VÀI NHẬN XÉT NHÂN ĐỌC THƯ CỦA GH BENEDICT XVI

GỬI NGƯỜI CA-TÔ RÔ-MA Ở TRUNG QUỐC

Trần Chung Ngọc

23 tháng 11, 2007

 

Theo tin trên Internet thì gần đây giáo hoàng Benedict XVI đã gửi cho giáo dân ở Trung Quốc một bức thư dài 55 trang đòi lại quyền để cho giáo dân Trung Quốc trở lại làm nô lệ cho Vatican, theo nghĩa phải để cho Vatican có quyền chọn người tấn phong giám mục, và giáo dân tiếp tục “quên mình trong vâng phục” một “đức thánh cha” mà đạo đức tôn giáo đã là một câu hỏi lớn cho cả thế giới phi-Ca-tô Rô-ma. Toàn bộ bức thư có trên website Vietcatholic (VietCatholicNews 05/07/2007) . Lẽ dĩ nhiên đây là cơ hội để những con chiên Ca-tô Việt Nam hết lời ca tụng trí tuệ của “người đại diện Chúa của họ trên trần”, nhưng thực chất chỉ là “khen thơm” cái “mùi khó ngửi của Vatican.”. Tôi đã đọc thư này từ lâu nhưng vì quá bận nên chưa có thì giờ trình bày cùng độc giả vài nhận xét về bức thư này.

Theo tin từ Hồng Kông thì nhà cầm quyền Trung Quốc đã dứt khoát bác bỏ một bức thư như vậy vì nội dung vẫn xoay quanh tâm điểm là “chơi lại khúc nhạc cũ rích”. Cái “khúc nhạc cũ rích” này là những luận điệu thần học hoang đường, đã lỗi thời, mà Tây phương đã ruồng bỏ, và có thể chính giáo hoàng cũng không còn tin [vì trong thời đại này không ai còn có thể tin được], nhưng vì quyền lực của giáo hội nằm trong đám tín đồ thấp kém, nên ông ta vẫn đưa ra một cách mù mờ để mê hoặc quần chúng, vì vậy cho nên rất “khó ngửi”. Điều này tôi sẽ chứng minh khi phê bình vài đoạn mà tôi sẽ trích dẫn từ nội dung bức thư.

Ngoài ra, ông ta còn muốn giành lại thần quyền của ông ta, nghĩa là bắt giáo dân Trung Hoa phải trung thành với một ông giáo hoàng người Đức, ngồi ở La Mã và nổi tiếng vì một số danh hiệu người đời đã tặng ông ta: “Hồng Y Thiết giáp” (Panzerkardinal), vì ông ta có những hành động liều lĩnh, vô trí tuệ, nói năng bừa bãi, giống như một khối sắt biết di chuyển, chuyên nghề xung kích, và qua lời phê phán trước đây của ông về Phật Giáo khi nhà báo phỏng vấn ông về phản ứng đối nghịch của Phật giáo trước cuốn Bước qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng [của John Paul II], mà ông là người viết chính: “Buddhism is a kind of spiritual auto-eroticism” thì dường như Benedict XVI không có mấy giáo dục và đạo đức tôn giáo; “the God’s Rottweiler” (Rottweiler là một giống chó Đức giữ nhà rất hung tợn); “Đại Phán Quan” (The Grand Inquisitor), vì các biện pháp truy tố, đàn áp nhiều nhà thần học Ca-tô có những điểm không đồng ý với Vatican.

Ông than phiền hằng triệu giáo dân Trung Hoa bị cưỡng bức thờ phụng với giáo hội do nhà nước kiểm soát và giáo hội này không công nhận quyền lực của giáo hoàng. Ông than phiền hơi đần, vì cho rằng phải cần có Vatican, phải thờ phụng với Vatican, con người mới thờ phụng Chúa được, và quyền lực của giáo hoàng là một quyền lực thực sự do Thiên Chúa ban cho trong khi lịch sử đã chứng tỏ quyền lực của Giáo hoàng là do nền thần học Ca-Tô ngụy tạo dựng lên và trong thực tế lịch sử, nhiều khi là do chém giết nhau mà có [Xin đọc bài “Đây! Những Đức Thánh Cha” trên giaodiemonline.comsachhiem.net, hay cuốn “Vicars of Christ” của Peter de Rosa]. Trong bức thư nói về Trung Quốc được xem là đáng kể nhất từ xưa đến nay, giáo hoàng thiết tha van xin một cuộc đối thoại tích cực hơn với nhà nước vô thần [sic] và tìm cách khôi phục quan hệ ngoại giao đã bị chấm dứt hai năm sau khi chính quyền Cộng Sản lên cầm quyền năm 1949.

Đáp lại bức thư của giáo hoàng, bộ ngoại giao Trung Quốc nói rằng họ cũng muốn “đối thoại thẳng thắn, xây dựng với Vatican.” Tuy nhiên, Trung Quốc cảnh cáo Tòa Thánh không được “viện cớ tôn giáo.” để xâm phạm chuyện nội bộ của Trung Quốc, Trung Quốc không để Vatican bổ nhiệm giám mục, nói rằng làm như vậy là Vatican can thiệp vào chuyện nội bộ của họ.

Đọc kỹ bức thư của Benedict XVI, chúng ta thấy rằng đây chỉ là sách lược tiếp nối chủ trương cải đạo Á Châu, thực ra là xâm lăng văn hóa Á Châu, của John Paul II trước đây. Như tôi đã trình bày nhiều lần, Ca-Tô Giáo Rô-ma đang suy thoái trầm trọng ở ngay chính cái nôi của nó trước đây, Âu Châu, cho nên Vatican tìm cách bành trướng sang Á Châu, khai thác sự nghèo khó, kém hiểu biết của quần chúng trong một số nước ở Á Châu, hi vọng có thể mang những đồ phế thải ở Âu Châu để mê hoặc đám dân thấp kém, biến họ thành đám tín đồ cuồng tín trong cái ngục tù tâm linh của mình, và từ đó sẽ có thể thu vét được tài sản qua sách lược cố hữu “ngu dân dễ trị” của giáo hội mà sử sách đã ghi rõ.

Sau đây tôi sẽ duyệt qua vài điểm trong bức thư của Benedict XVI để chứng minh những điều tôi vừa viết ở trên. Để cho được đầy đủ, tôi thấy cần phải nhắc lại vài nét về sự suy thoái của Ca-Tô giáo Rô-ma ở Âu Mỹ.

Sự suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô giáo Rô-ma nói riêng ở phương trời Âu Mỹ, cái nôi của Ki Tô Giáo trước đây, là một sự kiện không ai có thể phủ bác. Hiện tượng này chứng tỏ, với sự tiến bộ trí thức của nhân loại, những con người có đầu óc đang dần dần từ bỏ niềm tin vào vai trò cứu thế của Giê-su. Chính giáo hoàng Benedict XVI đã nhiều lần thú nhận về sự suy thoái không cơ cứu vãn của Ca-Tô giáo Rô-ma và Tin Lành ở Tây phương.

Theo những tin tức trên báo chí trên thế giới và cả trên tờ thông tin chính thức của Vatican, tờ L’Osservatore Romano, vào những ngày 27, 28 tháng 7, 2005, thì Benedict 16 đã lên tiếng than phiền như sau:

Những tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương [Ki Tô Giáo] có vẻ đang chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn cần đến Thiên Chúa nữa.

(ROME (Reuters, July 27, 2005) - Mainstream churches in the West appear to be dying as societies that are increasingly secular see less need for God, Pope Benedict said in comments published on Wednesday.)

Trước lời than phiền này, Reuters bình luận:

“Nhận xét của Ngài có vẻ bi quan và rầu rĩ hơn GH tiền nhiệm là John Paul II, người đã than phiền về sự suy thoái của đức tin trong các quốc gia phát triển và nói rằng điều này giải thích sự vật lộn của Giáo Hội Ca Tô đối với vấn đề số người đi nhà thờ giảm rất nhiều trong những năm gần đây.”

(His outlook was even glummer than that of his predecessor John Paul, who lamented the decline of faith in the developed world and said it explained the Catholic Church's struggle with falling attendance in the West in recent years.)

Cũng theo tin hãng Reuters ở Rome thì giáo hoàng Benedict 16 đã phải đau lòng mà chấp nhận một sự thực: “Thật là khác lạ trong thế giới Tây Phương, một thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới mà con người càng ngày càng tỏ ra không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa. Những Giáo Hội gọi là 'truyền thống' xem ra như đang chết dần.”

Theo một phúc trình mới đây của Vatican thì trong một số nước phát triển, Giáo dân đi dự lễ ngày Chủ Nhật chỉ còn khoảng 5%. Ngài nói thêm: Tuy nhiên không phải chỉ có đạo Ca-Tô Rô-ma bị như vậy mà Giáo Hội Tin Lành cũng bị ảnh hưởng nặng hơn nữa trong thời điểm lịch sử này. Không thấy có giải pháp nào mau chóng và thần diệu cả để cứu vãn giúp Giáo Hội chúng ta cả. [Trong khi đó thì có vẻ như giáo dân Việt Nam vẫn đi xem lễ đông đảo. Điều này nói lên trình độ của tín đồ Ca Tô Việt Nam ở mức nào so với những tín đồ trong thế giới Tây phương. Và giáo hoàng đặt trọng tâm vào sự khai thác điểm này để duy trì quyền lực của Vatican]

(It is different in the Western world, a world which is tired of its own culture, a world which is at the point where there’s no longer evidence for a need of God, even less of Christ," he told a meeting of clergy in the Italian Alps.

"The so-called traditional churches look like they are dying," he said, according to a text published by Vatican daily L’osservatore Romano.

Participation at Sunday Mass in some developed countries was as low as 5 percent, a recent Vatican report said.

"The Catholic Church is not doing as badly as the big Protestant Churches but naturally it shares the problem of this moment in historỵ" "There’s no system for a rapid change.”)

Vì vậy, Giáo hoàng khuyên tín đồ Ca Tô, nhắm vào khối tín đồ Ca Tô lạc hậu ở Phi Châu, Nam Mỹ, Phi Luật Tân, và Việt Nam, hãy kiên trì giữ vững đức tin, tiếp tục tiến bước trong đường hầm [keep walking in the tunnel], có thể ánh sáng le lói của Chúa Ki-Tô sẽ xuất hiện ở cuối đường hầm [Christ light would appear at the end].

Gần đây nhất, ngày 9 tháng 4, 2007, Giáo hoàng Benedict 16 lại cảnh báo là Âu Châu có vẻ như sẽ mất đức tin trong tương lai, và gọi những người Âu Châu chỉ muốn có ít con là theo “chủ nghĩa cá nhân nguy hiểm” [trong khi cả thế giới đang lo nạn nhân mãn và cổ súy hạn chế sinh đẻ] Giáo hoàng nói: “Bất hạnh thay, chúng ta phải ghi nhận là Âu Châu có vẻ như đang tuột xuống một con đường có thể đưa Âu Châu đến sự giã từ lịch sử” [Ki Tô Giáo vẫn cho rằng lịch sử Âu Châu là lịch sử Ki Tô Giáo]

(Time, April 9, 2007: “One must unfortunately note that Europe seems to be going down a road which could lead it to take its leave from history” Pope Benedict XVI, warning that Europe appears to be losing faith in its future, calling some Europeans’ desire to have fewer children “dangerous individualism”.)

Và nay chúng ta hiểu tại sao giáo hoàng Benedict XVI lại viết một bức thư dài cho tín đồ Ca-Tô ở Trung Quốc, một nước có trên 1.3 tỷ dân. Giáo hoàng nhắm vào một mùa gặt mới ở nơi đất phì nhiêu của Á Châu, nhưng ông có thành công không, cái đó còn tùy thuộc dân trí của người dân trong các quốc gia ở Á Châu, và cũng tùy thuộc nhiều vào chính sách tôn giáo của Nhà Nước trong mỗi quốc gia. Chúng ta đã biết, Trung Quốc không nhân nhượng trong vấn đề dân của mình phải trung thành với một thế lực ngoại bang. Tôi hi vọng Việt Nam ta cũng có một chính sách tôn giáo hợp lý như Trung Quốc. Nhà Nước nên để ý là những lực lượng chống phá Nhà Nước ngày nay, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, đều thuộc Ca Tô Giáo Rô Ma hoặc Tin Lành: LM Nguyễn Văn Lý, LM Phan Văn Lợi, Nguyễn Chính Kết, đảng Thăng Tiến, Lê Thị Công Nhân v..v.. ở trong nước, và LM Nguyễn Hữu Lễ, các trang nhà Tiếng Nói Giáo dân, Vietcatholic v..v.. ở ngoài nước, những cá nhân và tổ chức tuyệt đối trung thành với giáo hoàng..

Đúng như Trung Quốc đã nhận định: bức thư của Benedict XVI chẳng qua chỉ là “chơi lại khúc nhạc cũ rích”. Vấn đề chính là cái khúc nhạc cũ rích này đã không còn hấp dẫn trong thế giới Tây phương nữa và tôi cũng tin rằng nó không thể hấp dẫn đối với tuyệt đại đa số người dân Việt Nam ngày nay. Tại sao? Vì đó chỉ là những luận điệu thần học thuộc loại mê tín hoang đường đã cũ rích, những luận điệu có tích cách mạ lỵ đầu óc con người, cho nên đã khiến cho con người trong thế giới Tây phương ngày nay, theo chính những lời than phiền của Benedict XVI, sống như là không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa.

Sự thực là như vậy, nhưng Benedict XVI vẫn mang những luận điệu thần học đã lỗi thời này xuất cảng sang Á Châu, hi vọng có thể lừa dối được đầu óc người dân Á Châu. Thật vậy, chúng ta hãy đọc vài đoạn trong khúc nhạc này của Benedict XVI với vài lời ghi nhận trong dấu ngoặc của tôi. Tôi nghĩ rằng chỉ cần phê bình vài điểm trong Lời Chào mở đầu của Benedict XVI cũng đủ để cho chúng ta thấy rõ mục đích huyễn hoặc người dân Á Châu bằng những điều mê tín vô nghĩa, mâu thuẫn mà thế giới Tây phương đã từ bỏ. Trong Lời Chào mở đầu, Benedict XVI viết:

“Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô [sic], Chúa chúng ta.. [Giáo hoàng tạ ơn Thiên Chúa vì Âu Châu, một lục địa được coi là văn minh tiến bộ nhất về khoa học, triết học và thần học Ki Tô Giáo, một lục địa mà ngày nay, vì đã mở mắt ra, nên cảm thấy mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một lục địa mà con người càng ngày càng tỏ ra không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa, nhưng nay Thiên Chúa đã giúp ông ta mang văn hóa phế thải đó đi xâm lăng văn hóa Á Châu. Hơn nữa, muốn là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô thì Thiên Chúa cũng phải có đủ hai loại chromosomes X và Y và phải chích vào Mary bằng đường lối bình thường như bất cứ người đàn ông nào khác muốn có con với vợ mình, khi mà kỹ thuật IVF (In Vitro Fertilization) chưa được biết đến] Thật vậy, chúng tôi đã được nghe nói về lòng tin của anh em vào Đức Giêsu Kitô [khi mà Âu Châu không còn tin nữa, không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa, thật là tội nghiệp cho đầu óc của các tín đồ Trung Quốc nói riêng, Á Châu nói chung, nếu thực sự là họ còn có lòng tin vào “Đức Giê-su Ki Tô” như Giáo hoàng viết.] và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh [dân thánh “đáng mến”của Ngài đã phạm 7 núi tội ác đối với nhân loại, với một số chủ chăn mang chức Giáo hoàng như Ngài nhưng cực kỳ vô đạo đức như lịch sử đã ghi rõ, và gần đây nhất có tới hơn 4000 “Cha cũng như Chúa” bị truy tố về tội loạn dâm với trẻ con] ; lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời [Xin hỏi Giáo hoàng và toàn thể “hội thánh” (sic) chỗ nào ở trên trời khi mà trái đất đang di chuyển trong không gian với một vận tốc khoảng 100000 cây số một giờ và quay xung quanh trục Nam Bắc khoảng 1600 cây số một giờ? Cho nên “trời” của Ca Tô Giáo Rô-ma không ở ngoài cái đầu của Giáo hoàng và các tín đồ], niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em. [Tin mừng là một cái “bánh vẽ trên trời” như Mục sư Ernie Bringas đã nhận định, đó là được lên thiên đường hay lên trời cùng Chúa sau khi chết tuy rằng Giáo Hoàng John Paul II đã phán là chẳng làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây. Giáo hoàng giải thích thế nào là “Tin Mừng”: “Ngày nay, cũng như trong quá khứ, công bố Tin Mừng nghĩa là rao giảng và làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô, chịu đóng đinh và sống lại, một Nhân Loại mới, Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết.” Có phải tất cả chỉ là những luận điệu thần học hoang đường, vì ngày nay còn có ai tin vào những chuyện như Giê-su chịu đóng đinh và sống lại v..v.. ]

Chúng tôi cũng không ngừng cầu nguyện và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho. [Nếu những gì mà các giáo hoàng cầu nguyện từ xưa tới nay mà được đáp ứng thì bây giờ cả thế giới đã theo Thiên Chúa Giáo rồi. Mẹ Teresa đã thú nhận là trong gần 50 năm bà ấy : “cầu nguyện chẳng có ai nghe, tìm cũng chẳng thấy.” Trong bao năm, Ca Tô Giáo mỗi năm để ra mấy ngày cầu nguyện cho Tin Lành sập tiệm, giáo dân Việt Nam hàng ngày cầu nguyện để thần khí soi sáng cho đám người theo Phật giáo ma quỷ, kết quả ra sao thì ai cũng biết. Giáo hoàng nên để toàn thời gian (full time) cầu nguyện cho dân Âu Châu trở lại đạo đi, trước khi làm ô nhiễm đầu óc người dân Á Đông bằng “thánh ý Người”, thật ra chỉ là “bịp ý” của những người có loại đầu óc như Benedict XVI. Tại sao tôi lại cho là “bịp ý”? Để giải thích, sau đây là một bài học về Thiên Chúa cho những người nghiện đạo, dựa trên chính kinh sách của Ca-Tô Giáo.]

Theo sách National Catholic Almanac, 1968, trang 360, của Ca-tô Giáo, chúng ta có một Thiên Chúa với 23 thuộc tính (23 attributes):

“Phép tắc vô cùng, vĩnh hằng, thánh thiện, bất diệt, bao la mênh mông, không bao giờ thay đổi, không thể hiểu được, không thể mô tả được, vô tận, vô hình, công chính, thương yêu, nhân từ, cao nhất, khôn ngoan nhất, toàn năng, toàn trí, có mặt khắp nơi, nhẫn nại, toàn hảo, cung cấp tinh thần và vật chất cho con người, tối cao, chân thật”

(almighty, eternal, holy, immortal, immense, immutable, incomprehensible, ineffable, infinite, invisible, just, loving, merciful, most high, most wise, omnipotent, omniscient, omnipresent, patient, perfect, provident, supreme, true.)

Trước hết, trong 23 thuộc tính nêu trên có một thuộc tính rất đặc biệt, đó là incomprehensible, nghĩa là không thể hiểu được. Giáo lý của giáo hội Ca-tô Rô-ma cũng còn nhấn mạnh là cả 3 ngôi Thiên Chúa đều không thể hiểu được “Chúa Cha không thể hiểu được, Chúa Con không thể hiểu được, Chúa Thánh Ma [Giáo hoàng gọi là Thần Khí] không thể hiểu được” (The Father incomprehensible, the Son incomprehensible, the Holy Ghost incomprehensible). Dù không hiểu được, nhưng Ca-tô Giáo Rô-ma đã thản nhiên đưa ra thêm 22 thuộc tính khác như trên để mô tả Thiên Chúa của họ. Vì trong Ca-tô Giáo Rô- ma, tín đồ chỉ có quyền “quên mình trong vâng phục”, không có quyền thắc mắc, chỉ có quyền tin, không có quyền hiểu, nên điều này không thành vấn đề đối với con chiên, giáo hội dạy sao thì cứ tin làm vậy. Khổ một nỗi, đối với người ngoại đạo như tôi, xét theo logic thì thuộc tính incomprehensible đã chứng tỏ rằng 22 thuộc tính kia thuộc loại...phịa theo sự tưởng tượng của đầu óc con người, và tất cả những gì mà Ki-tô Giáo nói về Thiên Chúa, khẳng định Thiên Chúa là thế này, thế nọ, “thánh ý” của Thiên Chúa là thế này, thế nọ, Thiên Chúa quá thương yêu thế gian, Thiên Chúa thương yêu bạn, muốn bạn thế này thế nọ v..v.. chung qui cũng chỉ là nói chỉ để mà nói, thực chất những khẳng định trên hoàn toàn vô nghĩa.. Vô nghĩa ở chỗ không ai thấy được Thiên Chúa (invisible), và không ai hiểu được Thiên Chúa (incomprehensible), cho nên những gì nói về Thiên Chúa đều là do sự tưởng tượng của con người, thường là sự tưởng tượng của những người không có mấy đầu óc, đưa ra để lòe bịp những người ít đầu óc hơn, nhằm những mục đích rất là thế tục.

Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì chịu đựng tất cả. [Sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang thường gây ra các Tsunamis, động đất, bão lụt v.. v.. và đủ mọi thứ quái tật trên thế gian. Nếu gặp phải bất cứ một bất hạnh nào, hãy kiên trì chịu đựng nhờ vào sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang. Và nhất là phải kiên trì chịu đựng làm nô lệ cho Giáo Hoàng ngồi ở Vatican, Rô-ma, trên đất Ý]

Tôi, trong tư cách Người Kế Vị Thánh Phêrô và là Mục Tử toàn thể Hội Thánh, [Nói nhảm. Chức vị Kế Vị Thánh Phêrô và là Mục Tử toàn thể Hội Thánh chỉ là sự ngụy tạo của nền thần học Ca-Tô. Tại sao? Vì đọc Tân Ước chúng ta thấy rõ là Giê-su tin rằng ngày tận thế đã gần kề, ngay trong thời đại mà một số tông đồ của ông ta còn sống, vậy Giê-su trao nhiệm vụ cho Phê-rô làm Giáo hoàng đầu tiên của một Giáo hội kéo dài cho tới gần 2000 năm nay để làm gì. Tôi sẽ chứng minh luận điệu thần học gian dối này của Giáo hội trong tương lai với đầy đủ chi tiết từ cuốn Tân Ước trong bài “Người Việt Nam & Đạo Giê-su”] tôi muốn qua lá thư này đưa ra một vài chỉ dẫn liên quan đến đời sống Giáo Hội và nghĩa vụ truyền giáo tại Trung Hoa, ngõ hầu giúp anh chị em khám phá điều Chúa và Thầy Giêsu Kitô, Đấng là “chìa khóa, là trung tâm và là cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại”, [lịch sử nhân loại tuyệt đối không phải là lịch sử của dân Do Thái như được viết trong Thánh Kinh. Giê-su khẳng định là sinh ra chỉ để cứu dân Do Thái mà thôi như đã viết rõ trong Tân Ước. Ngoài dân tộc Do Thái ra, nhân loại tuyệt đối không quan tâm và mong muốn gì ở Giê-su] mong muốn nơi anh chị em.

Trên đây chỉ là vài nhận xét về vài đoạn trong Lời Chào của GH Benedict XVI. Đọc toàn bản văn của bức thư, chúng ta thấy đúng là Benedict XVI đã chơi lại khúc nhạc cũ rích của thời Trung Cổ. Thật vậy, chúng ta đã biết, bản chất Benedict XVI là một người cuồng tín thuộc thời Trung Cổ. Bởi vậy trong thời đại ngày nay, thời đại của những Christopher Hitchens, Sam Harris, Richard Dawkins v..v.. mà ông ta còn có thể nói lên được một câu: “Niềm tin vào Giê-su là điều duy nhất sẽ cứu thế giới” (Newsweek, May 21, 2007: Belief in Jesus is the only thing that will save the world). Ông ta không nói là cứu thế giới như thế nào, cứu khỏi các thiên tai, bệnh tật, hay cứu khỏi cái ngục tù tâm linh của Ca-Tô Giáo Rô-ma, điều mà mọi tín đồ Ca-tô rất cần đến trong đời này. Trong bức thư, chúng ta nhận thấy ông ta vẫn đưa ra những luận điệu khoa trương đã lỗi thời như “Thiên Chúa là tình yêu”, “vị Giám Mục Rôma, như người Kế Vị Thánh Phêrô, là nguồn mạch và nền tảng vĩnh hằng và hữu hình”, “Giáo Hội đã được Chúa Kitô xây dựng trên Phêrô và các thánh Tông Đồ khác”. [Xin quý độc giả đón đọc bài “Người Việt Nam & Đạo Giê-su” của hai tác giả Trần Chung Ngọc và Nguyễn Mạnh Quang để thấy rằng tất cả những luận điệu trên thuộc loại “bịp” vì không có căn bản trong Kinh Thánh] Cho tới ngày nay, gần 2000 năm sau khi Giê-su “chịu đóng đinh”, nghĩa là đã chết khi không muốn chết như Tân Ước đã viết rõ, để cứu chuộc cái tội không hề có của nhân loại, nhưng số tín đồ Ca-tô, qua những chính sách cưỡng bách cải đạo, toa rập với thực dân Âu Châu để truyền đạo v.. v.., và kể cả những đứa con nít mới sinh ra đã vác đi rửa tội cùng những con chiên đã bỏ đạo [ở Nam Mỹ mỗi ngày có tới 8000 con chiên bỏ đạo Ca-Tô] mà con số tín đồ Ca-tô trên khắp thế giới cũng chỉ vào khoảng 15 hay 16% trên tổng số hơn 6 tỷ người trên thế giới, vậy mà Benedict XVI vẫn tiếp tục huênh hoang phán rằng “Niềm tin vào Giê-su là điều duy nhất sẽ cứu thế giới”, “Giáo hội Ca-Tô Rô-ma là giáo hội duy nhất mang sự “cứu rỗi” đến cho nhân loại” v.. v.. Benedict XVI vẫn tiếp tục mang những luận điệu thần học mù mờ ra để khuyến dụ đám con chiên vốn không có mấy đầu óc. Chứng minh?

Trong phần đầu của bức thư gửi các tín đồ Ca-Tô Trung Quốc, có một đoạn như sau:

“Lời Chúa lần nữa giúp chúng ta khám phá ý nghĩa huyền nhiệm và sâu xa về con đường của Giáo Hội trong thế giới. Thật vậy, “chủ thể của một trong những thị kiến quan trọng trong Sách Khải Huyền là Chiên Con trong hành động mở cuốn sách được đóng bẩy ấn niêm phong mà trước đó không ai mở được. Thánh Gioan đã cho thấy là ngài rơi lệ vì không ai xứng đáng mở được hay đọc được cuốn sách ấy (x Kh 5:4). Lịch sử vẫn y nguyên không giải mả được, không thể hiểu được. Không ai đọc được nó. Có lẽ, Thánh Gioan đã rơi lệ trước mầu nhiệm của một lịch sử quá u minh thể hiện nơi sự thất vọng của các Giáo Hội tại Á Châu trước sự yên lặng của Thiên Chúa khi phải đối diện với những bách hại xảy ra cho họ. Đó là một sự thất vọng có thể phản ánh rõ ràng nỗi tuyệt vọng của chúng ta trước những khó khăn nghiệm trọng, trước những hiểu lầm và sự thù địch mà Giáo Hội phải gánh chịu trong nhiều miền khác nhau trên thế giới. Đó là những thử thách mà Giáo Hội không đáng phải gánh chịu, cũng như Chúa Giêsu không đáng bị hành hạ. Tuy nhiên, chúng thể hiện cả sự tàn ác của con người, khi nó từ bỏ chính mình để chiều theo sự dữ; cũng như trật tự siêu việt của các biến cố nơi Thiên Chúa”.

Tôi không tin rằng đa số những người trong đạo cũng như ngoại đạo hiểu được Giáo hoàng muốn nói gì trong đoạn văn rất mù mờ ở trên. Thực ra, cả đoạn văn mù mờ trên chỉ là kết hợp một cách rất cưỡng ép một diễn giải rất mù mờ về sách Khải Huyền với hiện trạng èo uột của các Giáo hội Á Châu, không phải vì bị bách hại, mà vì không thể thích hợp với các nền văn hóa Á Đông. Giáo Hoàng cũng quên luôn cái lịch sử đẫm máu ô nhục của Giáo hội Ca-Tô mà Vatican đã phải cáo thú cùng thế giới trước đây. Giáo hoàng viết về sách Khải Huyền là không ai xứng đáng mở được hay đọc được cuốn sách ấy (x Kh 5:4) ngoài Chiên Con, tức là Giê-su. Giáo Hoàng viết rất mù mờ, vì ông ta biết rõ, tín đồ chẳng có ai đọc Thánh Kinh hay sách Khải Huyền, cho nên chẳng có ai biết là những điều viết trong sách Khải Huyền thì có liên hệ gì đến sự thất vọng của các giáo hội tại Á Châu. Giáo hoàng ngụ ý là như sách đó, 7 ấn niêm phong đó, là một cái gì nghiêm trọng và bí ẩn mà Thánh Gioan phải rơi lệ “trước mầu nhiệm của một lịch sử quá u minh” (sic), không giải mã được, không thể hiểu được, đưa đến sự kiện lịch sử về sự thất vọng của các Giáo Hội tại Á Châu trước sự yên lặng của Thiên Chúa khi phải đối diện với những bách hại xảy ra cho họ. . Nhưng Giáo Hoàng không nói rõ là sách đó, 7 ấn niêm phong đó, nói lên cái gì, mở được hay đọc được để làm cái gì, có đáng mở và đáng đọc hay không? Nếu Ngài không nói thì tôi đành phải nói, và nói rất rõ, để quý độc giả thấy rõ cái ý định mù mờ của Giáo hoàng trong đoạn văn trên.

Trước hết, chúng ta nên biết Sách Khải Huyền ở cuối cuốn Tân Ước là cuốn sách nói về cái gì. Đó là sách nói về những gì sẽ xẩy ra trong ngày Tận Thế mà Giê-su tin rằng đã gần kề, ngay trong thời mà một số Tông đồ của ông còn sống, như được viết rõ trong Tân Ước. “Ngày Tận Thế” là niềm tin đặc thù của truyền thống Do-Thái – Ki-tô (Judea-Christian tradition). Trong khi truyền thống Hi Lạp, Phật Giáo, Ấn Độ Giáo đều quan niệm sự vận hành của vạn pháp trong vũ trụ, kể cả vũ trụ, có tính cách tuần hoàn theo từng chu kỳ, thí dụ bốn mùa, hết năm cũ sang năm mới; sinh, tử, rồi lại tái sinh v..v.. thì Kinh Thánh Do-Thái – Ki-tô quan niệm vũ trụ theo đường thẳng: bắt đầu bằng một sự “sáng tạo” của Thiên Chúa và tận cùng bằng “Ngày Tận Thế”, đặc biệt chỉ áp dụng cho loài người trên trái đất. Nhưng ngày nay, trước những khám phá của khoa học về vũ trụ và con người, thuyết “sáng tạo” như được viết trong cuốn Kinh Thánh đã chứng tỏ đó chỉ là một sản phẩm dẫn xuất từ những sự mê tín trong thời bán khai (a product derived from primitive superstitions), cho nên “mấy ngày sáng tạo” cũng như “ngày tận thế” đã trở về bản chất là những huyền thoại của một sắc dân du mục trong vùng Trung Đông của thời bán khai, Do Thái. Thật vậy, từ chính Giê-su, và sau Giê-su, đã có biết bao các nhà tiên tri thuộc truyền thống Do-Thái – Ki- tô (kể cả Hồi Giáo), tin vào Kinh Thánh, tiên đoán là ngày tận thế đã gần kề, nhưng tất cả đều trật lất. Chính Chúa đã trật thì tôi tớ của Chúa làm sao mà trúng cho được. Đọc những sách tiên đoán về ngày tận thế, chúng ta thấy có cả trăm vụ khác nhau. Tất cả các vụ này đều có một đặc tính chung: đó là tiên đoán bậy, trật lất. Tại sao? Vì tất cả đều dựa trên một niềm tin nhảm nhí, mù lòa tin bướng tin càn. Niềm tin vào “Ngày Tận Thế” của người Do Thái nằm rải rác trong Cựu Ước, trong nửa cuốn sau của sách Daniel (nửa cuốn trước chỉ thích hợp với trẻ con trong những lớp học sáng chủ nhật ở nhà thờ) và trong sách Khải Huyền (Revelation) ở cuối Tân ước mà Giáo hoàng Benedict XVI viện đến trong đoạn tôi trích dẫn ở trên.. Nhưng vì Giáo hoàng đã viện đến cho nên thiết tưởng chúng ta cũng nên biết nội dung sách Khải Huyền ra sao?

Sách Khải Huyền đã được Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson nhận định một cách rất chính xác như sau: “Sách Khải Huyền là những lời nói dốt nát của một kẻ điên khùng”

[President Thomas Jefferson referred to the Book of Revelation as “the ravings of a maniac”, West County Times, California, USA, Editor Steven Morris, 14 August, 1995].

Nhưng mà ai là kẻ điên khùng dốt nát? Quý vị đoán thử coi, tôi tin chắc quý vị sẽ đoán sai. Đây này, Kinh Thánh viết rõ tên sách Khải Huyền: “The Revelation of Jesus Christ”, có nghĩa là “Lời khải thị của Giê-su Ki Tô”, và câu đầu trong sách Khải Huyền viết rõ: “Rev. 1: 1: The Revelation of Jesus Christ, which God gave Him to show to His servants – things which must soon take place, He made it known by sending his angel to his servant John....” [TCN tạm dịch: Lời khải thị, hay mạc khải, hay “bật mí” của Giê-su Ki-tô mà Chúa Cha đã ban cho ông ta để tỏ cho các tôi tớ của ông ta thấy những điều sắp phải xảy ra. Giê-su tỏ điều khải thị này (cho các tôi tớ) bằng cách sai thiên sứ của ông ta đến với kẻ tôi tớ của ông ta là John (Gioan hay Giăng) [John]...]. Trong Ki Tô Giáo không có con người, chỉ có “con chiên” và “tôi tớ”.

Giáo Hoàng Benedict XVI nhắc đến 7 ấn niêm phong trong sách Khải Huyền mà Thánh Gioan phải rơi lệ vì chỉ có Chiên Con (nghĩa là Giê-su) mới mở được. Nhưng nếu chúng ta ngày nay đọc trong 7 ấn niêm phong được Chiên Con mở ra thì chúng ta không phải là rơi lệ mà phải ngán ngẩm vì không hiểu tại sao mà những điều nhảm nhí có tính cách mạ lị đầu óc con người bằng những chuyện quái đản không thể tin được lại có thể nằm trong cuốn Tân Ước mà lại do chính miệng của Chúa Giê-su phát ra. Chứng minh? Nhưng chứng minh bằng cái gì? Bằng chính sách Khải Huyền, những lời khải thị của Giê-su Ki-Tô.

Tôi có nhiều cuốn Thánh Kinh, tiếng Anh và tiếng Việt. Ngoài cuốn King James Version, tôi còn có vài cuốn Kinh Thánh khác, trong số này có cuốn Holy Bible, New International Version. Ở cuối cuốn này có những đoạn tóm tắt nội dung các sách trong đó và sau đây là tóm tắt Sách Khải Huyền, nguyên văn như sau:

“Sách Khải Huyền là loại sách duy nhất trong Tân ước. Đó là cuốn sách nói về ngày tận cùng của thế giới hiện nay và sự bắt đầu của “một thiên đường mới và một trái đất mới.” [Trái đất chỉ là một mảnh văng ra từ mặt trời và trải qua trên 4 tỷ năm mới có tình trạng ngày nay. Một trái đất mới mà không có một mặt trời mới là chuyện của những người thuộc thời bán khai] Sách Khải Huyền được viết bởi tông đồ John trong khi đang bị đi đày ở đảo Patmos. Khi John đang ở đó thì Giê-su [đã chết và táng xác trước đó ít ra là 30 năm] ban cho ông ta một thị kiến về những gì sắp sửa xảy ra trong tương lai. John viết cuốn sách này để cho những tín đồ Ki Tô đang bị bạo hành tin tưởng rằng Thiên Chúa kiểm soát tất cả mọi sự xảy ra trên trái đất này. [Nếu vậy thì tại sao Thiên Chúa lại để cho những tín đồ của Thiên Chúa bị bạo hành? Ngoài ra, phải chăng tất cả những bệnh tật, những sự xấu ác, những sự tàn bạo v..v.. xảy ra trên trái đất này đều là “tác phẩm” của Thiên Chúa cả? Thực tế cho thấy Thiên Chúa chẳng kiểm soát được cái gì xảy ra trên trái đất này cả, nhất là kiểm soát được những trang nhà Giao Điểm, Sách Hiếm hay TCN đang viết bài này.] Thị kiến [hay ảo tưởng?] của John chứng tỏ Giê-su là người nắm quyền ngự trị trên mọi người và trên mọi thứ trên trái đất - ngay cả những chính phủ mạnh của con người - [Thật vậy hay sao?? Thực tế cho thấy Giê-su chỉ có thể ngự trị trong những đầu óc thiếu oxy] và ông ta sẽ phán xét và trừng phạt tất cả những gì xấu ác. Nó cũng cho các tín đồ Ki Tô một hình ảnh của thiên đường, nơi mà chúng ta sẽ ở cùng Giê-su.”

[Holy Bible, New International Version: Revelation is the only book of this kind in the New Testament. It is a book about the end of this present world and the beginning of “a new heaven and a new earth.” The book of Revelation was written by the apostle John during his exile on the island of Patmos. While John was there, Jesus gave him a vision of what would happen in the near future. John wrote this book so Christians who were being persecuted would trust that God controls whatever happens here on earth. John’s vision shows that Jesus is the ruler over everyone and everything – even powerful human governments – and he will judge and punish whatever is evil. It also gives Christians a picture of heaven, where we will be with Jesus.]

Ai đọc đoạn trên mà không thấy ngán ngẩm cái đạo Ki-Tô thì tôi cho là người đó chắc chắn đã ở trong cái rọ của Ki Tô Giáo rồi.. Nhưng đoạn tóm tắt trên quá ngắn cho nên tôi xin tóm tắt sách Khải Huyền dài hơn để cho quý độc giả có thể thấy “Giê-su là người nắm quyền ngự trị trên mọi người và trên mọi thứ trên trái đất - ngay cả những chính phủ mạnh của con người” như thế nào, và “hình ảnh của thiên đường”, nơi mà các tín đồ sẽ ở cùng Giê-su, là như thế nào. Tôi muốn nhắc quý độc giả là chính Giáo Hoàng John Paul II đã phủ nhận sự hiện hữu của một Thiên Đường của nền thấn học Ki Tô Giáo.

Mở đầu, ông John [các học giả phân tích Tân Ước cho rằng, trái với quan niệm thông thường, ông John này không phải là ông John, một trong 12 tông đồ đầu tiên của Giê-su, người viết Phúc Âm John, vì văn phong trong Phúc Âm John thì trong sáng và đúng văn phạm, còn văn phong trong sách Khải Huyền thì đầy những lỗi về văn phạm, dùng từ sai và đầy tính cách man rợ (full of gramatical errors, poor word choice, and general “barbarisms”), nhưng đây là vấn đề của các học giả, không phải của chúng ta] khẳng định đây chính là những lời Khải Thị của Giê-su ban cho ông ta và truyền cho ông ta ghi chép những điều “khải thị” của Giê-su và gửi cho 7 “hội thánh” ở vùng Tiểu Á (Minor Asia). Chúng ta hãy nghe “thánh John” kể lại, Khải Huyền 1 : 10-16, và nên nhớ rằng thánh John khi đó đang...bị đi đày ở đảo Patmos:

“...Tôi được linh cảm và nghe có tiếng gọi sau lưng vang dội như tiếng kèn đồng (trumpet): Hãy ghi chép những điều con thấy và gửi cho 7 hội thánh tại..... .

Quay lại xem ai vừa nói, tôi thấy 7 giá đèn bằng vàng. Giữa các giá đèn có ai giống như Chúa Giê-su [xin nhớ là Giê-su đã chết và táng xác trước đó ít ra là 30 năm], mặc áo dài, ngực thắt đai vàng. Tóc ngài trắng như lông chiên, như tuyết, mắt sáng như ngọn lửa, chân như đồng sáng loáng trong lò, tiếng nói vang ầm như thác đổ. Tay phải ngài cầm “7 ngôi sao”, “miệng có thanh gươm hai lưỡi sắc bén”, mặt sáng rực như mặt trời chói lọi giữa trưa...” [Đây có phải là hình ảnh của một Chúa nhân từ hay không hay đúng là hình ảnh của một Hung Thần? Và chúng ta nên nhớ: mặt trời chỉ là một ngôi sao nhỏ, đường kính chỉ vào khoảng “1 triệu 3 trăm 90 ngàn cây số” và nhiệt độ ngoài biên khoảng 6000 độ, và Chúa Giê-su của Ki Tô Giáo đã cầm trong tay một lúc 7 ngôi sao. Chắc các tín đồ Ca-Tô Việt Nam sẽ dùng một lý luận của Linh mục Thiện Cẩm: Chúa toàn năng làm gì chẳng được] và rồi Chúa đọc cho John chép 7 bức thư viết cho 7 hội thánh...

Chép xong, thánh John nhìn lên và thấy có một cánh cửa mở ra ở trên trời. [Trên trời có một cánh cửa?? Tầm mắt của thánh John nhìn được bao xa trên trời??] Rồi thánh John nghe tiếng Giê-su [từ trên thiên đường] gọi: “Lên đây, ta sẽ chỉ cho ngươi thấy những gì sắp phải xảy ra trên thế gian.” Lập tức, xuyên qua cánh cửa trên trời, thánh John thấy Thượng đế [God] ngồi trên ngai, [Không thấy nói là thánh John “lên đây” bằng cách nào, và ngai đặt ở đâu, hay lơ lửng trên trời. Thượng đế, Chúa Giê-su và Thánh John tuyệt đối không biết rằng, trái đất thực sự đang di chuyển trong không gian với một vận tốc khoảng 100000 cây số/giờ và quay xung quanh trục Nam Bắc khoảng 1600 cây số/giờ. Mặt khác, một chút về khoa học hiện đại: nếu thánh John “lên đây” với một vận tốc dưới vận tốc thoát (escape velocity) thì thánh John sẽ rơi lại xuống mặt đất, với vận tốc thoát thì thánh John sẽ bay vòng quanh trái đất như một vệ tinh, còn nếu lớn hơn vận tốc thoát thì sẽ bay tuốt trong không gian và sẽ không bao giờ trở lại] xung quanh có 24 trưởng lão mặc áo trắng ngồi trên 24 ngai khác. Gần nơi ngai giữa, chỗ God ngồi, có 4 sinh vật, có mắt phủ khắp trước và sau. 4 sinh vật này, một giống như con sư tử, một giống con bò đực, một giống như mặt người, và một giống như con chim ưng đang bay. Mỗi sinh vật này đều có 6 cái cánh, và khắp thân có mắt phủ, ngay cả dưới cánh. (each of the 4 living creatures had six wings and was covered with eyes all around, even under his wings). 4 sinh vật này ngày đêm ca tụng [không thấy nói ca tụng bằng thứ tiếng nào, Hebrew, Phú Lăng Sa, Ý Tà Lồ, Condo, hay tiếng Việt Bùi Chu Phát Diệm] không ngớt: “Thánh thay, thánh thay, thánh thay, Là God toàn năng, là đấng đã có, hiện có, và sẽ có.” (Day and night they never stop saying: Holy, holy, holy is the God Almighty, who was, and is, and is to come)...

Quý vị đã thấy rõ, “hình ảnh thiên đường”, nơi các tín đồ sẽ ở cùng Giê-su sau khi chết, là như thế nào, trên đó có những gì. Có tín đồ nào muốn đổi ý, không muốn sống đời đời trên thiên đường đó, bây giờ hãy còn kịp. Nhưng bây giờ chúng ta hãy bước sang phần còn hấp dẫn hơn nữa, đó là về 7 ấn niêm phong mà Giáo hoàng Benedict XVI nhắc đến trong bức thư gửi các tín đồ Ca-Tô ở Trung Quốc.

Rồi thánh John [đã bay lên thiên đường vì Chúa bảo “lên đây”] thấy trên tay God có một cuộn giấy trên cả hai mặt đều có chữ viết, có 7 chỗ được gắn xi niêm phong. [Nếu thấy một cuộn giấy có chữ viết trên cả hai mặt thì cuộn giấy đó đã được mở ra rồi, vậy gắn xi niêm phong ở 7 chỗ nào? và niêm phong cái gì? niêm phong mấy dòng chữ viết?] Ai là người hay vật xứng đáng để mở những chỗ niêm phong gắn xi này. Một trưởng lão nói với John: “Chỉ có Chúa Giê-su: con sư tử của đại tộc Judah, chồi của David, đã chiến thắng (the lion of the tribe Judah, the Root of David, has triumphed) mới có thể mở được những niêm phong này.” Rồi thánh John thấy nơi ngai chính giữa, Chúa Giê-su hiện thân ra như một con chiên trông như đã bị giết, có 7 sừng và 7 mắt, là 7 thần linh của God phái xuống trần. (Then I saw a Lamb, looking as if it had been slain, standing in the center of the throne... He had seven horns and seven eyes, which are the seven spirits of God sent out into all the earth). [Tất cả các học giả ngày nay đều đồng ý ở một điểm: con Chiên ở đây chính là Giê-su đã bị đóng đinh trên thập giá (Scholars are in agreement that “a Lamb” refers to the crucified Christ), và đó chính là hình ảnh của một thiên chúa mà các tín đồ tôn thờ, và rất hãnh diện được làm tôi tớ của con chiên này] Rồi con chiên, tức Chúa Giê-su, bắt đầu mở từng chỗ niêm phong gắn xi một cho thánh John thấy những gì sẽ xảy ra trong “Ngày lịch sử con người dẹp tiệm” alias “Ngày Tận Thế”, alias “Ngày Chúa Trở Lại Trần Lần Thứ Hai” (Second Coming), alias “Ngày một số nhỏ, vô cùng nhỏ, các tín đồ của 12 bộ lạc Do Thái (tuyệt đối không có người Việt Nam trong số này) được lên thiên đường ở cùng Chúa, như được viết rõ trong sách Khải Huyền 7: 4-8, mà tôi sẽ trích dẫn trong một phần sau, nếu quý độc giả còn đủ can đảm và hứng thú đọc tiếp.

Đó là tóm tắt phần đầu của sách Khải Huyền. Nếu quý vị nào không lắc đầu ngao ngán khi đọc đoạn tóm tắt trên thì chắc là trình độ thiền định của vị đó đã khá cao rồi. Nếu quý vị nào tin tất cả những điều trong đoạn tóm tắt trên thì trình độ làm tôi tớ Chúa của vị đó phải cao đến mức tột đỉnh, cao đến độ trong óc chỉ có toàn là mì ăn liền..

Như chúng ta đã biết ở một đoạn trên, thánh John nhìn qua một cánh cửa mở trên trời và thấy gần nơi ngai giữa, chỗ God ngồi, có 4 sinh vật, có mắt phủ khắp trước và sau. 4 sinh vật này, một giống như con sư tử, một giống con bò đực, một giống như mặt người, và một giống như con chim ưng đang bay. Mỗi sinh vật này đều có 6 cái cánh, và khắp thân có mắt phủ, ngay cả dưới cánh. Rồi thánh John lên thiên đường và thấy trên tay God có một cuộn giấy trên cả hai mặt đều có chữ viết, có 7 chỗ được gắn xi niêm phong mà chỉ có Giê-su mới mở được những chỗ niêm phong này. Bây giờ chúng ta hãy xem Giê-su, hiện thân là một con chiên 7 mắt, 7 sừng, mở 7 chỗ niêm phong này và “bật mí” cho thánh John thấy những cảnh mà tôi dám chắc Giáo hoàng Benedict XVI cũng như giới chăn chiên Ca-Tô không bao giờ dám mang ra giảng cho các tín đồ…Mỹ? Những đoạn sau đây là từ Khải Huyền 6-11 nói về những hiện tượng nằm trong mỗi niêm phong và chúng ta đừng quên rằng những chỗ niêm phong này là ở trên một cuộn giấy:

Khải Huyền 6: Khi Chiên Con (Giê-su) mở niêm phong thứ nhất, tôi nghe một sinh vật ở trước ngai gọi như sấm: “Lại đây!”. Tôi [John] thấy một con ngựa trắng phóng ra (từ niêm phong trên cuộn giấy): người cưỡi ngựa tay cầm cung, được trao cho một vương miện. Người phóng ra như một kẻ chinh phục đến đâu cũng chinh phục (he rode out as a conqueror bent to conquest).

Khi Giê-su mở niêm phong thứ hai, tôi nghe sinh vật thứ hai gọi: “Lại đây!”. Một con ngựa đỏ phóng ra. Người cưỡi ngựa được trao cho quyền lấy đi hòa bình trên trái đất và làm cho con người giết nhau. (Its rider was given the power to take peace from the earth and make men slay each other). Hắn được ban cho một thanh gươm lớn.

Khi Giê-su mở niêm phong thứ ba, tôi nghe sinh vật thứ ba gọi: “Lại đây!”. Tôi thấy một con ngựa đen phóng ra [tượng trưng cho nạn đói (famine)] đi ra. Người cưỡi ngựa tay cầm cái cân. Tôi nghe tiếng phát ra giữa bốn sinh vật [nghĩa là từ cái ngai của God]: Một đấu lúa mì cho một ngày lương; Ba đấu lúa mạch cho một ngày lương. [Không thấy nói đến gạo ở Á Châu] Không được làm hư dầu và rượu (A quart of wheat for a day’s wages, and three quarts of barley for a day’s wages, and do not damage the oil and the wine). [Nhiều học giả đã phê bình đoạn này là các gian thương áp dụng tối đa điều trên. Đầu cơ tích trữ thực phẩm, và khi có thiên tai, nạn đói thì đem ra bán với giá cắt cổ.]

Khi Giê-su mở niêm phong thứ tư, tôi nghe sinh vật thứ tư gọi: “Lại đây!”. Tôi thấy một con ngựa màu xám nhạt phóng ra. Người cưỡi ngựa có tên là Tử Thần, có Âm phủ theo sát đằng sau [Âm Phủ có chân đi theo sát chân ngựa?]. Chúng (They= Tử Thần và Âm Phủ) được ban cho quyền thống trị một phần tư địa cầu để tàn sát loài người bằng gươm giáo, nạn đói, bệnh dịch và thú dữ. (They were given power over a fourth of the earth to kill by sword, famine and plague, and by the wild beasts of the earth) [Vậy là sau ngày tận thế, chiến tranh, nạn đói, bệnh dịch, và thú dữ giết hại loài người đều là do lệnh của Thượng đế Ki Tô Giáo ban ra]

Khi Giê-su mở niêm phong thứ năm, tôi thấy dưới bàn thờ có linh hồn [linh hồn là vật chất hay phi vật chất?] những người bị giềt vì đã công bố đạo Chúa và trung thành làm chứng cho Ngài. Họ kêu lớn [linh hồn hay ma]: “Tới bao giờ, Chúa ơi, Ngài mới xét xử những người trên trái đất và trả thù nợ máu của chúng tôi?” (How long, Lord, until you judge the inhabitants of the earth and avenge our blood?) [Chúa hứa: cứ chờ cho đến khi hội họp đông đủ các “thánh tử đạo” trên thế giới, trong đó có 117 thánh tội đồ của Việt Nam, Chúa sẽ trả thù cho một thể]

Khi Giê-su mở niêm phong thứ sáu thì xảy ra một trận động đất lớn. Mặt trời tối đen, mặt trăng đỏ lòm như máu, các ngôi sao rụng xuống trái đất như sung rụng trong một trận cuồng phong. Bầu trời cuốn lại như một cuộn giấy, và mọi núi và đảo đều di chuyển ra khỏi chỗ....Mọi người trên trái đất đều trốn trong hang động, khe đá ... để tránh không thấy mặt của Đấng ngồi trên ngai và tránh sự phẫn nộ của Giê-su. Vì ngày phẫn nộ lớn của hai cha con Giê-su đã đến, ai có thể chống cự được? (Hide from the face of him who sits on the throne and from the wrath of the Lamb (Jesus). For the great day of their wrath has come, and who can stand?) [Lẽ dĩ nhiên là Chúa Giê-su không hề biết đến kích thước của vũ trụ và các ngôi sao là bao nhiêu. Ngôi sao nhỏ nhất trong vũ trụ cũng lớn hơn trái đất gấp bao nhiêu lần, và khi các ngôi sao rụng xuống trái đất như sung rụng thì trên trái đất có còn hang động nào để cho mọi người trốn tránh trong đó. Đúng là sản phẩm trí tuệ của kẻ dốt nát và điên khùng như Tổng Thống Thomas Jefferson đã nhận định]

Khải Huyền 7: Sau đó tôi thấy bốn thiên sứ đứng ở bốn góc địa cầu [nguyên văn từ Kinh Thánh Việt Nam, quả địa cầu của Ki Tô Giáo có hình tứ giác, có bốn góc] cầm giữ gió bốn phương trên đất, khiến cho khắp đất, biển và cây cối đều bất động. Tôi lại thấy một thiên sứ khác đến từ phương Đông, cầm con dấu (seal) của Thượng đế hằng sống. Thiên sứ này lớn tiếng kêu gọi bốn thiên sứ (bốn người cưỡi ngựa ở trên) đã được Thương đế ban quyền cho làm hại đất và biển (who had been given power to harm the land and the sea): Đừng làm hại đất, biển và cây cối cho đến khi chúng ta đóng dấu ấn lên trán của những tôi tớ Chúa. Rồi tôi nghe thấy số người được đóng dấu ấn trên trán, tất cả là 144000 (một trăm bốn mươi bốn ngàn) thuộc 12 bộ lạc của Israel, mỗi bộ lạc là 12000 người.

[Lời bàn của TCN: Những người được đóng dấu ấn của Thượng đế trên trán là những người được Chúa chọn để cho lên thiên đường của Chúa, vì Kinh Thánh viết rõ “Nhiều người được kêu gọi nhưng chỉ có ít người được chọn” và Chúa cũng đã phán, Matthew 7: 21-23: “Không phải người nào gọi Ta là Chúa cũng được vào nước trời... Trong ngày phán xét sẽ có nhiều người kêu nài: “Thưa Chúa, chúng tôi đã giới thiệu Chúa cho nhiều người, đã dùng danh Chúa để đuổi quỷ và làm nhiều phép lạ [như một linh mục mít ở Úc làm cho tượng bà Mary chảy dầu]. Nhưng ta sẽ đáp: “Ta không hề biết các ngươi! Hãy cút đi cho khuất mắt ta, vì các ngươi chỉ làm việc gian ác” [Có vẻ như các nhà truyền giáo hăng say đi truyền đạo cũng như các tín đồ Ki-tô cố gắng dụ người khác vào đạo chưa bao giờ đọc đến câu này]]

Bịp bợm, dối trá, lợi dụng lòng mê tín của tín đồ để vơ vét của cải, tiền bạc, loạn dâm, đạo đức giả v..v.. có phải là việc gian ác hay không? Ngụy tạo phép lạ, tín lý, bí tích để tạo quyền lực thế tục cho giới giáo sĩ v..v.. có phải là việc gian ác hay không? Cưỡng bách cải đạo, giết người ngoại đạo, tra tấn, thiêu sống người lạc đạo v..v.. có phải là việc gian ác không? Ai trả lời không, xin lên tiếng. Các “hội thánh” Ki-tô, trong 2000 năm nay đã làm những gì? Có làm điều gì gian ác không? Và ai lên thiên đường? Ai xuống hỏa ngục?

Chúng ta để ý, Chúa chỉ chọn 144000 người trong 12 bộ lạc Do Thái, không thấy Chúa nói đến các bộ lạc Bùi Chu, Phát Diệm hay Hố Nai, Gia Kiệm, hay Bolsa, San Jose. Dân Do Thái là dân được Chúa chọn (chosen people) nhưng Chúa cũng chỉ chọn có 144000 người mà thôi. Đối với số người trên thế giới, chúng ta hãy làm một con tính nhỏ. Trong thời John viết sách Khải Huyền, dân số trên thế giới được ước tính là khoảng 200 triệu, ngày nay là khoảng 6.3 tỷ. Vậy tỷ lệ mà các tín đồ Ki-tô hi vọng được Chúa chọn ngày nay đã giảm từ 1 trên 1387 (thời John) xuống còn 1 trên 43750 (ngày nay). Việt Nam có khoảng 7 triệu tín đồ Ca-tô và Tin Lành, vậy trong 48.6 người Việt Ki-tô chỉ có 1 người được Chúa chọn, nếu Chúa chọn tất cả 144000 người được “cứu rỗi” đều là người Việt Nam thuộc 12 bộ lạc Bùi Chu, Phát Diệm, Hố Nai, Gia Kiệm, Vinh, Thái Bình, hay Bolsa, San Jose, Sydney v.. v... Hi vọng này có một xác suất gần bằng 0 (con số không) vì Chúa đã tỏ ra là rất ghét những người không phải là Do Thái, coi người không Do Thái như chó, như được viết trong Tân Ước, và như trên đã nói, không có một người mít nào được đóng dấu ấn của Thượng đế trên trán. Quý vị tín đồ Ki-tô Việt Nam, Ca-Tô cũng như Tin Lành, những người tuyệt đối tin vào Kinh Thánh, nhất là Tân ước, là những lời mạc khải của Chúa nên không thể sai lầm, nghĩ sao về chuyện này. Quý vị có thấy rằng mình đã bị đám mục sư, linh mục lừa bịp quý vị bằng một cái bánh vẽ trên trời mà dù có thật quý vị cũng không bao giờ có thể được hưởng theo như những lời không thể sai lầm của Chúa trong sách Khải Huyền hay không? Muốn được lên thiên đường cùng Chúa, giả thử được Chúa chọn, và điều này không bao giờ có thể xảy ra đối với người Việt Nam như quý vị, quý vị cũng phải tranh nhau, rất có thể phải chém giết nhau, để dành một chỗ trên thiên đường. Quý vị có bao giờ nghĩ đến điều này hay không? Quý vị có bao nhiêu hi vọng được Chúa “cứu rỗi”, bốc cái xác chết đã rũa nát của quý vị (chắc chắn là ngày tận thế sẽ không xảy ra trong đời này của quý vị) lên thiên đường? Quý vị thử sờ lên trán mình xem có thấy dấu ấn của Thượng đế trên đó không? Hãy dùng đến đầu óc một chút đi, và hãy cất bỏ gánh nặng thiên chúa trên vai của quý vị (đề nghị của mục sư Harry Wilson), đúng ra là gánh nặng giáo hoàng Ca-tô hay gánh nặng Kinh Thánh Tin Lành] Đây là những lời khuyên chân thành nhất của tôi, không phải vì tôi chống đạo của quý vị, mà là kết quả của một sự phân tích Kinh Thánh trong lãnh vực học thuật.

Khải Huyền 8-11: Khi Giê-su mở niêm phong thứ bảy..tôi thấy 7 thiên sứ đứng trước mặt Thượng đế và được trao cho 7 chiếc kèn đồng (trumpets).

Thiên sứ thứ nhất thổi kèn, liền có mưa đá và lửa pha với máu đổ xuống mặt đất. Một phần ba đất bị thiêu đốt, một phần ba cây cối bị thiêu đốt, và mọi loài cỏ xanh đều bị thiêu đốt.

Thiên sứ thứ hai thổi kèn, liền có một vật giống như hòn núi lớn toàn bằng lửa bị ném xuống biển. Một phần ba biển biến thành máu. [1/3 nước biển biến thành máu, vậy 2/3 còn lại vẫn là nước biển, không hề bị hòa lẫn với máu?] Một phần ba sinh vật trong biển chết, và một phần ba tàu bè trên biển bị tiêu diệt.

Thiên sứ thứ ba thổi kèn, một ngôi sao lớn trên trời rơi xuống, ngôi sao ấy rơi vào một phần ba sông ngòi và suối nước. Tên ngôi sao đó là Ngải Đắng (Wormwood). Một phần ba nước hóa đắng. [1/3 nước đắng đứng riêng một mình trong sông ngòi, trong suối nước?] Nhiều người chết vì uống nước đắng ấy.

Thiên sứ thứ tư thổi kèn, một phần ba mặt trời, một phần ba mặt trăng, một phần ba các ngôi sao bị phá hủy, trở thành tối đen. Một phần ba ngày không có ánh sáng, cũng như một phần ba đêm không có ánh sáng. [Miễn phê bình]

Thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một vị sao rơi xuống mặt đất. Vị sao ấy được trao cho một chìa khóa của Vực Thẳm. [Vị sao đưa tay ra nhận chìa khóa?] Khi vị sao này mở Vực Thẳm ra [Vực Thẳm có cửa?], liền có khói bay ra che khuất làm cho mặt trời và bầu trời tối sầm. Từ đám khói bay xuống đất những con châu chấu. Chúng được ban cho nọc độc như những con bọ cạp ở dưới đất. Chúng được lệnh không được phá hại cây cỏ mà chỉ nhắm vào những người không có dấu ấn của Thượng đế đóng trên trán. Chúng không được quyền giết mà chỉ được tra tấn hành hạ những người này trong 5 tháng. Và sự đau đớn cùng cực của những người này giống như khi bị bọ cạp chích. Trong 5 tháng này, những người này muốn chết đi cho rồi mà không chết được. [They (the locusts) were not given power to kill them (those people who did not have the seal of God on their forefronts), but only to torture them for five months. And the agony they suffered was like that of the sting of a scorpion when it strikes a man. During those days men will seek death, but will not find it; they will long to die, but death will elude them.] [Chúa lòng lành của Ki Tô Giáo?]

Thiên sứ thứ sáu thổi kèn, tôi nghe từ những chiếc sừng của bàn thờ bằng vàng đặt trước ngai Chúa có tiếng nói ra: Hãy thả bốn thiên sứ bị trói giữ tại sông Euphrates. Và bốn thiên sứ, dược giữ ở đây để chuẩn bị sẵng sàng, đúng ngày giờ được thả ra để đi giết một phần ba nhân loại (to kill a third of mankind).

Thiên sứ thứ bảy thổi kèn, có những tiếng lớn vang ra trên trời: Từ nay thế gian thuộc quyền Thiên Chúa và đấng Cứu Thế. Ngài sẽ cai trị mãi mãi... 24 trưởng lão quỳ xuống và ca: Chúa là đức Chúa Trời toàn năng, là đấng đã có, hiện có và sẽ có...Cơn thịnh nộ của Ngài đã đến: Giờ đã tới, là giờ phán xét kẻ chết, thưởng cho tôi tớ Chúa blah..blah...blah..

Trên đây là 7 ấn niêm phong trong sách Khải Huyền mà Giáo Hoàng Benedict XVI đã viện dẫn, nhưng nay tôi đã mở ra để cho mọi người cùng đọc. Quý độc giả đọc xong nghĩ sao? Và quý độc giả thấy có sự liên hệ gì giữa Thánh Gioan đã cho thấy là ngài rơi lệ vì không ai xứng đáng mở được hay đọc được cuốn sách ấy (x Kh 5:4). Lịch sử vẫn y nguyên không giải mả được, không thể hiểu được. Không ai đọc được nó. Có lẽ, Thánh Gioan đã rơi lệ trước mầu nhiệm của một lịch sử quá u minh thể hiện nơi sự thất vọng của các Giáo Hội tại Á Châu trước sự yên lặng của Thiên Chúa? Tôi không hiểu Giáo hoàng viết để cho ai đọc. Có lẽ Giáo Hoàng biết chắc rằng các tín đồ của Ngài, nhất là các tín đồ Mít, chỉ đọc rồi khen nhắng lên là hay, như ở trên Vietcatholic chẳng hạn, chứ chẳng ai cần hiểu là ông ta viết cái gì.

Sách Khải Huyền gồm có 22 chương. Tôi mới chỉ lướt qua một nửa, đến hết chương 11. Nếu người nào đọc những đoạn trên mà không cho đó là “tác phẩm” của một kẻ dốt nát điên khùng thì chính người đó là kẻ dốt nát điên khùng.

Quý độc giả có ai muốn đọc tiếp không? Tôi nghĩ rằng không nên mất thêm thì giờ để tiếp tục làm phiền đầu óc của quý vị bằng những chuyện nhảm nhí như trên ở trong sách Khải Huyền. Trong những phần sau, Thượng đế của Ki tô giáo còn “mạc khải” cho thánh John những chuyện hoang đường nhảm nhí như: Một con rồng lớn xuất hiện, đuôi rồng kéo theo một phần ba tinh tú trên trời quăng xuống đất; một người đàn bà mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội mũ miện kết bằng 12 tinh tú (ngôi sao), có thai (của ai?) kêu la quặn thắt vì sắp tới kỳ sinh nở blah..blah...blah.. Ngoài ra Thượng đế của Ki Tô Giáo còn giáng thêm nhiều tai họa đến cho nhân loại và mọi sinh vật, điển hình là trong chương 16: 1) Những người mang dấu 666 (dấu của Satan) trên người bị nổi ung nhọt độc địa ghê tởm; 2) Nước biển, sông ngòi, suối nước đều biến thành máu, mọi sinh vật trong đó đều chết hết; 3) Mặt trời được phép nung đốt người [lẽ dĩ nhiên là phải chừa ra những người có dấu của Thượng đế trên trán] v..v.. và Thượng đế được thiên sứ ca ngợi: “Chúa xét xử thật công minh, chân chính” (Khải Huyền 16: 7)...

Người nào cho rằng những chuyện trên không phải là những chuyện nhảm nhí của một kẻ dốt nát điên khùng, xin lên tiếng.

Ấy thế mà vẫn có nhiều người tin vào những gì viết trong sách Khải Huyền, kể cả Giáo hoàng Benedict XVI vì thế ông ấy mới viện dẫn và quảng cáo cho 7 cái ấn niêm phong mà chỉ có Chúa Giê-su của ông ấy mới đủ tư cách để mở. Và cũng vì niềm tin vào ngày tận thế trong sách Khải Huyền mà trong 2000 năm đã có không biết bao nhiêu là tiên đoán về ngày tận thế. Để cho bài viết được đầy đủ, sau đây tôi xin cống hiến quý độc giả một số tiên đoán về ngày tận thế của những người Ki Tô Giáo, bỏ qua tiên đoán của ông cựu nghị sĩ Trương Tiến Đạt trong Tiếng Loa Cảnh Báo của ông ta. Chúng ta sẽ thấy, niềm tin vào những điều nhảm nhí trong Tân Ước đã gây hại cho nhân loại như thế nào.

Niềm tin vào ngày tận thế qua những tiên đoán láo của các nhà “tiên tri” đã gây ra nhiều ảnh hưởng tai hại trong xã hội. Thật vậy, nếu tin rằng chỉ còn có vài ngày, hay vài tuần lễ, vài tháng là đến ngày tận thế, thì con người đâu cần còn phải tuân theo luật lệ quốc gia, đâu cần làm việc v..v... Những chuyện này đã xảy ra trên nhiều nơi trên thế giới. Như trên đã nói, trong 2000 năm nay, có cả trăm sự tiên đoán về ngày tận thế, nhưng tất cả đều trật lất. Lại có những giáo sĩ Ki-tô, lợi dụng lòng mê tín của tín đồ, loan báo ngày tận thế sắp tới và khuyến dụ tín đồ trao hết của cải cho nhà thờ để được bảo đảm một chỗ trên thiên đường. Trong bài này tôi không thể kể ra hết những vụ tiên đoán về ngày tận thế, mà chỉ có thể nêu ra vài trường hợp điển hình.

Trước hết là Giám mục James Usher (1581-1656) ở Ái Nhĩ Lan. Để phù hợp với sự sinh ra của Giê-su dưới triều đại Herod (chết năm –4 (4 năm Trước Tây Lịch)), James Usher tính ngược lại theo gia phả của Giê-su và xác định Thượng đế “sáng tạo” ra thế giới lúc 9 giờ sáng, ngày 23 tháng 10, năm –4004, đền Solomon được xây 3000 năm sau ngày sáng tạo, và Giê-su sinh ra 4000 năm sau ngày sáng tạo, và từ ngày Giê-su sinh ra đời đến ngày tận thế là đúng 2000 năm, nghĩa là ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 23 tháng 10, năm 1997. Sau đó là 1000 năm mà thế giới là “vương quốc hòa bình” thuộc quyền thống trị của Chúa Giê-su.. Chúng ta đang ở trong năm 2007, có phải không? Và “vương quốc hòa bình” thuộc quyền thống trị của Chúa Giê-su.. là vương quốc nào, ở đâu, có ai biết không?

Trường hợp thứ hai là William Miller (1782-1849), Giáo Chủ Adventist (Hệ phái Cơ Đốc tin rằng ngày trở lại lần thứ hai của Giê-su đã gần tới, có người dịch là Cơ Đốc Phục Lâm) đã tính toán rất kỹ, dựa theo Kinh Thánh, để đưa ra ngày Giê-su trở lại. Tin rằng một ngày tiên tri (Ezek. 4:6) là một năm, ông ta đã dựa vào các lời tiên tri trong sách Daniel 9:24-27 nói là sau 70 tuần lễ, Giê-su sẽ trở lại trần để cứu dân Do Thái, và Daniel 8:14 nói về một thời kỳ là 2300 ngày thì trái đất sẽ thuộc về Chúa. 70 tuần lễ, hay 490 ngày, biểu thị một thời kỳ 490 năm bắt đầu từ năm 457 Trước Tây Lịch, năm Vua Artaxerxes ký nghị định tái thiết Jerusalem. 490 năm sau là năm 33/34, năm Giê-su bị đóng đinh trên thập giá. Vậy Giê-su “giáng sinh” đúng vào cuối thời kỳ 70 tuần lễ. Sau đó Miller cộng con số 2300 năm vào năm 457 Trước Tây Lịch, và tiên đoán là Giê-su sẽ trở lại trần lần thứ hai (Second Coming) vào năm 1843 (1843+457 = 2300). Ngày 1 tháng 1, 1843, William Miller tuyên bố xác định ngày Chúa tái lâm sẽ xảy ra trong khoảng từ 21 tháng 3 năm 1843 đến 21 tháng 3, 1844. Thông điệp của Miller là: “Giờ Chúa phán xét đã tới – Hãy sẵn sàng để hội diện với Chúa.” Ngày 21 tháng 3, 1843 qua. Chẳng có gì xảy ra nhưng những tín đồ cơ đốc theo Miller, khoảng vài trăm ngàn, vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Trong khi đó, họ đi khắp nơi để đe dọa những người không tin vào ngày tận thế của Miller là sẽ lãnh những điều khủng khiếp như được viết trong Sách Khải Huyền. Đến ngày 21 tháng 3, 1844, tờ New York Herald loan tin có nhiều tín đồ cơ đốc theo Miller đã nhảy từ trên nóc nhà hoặc ngọn cây xuống, tin rằng sẽ được Chúa đón lên thiên đường. Giê-su không thấy đâu, chỉ thấy những người tin nhảm tin nhí này hoặc bị thương nặng, hoặc chết. [Richard Abanes, End Time Visions, Four Walls Eight Windows, New York, 1998, p. 224: Many Millerites had actually jumped from roofs and treetops in hopes of timing their leaps with Christ’s return. But Jesus did not return and those who jumped “were critically hurt, and some fell to their death”].

Ngày hôm sau, một tờ báo ở Boston đưa lên trang nhất hàng chữ lớn: “Sao vậy! – Chưa lên thiên đường hay sao? – Chúng tôi nghĩ các người đã lên thiên đường rồi! Sắp lên rồi có phải không? Vợ các người không lên thiên đường để bỏ lại các người bị thiêu đốt trong hỏa ngục, có phải không?” [Richard Abanes, Ibid., p. 225: What! Not gone up yet? – We thought you’d gone up! Aren’t you going up soon? – Wife didn’t go up and leave you behind to burn, did she?]

Từ tiên đoán láo này đến tiên đoán láo khác, hệ phái Adventist vẫn không nản chí. Samuel S. Snow, một người theo Miller đã tuyên bố là tìm ra sự sai trong tính toán của Miller. Theo sự tính toán của Snow thì Giê-su sẽ trở lại vào ngày 22 tháng 10, 1844 chứ không phải là ngày 21 tháng 3, 1844.

Đến ngày Chúa trở lại, 22 tháng 10, 1844, sự hồ hởi náo nhiệt lan tràn trong đám người theo hệ phái Aventist. Một người đeo đôi cánh của một con gà tây (turkey wings), leo lên ngọn cây và cầu nguyện Chúa sẽ bốc mình lên trên trời. Anh ta nhảy xuống và tin rằng mình sẽ bay lên trời cùng Chúa, nhưng rơi xuống đất và gẫy tay. Nhiều địa chủ giầu có trở nên nghèo khổ vì đã bán hết gia sản đất đai để cúng cho Miller xây một thánh đường tại Boston. Ở New Hampshire, nhiều nông dân từ chối không gặt hái hoa mùa bắp và khoai và không cho phép ai được gặt hái.

Ngày 22 tháng 10, 1844 tới nhưng Chúa vẫn biệt tăm. Ngày 22 tháng 10, 1844 đã đi vào lịch sử Hoa Kỳ như là Ngày Đại Thất Vọng, Tín đồ khóc sướt mướt suốt đêm (Abanes, Ibid., p. 226: October 22, 1844 went down in history as the “Great Disappointment” ...We wept, and wept, till the day down)

Trước ngày 21 tháng 3, 1843, Noah Webster [tác giả Tự Điển Webster] đã lên tiếng khuyến cáo Miller như sau nhưng vô hiệu:

Sự rao giảng [về ngày tận thế] của ông không ích lợi gì cho xã hội mà chỉ làm cho người ta rất khó chịu và bực mình. Nếu ông hi vọng rằng làm cho người ta sợ hãi để kéo người ta vào vòng tôn giáo thì ông đã lầm.

... Nếu sự rao giảng [về ngày tận thế] của ông làm cho con người thất vọng hay trở nên điên loạn, ông phải chịu trách nhiệm về những hậu quả. Tôi khuyên ông hãy từ bỏ sự rao giảng [về ngày tận thế]; ông chẳng làm điều gì hay ho, tốt đẹp, nhưng có thể ông đã gây ra phương hại lớn lao cho con người.

[Richard Abanes, End-Time Visions, Four Walls Eight Windows, New York, 1998, p. 224: Your preaching can be of no use to society but it is a great annoyance. If you expect to frighten men and women into religion, you probably mistaken.

...If your preaching drives people into despair or insanity, you are responsible for the consequences. I advise you to abandon your preaching; you are doing no good, but you may do a great deal of harm.]

Những người bị ảnh hưởng bởi hệ phái Adventist sau này vẫn tiếp tục tin vào ngày tận thế đã gần kề, và lập ra các hệ phái Adventist khác như Second Adventist hay Seventh-day Adventist (Ellen G. White), tiên đoán ngày Chúa trở lại :1873/1874, rồi đến hệ phái Nhân Chứng Jehovah (Jehovah’s Witnesses = JW) “sáng lập” bởi Charles Taze Russell (1856-1916). Hệ phái Cơ Đốc Jehovah Witness này đã gây ra nhiều tác hại trong xã hội, trong đó có nạn nhân người Việt, vì những giáo lý và cấm điều bắt buộc quái gở của họ như: Cấm tín đồ không được tôn trọng những ngày lễ như Giáng Sinh, Tạ Ơn, Phục Sinh; không được tổ chức Ngày của Mẹ, Cha (Mother’s day, Father’s day), không được đi bỏ phiếu trong kỳ bầu cử, không được chào quốc kỳ, hát quốc ca, và nhất là không được truyền máu làm cho nhiều trẻ em và người lớn theo đạo JW chết, trong đó có một phụ nữ Việt Nam đã chết vì cái luật quái gở này. Hệ phái Cơ Đốc này đã tiên đoán ngày tận thế vào năm 1874, rồi sửa lại thành 1914, rồi 1925, 1940, 1941, 1975. Trước những sự tiên đoán láo như trên, vẫn có nhiều người tiếp tục tin vào cái đạo Ki Tô quái gở này. Nghe nói hệ phái JW ngày nay đã lan sang Việt Nam, nếu thật vậy thì là một điều bất hạnh cho những người dân ngu ngơ tin theo. Hi vọng Nhà Nước có biện pháp ngăn chận. Đây không phải là vấn đề vi phạm tự do tín ngưỡng mà là vấn đề giữ cho xã hội được lành mạnh.

Rồi gần đây. những thảm họa gây ra bởi mục sư Jim Jones ở Jonestown, Guyana, 1978 (hơn 900 người vừa tự sát vừa bị cưỡng ép uống thuốc độc chết); hoặc bởi Chúa Con (Son of God), lời David Koresh tự nhận ở Waco, Texas, 1993 (75 người, đàn ông, đàn bà, trẻ con chết thiêu khi hệ phái Branch Davidian của David Koresh tử thủ trong một trang trại); hoặc hệ phái Heaven’s Gate ở California, 1997 (39 người tự sát, tin rằng Chúa sẽ phái một phi thuyền (spaceship) xuống bốc lên thiên đường).. Tất cả đều chỉ vì tin vào sự cứu rỗi của Chúa ở trong Kinh Thánh, nói về ngày tận thế và được lên thiên đường ở cùng Chúa. Ki-tô giáo vẫn tự nhận là tôn giáo văn minh, tiến bộ nhất thế giới.

Khi Tin Lành lan sang Á Châu, đặc biệt là ở Nam Hàn, quan niệm về ngày tận thế của Ki-tô-giáo đã gây ra những tác hại trong xã hội như thế nào? Bắt chước các nhà tiên tri dỏm ở Âu Mỹ, Tin Lành (hay Tin Dữ) Nam Hàn cũng đưa ra những lời tiên tri bịp về ngày tận thế, tức ngày Giê-su trở lại trần lần thứ hai. Sau đây là một vụ mà báo chí Mỹ đã loan tin rộng rãi.

Tối ngày 28 tháng 10, 1992, tín đồ Tin Dữ Nam Hàn tụ tập trong nhà thờ Maranatha Mission ở trung tâm Los Angeles. Họ chờ đợi Chúa trở lại vào lúc 12 giờ đêm và bốc họ lên thiên đường. Ngoài cửa có người gác, không cho những người không phải là thành viên của nhà thờ vào trong nhà thờ. Họ giữ độc quyền được Chúa bốc lên thiên đường (Rapture). Nhưng Chúa không hề trở lại. 12 giờ đêm đã qua. Một số thân nhân của các thành viên đến nhà thờ, chờ đợi ở ngoài, hi vọng có thể an ủi những người thân của mình đang ở trong tình trạng tuyệt vọng vì Chúa đã không trở lại. Tại sao lại có hiện tượng cuồng tín như vậy? Vì những quảng cáo khắp nơi về ngày Chúa trở lại, mà nguyên một trang quảng cáo trên tờ USA Today ngày 20 tháng 10, 1991, như sau:

Chúa Bốc Lên Trời

28 Tháng 10, 1992

Giê-su Sẽ Tới Từ Trên Không

Rapture

October 28, 1992

Jesus Is Coming In The Air

Đây chỉ là một trong rất nhiều quảng cáo về ngày tận thế của phong trào Tin Dữ Nam Hàn Hyoo-go (tiếng Hàn có nghĩa là Rapture), có cả trăm ngàn tín đồ ở trong nước cũng như ở ngoại quốc. Một nhóm Hyoo-go tiên đoán là bắt đầu từ ngày 28 tháng 10, 1992, sẽ có 50 triệu người chết vì động đất, 50 triệu chết vì nhà cửa sụp đổ, 1 tỷ 4 người chết vì Đệ Tam Thế Chiến, và 1 tỷ 4 người chết vì những cuộc chiến giữa Chúa Giê-su và Satan (Armageddon).

Những tiên đoán như trên được đề xướng bởi mục sư Tin Dữ Nam Hàn Lee Jang Rim trong cuốn sách thuộc loại bán chạy nhất (bestseller): Đã Đến Gần Ngày Tận Thế (Getting Close to the End) trong đó ông ta hứa hẹn ngày 28 tháng 10, 1992 là ngày Tất Cả (All) tín đồ Ki-tô đều được bốc lên trời. [Hiển nhiên là ông mục sư Tin Dữ này không hề đọc Kinh Thánh].

Ngoài ra, những “mạc khải” của Thượng đế cho một đứa bé 12 tuổi tên là Bang-Ik Ha cũng được dùng để khẳng định ngày tận thế vào tháng 10, 1992. Theo điều tin nhảm nhí này thì God đã mạc khải những lời sau đây cho Bang-Ik Ha vào tháng 7, 1987: “Cũng nhu Ta đã sửa soạn để cho John The Baptist xuất hiện trước khi Giê-su giáng sinh xuống trần, ngày nay ta sửa soạn cho Bang-Ik Ha (12 tuổi)”. Một cuốn sách mỏng của Tin Dữ Taberah World Mission loan báo là Giê-su đã đích thân nói với đứa trẻ: “Ta sẽ tới trong tháng 10, 1992. Hãy sửa soạn! (Để nghênh đón Ta) [I will be there in October, 1992. Prepare!] Theo hệ phái Tin Dữ Hyoo-go thì chỉ những người nào theo hệ phái này mới được bốc lên trời, còn những người khác sẽ phải chịu sự khủng bố khủng khiếp của Satan trong 7 năm (7 years of tribulation). Người nào không được bốc lên trời phải chịu làm “thánh tử đạo” thì sau đó mới được lên thiên đường. Nếu không sẽ bị đầy đọa xuống hỏa ngục vĩnh viễn. (eternal damnation).

Tại nhà thờ Maranatha Mission ở Los Angeles, các thành viên của Hyoo-go chứng tỏ là họ đáng được bốc lên trời bằng cách lớn tiếng cầu nguyện mỗi đêm trước đêm tận thế. Họ cầu nguyện đến độ cổ khô, khạc ra máu và cho đó là để tẩy uế tội lỗi và là dấu hiệu để được “cứu rỗi” (a way of purging oneself of sin and a sign of salvation). Cho nên, người nào càng khạc ra máu nhiều bao nhiêu thì càng có nhiều may mắn để được bốc lên thiên đường.

Trong khi đó, ở Nam Hàn đã xảy ra những sự hỗn loạn trong xã hội. Ở thị trấn Wonju, một nhóm Hyoo-go cuồng tín đốt đồ đạc ngoài đường phố và chờ để được Chúa bốc lên trời. Ở Hán Thành (Seoul), 5000 người theo Hyoo-go bỏ việc. Nhiều người bán nhà, từ bỏ gia đình. Rất nhiều giới trẻ bỏ học, từ Đại học xuống tới Tiểu học. Nhiều phụ nữ mang thai đi phá thai để cho thân thể được nhẹ nhàng để Chúa dễ bốc lên thiên đường (Several pregnant women reportedly had abortions “so they would not be too heavy to be lifted to Heaven”), và ít nhất là có 4 người tự sát trước ngày 28 tháng 10.

Đến ngày tiên đoán tận thế, hàng ngàn tín đồ Hyoo-go tụ họp trong các nhà thờ Tin Dữ Nam Hàn trên thế giới để chờ sự vinh quang được Chúa bốc lên thiên đường. Chính quyền Nam Hàn phải sử dụng 1500 cảnh sát, các xe cứu hỏa và xe cứu thương túc trực xung quanh các nhà thờ lớn của Hyoo-go ở Hán Thành để ngăn chận tái diễn cảnh ở Jonestown.

15 phút sau giờ tận thế, Mục sư Chang Man-Ho lên bục giảng và nói: ”Chẳng có gì xảy ra. Thật đáng tiếc. Chúng ta hãy về nhà”. Tín đồ không những nồi giận mà còn vô cùng đau khổ. Nhiều người khóc nức nở (Many began weeping uncontrollably). Một số hành hung các mục sư đã nói láo với họ. Một thành viên than: “Chúa đã nói láo với chúng tôi” (God lied to us).

Đối với mục sư Tin Dữ 46 tuổi Lee Jang Rim, người đã khởi xướng chuyện Chúa trở lại, gây ra nhiều tai hại trong xã hội, thì ông ta bị tòa án Nam Hàn phạt 2 năm tù vì tội lừa dối tín đồ để vơ vét 4 triệu 4 đô-la và tàng trữ đô-la bất hợp pháp. Người ta còn khám phá ra rằng Lee Jang Rim đã đầu tư một phần lớn số tiền lừa được của tín đồ để mua công khố phiếu mà thời hạn được lãnh ra toàn phần (bond mature) là vào tháng 5, 1993, nghĩa là hơn 6 tháng sau ngày tận thế.

Chuyện “ngày tận thế” của Ki-tô giáo đến đây tạm gọi là tận. Tôi xin để cho quý độc giả tự mình suy nghĩ về ảnh hưởng của Kinh Thánh trên đầu óc đám dân thấp kém và về những thủ đoạn khai thác lòng mê tín và sự ngu dốt của đám tín đồ ở dưới của giới lãnh đạo Ki-tô, từ giáo hoàng trở xuống..

Vài Lời Cuối.

Đến đây, tôi muốn đặt một câu hỏi với các đồng bào của tôi theo Ki Tô Giáo, Ca-Tô cũng như Tin Lành: Tín đồ Ki-tô Việt Nam có được Chúa “cứu rỗi” không? Qua phần trình bày ở trên, tôi tin rằng các độc giả đã tìm ra câu trả lời. Riêng đối với tôi, câu trả lời là một tiếng quyết định: “KHÔNG” (An emphatic “NO”) [Xin đón đọc chi tiết trong Phần I, Bài “Người Việt Nam & Đạo Giê-su” của Trần Chung Ngọc và Nguyễn Mạnh Quang] . Tại sao? Không phải vì tôi không tin như các Ki-tô hữu, cũng không phải vì tôi là người ngoại đạo nên cố ý phủ bác niềm tin của các Ki-tô hữu. Mà vì sự “cứu rỗi” của Giê-su, nhất là cho những người Việt Nam không đặt trên một căn bản nào, thần học cũng như khoa học, có thể thuyết phục được những người có đôi chút hiểu biết. Hiểu biết ở đây là tôi muốn nói hiểu biết về thực chất Kinh Thánh, về lịch sử Do Thái, về sự bành trướng Ki-tô giáo trên thế giới, về khoa học chứ không phải là hiểu biết đại cương về những bộ môn khác. Tôi không thể nào trình bầy ở đây những luận cứ để bảo vệ sự xác định của tôi vì nó quá dài. Để thay thế, tôi chỉ xin đặt cho các Ki-tô hữu hay Cơ đốc nhân hay dân Chúa vài câu hỏi để các bạn suy nghĩ. Trong một bài khác tôi sẽ trình bày vấn đề này một cách rõ ràng và chi tiết hơn.

Các bạn có biết niềm tin về một đấng cứu thế thật ra chỉ là niềm tin của người Do Thái về một người anh hùng Do Thái xuất hiện để cứu dân tộc Do Thái ra khỏi những nghịch cảnh của một quốc gia ở trong vòng nô lệ?

Các bạn có bao giờ suy nghĩ về sự kiện dân Do Thái là dân được Thượng đế chọn nhưng lại không tin Con Một của Thượng đế, Giê-su, là đấng cứu thế mà chỉ coi Giê-su như một tiên tri giống như nhiều tiên tri khác trong Cựu Ước? Cũng vì vậy mà sau này, khi Ki-tô giáo nâng Giê-su lên hàng cứu thế cho cả nhân loại, đã cực kỳ thù ghét người Do Thái và vu cho người Do Thái cái tội “giết Chúa” [nếu Chúa có thể bị giết] và bạo hành người Do Thái trong nhiều thế kỷ với cao điểm là Hitler, một tín đồ Ca-tô, đã tàn sát 6 triệu người Do Thái trong Đệ Nhị Thế Chiến.

Các bạn có biết Cựu Ước chỉ là niềm tin của dân tộc Do Thái và Tân Ước chỉ là sự tiếp nối của Cựu Ước để hoàn thành những luật của Thượng đế trong Tân Ước như chính Giê-su đã khẳng định?

Các bạn có biết Kinh Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước được viết trong bối cảnh lịch sử của dân Do Thái cách đây ít nhất là gần 2000 năm (Tân Ước), khi mà sự hiểu biết của con người về nhân sinh, vũ trụ của những người viết Kinh Thánh còn ở trong thời kỳ bán khai, cho nên đã có quá nhiều sai lầm về thần học cũng như về khoa học?

Các bạn có biết là những người viết Kinh Thánh hoàn toàn không có một ý niệm nào về sự cấu tạo của vũ trụ và trái đất, cho rằng trái đất phẳng và dẹt, có 4 góc, do đó không thể biết là ở phía bên kia của trái đất còn có nhiều dân tộc khác, cho nên tên các nhân vật trong Kinh Thánh hoàn toàn là ở trong vùng Trung Đông, không hề có một tên nào ở Á Đông như tên Tàu hay tên Việt Nam?

Các bạn có biết rằng chính giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường ở trên các tầng mây, và đã thú nhận là con người có thể không do Thượng đế tạo ra một cách tức thời mà là do một quá trình tiến hóa lâu dài. Như vậy thuyết sáng tạo và thuyết về tội tổ tông chẳng qua chỉ là những huyền thoại của dân Do Thái. Không có sáng tạo, không có tội tổ tông, không có thiên đường, vậy thì ai cần ai chuộc tội, ai cần ai cứu rỗi? Chẳng có lẽ Chúa chết là để chuộc những tội ác như cướp của, giết người hay loạn dâm? Các bạn có đủ can đảm để chất vấn hay phản đối giáo hoàng về điều này không?

Các bạn có biết là các khoa học gia trong Ki-tô giáo, với những máy móc tối tân nhất, những kỹ thuật tinh vi nhất, bén nhạy nhất, được dùng để cố chứng minh là trong con người có một linh hồn độc lập, trường tồn, nhưng cho tới ngày nay đã hoàn toàn thất bại? Vậy trước khi có thể chứng minh sự hiện hữu của một linh hồn riêng biệt, khi chết sẽ được Chúa “cứu rỗi” cho lên thiên đường để chờ ngày đoàn tụ với xác chết Chúa làm cho sống lại, sự “cứu rỗi” của Chúa chỉ là một ảo tưởng vô vọng của những người tin Chúa?

Các bạn có biết, qua những nghiên cứu của các học giả, chuyên gia về Kinh Thánh ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-tô, kể cả một số chức sắc trong Ki Tô Giáo, trong mấy trăm năm nay đã đồng thuận ở một điểm: Giê-su Thần Học và Giê-su Lịch Sử [con người thực của Giê-su] là hai nhân vật hoàn toàn khác nhau? Do đó tất cả những điều các bạn tin về Giê-su chỉ là Giê-su theo Thần học chứ không phải là Giê-su thực, MỘT NGƯỜI THƯỜNG NHƯ MỌI NGƯỜI, nhưng hoang tưởng mình chính là Con của Thượng đế [của dân Do Thái].

Các bạn có biết, theo như đoạn cuối trong sách Khải Huyền, thì Nước Trời chỉ là một Jerusalem mới của người Do Thái được đặt dưới quyền thống trị của Thiên Chúa?

Còn nhiêu câu hỏi nữa, nhưng tôi cho rằng như vậy cũng đã tạm đủ. các bạn hãy suy nghĩ và trả lời với tất cả sự lương thiện trí thức của mình.


Các bài về tôn giáo cùng tác giả

Trang Trần Chung Ngọc