|
đăng ngày 28 tháng 3, 2008
|
Toàn tập :
0
1
2
3
4
5
THAY
LỜI KẾT
Qua
sự phân tích những vấn đề trong hai chương II và III, chúng ta đã thấy rõ
thực chất đức tin Ca-Tô qua Kinh Tin Kính cũng như những “bí tích” trong
Ca-Tô Giáo Rô-Ma là như thế nào. Điều rõ ràng là suốt 2000 năm nay, tín đồ
Ca-Tô đã bị lừa dối bởi một chính sách nhồi sọ tinh vi, xảo quyệt, của giáo
hội Ca-Tô để giam hãm đầu óc tín đồ vào trong những nhà tù tư tưởng, do đó
tín đồ vẫn tiếp tục tin vào những giáo điều sai lầm, lỗi thời, hoang đường,
phi lô-gic, phản lý trí, phản khoa học v..v.. của giáo hội, cũng như tiếp
tục tin vào những thần quyền giả tạo tự phong của giới giáo sĩ như giám mục,
linh mục. Tại sao các tín đồ vẫn tiếp tục tin? Vì họ không hề biết đến
những sự thật mà chính giáo hội đã thú nhận, nhưng giáo hội vẫn dấu kín
trước đám đông tín đồ thấp kém, hoặc diễn giải lệch lạc những diễn biến
trong nội bộ giáo hội theo luận điệu ngụy biện một chiều của giáo hội cho
những tín đồ đã bị nhồi sọ từ nhỏ, vốn đã không có khả năng suy luận. Đây
không phải là những luận cứ vu vơ, mà dựa trên những bằng chứng hiển nhiên
như được trình bày sau đây.
Năm 1981, tòa thánh Vatican đã mời một số
chuyên gia đến để cố vấn cho tòa thánh về vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo,
các chuyên gia được giáo hoàng Gion Pôn Hai (John Paul II) tiếp kiến. Ngài
bảo các khoa học gia cứ tự nhiên nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ
lớn (big bang), nhưng không nên tìm hiểu về chính lúc nổ vì đó là lúc sáng
tạo, do đó là tác phẩm của Thiên Chúa của Ki-Tô Giáo. (Stephen Hawking, A
Brief History of Time, p. 116: He told us that it was all right to study the
evolution of the universe after the big bang, but we should not inquire into
the big bang itself because that was the moment of Creation and therefore
the work of God). Đây là một biến cố rất quan trọng trong nội bộ giáo hội
Ca-Tô. Giáo hoàng, và lẽ dĩ nhiên giáo hội, đã thừa nhận là vũ trụ này
sinh ra từ một sự nổ lớn, theo như thuyết “Big Bang” trong khoa học. Điều
này đã chôn vùi thuyết sáng tạo trong thánh kinh xuống đáy hầm Vatican, dù
giáo hoàng đã vớt vát bằng một câu hoàn toàn vô nghĩa: “Big Bang là lúc sáng
tạo, do đó là tác phẩm của Thiên Chúa”. Vô nghĩa vì giáo hoàng không hề
có một chút kiến thức nào về khoa học nên đã nói nhảm nhí về “lúc sáng
tạo”. Vì Big Bang chẳng qua chỉ là sự nổ bùng của một dị điểm (singularity)
vô cùng nóng, vô cùng đặc, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay. Nóng bao nhiêu, và
đặc như thế nào? Các khoa học gia đã tính ra được là sau khi nổ khoảng một
phần ngàn giây đồng hồ (1/1000 s) thì nhiệt độ của Big Bang vào khoảng “một
ngàn tỷ độ” (1012
độ) và tỉ trọng của khối cầu lửa khi đó vào khoảng 100000 tỷ gram (10
14 g) cho 1 phân
khối. Để có một khái niệm về nhiệt độ và tỉ trọng của Big Bang chúng ta nên
biết là nhiệt độ của mặt trời chỉ vào khoảng 6000 độ, và tỉ trọng của nước
chỉ là 1 gram cho một phân khối. Với nhiệt độ của Big Bang như vậy thì
Thiên Chúa nào tạo ra Big Bang cũng phải tự mình bị thiêu hủy ngay tức khắc,
còn đâu nữa để mà sau này đi dạo trong vườn địa đàng nói chuyện với Adam,
hay hiện ra trước ông tổ Do Thái Abraham của những người đi đạo Việt Nam.
Mặt khác, nếu Thiên Chúa sáng tạo ra Big Bang thì Thiên Chúa phải ở ngoài
Big Bang. Big Bang đã trở thành vũ trụ ngày nay, rộng khoảng 15 tỷ năm ánh
sáng, vậy Thiên Chúa cũng phải ở ngoài vũ trụ này. Big Bang không phải là
cái Popemobile để khi sáng tạo xong Thiên Chúa nhảy vào trong đó ngồi để mà
tránh đạn thế gian. Cũng vì vậy mà từ thuở khai thiên lập địa chúng ta có
thấy Thiên Chúa can thiệp vào chuyện thế gian đâu. Nhưng thật ra bảo
rằng Thiên Chúa ở ngoài Big Bang cũng không đúng. Vì thời gian và không
gian mà chúng ta hiểu ngày nay được sinh ra cùng với Big Bang, cho nên những
câu hỏi như Thiên Chúa ở đâu trước Big Bang để tạo ra Big Bang đều vô nghĩa
vì không có cái gì có thể gọi là “trước Big Bang” hay “ngoài Big Bang”. Nói
tóm lại, Thiên Chúa chỉ là một sản phẩm tưởng tượng của một số người Do Thái
trong thời đại mà đa số các dân tộc trên thế giới đều tin vào sự hiện hữu
của một thần linh nào đó (Xin đọc cuốn Lịch sử của Thần (A History of God)
của Nữ Tu Karen Armstrong). Sau cùng, giả thử chuyện Thiên Chúa tạo ra Big
Bang là có thật thì Chúa Giê-su mới chết cách đây chưa tới 2000 năm, dù cho
có sống lại và bay lên trời với vận tốc của ánh sáng cũng chưa ra khỏi giải
ngân hà (rộng khoảng 100000 năm ánh sáng), làm sao mà lên ngồi bên tay phải
của Chúa Cha ở ngoài Big Bang được, dù vũ trụ ngày nay ngưng, không tiếp tục
nở rộng nữa. Giáo hoàng nói chỉ để giáo hoàng và con chiên đầu óc vốn mù mịt
nghe, chứ còn người ngoài, ai mà chẳng biết là giáo hoàng nói nhảm. Chúng
ta cũng nên biết, năm 1981, thuyết Big Bang chưa được hoàn chỉnh, mà tòa
thánh đã công nhận thuyết Big Bang rồi. Phải đến năm 1992, khi phi thuyền
COBE (COsmic Bacground Explorer) dò ra được những vân (ripples) trong bức xạ
nền (background radiation) của vũ trụ, thuyết Big Bang mới được công nhận là
hoàn chỉnh và rốt ráo.
Năm 1992, giáo hoàng đã công khai nhìn nhận
là giáo hội đã sai lầm trong vụ án Galileo Galilei. 359 năm về trước, Giáo
hội bắt Galilei phải sửa lại kết quả nghiên cứu khoa học của ông ta (rằng
trái đất quay xung quanh mặt trời) cho đúng với những lời “mạc khải không
thể sai lầm trong Thánh Kinh” (nghĩa là trái đất đứng yên và mặt trời quay
xung quanh trái đất), rồi giam ông ta tại gia cho đến khi chết. Sự nhìn
nhận sai lầm của Tòa Thánh trong vụ Galilei cho thấy thánh kinh sai và kéo
theo vấn đề: nếu thánh kinh đã sai về vũ trụ thì rất có thể cũng sai về
nhiều điều khác nữa. Ngày nay, các chuyên gia nghiên cứu thánh kinh đều
đồng thuận ở điểm là thánh kinh có rất nhiều sai lầm cả về thần học lẫn
khoa học. Do đó, thánh kinh không phải là những lời “mạc khải” không
thể sai lầm của một vị thần toàn năng toàn trí, như lời giáo hội vẫn thường
dạy cho những tín đồ bảo sao nghe vậy. Thực tế cũng cho thấy rằng, trí tuệ
của con người ngày nay đã vượt xa trí tuệ của bậc “toàn năng, toàn trí”
trong Thánh Kinh Ca-Tô rất nhiều. Ây thế mà người ta vẫn đi thờ phụng một
“đấng” mà trí tuệ kém cỏi hơn người đời rất nhiều. Thật là kỳ lạ.
Năm 1996, giáo hoàng đã đặt chắc thẩm
quyền giáo lý của Ca-Tô giáo sau quan điểm là “thân xác con người có thể
không phải là một sự sáng tạo tức thời của Thiên Chúa, mà là kết quả của một
quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn
đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết”. (Pope
John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church
firmly behind the view that “the human body may not have been the immediate
creation of God, but is the product of a gradual process of evolution.. The
pope said that “fresh knowledge leads to recognition of the theory of
evolution as more than just a hypothesis”). Chấp nhận thuyết tiến hóa,
giáo hoàng đã phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do
Thiên Chúa tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và
Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông, do đó vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của
Giê-su chỉ là một hoang tưởng, được đưa ra không ngoài mục đích khai
thác lòng mê tín của một số người, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những
điều không thực.
Tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác
tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày
nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố:
"thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi
cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a
physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt
áp đặt từ bên ngoài bởi Thần Ki-Tô, mà là trạng thái hậu quả của những thái
độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a
punishment imposed externally by God, but the condition resulting from
attitudes and actions which people adopt in this life). Như vậy là Giáo
Hoàng đã bác bỏ phần giáo lý quan trọng nhất của giáo hội Ca-Tô: “người
nào tin Chúa thì sẽ được Chúa cho lên thiên đường sống cuộc sống đời đời bên
ngài, kẻ nào không tin sẽ bị Chúa phán xét đày vĩnh viễn xuống hỏa ngục ở
trong lòng đất”. Củ cà-rốt thiên đường thường dùng để khuyến dụ những
người nhẹ dạ cả tin, và cây gậy hỏa ngục để hù dọa những người yếu bóng vía,
sau cùng đã không còn tác dụng gì đối với nhân loại trong thời đại văn minh
tiến bộ ngày nay.
Tháng 3 năm 2000, trong một cuộc “thánh lễ”
công cộng tại “thánh đường” Phê-rô, Giáo hoàng cùng một số hồng y, tổng giám
mục, trong đó có tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận, đại diện cho “hội thánh”
Ca-Tô, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội lỗi” đối với nhân loại của Ca-Tô
giáo Rô-ma. 7 núi tội lỗi này, qua gần 20 thế kỷ, đã đưa đến những thảm họa
to lớn cho nhân loại như “thập tự chiến” (thường được gọi một cách sai lầm
là “thánh chiến” vì bản chất những cuộc chiến này rất man rợ, bạo tàn chứ
chẳng có gì là “thánh” cả), tòa hình án xử dị giáo, bách hại dân Do Thái, kỳ
thị phái nữ, liên kết với thực dân để truyền đạo với sách lược xâm lăng văn
hóa, mưu toan thống trị và có thái độ thù nghịch với các tôn giáo khác
v..v.. (Xin đọc chi tiết những tội ác của Ca-Tô giáo đối với nhân loại
trong cuốn VATICAN: Thú Tội Và Xin Lỗi? của 6 tác giả, Giao Điểm xuất
bản năm 2000). Hành động “xưng thú 7 núi tội lỗi” này đã làm cho những
lời tự nhận của giáo hội mà giáo hội thường nhồi nhét vào đầu óc tín đồ từ
khi còn nhỏ, rằng Ca-Tô giáo là tôn giáo “thiên khải duy nhất”, “thánh
thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “hôn thê của Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng
của nhân loại”, bác ái”, “dân chủ” v..v.., trở thành những lời nói láo vĩ
đại nhất trong lịch sử các tôn giáo của loài người.
Tôi tự hỏi, có bao nhiều phần trăm trong số
gần một tỷ tín đồ của Ca-Tô Giáo Rô-Ma biết đến những điều thú nhận công
khai trên của giáo hoàng và “tòa thánh” Vatican? Tôi nghĩ con số này phải
là rất nhỏ, vì sách lược của giáo hội, qua vai trò của những người gọi là
lãnh đạo tôn giáo như linh mục, giám mục v..v.., là duy trì sự “càng biết ít
bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu” trong quần chúng tín đồ. Mà dù tín đồ có biết
đến những sự thực này thì cũng biết một cách sai lạc, vì như Học Hội Đức
KiTô Phục Sinh ở Houston đã đưa ra nhận định:
Hàng ngàn năm, để bưng bít và che dấu 7
chương tội lỗi đối ngoại - và một chương đối nội là 8 - nghệ thuật tuyên
truyền của giáo hội Rô-Ma phải đạt đến chỗ cực kỳ ảo diệu, thiên biến vạn
hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ thuật tuyên truyền
nhồi sọ tuyệt vời..
Ngoài nghệ thuật tuyên truyền, giáo hội
vẫn phải xây “vạn lý trường thành đức tin” và buông bức “màn sắt thần học”
lên đầu đoàn chiên. Mỗi tòa giảng là một cái loa tuyên truyền, dựa vào khoa
thần học phù phép, ảo thuật “núi tội thành con chuột”, “kẻ cướp mặc áo thầy
tu”, và “quỷ Sa-Tăng đóng vai ông thánh.”
Do đó, chúng ta không thể hi vọng là mọi
tín đồ Ca-Tô đều biết đến một sự thực không thể chối cãi, đó là, toàn bộ nền
thần học Ca-Tô với những quan niệm về Thần KiTô, thuyết Sáng Tạo, huyền
thoại Adam và Eve, thiên đường và hỏa ngục, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi”
của Giê-su v..v.., cũng như những thuộc tính cao cả mà giáo hội tự nhận cho
giáo hội, giáo hoàng v..v.. nay đã không còn chỗ đứng trước sự tiến bộ trí
thức của nhân loại.
Giáo hội biết rõ trình độ hiểu biết của
giáo dân cho nên vẫn có thể giữ chặt giáo dân trong đức tin mà thực chất chỉ
là tin bướng tin càn, vì đức tin này hoàn toàn mâu thuẫn với những điều mà
giáo hội đã công khai thừa nhận về nguồn gốc vũ trụ, thuyết tiến hóa, thiên
đường, hỏa ngục, và lịch sử chứa đầy tội ác của giáo hội. Do đó, giáo hội
vẫn còn đủ khả năng theo đuổi chính sách “lá mặt, lá trái” trên chính trường
quốc tế.
Dựa vào sức mạnh của đám đông tín đồ, đúng
như định nghĩa của Thống Đốc Jesse Ventura của Bang Minnesota: “KiTô giáo
là một sự giả dối trống rỗng và là một cặp nạng cho những người có đầu óc
yếu kém cần đến sức mạnh trong số đông” (Christianity is a sham and a
crutch for weak-minded people who need strength in numbers), giáo hội Ca-Tô
vẫn giữ thái độ tự tôn trịch thượng vô lối đối với mọi hệ phái KiTô khác.
Mới vừa đây, tháng 9 năm 2000, “hồng y
thiết giáp” Joseph Ratzinger đã phổ biến một bản văn dài 36 trang, với sự
chấp thuận của giáo hoàng, khẳng định mọi hệ phái KiTô khác đều là các tôn
giáo hạng hai, không bằng được Ca-Tô Giáo, vì chỉ có những người ở trong
giáo hội Ca-Tô mới có được sự cứu rỗi đầy đủ nhất (those who, in the
church, have the fulness of the means of salvation), và ý tưởng là “mọi tôn
giáo đều tốt như nhau” làm nguy hiểm đến thông điệp truyền giáo của Ca-Tô
giáo (The idea that “one religion is as good as another” endangers the
Catholic church’s missionary message), hàm ý Ca-Tô giáo vẫn là tôn giáo tốt
nhất. Nhiều tôn giáo khác đã lên tiếng phản đối, và nhiều nhà bình luận đã
cho rằng, hành động này chẳng qua chỉ để trấn an đám tín đồ thấp kép, vớt
vát được chừng nào hay chừng đó trước đà suy sụp của Ca-Tô giáo Rô-ma.
Thái độ tự tôn, trịch thượng trên của giáo hội Ca-Tô không ảnh hưởng gì đến
Phật giáo vì những tín đồ Phật giáo không hề quan tâm đến một sự “cứu rỗi”
hoang đường của một nhân vật hoang đường gọi là “Chúa cứu thế” trong một nền
thần học hoang đường của Ca-Tô giáo. Vả chăng, phân tích kỹ ra thì thái
độ tự tôn của Ca-Tô giáo phản ánh một sự thiếu tự tin trầm trọng của giáo
hội và đó chẳng qua chỉ là một đòn phép trong thuật sử dụng sách lược lá mặt
lá trái của tòa thánh Vatican, vì, như trên đã dẫn chứng, giáo hội đã chính
thức công nhận thuyết Big Bang, thuyết tiến hóa, phá bỏ thuyết truyền thống
về thiên đường và hỏa ngục v..v.. , vậy còn đâu là Chúa Cha, Chúa Con, Tội
Tổ Tông v..v.. mà cứu rỗi với chẳng cứu rỗi. Mặt khác, việc “xưng thú 7 núi
tội lỗi” của giáo hội Ca-Tô gần đây có cho phép giáo hội tiếp tục tự xưng là
một tôn giáo “thánh thiện”, “thiên khải” v..v.. được nữa hay không? Cho
nên, giáo hội muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, thực chất
của giáo hội ra sao, cả thế giới đã đều biết. Giáo hội không thể lừa dối
được ai trong thời buổi này, trừ đám tín đồ nô lệ của giáo hội. Lẽ dĩ
nhiên, trong giáo hội cũng có không thiếu gì người đầu óc đã mở mang và giữ
thái độ “đừng tin những gì giáo hội nói, mà hãy nhìn kỹ vào những gì mà giáo
hội làm”.
Vấn đề của chúng ta ngày nay là phải xét
xem giáo hội có thể làm được những gì trong tương lai, và những việc này có
ảnh hưởng gì đến đất nước Việt Nam. Sách lược của giáo hội Ca-Tô cũng như
Tin Lành, chúng ta đã rõ. Sau đây, tôi sẽ đi vào phần phân tích sách lược
này để ít ra chúng ta cũng có thể đưa ra vài biện pháp đối phó. Tại sao lại
phải đối phó? Bởi vì KiTô giáo chưa hề thay đổi trong sách lược truyền đạo,
và sách lược này luôn luôn xúc phạm đến các tôn giáo và các nền văn hóa
truyền thống địa phương. Ki Tô giáo không thể chấp nhận ý tưởng hòa hợp tôn
giáo theo quan niệm đa tôn giáo bình đẳng trên thế giới. Đây là một thái độ
nguy hiểm, phương hại đến nền hòa bình thế giới. Sau đây chúng ta hãy đi
thẳng vào vấn đề.
Trong những năm gần đây, trong khi Giáo
Hoàng Ca-Tô Gion Pôn Hai đi tới các nước trong thế giới thứ ba để xin lỗi
các quốc gia này vì những bất hạnh mà Ca-Tô Giáo đã gây nên trong quá khứ,
cùng răn dạy các tín đồ Ca-Tô phải ăn năn thống hối về những thảm họa, đau
khổ mà Ca-Tô Giáo đã mang tới nhiều quốc gia trên thế giới, thì một số chức
sắc trong hàng Giáo Phẩm Tin Lành cũng lên tiếng xin lỗi dân da đỏ ở Tân Thế
Giới (nước Mỹ bây giờ) về những hành động diệt chủng và xóa bỏ nền văn hóa
của dân bản xứ (dân da đỏ) của các nhà truyền giáo Tin Lành vào khoảng hai
thế kỷ trước đây.
Tuy nhiên, ngoài mặt thì xin lỗi để xoa
dịu dư luận quần chúng và để mị dân, thực chất của Ca-Tô và Tin Lành vẫn
không thay đổi. Không còn dựa vào bạo lực quân sự của đế quốc và thực
dân để truyền bá đạo như xưa nữa, những nhà truyền giáo Ca-Tô và Tin Lành đã
thay đổi phương thức truyền đạo, song hành với sách lược xâm lược kinh tế
và văn hóa của các cường quốc Âu Mỹ. Những hoạt động phá hoại nền văn
hóa bản xứ vẫn được các nhà truyền giáo Ca-Tô và Tin Lành tiếp tục thi hành
trong các nước kém mở mang ở Á Châu và Phi Châu, nhắm vào các dân tộc thiểu
số để gây xáo trộn xã hội, điển hình là ở Thái Lan, một xứ Phật Giáo, ở Ấn
Độ, một xứ Ấn Độ Giáo, và ở Nam Dương, một xứ Hồi Giáo. Dựa vào ưu thế
kinh tế, quân sự và kỹ thuật của thế giới Âu Mỹ, những nhà truyền giáo Ca-Tô
và Tin Lành, núp sau những chiêu bài hữu danh vô thực, chỉ có trên mặt văn
tự, như tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do tín ngưỡng v..v.. để xâm nhập
những quốc gia kém mở mang. Qua bản chất kiêu căng truyền thống
thường có tính cách xúc phạm nặng nề đến các tôn giáo và các nền văn hóa địa
phương, họ tiếp tục xuyên tạc, mạ lỵ, phá ngầm các tôn giáo và truyền thống
văn hóa địa phương bằng những bản văn truyền đạo đầy tính cách trịch thượng,
xúc phạm, thuộc thế kỷ 18, 19, với mưu đồ thay thế các tôn giáo, văn hóa địa
phương này bằng một tôn giáo mà những đặc tính của nó như hoang đường, tàn
bạo, bất khoan nhượng, độc tôn, kiêu căng, hẹp hòi, vô luân v..v.. đã biểu
lộ trong suốt 2000 năm lịch sử của nhân loại. Ngoài ra, sách lược của
Vatican phong Thánh bừa bãi cho các tội đồ của các nước mà khi xưa Ca-Tô
Giáo đã liên kết với thực dân để xâm chiếm cũng chỉ nhằm mục đích mị dân,
khuyến khích các tín đồ bản địa cuồng tín hơn, sẵn sàng phản bội quốc gia để
đặt hi vọng vào một hứa hẹn hoang đường, vô trách nhiệm, vô giá trị, về một
cái bánh vẽ ở trên trời.
Điều 18 trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền
Quốc Tế của Liên Hiệp Quốc năm 1948 quy định quyền tự do tôn giáo là
quyền tin vào giáo lý, sự thực hành, thờ phụng và lễ tiết (belief in
teaching, practice, worship and observance) của con người. Quyền tự do tôn
giáo, quy định như trên, và quyền tự do truyền giáo là hai quyền khác nhau.
Nhưng thế giới Âu Mỹ đã lạm dụng quyền tự do tôn giáo, đồng nhất hóa tự do
tôn giáo với tự do truyền đạo. Tự do tôn giáo đang được các cường quốc
Âu Mỹ dùng như một chiêu bài và bình phong để ép những quốc gia nào mà họ
có thể ép được, để cho các thừa sai Ki Tô của họ được tự do truyền đạo.
Thái độ trịch thượng này đã bị thế giới lên án, và những quốc gia lớn nhất
trên thế giới như Trung Hoa, Ấn Độ đều tích cực chống đối, hoặc hạn chế,
hoặc ngăn cấm các công vụ truyền giáo của Ki Tô Giáo.
Chúng ta biết rằng, tháng 10, 1998, quốc
hội Hoa Kỳ đã thông qua một đạo luật về tự do tôn giáo thế giới (The
International Religious Freedom Act). Đạo luật này đã phơi bày cái bộ mặt
đế quốc, đạo đức giả của Ki Tô Giáo tại Hoa Kỳ về sách lược của Hoa Kỳ đối
với vấn đề "vi phạm tự do tôn giáo" trên thế giới, bao gồm những biện pháp
chính trị, kinh tế, văn hóa mà Hoa Kỳ có thể dùng để trừng phạt những nước
mà Hoa Kỳ cho là vi phạm. Mục đích chính của đạo luật này là mở đường
cho các nhà truyền giáo Ki Tô đi truyền đạo ở những nơi nào mà Hoa Kỳ có thể
ép được bằng áp lực kinh tế và chính trị. Đạo luật này qui định bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ phải đưa ra trước ngày 1 tháng 9, 1999, danh sách những
nước vi phạm trầm trọng tự do tôn giáo, và sau đó 90 ngày, Tổng Thống Hoa Kỳ
phải phúc trình cùng quốc hội biện pháp đối phó với quốc gia vi phạm. Quy
định này đã không được bộ Ngoại Giao thi hành. (The State Department has not
complied with the act's requirement to name by September, 1999, those
countries deemed responsible for "particularly severe violations of
religious freedom". When a country is so designated, the president has 90
days to report to Congress on action to be taken). Tại sao? Vì tự do tôn
giáo chỉ là một chiêu bài, và cách sử dụng chiêu bài này còn tùy thuộc quyền
lợi chính trị và kinh tế của Hoa Kỳ. Sudan, Do Thái và Saudi Arabia là
những nước vi phạm tự do tôn giáo nhất trên thế giới. Nhưng điều chắc là
Hoa Kỳ chỉ kể đến Sudan và bỏ qua Do Thái và Saudi Arabia vì Do Thái và
Saudi Arabia đều là đồng minh của Hoa Kỳ trên chính trường quốc tế.
Saudi Arabia còn là nước xuất cảng dầu nhiều nhất trên thế giới, và không có
một chính trị gia Hoa Kỳ nào khuyên chính phủ ngưng mua dầu của Saudi Arabia
như là một hành động phản đối sự vi phạm tự do tín ngưỡng của quốc gia này.
Stephen Chapman viết trên tờ Chicago Tribune ngày 2 tháng 11, 1997 như sau:
"Những người Mỹ đề nghị ngưng giao
thương với những quốc gia vi phạm tự do tín ngưỡng hãy bắt đầu từ nơi khác.
Thí dụ như ở Saudi Arabia, nơi đây mọi tôn giáo ngoại trừ Hồi Giáo đều bị
cấm ngặt và một tín đồ Hồi Giáo cải đạo theo đạo khác có thể bị tử hình.
Nhưng chính sách độc tài tôn giáo của Saudi Arabia không gây phản đối tại
Washington khi Hoa Kỳ đem nửa triệu quân vào để bảo vệ Saudi Arabia chống
Saddam Hussein. Không có ai ở ngoài một bệnh viện tâm thần lại đề nghị Hoa
Kỳ ngưng mua dầu của Saudi Arabia, xứ cung cấp nhiều dầu nhất."
1
Phê bình đạo luật về tự do tôn giáo của Hoa
Kỳ, Giáo sư luật tại đại học Emory, Abdullahi Ahmed An-Na'im nói: "Nhiều
người nhớ lại những lời hoa mỹ thiên Ki Tô trước đây và tin rằng Hoa Kỳ chỉ
quan tâm đến sự hỗ trợ các thừa sai Mỹ ở ngoại quốc." (Emory University
law professor Abdullahi Ahmed An-Na'im says many remember the early
pro-Christian rhetoric and believe the United States is only interested in
aiding American missionaries abroad.) J. Paul Martin, Giám đốc trung tâm
nghiên cứu nhân quyền tại đại học Columbia còn đi xa hơn nữa. Ông nói:
"Ở các nước như Nga sô, Pháp, Bỉ, và Đức, nhiều người coi đạo luật về tự
do tôn giáo của quốc hội Hoa Kỳ là một phần của chủ nghĩa đế quốc rộng lớn
hơn của Mỹ" (J. Paul Martin, executive director of Columbia
University's Center for the study of Human Rights, goes further. In such
countries as Russia, France, Belgium, and Germany, he says, many see
Congress' action as "part of a larger American imperialism".)
Để độc giả có một ý niệm về bản chất
cuồng tín của các nhà truyền giáo Ca-Tô và Tin Lành, ngay trong thời đại
này, tôi xin trích dẫn sau đây một đoạn trong cuốn Missionaries của
Julian Pettifer và Richard Bradley, nói về phương cách truyền giáo của Gia
Tô Giáo ở Thái Lan:
Ở Á Châu, không có mấy nước mà các
thừa sai cảm thấy hoàn toàn tin tưởng là công vụ truyền giáo của họ sẽ không
bị gián đoạn trong tương lai. Ngay cả dân Thái cũng nhạy cảm đối với
vấn đề thừa sai nếu sự truyền giáo không khéo xử, thái độ khoan dung của
dân Thái có thể thay đổi. Hiện nay, trong một nước mà 97 phần trăm theo
Phật Giáo, 2 phần trăm theo Hồi Giáo, số người theo Ki Tô Giáo hiển nhiên
rất ít. Sulak Siravaksa là một trí thức Phật Giáo theo học các trường Ki
Tô. Tuy nhiên, ông ta rất lấy làm khó chịu trước những tài liệu truyền giáo
mô tả Thái Lan là "địa hạt của Satan"; rằng "99% dân Thái bị câu thúc bởi ma
quỉ"; lên án Phật Giáo là "thờ hình tượng" và là "một tôn giáo yếm thế một
cách vô vọng."; và chấp chặt là "không có sự mặc khải của Ki Tô thì không
hiệp thông được với Thượng đế." Như Sulak đã vạch rõ, đó là ngôn ngữ hàng
ngày của một số tài liệu truyền giáo, những tài liệu này đã xúc phạm nặng nề
đến những Phật tử Thái Lan. 2
Những hành động phá Phật Giáo ở Thái Lan đã
lộ liễu đến mức Phật Giáo Thái đã phải chính thức gửi kháng thư cho Gion
Pôn Hai (John Paul II), phàn nàn về những việc làm sai trái của Ca-Tô
Giáo ở Thái Lan. Nhưng theo truyền thống "cường quyền thắng công lý" và bất
kể đến liêm sỉ của Giáo hội Ca-Tô, Giáo Hoàng đã không có một hành động sửa
sai nào, chứng tỏ chấp nhận đó là sách lược hữu hiệu của Giáo hội để truyền
giáo, và gần đây, ông còn kêu gọi tín đồ phải mở mang Ca-Tô Giáo sang Á
Châu.
Ở Ấn Độ, hơn 400 năm nay Ki Tô Giáo đã
vô cùng tích cực trong vấn đề truyền đạo với hi vọng Ki Tô hóa Ấn Độ nhưng
dân chúng Ấn, tuy nghèo khó và trước những hứa hẹn về vật chất của Ki Tô
Giáo, vẫn từ chối tôn giáo này. Số người theo Ki Tô Giáo nói chung chỉ vào
khoảng 1% tuy chính quyền Ấn đã rất dễ dãi để cho những nhà truyền giáo tự
do truyền đạo. Chủ đích đi kiếm thêm linh hồn cho Chúa của bà Teresa ở
Ấn Độ cũng thất bại, vì người ta đã vạch trần bộ mặt đạo đức giả của bà qua
chiêu bài "từ thiện". (Xin đọc Mother Teresa: Beyond the Image của Anne
Sebba, 1997).
Chúng ta cũng nên để ý rằng, hiện nay, ở
Ấn Độ đang có phong trào bài Ki Tô Giáo rất mạnh. Báo Los Angeles Times
ngày 12 tháng 11, 1998, đăng một bài tường thuật dài của ký giả Dexter
Filkins về những hành động bài Ki Tô Giáo, nhiều khi dùng đến bạo lực, ở Ấn
Độ. Một lãnh tụ của phong trào bài Ki Tô Giáo, ông B. L. Sharma, tuyên bố:
"Chúng tôi đã phải làm nô lệ cả ngàn
năm, và nay chúng tôi đã sáng mắt rồi. Tôi đòi hỏi chính phủ Ấn Độ phải
đuổi cổ những kẻ đang dụ dân Ấn cải đạo, và phá hại văn hóa, ngôn ngữ
và y phục của chúng tôi."
(We were slaves for 1000 years and now
we have opened our eyes. I demand that the government of India throw out
these people who are out to convert Hindus and ruin our culture, language
and attire.)
Cũng như ở Thái Lan, nguyên nhân sự chống
đối Ki Tô Giáo ở Ấn Độ không phải là vấn đề vi phạm tự do tôn giáo mà vì
sách lược truyền đạo có tính cách hiếu chiến và xúc phạm đến các tôn
giáo khác cũng như nền văn hóa Ấn Độ. Ký giả Uli Smettzer viết trong tờ
Chicago Tribune ngày 29 tháng 10, 1999 như sau:
"Những hoạt động viên Ấn Độ đặc biệt
giận dữ vì những thừa sai của một vài tông phái Ki Tô rao truyền là những
Thần mà người Ấn Độ kính ngưỡng là những hình tượng ngụy. Một vài tên thừa
sai còn rao giảng rằng "Ấn Độ Giáo là sản phẩm của quỷ."
Nhiều người Ấn Độ vô cùng giận dữ
khi Giáo Hội Báp-Tít (một tông phái Tin Lành) miền Nam Hoa Kỳ phát hành
40000 cuốn kinh cầu nguyện để gây quỹ dùng trong công cuộc cải đạo dân Ấn
"khỏi bị lạc trong sự tăm tối vô vọng của Ấn Giáo"
(Hindu activists are particularly angered
by missionaries from some Christian sects who mportray revered Hindu gods as
false idols. Some even preach that the Hindu religion is the work of the
devil.
Many Hindus were outraged by the Southern
Baptist Church in the US, which recently published 40000 prayer books that
lobby for funds to convert Indians "lost in the hopeless darkness of
Hinduism.")
Xuyên qua phương cách truyền đạo mang đặc
tính cuồng tín và xúc phạm đến các nền văn hóa địa phương như trên, chúng ta
đã nhìn thấy thực chất sản phẩm tinh thần của Ki Tô Giáo là như thế nào. Có
điểm nào có thể gọi là đạo đức tôn giáo trong những mẫu người mà Ki Tô Giáo
đã đào tạo ra như trên không? Giáo lý đưa đến thực hành. Qua những chính
sách thực hành truyền đạo như trên, chúng ta có thể biết được bản chất giáo
lý của Ki Tô Giáo ra sao. Mà thực ra, nghiên cứu về các tôn giáo trên thế
giới thì Ki Tô Giáo là tôn giáo mê tín lạc hậu nhất, và đa số tín đồ là
những người ngu nhất thế giới, nhưng vẫn huênh hoang tự cho là tôn giáo tiến
bộ nhất. Cái tâm cảnh tự tôn như vậy bắt nguồn từ sự phát triển kỹ thuật vũ
khí để chiến thắng quân sự cùng kỹ thuật hàng hải để đi xâm chiếm các nơi xa
xôi, chứ không phải là vì giá trị tâm linh của tôn giáo Tây phương. Thật
vậy, không có cách nào mà giá trị tâm linh của Ki Tô Giáo có thể sánh với
giá trị tâm linh của các tôn giáo Đông phương như giáo sự Samuel P.
Huntington đã nhận định trong cuốn “The Clash of Civilizations…”: “Tây
phương thắng trên thế giới không phải là vì sự ưu việt của những ý tưởng,
hoặc giá trị, hoặc tôn giáo Tây phương mà là ưu thế trong sự áp dụng bạo
lực một cách có tổ chức.” (Huntington, p. 51: The West won the world not
by the superiority of its ideas or values or religion but rather by its
superiority in applying organized violence). Người Tây phương thường không
thấy được sự kiện này, nhưng người các nước khác, nhất là các nước đã một
thời bị Tây phương đô hộ, thì đã thấy rõ như vậy. Giáo sư Huntington
viết: “Tây phương chưa bao giờ có được một tôn giáo lớn (theo nghĩa
là chủ lực tinh thần hướng dẫn đạo đức và tính thiện của con người. TCN).
Những tôn giáo lớn trên hoàn cầu không phải là sản phẩm của Tây phương mà
là của những nền văn minh ngoài Tây phương, và trong hầu hết các trường hợp,
đã có trước nền văn minh Tây phương. (Huntington, p. 54: The West,
however, has never generated a major religion. The great religions of the
world are all products of non-Western civilizations and, in most cases,
antedate Western civilization). So sánh giáo lý, lịch sử Ki Tô Giáo (Chính
Thống, Gia Tô, Tin Lành) với giáo lý, lịch sử của các tôn giáo Á Đông như
Thích, Nho, Lão và Ấn Giáo, chúng ta thấy rõ ngay điều này.
Vì số tín đồ đông đảo, vì là tôn giáo của
Tây phương có ưu thế về quân sự và kinh tế, nên thế lực chính trị và kinh tế
của Ca-Tô và Tin Lành còn rất mạnh trong phương trời Âu Mỹ. Tuy nhiên, vì
trình độ người dân nơi đây đã cao, vì những khám phá của khoa học đã bác bỏ
toàn diện những điều hoang đường trong Ki Tô Giáo, vì càng ngày càng có
nhiều tín đồ, mục sư, linh mục bỏ đạo, cũng như có nhiều học giả vạch ra
những sai lầm của Thánh Kinh Ki Tô cùng những hành động vô đạo đức của các
giáo hội Ki Tô v...v..., ngày nay, Ca-Tô Giáo Rô-ma và Tin Lành không còn
rao bán được cái gọi là Phúc Âm trong những nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ,
cho nên hai tôn giáo này đều đang tập trung nỗ lực truyền đạo sang những
nước kém mở mang mà dân trí thấp kém và sự nghèo khổ là những yếu tố dễ khai
thác để cho đám dân ít học dễ dàng theo đạo. Sách lược dùng tiền của, vật
chất để truyền bá "Phúc Âm", kiếm thêm linh hồn cho Chúa đang được thi hành
tích cực. Họ hiểu rõ hơn ai hết, Phúc Âm không thể khuyến dụ được ai nếu
không đi kèm với mồi vật chất. Số linh hồn kiếm được càng nhiều thì hậu
thuẫn chính trị của họ càng lớn, hậu thuẫn chính trị càng lớn thì quyền lợi
vật chất càng cao. Đó là mục đích tối hậu của các nhà truyền giáo Ki Tô từ
xưa tới nay chứ chẳng phải là vấn đề tâm linh đạo đức hay cứu rỗi gì đâu.
Nhưng sự nguy hại thật sự của những nỗ
lực truyền đạo này trong những nước kém mở mang là, do cái căn bản tự cho là
một tôn giáo chân thật duy nhất và chỉ được thờ một Thiên Chúa của Ki Tô
Giáo, và tin vào sự hứa hẹn của các nhà truyền đạo về một sự "cứu rỗi" của
Giê-su, sự truyền đạo có tính cách mê hoặc này cộng với sách lược hạ thấp,
mạ lỵ các tôn giáo và nền văn hóa khác như vừa nêu ở trên, sẽ tạo nên một
lớp người bản xứ cuồng tín, nô lệ cho ngoại bang, sẵn sàng phản bội quốc
gia, do đó không tránh khỏi đưa đến những cảnh xáo trộn trong xã hội, bất
hòa trong những khối tín ngưỡng khác nhau trong những quốc gia yêu chuộng
hòa bình, đang sống hòa hợp trong tình tương thân tương ái giữa những đồng
bào ruột thịt. Những điều này đang xảy ra ở Ấn Độ, Thái Lan, ở Đông Timor,
Nam Dương, và có thể sẽ xảy ra nơi vài miền dân tộc thiểu số ở Việt Nam nếu
chính quyền không để ý đến cái bình phong tự do tín ngưỡng mà các nhà truyền
đạo dùng để che đậy những âm mưu chính trị nhằm phá hoại cơ cấu quốc gia,
gây chia rẽ, xúi dục tín đồ đòi độc lập, tự trị, với Ki Tô Giáo là quốc giáo
v..v....
Sự suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung trong
phương trời Âu Mỹ là một hiện tượng rõ rệt. Nhưng, đáng lẽ phải tìm cách
đảo ngược trào lưu suy thoái này trong chính những quốc gia của họ, những
nhà truyền giáo Ca-Tô và Tin Lành lại mưu toan bành trướng sự truyền đạo
trong các nước kém mở mang để kiếm thêm tín đồ với hi vọng bù đắp lại sự hao
hụt trong khối tín đồ ngay trong thế giới Âu Mỹ. Trong cuộc viếng thăm Ấn
Độ gần đây, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai đã tuyên bố rằng: “đi cải đạo người
khác là một nhân quyền” và kêu gọi bành trướng truyền đạo sang Á Châu,
tuy sự suy thoái của Ca-Tô Giáo tại Âu Châu, cái nôi của Ca-Tô Giáo trước
đây, là một hiện tượng xã hội mà ông thường than phiền. (Chicago Tribune
ngày 8 tháng 11, 1999: Pope concludes visit to India with call for crusade
in Asia).
Nhận định về lời tuyên bố đầy tính cách
hung hăng và trịch thượng trên, Mac Kher đã viết một bài bình luận ngắn trên
Internet (www.nycny.com) nhan đề Tòa Hình Án Á Châu - Tây Ban Nha Của
Giáo Hoàng (The Pope’s Asian - Spanish Inquisition) nội dung như sau:
Gần đây, giáo hoàng kêu gọi tăng gia nỗ
lực cải đạo những người phi-Ca-Tô ở Á Châu. Giáo hoàng nói cải đạo là một
nhân quyền. Giáo hoàng nói: “Cũng như trong thiên niên kỷ thứ nhất cây thập
giá đã cắm chắc vào đất Âu Châu, và, trong thiên niên kỷ thứ nhì, vào Mỹ
Châu và Phi Châu, có thể thiên niên kỷ Ki Tô thứ ba sẽ chứng kiến một sự
được mùa lớn về đức tin trên lục địa rộng lớn và quan trọng này (Nghĩa
là Á Châu)”. Giáo hoàng nói giáo hội công nhận những gì chân thật và
thánh thiện trong những tôn giáo như Phật Giáo, Ấn Độ Giáo và Hồi Giáo,
nhưng chỉ có Chúa Ki Tô là có thể mang đến cho chúng ta sự cứu rỗi chung
cùng. (Giáo hoàng ngủ mơ, hoang tưởng rằng những tín đồ Phật Giáo cần
đến một sự “cứu rỗi” của Giê-su khi mà họ đã theo con đường tự tu tự chứng
và thấy rõ rằng Đức Phật của họ về mọi phương diện đều vượt xa Thiên Chúa
và Giê-su của KiTô giáo. Mặt khác, tại sao cây thập giá không còn cắm chắc ở
Âu Châu nữa? TCN)
Sự du nhập của Ki Tô Giáo vào Âu Châu,
Mỹ Châu, Úc Châu, và phần lớn Phi Châu và vùng Thái Bình Dương đã đưa tới sự
hủy diệt một cách có hệ thống, toàn bộ những tôn giáo và nền văn hóa đa thần
tiền-KiTô. Thật vậy, cuốn thánh kinh, với sự hỗ trợ của súng ống, đã
dùng để trao đổi lấy đất đai của các thổ dân địa phương.
Tuyên bố bởi giáo hoàng, chức sắc cao
nhất của Ca-Tô Giáo, lời kêu gọi cải đạo là một lời Tuyên Chiến chống nền
văn hóa Á Đông, các tôn giáo Á Đông, và xã hội Á Đông nói chung, Ấn Độ Giáo
nói riêng. Sách lược cải đạo quần chúng vào Ki Tô Giáo mưu toan phá hủy
linh hồn của Á Châu, cấy ghép vào đó một triết lý mà Á Châu không cần đến.
Á Châu không cần đến bất cứ một bài học nào về tôn giáo và lòng mộ đạo từ
bất cứ ai.
Tại sao mà một tôn giáo lại có thể toan
tính loại trừ một tôn giáo khác qua sách lược cải đạo quần chúng? Thật là
rõ ràng, Giáo hoàng đang theo đuổi chính sách diệt tôn giáo
(religious cleansing) Á Đông. Phương cách hiểm độc và dã tâm
(malicious and predatory) này thật là quá sức phi luân (immoral) và vô đạo
đức (unethical). Cái gì làm cho Giáo hoàng nghĩ rằng tôn giáo của ông là
tôn giáo chân thật duy nhất? Đó là sự tự phong và sự bất khoan
nhượng đi đến cực đoan. Ông ta có thể có quyền tin như vậy, nhưng ông
ta không có quyền tổ chức một sự tấn công có phối hợp (concerted attack) vào
các xã hội khác để hủy diệt bản chất của những xã hội này.
Sự cải đạo quần chúng đã gây nên sự chia
rẽ chính trị trong nhiều quốc gia. Giáo hoàng sẽ gây nên sự bất ổn định
chính trị ở Á Châu với sách lược cải đạo này. Điều tệ hại nhất về hầu hết
những hoạt động cải đạo của Ki Tô Giáo ở Ấn Độ là những hoạt động này đặt
nặng vào bả vật chất. Ngụy trang sau bộ áo dịch vụ y tế và xã hội,
nhiều nhà truyền giáo Ki Tô đã ép buộc hữu hiệu đám dân nghèo phải theo Ki
Tô Giáo. Thượng đế của ai có thể hoan hỉ với sự gian dối như vậy?
Sự đạo đức giả của giáo hoàng thật sự
làm cho người ta sửng sốt. Năm ngoái, trong một cuộc công du Châu Mỹ La
Tinh, ông ta đã buộc tội những nhà truyền giáo Tin Lành là giẫm chân lên đàn
con chiên của ông ta! Ngày nay, cũng ông giáo hoàng đó lại tuyên bố rằng
cải đạo là một nhân quyền. Vậy thì, Vatican có công nhận tôn giáo nào khác
ngoài Ca-Tô Giáo? Hiển nhiên là Giáo hoàng muốn sự cải đạo chỉ có một
chiều vào Ki Tô Giáo. Trong khi đánh bóng dịch vụ và tình thương của Ca Tô,
qua niềm tin vô lý hung hăng của ông và thuyết không khoan nhượng về “một
tôn giáo chân thật duy nhất”, Giáo hoàng đã chứng tỏ rằng sự khoan
nhượng và tốt đẹp của Ấn Độ Giáo chẳng có gì đáng kể.
Ấn độ giáo không phán xét các tôn giáo
khác, và các tín đồ Ấn Giáo đã lịch sự chấp nhận các tín đồ Ki Tô trong
những cộng đồng của họ. Họ chỉ đơn giản yêu cầu Giáo hội Ca-Tô hãy miễn
cho họ cái số phận của Âu Châu và Mỹ Châu. Thỏa mãn với tôn giáo của
họ, những tín đồ Ấn Giáo không thích người ngoài mưu toan thay đổi tôn giáo
và chính trị dân tộc họ qua sự cải đạo quần chúng với sự sắp đặt cẩn thận.
Nhưng Giáo hoàng đòi hỏi phải cải đạo quần chúng. Ông ta không có một
khuyến khích nào để đối xử với nhau tử tế và hòa hợp. Tín đồ Ấn Giáo sẵn
sàng sống cùng với các tín đồ Ki Tô. Họ chỉ yêu cầu có một điều: Giáo hội
Ca- Tô đừng có tìm cách loại bỏ Ấn Giáo bằng cách cải đạo dân Ấn, nghĩa là
thay đổi Ấn Độ vĩnh viễn. Những tín đồ Ki Tô hiện đang sống ở Ấn Độ có thể
sống tự do nhưng đừng có toan tính cải đạo người khác. Bảo vệ lãnh thổ, sự
tự do và văn hóa có phải là một nhân quyền căn bản nhất hay không?
Giáo hoàng nói về “gặt mùa đức tin ở Á
Châu” làm như những tín đồ Ấn Giáo và các tôn giáo khác chỉ là những ngũ
cốc, chờ đợi để bị gặt hái và tích trữ vào trong vựa chứa. Có thể có một
số người thích được gọi như một đàn trâu bò (flock of cattle) [có lẽ
flock of sheep (đàn chiên) đúng hơn. TCN], nhưng những tín đồ Ấn Giáo
không thích bị coi như là mùa màng bất động, không có sự sống, không thể bảo
vệ chính mình. Trong khi tham gia một cuộc họp đa tôn giáo, Giáo hoàng nói
đến đối thoại, sự hiểu biết, và sự đoàn kết giữa các tôn giáo. Ngày hôm
sau, ông ta nói ngược trở lại, nhấn mạnh Ki Tô Giáo là tôn giáo chân thật
duy nhất, và kêu gọi tín đồ đi cải đạo Á Châu. Đây là sự đạo đức giả và
lừa dối cố ý tệ mạt nhất.
Giáo hoàng cương quyết loại trừ Ấn Giáo
và nền văn hóa Ấn Độ bằng chủ trương cải đạo quần chúng Ấn vào Ki Tô Giáo
chẳng khác gì chủ thuyết Taliban trong thời Trung Cổ. Những tín đồ Hồi Giáo
tiêu diệt những kẻ ngoại đạo bằng gươm giáo; Giáo hoàng có cùng chủ trương
qua sách lược cải đạo. Kết quả cũng như nhau. Báo chí Tây phương không giữ
một vai trò xác thực trong vấn đề này. Luôn luôn, những bản tường trình từ
những hãng thông tin Associated Press và Reuters mô tả những nhóm người Ấn
Giáo chống lại toan tính của Giáo hoàng xâm chiếm tôn giáo của họ như là
những kẻ “cứng rắn” hoặc “cuồng tín”. Vậy thì, có nên gọi cái nhóm
(Ca-Tô. TCN) cho rằng “chỉ có đạo của ta là đúng”, là “cứng rắn”,
“cuồng tín” và “phát xít” hay không? Trong khi đó, những tín đồ Ấn Giáo
sẵn sàng sống chung với mọi tín đồ tôn giáo khác - chỉ không muốn bị những
người kia nuốt - thì lại bị mạ lỵ. Thật ra, bất cứ nhóm nào tuyên bố là
mình duy nhất và tin rằng mọi người khác sai, và nhất là tích cực tìm cách
loại trừ các nhóm khác thì đã từ bỏ bất cứ quyền đặc biệt, quyền ưu tiên
hoặc sự khoan nhượng nào từ các nhóm khác.
Điều hết sức cần đến hiện nay là sự
khoan nhượng tôn giáo và sống chung hòa bình. Các tôn giáo có thể tiếp tục
tin vào tôn giáo của mình, nhưng không nên tìm cách hủy diệt các tôn giáo
khác. Mọi sự tấn công có tổ chức vào một tôn giáo nào cũng sẽ mang bất hạnh
đến mọi người. 3
Không có gì xác thực hơn những lời phê
bình trên của Mc Kher. Chúng ta đã thấy rõ bộ mặt thực hung hăng hiếu
chiến, giả nhân giả nghĩa, đạo đức giả cũng như sách lược lá mặt lá trái của
giáo hội Ca-Tô Rô-ma.
Sau đây, tôi xin phân tích về vấn đề sách
lược xâm lăng Á Châu của Ca-Tô giáo có thể thành công hay không? Dựa trên
những sự kiện lịch sử trong quá khứ xa và gần, chúng ta có thể phần nào tiên
đoán được sự thành công hay thất bại của sách lược xâm lăng văn hóa và tôn
giáo của Vatican tại Á Đông. Phân tích vấn đề này tôi quan tâm đến nước Việt
Nam của chúng ta nhiều hơn là đến các nước khác, và tôi có thể nắm phần chắc
là sách lược cải đạo của Ca-Tô Giáo tại Việt Nam sẽ thất bại bởi những lý do
sau đây.
Trở lại lịch sử, Ca Tô Giáo xâm nhập vào
Việt Nam từ 1533, và 140 năm sau, tới đầu thập niên 1670, các thừa sai Ca Tô
mới khuyến dụ được khoảng 60000 người theo đạo, tuyệt đại đa số thuộc
thành phần thấp kém nhất trong xã hội Việt Nam (Xin đọc Catholicism et
Sociétés Asiatiques của Yoshiharu Tsuboi). Có thể nói, Ca-Tô Giáo chỉ phát
triển mạnh ở Việt Nam sau khi Giám mục Bá Đa Lộc tuyển mộ và đứng đầu một số
giặc đánh mướn (mercenaries) giúp Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn vào đầu
thế kỷ 19. Sau đó, các thừa sai Pháp thuyết phục thực dân Pháp đánh
chiếm Việt Nam, mở đầu cuộc xâm chiếm bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng năm
1858. Sau khi Việt Nam bị Pháp đô hộ, Ca-Tô Giáo dựa vào thế lực thực dân
để truyền đạo, làm mưa làm gió trên đất nước Việt Nam. Nhưng dù ở thế
thượng phong, dưới cái dù của thực dân trong gần 100 năm, cộng với 9 năm
miền Nam dưới chế độ Ca-Tô độc tôn Ngô Đình Diệm, số tín đồ Ca-Tô trên tỷ lệ
dân số không thể lên quá 7, 8 phần trăm. Điều này chứng tỏ nền văn hóa Việt
Nam không tương hợp với nền văn hóa Ki Tô. Vậy ngày nay, tất cả lợi thế
về quyền lực của Ca-Tô Giáo đã không còn, ngoại trừ sức mạnh hữu danh vô
thực, dựa vào đám đông cuồng tín của Ca-Tô Giáo trên hoàn cầu và sức mạnh
của tiền bạc, Ca-Tô Giáo có cách nào để cải đạo người dân Việt Nam? 1000
năm đô hộ, người Tàu cũng không thể đồng hóa người Việt Nam. Có cách nào mà
Ca-Tô Giáo hay Tin Lành có thể đưa hơn 90% người dân Việt xuống hàng súc
vật, con chiên con cừu, để cho những tên vô lại ở Vatican chăn dắt? Hơn
nữa, liệu chính quyền hiện nay có để cho họ tự do xâm nhập ào ạt vào Việt
Nam để truyền đạo sau những chiêu bài đạo đức giả có tính cách lưỡng chuẩn
(double standard) như nhân quyền và tự do tín ngưỡng một chiều hay không?
Chúng ta cần phân biệt rõ ràng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do xâm
nhập một quốc gia để truyền đạo. Hai quyền này hoàn toàn khác nhau.
Ki Tô giáo nói chung, nhất là Ca-Tô giáo
nói riêng, đang suy thoái khắp nơi trong những quốc gia văn minh tiến bộ
nhất. Lý do Giáo hoàng John Paul II đã phải tìm mọi cách để giữ tín đồ: từ
những cuộc công du trên khắp thế giới, đặc biệt là tới các nước nghèo khó ở
Nam Mỹ, châu Mỹ La Tinh, và Phi châu để phủ dụ tín đồ bằng cách đưa ra vài
lời xin lỗi mơ hồ (nhiều nơi bị dân chúng biểu tình la ó phản đối), cho tới
viết cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng để hạ thấp các tôn giáo khác và
tôn vinh sự mạc khải bất khả kiểm chứng của Thiên Chúa, rồi hứa hẹn xá mọi
tội lỗi cho các tín đồ với một giá rẻ mạt: “chỉ cần bỏ thuốc lá hay rượu
một ngày”, “phong thánh bừa bãi” cho các tội đồ của dân tộc Việt
Nam, của Trung Quốc mà thực chất chỉ là những nô lệ của Vatican, phê bình
các nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ là “những con chó sói đói mồi”,
một loại ngôn từ phi đạo đức tôn giáo để đời cho các tín đồ, và cao điểm là
hành động “xưng tội trống với Thiên Chúa và đồng loại” gần đây.
Những sự kiện lịch sử này không cho phép giáo hội Ca-Tô mang bộ mặt giả nhân
giả nghĩa hay “thánh thiện” để mà đi rao giảng tin mừng Phúc Âm nữa, vì
người ta sẽ công khai chất vấn về những điều sai trái, hoang đường trong
Phúc Âm và thực chất của Giáo hội.
Thực chất của giáo hội Ca-Tô Rô-Ma ra sao?
Trước ngày 12 tháng 3, 2000, ngày “xưng thú 7 núi tội lỗi” của giáo hội tại
“thánh đường” Phê-rô, Học Hội Đức KiTô Phục Sinh ở Houston, Texas, Hoa Kỳ,
đã đưa ra bản Tuyên Ngôn số 1 và bản Tuyên Cáo số 6 với nội dung liên hệ đến
tội lỗi KiTô giáo đã phạm suốt 2000 năm qua. Trong số 15 trọng tội được
liệt kê trong bản Tuyên Ngôn số 1, chúng ta có thể đọc vài đoạn sau đây
trong mục “Tội Thứ 15”:
Những trọng tội của giáo hội liệt kê
trên (trong 14 mục trước) chưa phải là tất cả! Những trọng tội trải dài
hàng ngàn năm, và còn hiện hữu trong thế giới ngày nay, cuối thế kỷ 20, tại
bất cứ nơi nào và bây giờ. Gốc và đầu mối trọng tội của giáo hội còn nằm
trơ y nguyên trạng không thay đổi! Giáo hội là Caesar, và Casaer là giáo
hội, đế quốc thường phạm vào những tội danh gì, giáo hội cũng phạm vào những
tội danh ấy, và có phần nhiều hơn vì tội nhìn thấy và tội nhìn chẳng thấy..
Giáo hội truyền giáo cứu độ là danh là
diện là chiêu bài, giáo hội đế quốc là thực là điểm là cứu cánh! Qua
đoạn giáo lý ngắn vài hàng dẫn chứng (giáo hội dẫn chứng từ một đoạn vô
cùng hoang đường trong Thánh Kinh kể chuyện ba Vua miền đông được một ngôi
sao dẫn lộ đến chầu Chúa, tuy rằng ngày nay các học giả nghiên cứu Thánh
Kinh đều chứng minh rằng đó là chuyện phịa, không thể nào xảy ra được. TCN),
hạng ngu phu thất học cũng nhận ra ngay tâm địa tuyên truyền nhồi sọ xảo
quyệt của giáo hội bắt mọi người phải trả giá cho hồng ân cứu độ của đấng
cứu thế bằng cái giá từ bỏ căn tính dân tộc riêng của mình để nhận lấy phẩm
giá dân tộc Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, là dân riêng của của
giáo hội qua phép rửa tội..
Nhận định của một nhóm Ca-Tô hữu mà còn như
vậy, huống chi là đối với người ngoài, giáo hội làm sao có thể thuyết phục
để họ tin vào những điều quái gở mà giáo hội bày đặt ra, chỉ có tác dụng đối
với tầng lớp cùng dân thấp kém. Làm sao giáo hội còn có thể thuyết phục
được người dân Việt Nam từ bỏ căn tính dân tộc riêng của mình để nhận lấy
phẩm giá dân tộc Do Thái?
Thời buổi này, không còn mấy người có đầu
óc còn tin ở những chuyện hoang đường như “tội tổ tông”, “Chúa tình nguyện
leo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại”, “Đức Mẹ đồng trinh”, “Giê-su
chết ba ngày rồi sống lại và bay lên trời”, khả năng “cứu rỗi” của Giê-su
v..v.., kể cả một số giám mục, linh mục trong giáo hội. Khoa học với những
bằng chứng bất khả phủ bác trong vũ trụ học, di truyền học, sinh học, sinh
hóa học, cổ sinh vật học v..v.. cộng với thuyết tiến hóa đã bác bỏ toàn bộ
nền thần học Ki Tô. Đặc biệt là trong thời đại thông tin điện tử này, không
ai có thể dấu ai được điều gì, và con người có thể kiểm chứng những tài liệu
nghiên cứu chính xác bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Làm sao giáo hội có
thể thuyết phục được quần chúng bằng những lý thuyết mơ hồ không có một căn
bản xác thực nào. Trí tuệ người dân Việt Nam đâu còn ở mức trí tuệ của
những nông dân hay dân chài ở những vùng như Bùi Chu, Phát Diệm trong thế kỷ
18, 19?
Đó là những lý do tổng quát khiến cho Ca-Tô
giáo khó có thể thành công ở Việt Nam. Nhưng lý do chính là, khi truyền đạo
ở Việt Nam, nền văn hóa KiTô không tránh khỏi vấp phải nền văn hóa Phật giáo
đã bám rễ ăn sâu và đồng hóa với nền văn hóa truyền thống của dân Việt Nam,
vốn là một nền văn hóa nhân bản và nhân chủ. Sự tích dân tộc Việt Nam là
Con Rồng Cháu Tiên của Mẹ Âu Cơ và Cha Lạc Long Quân và tục thờ cúng tổ
tiên, ông bà cha mẹ đã qua đời, chứng tỏ người Việt Nam từ ngàn xưa đã bác
bỏ quan niệm thần linh sinh ra con người. Còn gì nhân bản hơn là người
tôn thờ người, và người thờ nhân tính. Đạo sống này của dân Việt Nam có
trước cả khi Đức Phật, Lão Tử, Khổng tử hay Giê-su sinh ra đời. Và Phật
Giáo đã đóng góp vào nền văn hóa đặc thù này bằng cách đưa vào con đường tự
tu tự chứng, mình làm chủ chính mình. Do đó, nền văn hóa nhân bản và
nhân chủ của Việt Nam chính là thành trì chống nền văn hóa Kitô hữu hiệu
nhất, không phải vì nền văn hóa này cũng tàn bạo và thấp kém như nền văn hóa
Ki Tô, mà vì nền văn hóa này cộng với nền văn hóa Phật Giáo, suốt trong
giòng lịch sử, đã chứng tỏ cho thế giới thấy đó là một nền văn hóa hòa bình,
nhân bản, tôn trọng nhân phẩm của con người. Sau đây tôi xin đi vào vài
chi tiết để chứng minh.
Xét riêng về phương diện tôn giáo, đại
cương thì, nền văn hóa Á Đông, trừ Phi Luật Tân (Ca-Tô) và Nam Dương (Hồi
Giáo), còn chung chung có thể nói cũng là nền văn hóa Phật Giáo, dù ở trong
những quốc gia đang sống dưới chế độ chuyên chính như ở Trung Quốc và Việt
Nam, hoặc ở trong những quốc gia dân chủ như Nhật Bản, Đại Hàn, Thái Lan,
Tân Gia Ba v..v.. Nền văn hóa Phật Giáo cao hơn nền văn hóa Ki Tô rất
nhiều, điều này không ai có thể phủ nhận, trừ phi chúng ta đánh đồng sai lầm
nền văn hóa Ki Tô với những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật của xã hội của Tây
phương, những tiến bộ mà Ki-Tô giáo nói chung, Ca-Tô giáo nói riêng, đã tích
cực ngăn chặn (đốt sách vở, đốt luôn cả khoa học gia, cấm tín đồ đọc sách
v..v..) nhưng không nổi, cho nên ngày nay đã nhận vơ theo kiểu “thấy sang
thì bắt quàng làm họ.” Ngày nay, Tây phương đã nhận ra chân giá trị của
Phật Giáo, và Phật Giáo phát triển rất tự nhiên trong những xã hội Tây
phương mà không hề có ý định cải đạo người khác hoặc kiếm thêm tín đồ. Đụng
phải cái thành trì Phật Giáo ở Á Đông, Ki Tô Giáo không có cách nào thắng
được Phật Giáo vì từ giáo lý cho đến thực hành, từ bản chất của mỗi tôn giáo
cho đến những phúc lợi mà mỗi tôn giáo đã mang đến cho nhân loại, từ đạo đức
tôn giáo cho tới trí tuệ của những vị lãnh đạo tinh thần trong mỗi tôn giáo
v..v.., Ki Tô Giáo đều không thể so sánh với Phật Giáo được. Chúng ta
nên nhớ, lịch sử đạo đức của một số không nhỏ giáo hoàng và nhiều vị lãnh
đạo Ca-Tô giáo là một lịch sử đầy sự ô nhục, và gần đây Giáo Hoàng John
Paul II đã phải công khai xưng thú 7 núi tội lỗi của Giáo hội đối với thế
giới, trong đây tất nhiên Việt Nam là một nạn nhân, vậy Ki Tô Giáo lấy gì để
mà thuyết phục người dân Việt Nam, trừ khả năng mang bả vật chất ra để mua
tín đồ, mua những người “theo đạo có gạo mà ăn”, hoặc đưa ra những hứa hẹn
hoang đường, vô trách nhiệm, về “xác chết sẽ sống lại” trong ngày phán xét,
và sẽ có một cuộc sống đời đời trên một thiên đường tưởng tượng nếu giữ vững
niềm tin vào những điều huyền hoặc của Tòa Thánh đưa ra với mục đích khai
thác sự yếu kém tinh thần và lòng mê tín của đám cùng dân thấp kém. Giáo
hội có tin rằng những người ngoại đạo ở Việt Nam sẽ để yên cho Giáo hội muốn
tuyên truyền lừa dối đồng bào của họ ra sao cũng được? Hay tin rằng người
dân Việt Nam đã quên đi vai trò của giáo hội Ca-Tô Rô-Ma tại Việt Nam trong
việc đưa nước Việt Nam vào vòng nô lệ của Pháp?
Ngoài ra, tuyệt đại đa số người dân Việt
Nam, nhất là các Phật tử, cũng đã biết rõ những điều khác biệt căn bản giữa
Phật Giáo và Ca-Tô Giáo. Những điều này sẽ giúp họ có thái độ thích hợp để
đối thoại hữu hiệu với các tín đồ Ca-Tô, hoặc trước những lời tuyên truyền
giả dối của Ca-Tô Giáo.
Thứ nhất, lịch sử truyền giáo của đạo Phật,
một tôn giáo có trước Ca-Tô Giáo hơn 500 năm, đã cho thế giới thấy, Phật
Giáo là một tôn giáo hòa bình, không hề làm đổ một giọt máu trong quá trình
truyền giáo và phát triển trong suốt hơn 2500 năm nay. Trái lại, lịch sử
truyền giáo của Ca-Tô Giáo trên thế giới đã chứng tỏ rằng Ca-Tô Giáo là một
tôn giáo hiếu chiến, sắt máu, tàn bạo v..v.., và trong quá trình truyền giáo
qua 16 thế kỷ, từ thời Constantine, đã làm cho máu của nhiều triệu người vô
tội chảy thành sông, xương chất thành núi. Đây chính là lý do khiến cho
giáo hội Ca-Tô ngày nay phải công khai xưng thú 7 núi tội lỗi và xin được
tha thứ. Nhưng dù giáo hội có làm gì đi chăng nữa thì núi xương sông máu
này cũng vẫn muôn đời tồn tại trên bờ vai lương tâm của giáo hội và của
những tín đồ còn đôi chút lương tri và đầu óc suy tư.
Thứ nhì, Kinh Luận Phật Giáo gồm thiên Kinh
vạn quyển, số lượng nhiều gấp bội Thánh Kinh. Nhưng chúng ta không hề thấy
trong rừng kinh điển Phật Giáo bất cứ một lời nói nào hay một hành động nào
của Đức Phật, hay của các đệ tử Phật, trái với những tiêu chuẩn luân lý và
đạo đức của con người xưa cũng như nay. Trái lại, trong Thánh Kinh chúng
ta thấy vô số những chuyện ác độc, thương luân, bại lý, không của Chúa Cha
thì cũng của Chúa Con, hoặc của các bậc được gọi là Thánh trong Ki Tô Giáo,
cùng những chuyện dâm ô, loạn luân, thù hận, giết người tập thể v..v..
Cũng vì vậy, càng đi vào Kinh điển Phật Giáo chúng ta càng thấy chân trời
của chúng ta mở rộng, càng thấy những tư tưởng Phật Giáo quả là siêu việt,
vượt thời gian và không gian. Đây chính là lý do Phật Giáo đang phát triển
mạnh trong thế giới, trong những nền văn minh Âu Mỹ, nhất là trong giới trí
thức. Trái lại, càng đi sâu vào Thánh Kinh, chúng ta càng khám phá ra
nhiều điều sai lầm, về thần học cũng như về khoa học, ngoài những điều không
thể chấp nhận được vì chúng đối nghịch hẳn với những tiêu chuẩn luân lý đạo
đức của con người ngày nay. Đây chính là lý do làm cho Ca-Tô Giáo suy
thoái khắp nơi trên thế giới.
Thứ ba, đạo đức của những nhà tu hành Phật
Giáo thật là vượt xa đạo đức của những nhà lãnh đạo Ca-Tô giáo. Trong một
phần trên tôi đã viết sơ lược về những sự đồi bại của một số giáo hoàng và
linh mục. Có người cố cãi rằng đó là những chuyện ngày xưa, ngày nay giáo
hội đã trở nên thánh thiện hơn nhiều. Nhưng đây chỉ là sự cãi lấy được, vì
họ không hề cập nhật hóa về những hoạt động của giáo hội cũng như trong cung
đình Vatican. Chuyện giáo hội ký thỏa ước với Phát Xít Đức và Ý, và chuyện
độc ác tàn bạo của giới giám mục, linh mục trong trọng tội giết 700000 dân
Serb theo Chính Thống Giáo và dân Do Thái ở Croatia là chuyện gần đây, không
phải là chuyện ngày xưa. Chuyện cả ngàn linh mục phạm tội cưỡng dâm trẻ phụ
tế và nữ tín đồ vị thành niên là chuyện ngày nay chứ không phải là chuyện
ngày xưa. Những chuyện đồi bại trong cung đình Vatican trong cuốn Cuốn
Theo Chiều Gió Trong Vatican (Gone With The Wind in the Vatican) của
linh mục Marielli viết năm 1999, và cuốn Những Tội lỗi Của Giáo Hoàng
(Papal Sins) của học giả Ca-Tô Gary Wills viết năm 2000, không phải là những
chuyện ngày xưa. Quý độc giả nào muốn biết thêm chi tiết về những chuyện
nhơ nhớp này xin đọc một phần trong cuốn Đức Tin và Lý Trí của Trần
Văn Kha.
Thứ tư, Phật giáo và Ca-Tô Giáo đều là tôn
giáo ngoại lai, theo nghĩa từ ngoài du nhập vào Việt Nam. Tuy nhiên bản
chất của sự du nhập và ứng dụng của mỗi tôn giáo vào trong xã hội Việt Nam
hoàn toàn khác nhau và đối ngược hẳn nhau.
Phật giáo đi vào dân tộc Việt Nam qua
giới trí thức bằng con đường tận dụng khả năng suy tư của con người, con
đường phát triển trí tuệ, tự lực tự cường, không có những giáo điều khô
cứng, không có những hứa hẹn hão huyền có tác dụng ru ngủ dân chúng, và nhất
là không chống lại những truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Với
những giáo lý nhân bản, lấy con người làm gốc, phục vụ con người ngay trong
đời sống này, lấy trí tuệ làm căn bản, và qua những triết thuyết cao siêu,
phù hợp với tinh thần khoa học, Phật Giáo đã đáp ứng được những đòi hỏi suy
luận trí thức của giới có học. Từ giới trí thức này, tinh thần Phật Giáo
được phát huy qua những giáo lý hòa bình, bao dung, bình đẳng, giản dị, đạo
đức, từ bi v..v.. cho nên Phật Giáo đã lan xuống khắp các giới trong xã hội
Việt Nam. Từ đó, Phật Giáo đã hội nhập trong dân gian để tạo nên một tinh
thần Phật Giáo dính liền với tinh thần yêu nước cao độ cố hữu của người dân
Việt Nam. Phật Giáo chưa bao giờ phản bội dân tộc, liên kết với kẻ ngoại
xâm chống lại tổ quốc. Phật Giáo Việt Nam chưa bao giờ nhận lệnh của bất cứ
chức sắc ngoại quốc nào, lệ thuộc bất cứ một tổ chức tôn giáo hay chính trị
quốc tế nào. Do đó, ảnh hưởng của Phật Giáo trên nền văn hóa dân tộc thực
là sâu đậm, sâu đậm đến độ người ta không còn phân biệt được đâu là văn hóa
Phật Giáo và đâu là văn hóa dân tộc. Đây là những sự kiện lịch sử không ai
có thể phủ bác.
Trái lại, Ca-Tô Giáo du nhập vào Việt
Nam qua giới cùng đinh thất học bằng những phương pháp truyền đạo xảo quyệt,
xuyên tạc sự thật, và mạ lỵ, xâm phạm tới toàn bộ tín ngưỡng, đạo đức và cấu
trúc văn hóa của xã hội Việt Nam. Ngoài ra nhiều thừa sai Ca-Tô còn
trắng trợn can thiệp vào chính trị nội bộ của Việt Nam và trong nhiều trường
hợp đã xúi dục nội loạn và gây nên sự chia rẽ, bất hòa trong xã hội Việt
Nam. Họ ru ngủ đám tín đồ thấp kém bằng những điều mê tín hoang đường,
bằng một đức tin vào những giáo điều tín lý khô cứng, phi lôgic, phản khoa
học, bằng những hứa hẹn vô trách nhiệm vào một niềm tin “xác chết ngày sau
sống lại” để có “sự sống đời đời”, do sự “cứu rỗi” của một Thiên Chúa đã
chết trên cây thập giá cách đây 2000 năm và chưa bao giờ xuất hiện để cứu
bất cứ ai v..v... Những giáo sĩ thừa sai đầu tiên có ảnh hưởng trong
việc truyền đạo không phải là những nhà tu hành đạo đức mà là những tên gián
điệp như Alexandre de Rhodes, Francois Pallu, Lambert de la Motte v..v..,
hoặc những tên lính đánh thuê như Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), hoặc những
tên thực dân như Retord (thầy của Trần Lục), Gauthier (thầy của Nguyễn
Trường Tộ), Puginier, Huc, Pellerin v..v.. Nhưng bất hạnh nhất cho Việt
Nam là nền đạo lý Gia Tô đã thành công trong việc đào tạo được một lớp tín
đồ trong những giới thấp nhất của xã hội (từ của Toàn quyền Đông Dương
de Lanessan: the lowest classes), sẵn sàng phản bội dân tộc, tiếp tay với
thực dân Pháp vì một cái bánh vẽ trên trời cho riêng mình. Lời thú nhận
của giám mục Puginier “Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì
người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gãy hết càng” về vai
trò quyết định của giáo dân Việt Nam trong sự hỗ trợ đoàn quân xâm lăng của
Pháp là một bằng chứng. Sự kiện linh mục Trần Lục mang 5000 giáo dân đến hỗ
trợ quân Pháp để hạ chiến khu kháng chiến Ba Đình là một bằng chứng khác.
(Xin đọc chi tiết những sự kiện trên trong cuốn Công Giáo Chính Sử,
chương VIII.) Bản chất của Giáo hội Ca-Tô Việt Nam chỉ là một mớ tín đồ
hạng hai. Ca-Tô giáo vào Việt Nam từ 1533 nhưng 400 năm sau (1933) mới có
một giám mục đầu tiên (Nguyễn Bá Tòng). Nhưng tệ hơn cả là Giáo hội này
hoàn toàn lệ thuộc Vatican bất kể là những quyết định của Vatican xâm phạm
đến chủ quyền dân tộc và xúc phạm đến nền văn hóa của Việt Nam tới đâu.
Lịch sử cho thấy quyền lợi của Vatican luôn luôn đối nghịch với quyền lợi
của Việt Nam. Chừng nào mà tinh thần nô lệ này còn tồn tại, thì chừng đó
người dân Việt Nam vẫn còn phải lưu tâm đề phòng lịch sử tái diễn.
Trên đây chỉ là vài lý do chính mà tôi nghĩ
chính sách trồng cây Ca-Tô Giáo vào những miền đất ở Á Châu sẽ thất bại.
Đất Á Châu không thích hợp với cây Ca-Tô. Trồng vào đó, cây tuy không đến
nỗi chết héo queo như cây sung bị Chúa Giêsu nguyền rủa, không bao giờ có
thể ra trái được nữa, nhưng có lẽ cũng chỉ sống một cách èo ẹt, không có
nhiều sinh khí. Không ai có thể đi ngược lại đà tiến hóa của con người.
Người dân Việt Nam không lẽ lại tệ hại đến mức phải đi hốt những thứ làm ô
nhiễm đầu óc con người mà Âu Châu và Mỹ Châu đang đào thải dần dần, và coi
đó là những của báu trên trần gian. Tôi thực tình không tin như vậy.
Tuy âm mưu truyền đạo sang các nước Á Châu
của Ca-Tô Giáo không có mấy hi vọng thành tựu, nhưng chúng ta không thể lơ
là, coi thường những thủ đoạn của Giáo hội Ca- Tô. Chúng ta không thể áp
dụng hạnh từ bi một cách sai lầm theo nghĩa chỉ biết tụng Kinh niệm Phật và
để mặc cho Ca- Tô Giáo tự do hoành hành trong âm mưu nô lệ hóa đầu óc người
dân Việt. Từ là cho vui, và Bi là cứu khổ. Khai sáng trí tuệ người
dân, chuyển hóa để cho họ thấm nhuần giáo lý nhân bản, thiết thực, hòa bình,
vị tha, vô thường, vô ngã v..v.. của Phật Giáo là mang niềm vui đến cho họ.
Cứu họ ra khỏi vô minh, mê tín dị đoan, xiềng xích trí tuệ, tinh thần nô lệ
ngoại nhân v..v.., đó chính là cứu khổ.
Muốn chống lại âm mưu truyền đạo sang Á
Châu của Ca- Tô Giáo chúng ta cần phải biết tôn giáo này đã thành công và
phát triển trên thế giới như thế nào, và tại sao ngày nay các nước văn minh
tiến bộ Âu Mỹ lại đang từ bỏ dần dần tôn giáo này để đi tìm những giá trị
tâm linh của Á Đông. Có lẽ vài nhận định sau đây của Học Hội Đức KiTô Phục
Sinh, có thể cho chúng ta thấy rõ vấn đề. Trong mục “Tội Thứ Sáu” trong số
15 trọng tội của Giáo hội, Học Hội viết:
Hạ lưu tôn giáo là: Thánh kinh,
thánh truyền, mạc khải, tín điều, thần học, tế lễ, bí tích, cầu kinh, và kể
cả đức tin.. là bản năng tín ngưỡng hướng ngoại thấp hèn của
đại đa số nhân loại chưa được giáo dục đủ để có một hiểu biết chân thật về
chính mình, là vong thân và đi tìm một thiên đường trên mây, bên ngoài con
người.. Giáo hội rất mạnh nơi thôn dã, chài lưới, làng mạc, dân ngu và
nghèo.
Trong mục “Tội Thứ Tám”, Học Hội trích dẫn
Chỉ Dụ ngày 4 tháng 3 năm 1804 của Vua Gia Long:
“Còn về đạo Bồ Đào Nha (Ca-Tô) là một
đạo ngoại lai đã được truyền cách chùng lén khắp trong nước và hiện nay vẫn
còn, mặc dù chính phủ đã cố gắng để hủy bỏ cái đại dị đoan này. Hỏa ngục
là một chỗ ghê gớm đạo này dùng để làm cho kẻ ngu xuẩn khiếp sợ. Thiên đàng
mà đạo hứa sẽ ban cho những người ngay lành (thật ra là những người
chỉ cần tin Chúa. TCN) là một thành ngữ rất kêu để quyến rũ những kẻ
khờ khạo. Đạo này đã được dạy trong đám dân ngu. Một số khá lớn??
Trong nước bị thâm nhiễm tà đạo, và đã quen giữ lề luật (của đạo Ca-Tô)
một cách mù quáng, không suy nghĩ, và không sao mở mắt cho họ được..” rồi
đưa ra nhận định như sau: Tội lỗi của giáo hội là mượn chiêu bài truyền
giáo Tin Mừng và tôn giáo cứu độ, nhưng chủ yếu là chinh chiến xâm lăng mở
rộng quyền lực trên đất đai và trên con người..
Trọng tội của giáo hội là đồng hóa đại
cuộc truyền giáo Tin Mừng vào công việc thương mại hàng hải, giáo hội đồng
hành với các đạo quân viễn chinh của các nước Tây phương đi cướp đất cướp
dân làm thuộc địa và nô lệ hóa dân bị trị cả thể xác lẫn văn hóa và linh
hồn. Giáo hội chủ trương làm cỏ nền văn hóa và lễ nghi Trung Hoa và Việt
Nam.
Và, trong mục “Tội Thứ Mười”:
Giáo hội không biết mình, không biết
người! Giáo hội công giáo Rôma La-tinh rất chủ quan, trịch thượng và kiêu
ngạo, luôn luôn có quyết tâm lấy mạc khải đánh đổ minh triết, lấy chư thần
bức bách con người, lấy văn hóa La-Hi tiêu diệt văn hóa thiên hạ. Nền minh
triết và văn hóa định cư nhiều ngàn năm của Châu Á Viễn Đông đã có hùng lực
Đức Sung Phù kháng cự dẻo dai bền bỉ trước cuộc tấn công của mạc khải và văn
hóa bán du mục bán định cư của phương Tây. Ki-Tô giáo bị chặn đứng tại cửa
ngõ các trường Nho học, Lão học, Phật học. Học trò chư thánh hiền
Đông phương và giới trí thức khoa bảng tam giáo có giòng máu văn hóa
bách gia chư tử đã đồng thuận khinh thị và tẩy chay văn hóa Tây phương.
(Học hội viết sai chỗ này: Đông phương khinh thị và tẩy chay văn hóa đặc thù
Ki Tô chứ không phải là tất cả nền văn hóa Tây phương. Từ thế kỷ 16, Tây
phương đã thoát ra khỏi ngục tù tư tưởng của văn hóa đặc thù KiTô và tạo cho
mình một nền văn hóa tiến bộ biệt lập, đưa văn hóa Ki Tô vào hậu trường lạc
hậu lỗi thời. TCN) Giai cấp Nho sĩ đã bước qua phạm trù hạ lưu tôn giáo
là mạc khải, thần học, tín điều, giáo điều, đức tin.. và đã thăng đường nhập
thất bước lên phạm trù thượng lưu tôn giáo là minh triết, đạo học, tâm học,
lý học, hình nhi thượng học.. Dưới mắt các nho sĩ Đại Việt, thần thánh là cỏ
rác chó rơm, và 7 phép bí tích của Ki-Tô giáo (Chỉ có Ca-Tô giáo mới có
7 bí tích, Tin Lành chỉ có 2: rửa tội và ban thánh thể. TCN) là việc hành
quái, nhất là bí tích Thánh Thể, bánh và rượu biến thành thịt và máu Đức
Giêsu là hiện tượng hành quái và dị đoan tuyệt đối không thể chấp nhận được.
Từ những nhận định chính xác của Học Hội
Đức Ki Tô Phục Sinh như trên, chúng ta thấy rõ ràng là ông cha chúng ta đã
có những nhận định rất đúng về Ca-Tô Giáo và đã đưa ra những biện pháp ngăn
chận hợp lý để bảo vệ, gìn giữ nền văn hóa dân tộc và truyền thống xã hội
của Việt Nam. Tiếc thay, vì ở thế yếu quân sự, nên thực dân Pháp đã thành
công trong việc chiếm giữ nước ta, và bọn ngu dại, tin vào một cái bánh vẽ
trên trời, đang tâm phản quốc, mới có cơ hội mê hoặc quần chúng bằng những
quan niệm về thiên đường, hỏa ngục hoang đường mà ngày nay chính giáo hoàng
của họ đã thú nhận đó chỉ là những luận điệu thần học có tính cách lừa bịp.
Thế nhưng, đạo đức giả và nói xuôi rồi nói
ngược hầu như là nghề của đương kim giáo hoàng Gion Pôn Hai. Thật vậy, ngày
20 tháng 5, 1996, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai lên tiếng khuyên cùng thế giới:
"Các quốc gia phải gìn giữ nền văn hóa của họ như là một biểu thị của phẩm
cách Quốc gia" (Countries must preserve their culture as an expression
of national dignity). Giáo hoàng thừa biết rằng nền văn hóa Ki Tô không thể
nào tương hợp với những nền văn hóa ở Á Châu, nhưng ông vẫn khuyến khích tín
đồ "Phúc âm hóa" Á Châu, hi vọng có thể bù đắp phần nào cho sự hao hụt tín
đồ trong các thế giới tiến bộ Âu Mỹ. Tuyên bố như trên nhưng ông vẫn chấp
chặt vào niềm hoang tưởng: rằng nền văn hóa Ki Tô là nền văn hóa của Thượng
đế (God's culture), do đó phải được truyền bá khắp thế giới qua sách lược Ki
Tô hóa toàn cầu, xóa bỏ mọi nền văn hóa bản xứ để thay vào đó bằng nền văn
hóa Ki Tô. Do đó, truyền bá Phúc Âm chẳng qua chỉ là hành động xâm lược
những nền văn hóa khác của các quốc gia mà chính Giáo hoàng đã khuyên họ
phải gìn giữ như là phẩm cách quốc gia. Qua những biện pháp cấm đạo,
tuy không phù hợp với sự tiến bộ xã hội của nhân loại ngày nay, nhưng ông
cha chúng ta đã thành công trong việc gìn giữ nền văn hóa dân tộc dù trong
nước vẫn còn một số không nhỏ, do thực dân để lại, chưa bỏ được những hành
động phi dân tộc, lệ thuộc ngoại bang, sống xa lạ với những truyền thống văn
hóa Việt Nam. Chúng ta cần ghi ơn tổ tiên và nguyện tiếp nối truyền thống
yêu nước, bảo vệ và gìn giữ nền văn hóa dân tộc. Vậy, ngày nay, nếu chúng
ta có đưa ra những biện pháp hòa bình ngăn chận sự xâm lăng văn hóa của các
thừa sai Ki Tô thì cũng chỉ để gìn giữ phẩm cách quốc gia của chúng ta mà
thôi. Thật là hợp lý và chính đáng. Không ai có thể dựa vào bất cứ căn bản
nào để lên án chúng ta là vi phạm tự do tôn giáo.
Bản chất của Ca-Tô Giáo và Tin Lành là lợi
dụng sự cuồng tín của tín đồ, tạo thành một lực lượng xã hội, để khi có cơ
hội và quyền thế thì sẽ khuynh loát chính quyền, đàn áp và áp bức tín đồ của
các tôn giáo khác. Bản chất cuồng tín này, nếu ở vị thế nắm quyền hành thì
sự tác hại của nó đối với khối dân chúng không đồng tín ngưỡng không biết
lên tới mức độ nào. Kinh nghiệm lịch sử ở những nơi mà Ca-Tô giáo là chủ
lực tinh thần trong thời Trung Cổ, ở Tây Ban Nha dưới quyền của nhà độc tài
Ca-Tô Franco, ở Croatia dưới quyền của tên Ca-Tô Ante Palevic và những linh
mục khát máu, và của người dân miền Nam Việt Nam dưới chế độ Ca-Tô Ngô Đình
Diệm là một tấm gương cảnh tỉnh những người còn mơ mộng là "tôn giáo nào
cũng tốt cả". Ngày nay, không ai còn coi Ki Tô Giáo là một lực lượng tôn
giáo thuần túy mà trái lại chỉ là những định chế coi nặng vấn đề quyền lợi
chính trị và kinh tế.
Cái hiểm họa Ki Tô Giáo ở trên thế giới là
một hiểm họa có thực. Lịch sử đã chứng tỏ như vậy. Chúng ta không nên bị
mê hoặc bởi luận điệu: "Tôn giáo nào cũng tốt như nhau cả, đều dạy con
người làm lành, tránh ác." Chính nhà Thần học nổi tiếng Hans Kung đã mở
đầu cuốn Ki Tô Giáo (Christianity) bằng câu:
"Chỉ có kẻ không biết gì mới cho rằng
mọi tôn giáo đều giống nhau. Trái lại, thật là vô cùng quan trọng cho tín
đồ mỗi tôn giáo tự đặt câu hỏi: Sự khác biệt giữa tôn giáo của mình và các
tôn giáo khác là gì?" (Only the ignorant can claim that all religions
are the same. On the contrary, it is extremely important for members of
each religion to ask: What is the difference between my religion and other
religions?).
Ngày nay, không một người nào có đầu óc
còn nghĩ đến những biện pháp cấm đạo và bách hại những người đi đạo như khi
xưa nữa. Vậy biện pháp nào thích hợp nhất để bảo vệ và gìn giữ nền văn hóa
truyền thống của Việt Nam? Tôi cho rằng, để tránh cái hiểm họa Ca-Tô (Công
Giáo) và Tin Lành, cái hiểm họa đã được chứng tỏ trong 2000 năm lịch sử của
Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca-Tô giáo , ở Việt Nam, ngoài việc cương quyết ngăn
chận sự xâm nhập của các thừa sai truyền đạo vào trong đất nước, con
đường hữu hiệu nhất là con đường mở mang dân trí. Qua con đường này,
người dân sẽ biết rõ về bản chất và những sự thực về Ki Tô Giáo nói chung,
Ca-Tô Giáo nói riêng, và từ đó sẽ đỡ bị mê hoặc bởi những lời truyền đạo giả
dối, che đậy thực chất mê tín, hoang đường, phi lý của Ki Tô Giáo. Nữ học
giả Ca-Tô Joane H. Meehl, sau khi đã nhìn thấy rõ chủ đích và những việc làm
của Giáo hội Ca-Tô từ thế kỷ 4 cho tới ngày nay, đã viết trong cuốn
"Người Tín Đồ Ca-Tô Tỉnh Ngộ" (The Recovering Catholic, Prometheus Book,
1995, trang 288):
"Đạo Ca-Tô chỉ thịnh hành và phát triển
trong đám người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ bị khắc phục bằng giáo dục (mở
mang dân trí. TCN) và đời sống kinh tế thoải mái." (Catholicism
thrives and grows among the poor and ignorant. It is overcome by
education and economic well-being).
Điều này đã xảy ra trong những nước văn
minh tiến bộ Âu Mỹ trong đó đời sống vật chất của con người tương đối cao,
và những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về tôn giáo, bất kể tôn giáo đó là
tôn giáo nào, và bất kể chủ đề nghiên cứu là chủ đề nào, của những người có
uy tín trong giới trí thức như lãnh tụ tôn giáo, học giả, chuyên gia, giáo
sư đại học v..v.. được phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Đừng bao giờ
e ngại trước những lời lên án việc mở mang dân trí này là chống tôn giáo hay
chia rẽ tôn giáo. Sự hòa hợp giữa những khối dân có tín ngưỡng khác
nhau trong những quốc gia tân tiến Âu Mỹ, nơi đây các tác phẩm nghiên cứu về
tôn giáo được phổ biến rộng rãi, là một bằng chứng rõ rệt nhất về lợi ích
của việc mở mang dân trí để cho người dân biết rõ sự thật về tôn giáo
trong xã hội. Những sự thực về lịch sử những tội ác của Ca-Tô Giáo, về
tổ chức độc tài của Giáo hội, về những thần quyền tự phong của giới lãnh đạo
Ca-Tô, cùng những tín điều hoang đường phi lô-gic, phi lý trí, phản khoa
học, huyền hoặc, lỗi thời v..v.. của Ca-Tô Giáo phải được nghiên cứu cẩn
thận và phổ biến rộng rãi.
Việt Nam cần phải ý thức được sự nguy hại
của chiêu bài nhập nhằng tự do tôn giáo với tự do truyền đạo để có thể tìm
cách đối phó, đưa ra những biện pháp ngăn chận thích nghi, hợp lý. Những
biện pháp ngăn chận này phải nằm trong quốc sách và phải được cương quyết
thi hành. Tôi tin rằng đa số người dân Việt Nam sẽ ủng hộ những biện pháp
bảo vệ nền văn hóa truyền thống Việt Nam này vì chúng ta ý thức rõ ràng rằng
không có một chế độ nô lệ nào độc hại bằng nô lệ văn hóa.
Truyền Giáo là sự phát triển tự nhiên của
mọi tôn giáo. Tôn giáo nào cũng mong muốn đạo mình có thêm tín đồ. Nhưng
phương cách truyền giáo là cả một vấn đề và thường phản ánh bản chất của tôn
giáo đó. Chúng ta không nên quên 7 núi tội lỗi mà giáo hoàng vừa xưng thú,
những tội lỗi trải dài suốt 2000 năm và ở mọi nơi Ca-Tô Giáo mang cây thập
giá tới. Chúng ta cũng không nên quên Ca-Tô Giáo đã giữ một vai trò then
chốt quyết định trong việc đưa Việt Nam vào vòng nô lệ của Pháp. Lịch sử đã
chứng minh: Sách lược truyền giáo của Ca-Tô Giáo là một sách lược chủ trương
xóa bỏ mọi nền văn hóa phi Ki-Tô, dùng bạo lực thắng công lý, dùng gian xảo,
dối trá để lừa dối dân gian, dùng bả vật chất và mê tín dị đoan để chiêu dụ
và giữ tín đồ, dùng những phép lạ ngụy tạo để huyễn hoặc làm mê mẩn đầu óc
tín đồ v..v.. Lịch sử thế giới đã ghi rõ điều này, và kinh nghiệm cay đắng
của Việt Nam đối diện với sự xâm nhập của Ca-Tô Giáo còn ghi rõ trong sử
sách. Ở đây, sách lược truyền giáo của đạo Ca-Tô đã đưa tới những cảnh bất
hòa trong những gia đình nào có người bỏ tôn giáo truyền thống của gia đình,
của dân tộc, để tin theo những lời dụ dỗ huyền hoặc của Ca- Tô Giáo, từ bỏ
không còn tôn trọng những lễ tiết truyền thống trong gia đình. Ca-Tô Giáo
cũng đưa tới những cảnh Lương Giáo nghi kỵ, thù nghịch, tàn sát lẫn nhau như
lịch sử đã chứng tỏ. Gần đây, Ca-Tô giáo còn đưa ra sách lược nham hiểm:
dùng bọn người trí thức nô lệ mất gốc, đưa ra những tác phẩm xuyên tạc lịch
sử, văn hóa Việt Nam, nhất là lịch sử và văn hóa Phật Giáo, hoặc đánh đồng
khập khiễng vài nét văn hóa Việt Nam hoặc Phật Giáo với nền văn hóa Ki Tô,
ngụy trang đằng sau những chiêu bài đầu môi chót lưỡi như “Thần học Ki
Tô Giáo theo cung cách Á Châu”, hoặc “quay về với truyền thống dân tộc,
hội nhập văn hóa dân tộc”, trong khi bản chất độc tôn cuồng tín về “Chúa
KiTô là đấng trung gian duy nhất” vẫn không thay đổi. Chính quyền và
người dân Việt Nam cần nghiên cứu kỹ để biết rõ những âm mưu lũng đoạn quốc
gia Việt Nam, và nhất là thái độ “không đội trời chung” của Ca-Tô Giáo đối
với Cộng Sản, để biết đường mà tránh đóng vai “Cô Bé Quàng Khăn Đỏ” hoặc
“đánh đu với tinh”.
Hơn ai hết, người Việt Nam cần phải đề cao
cảnh giác trước âm mưu truyền giáo sang Á Châu của Vatican. Chúng ta cần
phải ý thức được rằng, Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo nói riêng, đang lạm
dụng và núp sau chiêu bài “Nhân quyền”, “Tự Do Tín Ngưỡng”, và dựa vào ưu
thế kinh tế và quân sự của các cường quốc Âu Mỹ để truyền đạo trong những
quốc gia mà họ có thể ép được. Họ không dám đụng tới khối Hồi Giáo hay
Do Thái, những khối tuyệt đối không nhân nhượng về vấn đề tự do truyền đạo.
Họ cũng không dám đụng tới Trung quốc, một quốc gia vĩ đại với một tỷ ba
dân, có tiềm lực kinh tế và quân sự không thể coi thường, và có một
chính sách rõ rệt để ngăn chận và kiểm soát sự tự do truyền giáo. Nhưng họ
lại khai thác sự yếu kém kinh tế của các nước nhỏ ở Á đông và tính dễ dãi
của những dân tộc trong vùng này, trong đó có Việt Nam, để thực hiện mưu đồ
Ki Tô hóa các quốc gia này. Chính quyền Việt Nam cần phải ý thức được
cái hiểm họa Ki Tô nếu không muốn truyền thống dân tộc và văn hóa của Việt
Nam bị xóa sạch trong tương lai, rơi vào vòng nô lệ Vatican cả hồn lẫn xác,
giống như ở Phi Luật Tân và một số nước ở Phi Châu, Nam Mỹ.
Người Việt Nam chúng ta thường tự hào với
4000 năm văn hiến. Thật ra, nền văn hóa nhân bản (lấy con người làm gốc),
nhân chủ (con người tự quyết định số phận mình) và định cư (không lang thang
nay đây mai đó) của dân tộc Việt Nam, một nền văn hóa đối ngược với loại văn
hóa thần linh, du mục của dân Do Thái, còn lâu hơn là 4000 năm. Nền văn hóa
này, được biết trong giới khoa học và khảo cổ là nền văn hóa Hòa Bình (Bắc
Việt Nam). Tiến sĩ Wilhel G. Solheim II, giáo sư nhân chủng học ở trường
đại học Hawaii đã viết: “Tôi không ngạc nhiên nếu thời kỳ văn hóa Hòa
Bình (Bắc Việt Nam) bắt đầu khoảng 15000 (mười lăm ngàn) năm trước Tây
Lịch.. Trên một mảnh sành khoảng 6 cm vuông, chúng tôi đã thấy dấu vết vỏ
một hạt thóc oriza savita. Dùng carbon 14 định tuổi những đồ vật bị vùi ở
lớp đất trên lớp đất vùi mảnh sành, chúng tôi biết là mảnh sành - và hạt lúa
- đã có niên đại muộn là 3500 trước Tây Lịch” (Wilhelm G. Solheim II,
New Light On A Forgotten Past, National Geographic, Vol. 139, No. 3, March
1971). Như vậy, tính đến thế kỷ 16, khi Ca-Tô giáo bắt đầu du nhập Việt
Nam, thì Việt Nam đã có một lịch sử và một nền văn hóa không hề biết đến
Chúa Cha cũng như Chúa Con trong ít nhất là 5000 năm. Trong 5000 năm
này, tổ tiên chúng ta đã tốn bao xương máu, mồ hôi, nước mắt để xây dựng
nước và giữ nước, những việc thiết thực nhất của một quốc gia độc lập.
Thế nhưng, đạo Ca-Tô đến Việt Nam và dạy tín đồ quên đi công ơn của tổ
tiên, dẹp đi bàn thờ tổ tiên để đi thờ một ông Do Thái chẳng ai biết mặt mũi
ra sao và lý lịch thuộc loại bất minh nhất trong mọi lý lịch. Hơn thế nữa,
đạo Ca-Tô còn tạo ra những mẫu người phản quốc khát máu như Trần Bá Lộc,
Nguyễn Thân v..v.. Tôi thực tình không hiểu bằng cách nào mà họ có thể đào
tạo ra những nhân vật như linh mục Trần Lục, mang 5000 giáo dân đi hỗ trợ
quân xâm lăng Pháp, góp phần lớn vào viêc làm trung tâm kháng chiến Ba Đình
thất thủ (LM Trần Tam Tĩnh: Thập Giá và Lưỡi Gươm); như giám mục Nguyễn Bá
Tòng dám nhân danh người dân Việt Nam phát ngôn bậy bạ “..con dân (đúng ra là giáo dân) Việt Nam tỏ lòng trung thành đối với mẫu quốc” là nước Pháp đang đặt ách thống trị trên
toàn dân Việt Nam (Toan Ánh: Hội Hè Đình
Đám); như Ngô Đình Diệm dám mở miệng nói “Tổ Hùng Vương là Tổ của các anh
chứ đâu phải là Tổ của tôi” (Đỗ Mậu: Việt
Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi);
như linh mục Hoàng Quỳnh khích động giáo dân vác gậy gộc đi biểu tình hô cao
khẩu hiệu “Thà mất nước, không thà mất Chúa (Do Thái)) v..v.. Những kẻ như vậy có
phải là “mất gốc” hoặc “phản quốc” hay không? Tôi không hiểu các tín đồ
Ca-Tô Việt Nam có cảm thấy hãnh diện vì những đồng đạo của họ có tên tuổi
như trên không? Đem 5000 lịch sử và văn hóa của đất nước đã sinh ra tổ
tiên, ông bà, cha mẹ mình và nuôi dưỡng mình vất vào xọt rác để đi thờ một
anh Do Thái bị đóng đinh trên cây thập giá cùng với hai tên ăn trộm, còn có
gì có thể vô ơn bạc nghĩa và mù quáng hơn. Trước hành động xưng thú
tội lỗi và xin được tha thứ của giáo hoàng và cung đình Vatican, Hồng y John
O’Connor ở New York đã tuyên bố “tín đồ
Ca-Tô phải được sự thật giải phóng”. Ngày nay sự thật đã rõ ràng: những
luận điệu thần học về sự sáng tạo ra vũ trụ muôn loài của một vị Thần Ki Tô
toàn năng toàn trí; về huyền thoại Adam và Eve, tội tổ tông, bà Mary đồng
trinh, Giê-su là con một của Thần Ki Tô, chết rồi, xuống địa ngục rồi lại
sống lại và bay lên trời; về thuyết “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su,
thiên đường và hỏa ngục; về giáo hội Ca-Tô là do Giê-su thành lập và Giáo
hoàng là vị kế thừa chính thức của Chúa, do đó chính là đại diện của Chúa
trên trần; về những thần quyền của giới chăn chiên, có khả năng đuổi quỷ
Sa-Tăng ra khỏi con người, có quyền tha tội cho ai thì tha, giữ tội của ai
thì giữ, có phép thần thông biến bánh và rượu thành thịt và máu đích thực
của Chúa v..v.., tất cả chỉ là những trò lừa bịp giả dối để mê hoặc đám
cùng dân thấp kém hoặc những kẻ yếu kém tinh thần, cần đến một cặp nạng thần
linh bên ngoài để giúp mình ăn một cái bánh vẽ trên trời. Bởi vì, những
luận điệu thần học kể trên, trước sự tiến bộ trí thức của con người, và
trước những khám phá của khoa học mà không ai có thể phủ bác, nay đã bị giáo
hoàng và Vatican bắt buộc phải chính thức bác bỏ dưới hình thức này hay hình
thức khác. Trước sự thật này, một số không nhỏ tín đồ Ca-Tô trên thế giới,
nhất là trong các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ, đã được giải phóng. Nhưng
không hiểu các tín đồ Ca-Tô Việt Nam đã được giải phóng chưa? Chúa Giê-su
cũng đã từng nói: “John 8: 12: Rồi các
ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát các ngươi”, mong rằng lời tiên tri này của Chúa sẽ
ứng nghiệm trong cộng đồng Ca-Tô Việt Nam để cho đa số tín đồ Ca-Tô Việt Nam
khỏi tiếp tục lạc đàn, biết đường quay về với dân tộc, do đó toàn dân Việt
Nam lại có thể lấy lại được cảnh thái hòa, thống nhất văn hóa, như trước khi
Chúa tới.
Các bài về tôn giáo cùng tác giả