẹ dạ, cả tin] để gặm nhấm hoặc kiếm chỗ đặt những
cái trứng độc hại của họ trong đó. Họ đặt mục tiêu số một vào cách đưa
con người vào tình trạng tuyệt vọng nội tâm, và từ đó những người này sẽ
hoàn toàn lệ thuộc họ. [Bonhoeffer].
Cải đạo (theo Tin Lành) là một giải đáp cho một vấn
nạn đau đớn. Người ta bắt đầu đi từ cải đạo đến một quan niệm về thế
giới có tác dụng ngăn ngừa sự tái xuất hiện của kinh nghiệm bất an tiên
khởi. Mục đích [của cải đạo] là đuổi đi sự sợ hãi. Nếu sự cải
đạo đã đủ để chứng minh có thể đuổi đi sự sợ hãi, tâm thức con người sẽ
gắn chặt vào kinh nghiệm cải đạo và vào quan niệm mới về thế giới.
Đó là tại sao mọi lý luận không có tác dụng ở trình độ này.
Chúng ta có thể đưa ra mọi thứ bằng chứng – lô-gic, khoa học, hay bất cứ
bằng chứng nào khác – để kêu gọi người cải đạo suy tư về kinh nghiệm cải
đạo của họ. Bằng chứng này bị bác bỏ ngay lập tức bởi người tân tòng.
[Bởi vì người tân tòng sợ phải đối diện lại với một tâm thức bất an
như trước.]
Nơi trang 84-85, mục sư Rubem Alves còn cho chúng ta biết rõ những
người tân tòng đã cải đạo vào Tin Lành như thế nào và tâm thức của họ đã
bị cộng đồng Tin Lành thay đổi như thế nào để họ có thể được chấp nhận
trong “hội thánh” (sic) Tin Lành. Đọc xong đoạn sau đây chúng ta sẽ
hiểu rõ hơn tại sao những tín đồ Tin Lành lại như những con vẹt, nhắc
lại y chang những điều mà họ được truyền dạy trong những cộng đồng Tin
Lành:
Tình trạng của một kẻ tân tòng giống như tình trạng của một
đứa trẻ lần đầu tiên đi đến trường học. Họ không biết gì hết. Kiến thức
sẽ được dàn xếp để truyền cho họ bởi một người [tự cho là] đã
có kiến thức (về Tin Lành). Quá trình học tập là một quá trình
tập sự. Sự tương giao xã hội giữa hai bên không phải là một sự tương
giao bình đẳng. Ông thầy và kẻ tập sự, thầy dạy giáo lý và kẻ tân tòng
học hỏi, không ở cùng một trình độ. Một người là thuộc cấp của người
kia; do đó quyền lực nằm trong phương trình này. Những người dạy giáo
lý là những người có quyền năng áp đặt những định nghĩa về thực tại của
mình; những kẻ tân tòng học hỏi là những người không có quyền giữ những
định nghĩa về thực tại của mình..
Ngay cả trước khi những kẻ tân tòng học hỏi bất cứ điều gì về
thế giới, họ được dạy để tự coi mình như là không biết gì. Những kiến
thức của họ được để trong dấu ngoặc và được dạy phải nghi ngờ. Họ
không được phép viện ra những điều mà họ cho là họ biết để phê bình loại
kiến thức mà “hội thánh” muốn chuyển đạt cho họ. Tại sao vậy? Vì kiến
thức có trước của họ là tài sản từ các thời kỳ tăm tối và bị đầy đọa từ
trước. Đầu óc của họ được đưa về tình trạng của những trang giấy
trắng. Họ không có gì để nói; nhiệm vụ của họ là nghe. Là những kẻ tập
sự và học hỏi, họ phải tuân phục định chế của giáo hội trong yên lặng.
Nay họ biết rằng định chế đó có độc quyền về sự hiểu biết tuyệt đối, do
đó có độc quyền để nói.
Như vậy, trong thế giới Tin Lành, quá trình học hỏi bắt đầu
bằng một bài học thuộc loại đặc biệt về mối giao hệ xã hội: những người
dạy giáo lý nói, những kẻ học hỏi ngồi yên; những người dạy giáo lý
giảng dạy, những kẻ học hỏi nhắc lại. Nếu những kẻ học hỏi không biết
là mình tin cái gì (như những người giảng dạy tự cho là mình đã
biết), họ không đủ tư cách để nói. Đúng là những kẻ tân tòng được
tự do tỏ lộ tình cảm của mình. Nhưng họ không thể nói điều gì về sự
hiểu biết của họ. Đó là tại sao loại ngôn từ thích hợp của những kẻ tân
tòng học hỏi là nhắc lại, như sách giáo lý (của Tin Lành) đã
minh họa rõ ràng. Những sách giáo lý là sách đầu tiên để cho những kẻ
tân tòng tập sự và học hỏi. Chúng chứa những câu hỏi và những câu trả
lời viết sẵn. Khi nào thì những kẻ tân tòng học hỏi hiểu sách giáo lý
của Tin Lành? Khi họ có thể đọc thuộc lòng những câu trả lời in sẵn
trong đó. Sự học hòi của cộng đống Tin Lành được định nghĩa theo loại
kiến thức đó, và sự kiểm tra sự học hỏi của những kẻ tân tòng là khả
năng nhớ và nhắc lại những câu hỏi và câu trả lời trong sách giáo lý.
Theo cách này tâm thức tập thể của cộng đồng Tin Lành được in vào đầu óc
và tâm thức của thành viên. Thế còn vấn đề tự do tìm hiểu thì sao? Thế
còn vấn đề để cho những kẻ tân tòng học hỏi tự mở mang trí tuệ? Không
thể tìm thấy ở đâu trong đạo Tin Lành.
Ngoài ra, mục sư Rubem Alves còn cho chúng ta biết, trang 34, là
Tin Lành cấy vào đầu tân tòng mặc cảm tội lỗi, và để có thể vào
trong cộng đồng Tin Lành, người tân tòng phải tin rằng mình sinh ra
trong tội lỗi, và vì cái bản chất tội lỗi đó con người không thể làm
điều gì tốt (Believe that you were born in sin, and that by nature
you are incapable of doing good.). Để thoát ra khỏi cái bản chất
tội lỗi đó, con người chỉ có một cách: chấp nhận Giê-su là đấng cứu
chuộc duy nhất và đầy đủ (Accepting Christ as the sole and
sufficient savior). Cái công thức này không khuyến khích làm thiện mà
chỉ cần đầu phục đấng Ki-tô (The formula calls not for doing but for
surrendering to Christ). Thật vậy, rất mực đạo đức còn thường được coi
là một chướng ngại trong sự cải đạo (Indeed moral excellence is often
considered an obstacle to conversion).
Với những hiểu biết như trên về sự cải đạo vào Tin Lành, rồi đọc
một vài bài của mấy tân tòng Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng, hay Nguyễn
Huệ Nhật v..v… chúng ta thấy Mục sư Rubem Alves viết không sai một mảy
may, và chúng ta không thể không tội nghiệp cho những đầu óc đã bị điều
kiện hóa và thuần hóa qua những thủ đoạn truyền đạo của Tin Lành. Nhưng
thật ra, chúng ta không thể quy trách hoàn toàn cho những người truyền
đạo, bởi vì đó là nghề nghiệp của họ, dùng bất cứ thủ đoạn nào để kéo
những người đang ở trong cơn khủng khoảng tinh thần và vật chất vào mớ
xiềng xích tâm linh của Tin Lành. Họ thành công vì một phần khá nhiều
thuộc căn trí thấp kém và yếu kém của những kẻ tân tòng. Nếu căn trí
của những kẻ tân tòng không yếu kém, nếu lòng tự tin, tự trọng của họ
không mất đi, nếu đầu óc của họ có khả năng suy luận dù chỉ là tối
thiểu, thì làm sao họ có thể bị thuyết phục bởi những điều thuộc loại mê
tín, hoang đường đã quá lỗi thời của Tin Lành?
Chẳng trách là Mục sư Tin Lành Ernie Bringas đã nhận định trong
cuốn Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical
Authority, “đầu óc của đa số tín đồ Ki Tô Giáo, đặc biệt là Tin
Lành, có một khuyết tật, họ là nạn nhân của một khoảng cách kiến thức
đặt họ vào trình độ hiểu biết tôn giáo thích hợp nhiều hơn với thế kỷ
17”. [Christians are victims of a knowledge gap which places them
at a level of religious understanding much more appropriate to the 17th
century].
Chúng ta cũng biết, cách đây hơn 1 thế kỷ, Robert G. Ingersoll đã nói
thẳng trước một cử tọa đông đảo mà mỗi người phải bỏ ra $2 (năm 1890) để
nghe ông diễn thuyết (Joseph Lewis, Ingersoll: The Magnificient,
p. 140):
Tin Lành Giáo thật sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó
chứng tỏ là quần chúng thì mê tín và các mục sư thì đần độn (stupid).
(Protestantism dies hard. What does
that prove? It proves that the people are superstitious and the
preachers stupid.)
Nhưng không phải chỉ có Tin Lành mới dạy tín đồ những điều hoang
đường, không còn thích hợp với thời đại khoa học, thông tin điện tử ngày
nay. Công giáo cũng không hơn gì. Ngày nay mà Giáo hoàng Benedict XVI
vẫn dạy con chiên những điều không thể tin được trong Tân Ước để mê hoặc
họ, nếu chúng ta đọc Bài giảng của Benedict XVI trong lễ kết thúc
WYD 2008 tại Randwick, Sydney [Nếu có thì giờ tôi sẽ phân tích bài
giảng này trong một bài khác]. Điều này không
lạ, chúng ta nhớ rằng Ingersoll cũng đã phê bình Ca-Tô Giáo Rô Ma như
sau, Ibid. :
Ca-Tô Giáo Rô-ma thật sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó
chứng tỏ rằng quần chúng thì ngu dốt (ignorant) và các linh mục thì xảo
quyệt.
[Roman Catholicism dies hard. What does that prove? It
proves that the people are ignorant and that the priests are cunning.]
Qua những hành động càn rỡ ở WYD, chúng
ta thấy rõ, cho tới ngày nay, các con chiên
Việt Nam vẫn là những giáo dân cuồng tín và hung hăng nhất thế giới. Và
đây là điều chúng ta cần phải luôn luôn cảnh giác.
Điều đau lòng đối với người Việt lưu vong hiểu biết là, không còn
được thế giới công nhận, còn Tòa Thánh Vatican, Chúa trùm Công giáo
cũng chê, thế mà giới trẻ Công Giáo Việt Nam vẫn theo “thói đời mang
tính đối kháng” [từ của HY Phạm Minh Mẫn], coi lá cờ vàng ba sọc đỏ
như là của riêng để làm chính trị chống Cộng, mang nó đi trương lung
tung và lạc lõng ở một đại hội Công giáo thế giới mà không biết ngượng,
lại còn mang nó quàng lên cổ giáo hoàng, người chủ chăn tôn giáo của họ,
một tôn giáo chỉ chiếm 7% dân số ở Việt Nam, và khoảng hơn 10% những
người tỵ nạn phi Công giáo, làm xấu hổ lây cả những người phi-Công giáo
đã từng trân quý lá cờ đó, vì lý do này hay lý do khác. Và họ có thể
đần độn đến độ khoa trương là “cờ vàng tung bay ngạo nghễ trên bầu
trời Úc Châu” . Ngạo nghễ đối với ai? Với thế giới không còn công
nhận lá cờ vàng và không biết đến lá cờ vàng, hay đối với Vatican dù
Vatican cũng đã chê luôn? Trong một đại hội tôn giáo ở một nước tự do
như Úc thì dù có làm càn trương cả một rừng cờ cũng chẳng ai buồn nói gì
vì chẳng có ai khen, trái lại người ta chỉ thấy đám giáo dân lưu vong
Việt Nam hung hăng khoa trương lá cờ một cách lố bịch, không phải chỗ.
Giáo dân khoe rằng đã chiến thắng CS ở Úc v…v…., vậy thì rõ ràng là mục
đích trương cờ vàng là nằm trong “thói đời mang tính đối kháng”, Hông Y
Mẫn nói đâu có sai? Họ cũng còn quàng lên cổ ông giáo hoàng nổi tiếng
là vô đạo đức và đạo đức giả chiếc khăn quàng có in cờ vàng ba sọc đỏ,
cho đó là rất vinh hạnh, không biết rằng như vậy chỉ làm nhục lá cờ vàng
ba sọc đỏ tuyệt đối không phải của riêng của họ. Họ cũng còn khoe
khoang là “đức thánh cha” đã ban phép lành cho lá cờ đó, làm như phép
lành của “đức thánh cha” có một giá trị nào đó, mà không biết rằng “phép
lành” chẳng qua chỉ là trò bịp của giáo hội Công Giáo. Người Công giáo
có thể tin ở cái “phép lành” của Giáo hoàng, nhưng người ngoại đạo chiếm
đa số chúng tôi có lý do gì để tin ở cái trò quỷ thuật ấy? Khi xưa,
trong cuộc chiến ở Việt Nam, các linh mục tuyên úy ngoại quốc đã từng
ban phép lành cho những khẩu đại pháo và các xe tăng để đi giết hại
những người dân lành vô tội. Mang lá cờ của cả cộng đồng người
Việt tị nạn CS để cho một người vô đạo đức tôn giáo và đạo đức giả ban
cái “phép lành” vô giá trị của một tôn giáo thiểu số ở Việt Nam thật
đúng là một chuyện làm càn, ngu xuẩn, trịch thượng, vô trí và vô liêm
sỉ. Ấy thế mà còn cứ huênh hoang khoe khoang lấy làm vinh hạnh
mà không biết thiên hạ khinh ra mặt vì cái ngu của mình. Ai không đồng
ý, xin mời lên tiếng!
Trong cuốn sách, Paul Hattaway viết: “Hàng trăm triệu tín đồ
Phật giáo vẫn tiếp tục sống và chết mà không có cơ hội nào được
tiếp cận với
Phúc Âm” [Hundreds of millions of Buddhists continue to live and
die without any exposure to the Gospel]. Vậy thì nay, tôi kêu gọi mọi
người chúng ta hãy đưa vai ra gánh vác công việc làm cho họ tiếp cận
thực sự với Phúc Âm. Điều này có nghĩa là, chúng ta sẽ trình bày Kinh
Thánh một cách thật đầy đủ, cuốn Kinh mà Tin Lành tin rằng đó là những
lời mạc khải của Thiên Chúa, một cuốn sách phải đọc nguyên văn, và
áp dụng từng câu từng chữ. Ngoài ra chúng ta cũng cần vạch trần
những thủ đoạn truyền đạo của Tin Lành, lịch sử của Ki Tô Giáo nói chung
v…v mà chúng tôi nghĩ mọi người phi-KiTô chúng ta cần phải biết để mà tự
vệ, khỏi bị mê hoặc bởi những điều truyền đạo láo lếu của Tin Lành, và
để dạy lại cho các tín đồ Tin Lành cũng như những người Công giáo về
những sự thực về Thiên Chúa và đạo của họ.
Tôi
thành khẩn kêu gọi mọi người có ý thức dân tộc, nhất là các bạn trẻ, vì
tiền đồ và tương lai dân tộc, với tinh thần vô úy, hãy tích cực tham gia
mặt trận văn hóa để giải hoặc Ki Tô Giáo, hóa giải hiểm họa Tin Lành.
Tại sao? Vì sách lược truyền đạo của Ki Tô Giáo là sách lược
xâm lăng văn hóa, nghĩa là chủ trương xóa bỏ nền văn hóa dân tộc của các
địa phương để thay vào đó nền văn hóa độc thần của Ki
Tô Giáo. Giải hoặc Ki Tô Giáo là con đường duy nhất để có thể
đối phó với những thủ đoạn mánh mưu truyền đạo của Tin Lành nói riêng,
Ki Tô Giáo nói chung. Chúng ta chỉ cần đưa ra những sự
thật, chỉ là sự thật, không gì ngoài sự thật [the
truth, only the truth, nothing but the truth] về cuốn
Kinh Thánh của Ki Tô Giáo, với đầy đủ những điều sai lầm về thần học
cũng như về khoa học, khoan kể đến đầy những chuyện dâm ô, ác độc, loạn
luân, phi luân, và có tính cách ngu dân trong đó, về lịch sử tàn bạo của
Ki Tô Giáo trên khắp thế giới, về thực chất các giáo lý bịp bợm của các
giáo hội Ki Tô, về những bí tích hoang đường, về những thủ đoạn truyền
đạo của Ki Tô Giáo nói chung, về những vai trò tự phong của Giáo hoàng,
Linh mục v… v…, và tìm cách phổ biến những sự thật này thật rộng rãi
trong quảng đại quần chúng. Chúng ta không nên bị mê hoặc bởi những bình
phong từ thiện và bộ mặt đạo đức giả tạo ngoài mặt của Ki Tô Giáo ở
trước mắt mà quên cái hại lâu dài đối với dân tộc ở đàng sau.
Chúng ta đều biết rằng các tín đồ Ki Tô Giáo không sợ bất cứ cái gì
khác, mà chỉ sợ sự thật. Và đây là nhận định của nhiều chuyên
gia nghiên cứu về Ki Tô Giáo.
Chúng ta hãy tích cực trong nhiệm vụ này. Giúp cho người dân mở
mang đầu óc, cập nhật hóa kiến thức thời đại, nhận rõ chân thực, là mang
đến cho họ một nguồn vui vô tận; giúp cho người dân tỉnh thức, không bị
huyễn hoặc bởi những điều hoang đường, mê tín, cất bỏ lòng sợ hãi thần
quyền, và thoát khỏi một tâm cảnh nô lệ ngoại quyền, đó chính là cứu
khổ. Vì sự an sinh của quần chúng, vì tương lai của dân tộc, vì sự tiến
bộ trí thức của người dân, chúng ta hãy cùng nhau góp sức đẩy mạnh những
hoạt động có ích này trong tình trạng đang phát triển, tiến bộ về mọi
mặt của đất nước. Chúng ta nên nhớ, văn hóa là linh hồn của dân tộc.
Và văn hóa của Việt Nam chính là văn hóa của tuyệt đại đa số người dân.
Chúng ta sẽ không cần phải e ngại trong nhiệm vụ đập tan mọi luận điệu,
mưu toan muốn hạ thấp hay xóa bỏ nền văn hóa của Việt Nam mà nhiều đời
ông cha cũng như chúng ta đều trân quý. Lẽ dĩ nhiên, đây là nhiệm vụ
chung của mọi người dân yêu nước, nếu chúng ta muốn duy trì, gìn giữ một
quốc gia thuần nhất về truyền thống và văn hóa. Chúng ta không ngần
ngại áp dụng những cái hay cái đẹp của các xã hội khác trên thế giới.
Nhưng chúng ta quyết không để cho những đồ phế thải của các xã hội đó
xâm nhập vào Việt Nam để gây phương hại cho đất nước. Chúng tôi hi vọng
mọi người chúng ta sẽ có đủ kiến thức và tinh thần vô úy để chiến đấu
trong mặt trận văn hóa này
Các bài về tôn giáo cùng tác giả