LỊCH SỬ HOA KỲ

(3 tác giả)

Nguyễn Mạnh Quang dịch

http://sachhiem.net/NMQ/LSHK/LSHK18.php

| bản rời | «  Xem Mục Lục » | 02 tháng 3, 2010

(tiếp theo Chương mười bảy)

pypypy

CHƯƠNG XVIII

LÃNH THỔ HOA KỲ MỞ RỘNG ĐẾN
TẬN BỜ BIỂN THÁI BÌNH DƯƠNG

Các bậc tiền bối của chúng ta mong muốn đất nước Hoa Kỳ ngày càng trở nên rộng lớn và hùng mạnh hơn. Họ đã đều đều tiến về miền Tây và hăng say hướng nhìn về vùng đất hoang vắng xa xăm. Họ muốn làm chủ giải đất hoang vắng xa xăm này. Nói về công cuộc đi tìm kiếm đất, một người Hoa Kỳ nhiệt thành hăng hái đã ví Hoa Kỳ như một con trâu đi lang thang khắp cả các vùng đồng bằng miền Tây:

“Tôi bảo rằng hãy mở đường cho con trâu Hoa Kỳ còn trẻ- nó chưa đủ đất đai; nó mong muốn có thêm đất để làm nơi nghỉ mát trong mùa hè- nó ước mong có thêm đất để làm cánh đồng cỏ xinh tươi. Tôi bảo anh là chúng ta sẽ cho nó miền Oregon để cho nó làm nơi nghỉ mát trong mùa hè, cho nó miền Texas để làm cánh đồng cỏ trong mùa đông. Giống như những chủng tộc khác, nó cũng cần muối, như vậy thì nó cần phải sử dụng hai đại dương – Thái Bình Dương oai hùng vĩ đại và Đại Tây Dương cuồn cuộn sóng sẽ là của nó…”

Vào năm 1783, lãnh thổ Hoa Kỳ nằm dài từ biên giới Gia Nã Đại đến Florida, và từ Đại tây dương tới bờ sông Mississippi. Hai mươi năm sau đó, Tổng thống Jefferson mua lãnh thổ Louisiana (đã nói ở chương XIII). Dù rằng mua được giải đất Louisiana là làm tăng gấp đôi lãnh thổ Hoa Kỳ, nhưng người dân Hoa Kỳ vẫn chưa hài lòng. Người nói những lời lẽ đã ghi trên đây đã nghĩ rất đúng rằng con trâu Hoa Kỳ chắc là không bằng lòng với lãnh thổ của Hoa Kỳ vào năm 1803.

Chương này sẽ bàn tại sao Hoa Kỳ càng ngày càng kiếm được thêm đất đai cho tới khi lãnh thổ vươn tới tận Thái bình dương.

Các bạn sẽ tìm hiểu những vấn đề dưới đây:

1. Công cuộc thám hiểm và định cư ở vùng đất Louisiana như thế nào?

2. Hoa Kỳ đã chiếm được giải đất Florida như thế nào?

3. Hoa Kỳ đã chiếm được miền Tây Nam, Texas và California ra làm sao?

4. Sự khám phá ra vàng ở California đã khiến cho California gia nhập cộng đồng quốc gia liên bang ra làm sao?

5. Hoa Kỳ đã chiếm được Oregon như thế nào?

¨

PHẦN MỘT

CÔNG CUÔC THÁM HIỂM VÀ ĐỊNH CƯ
Ở VÙNG ĐẤT LOUISIANA NHƯ THẾ NÀO?

- Lãnh thổ Louisiana vào năm 1803 ra làm sao?

Khi Tổng thống Jefferson mua của Pháp lãnh thổ Louisiana thì ngay cả chính ông và bất kỳ người nào khác cũng không biết rõ vùng lãnh thổ vĩ đại này rộng lớn là bao nhiêu. Vùng đất Louisiana nằm giữa sông Mississippi và rặng núi đá Rockies chạy dài từ biên giới Gia Nã Đại tới vịnh Mễ Tây Cơ. Thực ra, đây là một giải đất cho con “Trâu Hoa Kỳ”. Vùng đại đồng bằng chạy dài từ bờ sông Mississippi đến tận rặng núi đá Rockies. Vùng thượng lưu thung lũng sông Mississippi là những khu rừng rậm đầy những hươu nai và các loài thú rừng khác. Xa hơn về phía Tây và phía Nam có hàng đàn trâu lông lá lồm xồm đông như kiến đi lang thang trong miền đại đồng bằng này, kéo nhau đi ăn trên cánh đồng cỏ chạy dài hàng trăm dặm. Con sông Mississippi tiếp nhận nước của sông Missouri uốn khúc chảy qua vùng đất phì nhiêu rộng lớn rồi trườn mình ra tới tận vịnh Mễ Tây Cơ.

- Ngoại trừ thành phố New Orleans, lúc bấy giờ có rất ít người định cư lập nghiệp ở Louisiana

Vào năm 1803, có chừng vài ngàn người Pháp và Hoa Kỳ sinh sống ở dọc theo hai bên bờ sông Mississippi, phần lớn ở đây là các làng xóm của người Pháp được thiết lập ở đó đã từ lâu. (Hẳn các bạn còn nhớ rằng toàn thể thung lũng con sông này đã có một lần thuộc về Tân Pháp). Những vùng định cư chính ở trong giải đất Louisiana mua được là Saint Louis và New Orleans. Trước kia Saint Louis là thị trấn buôn bán da thú có khoảng chừng 160 căn nhà gỗ. Tuy nhiên, lúc bấy giờ New Orleans đã là một thị trấn trù phú sầm uất có tới 10 ngàn dân. Thành phố này ở trên một vị trí cách xa cửa sông Mississippi.

New Orleans đã có một lịch sử oai hùng sáng lạn. New Orleans do người Pháp thành lập vào năm 1718, và sau đó được trao cho Tây Ban Nha vào khi chấm dứt trận chiến giữa người Anh với người Pháp và với người da đỏ. Cuối thế kỷ thứ XVIII, nhiều người Tây Ban Nha giàu có đến đây sinh sống một cách huy hoàng, vương giả. Rồi thì Louisiana lại rơi vào tay người Pháp, sau cùng Louisiana lại đổi chủ, nước Pháp đem bán giải đất này cho Hoa Kỳ vào năm 1803. Khi đó, New Orleans là thành phố của dân cư hỗn tạp gồm người Pháp, người Tây Ban Nha và nhiều dân nô lệ da đen. Thành phố này còn là một hải cảng để xuất nhập hàng hóa và sản phẩm cho vùng thung lũng sông Mississippi. Gần thành phố này có nhiều đồn điền rộng lớn trồng chàm, mía và bông vải.

- Hai ông Lewis và Clark thám hiểm vùng lãnh thổ Louisiana

Tổng thống Jefferson muốn biết rõ hơn về giải đất rộng lớn mà Hoa Kỳ vừa mới mua được, cho nên ngay khi mua xong ông liền gửi một toán quân đi thám hiểm vùng Louisiana. Cầm đầu toán quân này là đại úy Meriwether Lewis và đại úy William Clark, em trai của ông George Rogers Clark, một nhân vật tiếng tăm thời chiến tranh cách mạng. Khởi hành từ Saint Louis vào năm 1804, toán quân thám hiểm đi ngược dòng sông Missouri, băng qua vùng đất của người da đỏ Sioux. Bản đồ trang sẽ ghi rõ đường đi của toán quân thám hiểm này.

Mùa Đông năm đó, hai ông Lewis và Clark dừng lại ở vùng đất mà ngày nay gọi là South Dakota. Mùa xuân tới, đoàn quân lại tiếp tục lên đường theo dòng sông Missouri ngược tới dãy núi đá Rockies cho tới khi đi tới chỗ sông vô cùng hẹp mà người ta có thể bước qua được. Khi tới rặng núi đá Rockies, thay vì phải quay lại, nhưng nhờ có sự hướng dẫn của một phụ nữ da đỏ tên là Sacajewea, đoàn quân này tiến tới vượt qua rặng núi đá Rockies. Họ cẩn thận ghi lại tất cả sự vật mà chính mắt họ nhìn thấy như chim muông, thú vật, cây cỏ, hoa lá, sông ngòi. Những giấy tờ ghi lại của họ cho ta thấy phần nhiều họ phải chịu cơ cực, khổ nhọc không phải do người da đỏ gây nên, mà trái lại, là do ruồi, muỗi gây nên vào những ngày tháng mùa hè. Cuối cùng, đoàn quân đi tới sông Columbia, rồi đi theo dòng sông này tới bờ biển Thái bình dương. Đoàn quân thám hiểm an toàn về tới Saint Louis vào năm 1806, sau cuộc hành trình dài tới 8 ngàn dặm.

Công trình của đoàn thám hiểm của hai ông Lewis và Clark không những đã giúp cho nhân dân Hoa Kỳ hiểu rõ tin tức về vùng lãnh thổ này, mà còn mở đường cho những người đi săn thú, thương gia và nông dân tiền phong đi lập nghiệp ở vùng đất mới. Tài liệu về chuyến đi của hai ông Lewis và Clark đã được ấn hành, và chúng ta có thể tìm thấy những tài liệu này trong các thư viện. Đó cũng là những tài liệu thích thú cho người đọc.

- Ông Zebulon Pike đi thám hiểm để biết rõ hơn về vùng lãnh thổ Louisiana

Cũng vào thời kỳ này, một nhà thám hiểm khác là ông Zebulon Pike hướng dẫn một đoàn thám hiểm khác đi về phía Bắc để tìm kiếm thượng nguồn phát xuất ra con sông Mississippi. Dù rằng không tìm được nguồn phát xuất ra con sông này, nhưng ông Pike cũng hiểu được rất nhiều về vùng thượng lưu của nó. Sau khi trở về, năm 1806, ông Pike lại từ giã Saint Louis để khởi hành chuyến đi thám hiểm khác nữa. Chuyến đi này ông tiến về phía Tây. Mục đích của ông là thám hiểm lãnh thổ Louisiana, vùng phía Nam của con đường đi của hai ông Lewis và Clark. Sau nhiều tuần lễ đi theo dòng sông Arkansas, ông Pike tới dãy núi Rockies. Núi Pike ở Colorado là do ông khám phá và được đặt tên theo tên nhà thám hiểm dũng cảm này.

Đúng vào mùa đông, ông Pike và đoàn người thám hiểm của ông tới dãy núi đá Rockies. Lạnh và mệt, họ liền quay về phía Nam để đi tìm dòng sông Hồng (Red river). Thực sự họ đã đi vào vùng đất dọc theo con sông Rio Grande – vùng này không thuộc về lãnh thổ Louisiana mà thuộc về Tây Ban Nha. Tại đây, ông Pike và đoàn người thám hiểm lập đồn ải và treo cờ Hoa Kỳ trên đồn ải này. Đoàn quân bị người Tây Ban Nha bắt giam và ông Pike bị đem đến trình diện viên Thống đốc Tây Ban Nha của vùng này. Sau đó, ông được phóng thích và đi xuyên qua lãnh thổ Tây Ban Nha để trở về Hoa Kỳ. Ông mang về được nhiều bản đồ đáng giá và rất nhiều tin tức về vùng đất mà ông đã đi thám hiểm.

- Nhiều dân định cư đổ xô tới lãnh thổ Louisiana

Khi đọc chuyện về cuộc thám hiểm của các ông Lewis, Clark, và Zebulon Pike, một lần nữa, người Hoa Kỳ lại cảm thấy hăng hái tiến về miền Tây. Nhiều dân đi định cư dùng thuyền bè đi xuôi theo các dòng sông tiến về miền Tây và miền Nam. Nhiều người khác dùng xe ngựa. Trong vòng mấy năm, dân đi lập nghiệp dùng tàu chạy bằng hơi nước đi từ sông Ohio tới sông Mississippi. Dọc theo sông Mississippi, tại nhiều nơi người ta có thể dùng đò đi sang bờ phía Tây. Có hàng ngàn dân đi lập nghiệp hăng hái vượt sông Mississippi tiến vào vùng đất mới.

Đời sống của dân định cư trong các khu rừng ở thượng lưu thung lũng sông Mississippi không khác gì đời sống của người dân định cư ở bên bờ phía Đông sông Mississippi. Dân định cư lập nghiệp ở trong các cánh đồng cỏ lại gặp nhiều vấn đề. Những cánh đồng cỏ cuộn sóng chạy dài hàng trăm dặm không có cây cối. Dân định cư phải ra sông Mississippi và các chi nhánh của con sông này để vớt gỗ nổi về làm nhà. Việc cày đất ở các cánh đồng cỏ có những cỏ cứng cũng là một công việc nặng nhọc và khó khăn. Tuy nhiên, một khi đã cày đất rồi thì người ta có thể trồng bắp hay trồng lúa mì. Xa về phía Nam ở miền Nam Missouri và Arkansas, dân đi lập nghiệp từ các tiểu bang miền Nam đến mang theo nô lệ và họ khởi lập các đồn điền trồng bông.

- Nhiều tiểu bang được thành lập ở phía Tây sông Mississippi

Thời gian sau, nhiều thị trấn xuất hiện ở bên bờ phía Tây sông Mississippi. Một số thị trấn phát triển ở chung quanh các đồn ải được thiết lập để bảo vệ dân định cư. Các thị trấn Nes Moines, Leavenworth, Kansas khởi đầu là những đồn ải quân sự. Mineapolis, Minesota được phát triển ở gần đồn Swelling. Những thị trấn khác như Davenport, Iowa khởi đầu là những trung tâm buôn bán da thú. Saint Louis phát triển mau chóng thành một trung tâm buôn bán da thú và đồng thời cũng là một giang cảng. Ngay khi các tàu thuyền chạy bằng hơi nước lưu thông trên sông Mississippi, người ta chuyển vận da thú và các nông phẩm từ các thị trấn này xuống tới New Orleans.

Ít năm sau, nhiều tiểu bang mới được thành lập, dọc theo bờ phía Tây sông Mississippi. Louisiana, vốn đã đông dân từ khi mới mua giải đất này, gia nhập cộng đồng liên bang vào năm 1812. Tiếp theo, vào năm 1821 là tiểu bang Missouri, và 15 năm sau đó, đến lượt Arkansas. Năm 1846, Iowa trở thành tiểu bang. Năm 1858, tiều bang Minnesota là tiểu bang chót nằm trên bờ sông phía Tây sông Mississippi gia nhập Cộng đồng Liên bang. Trong chương tới, chúng ta sẽ tìm hiểu công cuộc định cư ở phần đất phía Tây giải đất Louisiana như thế nào?

NGỰA TỐC HÀNH ĐƯA THƯ

¨

PHẦN HAI

HOA KỲ ĐÃ CHIẾM ĐƯỢC FLORIDA NHƯ THẾ NÀO?

Khi Hoa Kỳ mua giải đất Louisiana thì cả người Pháp lẫn người Hoa Kỳ đều không biết chắc nơi nào là biên giới của vùng đất này. Hẳn các bạn còn nhớ là ông Jefferson chỉ muốn nắm quyền kiểm soát con sông Mississippi để dân miền Tây có thể gửi hàng hóa và sản phẩm qua hải cảng New Orleans đến thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, Tây Ban Nha lúc bấy giờ lại là chủ nhân ông giải đất hẹp dọc theo vịnh Mễ Tây Cơ (gọi là miền Tây Florida) cũng như bán đảo Florida mà ngày nay chúng ta gọi là Florida, nhưng bấy giờ gọi là miền Đông Florida (bản đồ trang 381b). Tây Ban Nha đòi quyền chiếm miền Tây Florida chạy dài xa về phía Tây tới tận New Orleans và sông Mississippi. Mặt khác Tổng thống Jefferson đòi rằng việc mua Louisiana phải bao gồm cả giải đất rộng lớn ở phía đông sông Mississippi.

- Hoa Kỳ mở rộng lãnh thổ tới miền Tây Florida

Sự tranh chấp này kéo dài trong nhiều năm. Cuối cùng vào năm 1812, khi Louisiana trở thành một tiểu bang, chính phủ Liên bang Hoa Kỳ sát nhập vào tiểu bang này tất cả vùng đất nằm ở phía đông sông Mississippi, nơi mà ngày nay bao gồm cả tiểu bang Louisiana. Tây Ban Nha lúc bấy giờ quá yếu nên không thể nào bảo vệ quyền chiếm đất của họ được.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ lại nóng lòng muốn làm chủ toàn thể miền Tây Florida. Nhiều người Hoa Kỳ đổ xô đến định cư ở ngay phía Bắc giải đất này. Đồng thời, dân định cư ở Alabama và Mississippi lại muốn sử dụng những con sông chảy qua lãnh thổ Tây Ban Nha. Hoa Kỳ cho biết muốn mua Florida, nhưng Tây Ban Nha từ chối và không chịu bán. Trong thời kỳ chiến tranh 1812, Hoa Kỳ đã chiếm thêm nhiều đất ở miền Tây Florida. Cho nên sau khi chiến tranh chấm dứt, mặc dù Tây Ban Nha không chấp nhận, Hoa Kỳ cũng chiếm phần lớn đất đai ở miền Tây Florida.

- Tướng Andrew Jackson tiến vào Florida

Trong khi ấy miền Đông Florida trở thành nơi rối loạn. Những người nô lệ ở Georgia chạy trốn đến miền Đông Florida ẩn núp để trốn tránh nhà cầm quyền Hoa Kỳ. Hơn nữa, những người da đỏ hiếu chiến thường tấn kích vào các khu định cư ở vùng biên cương, phía Bắc biên giới vùng đất do Tây Ban Nha kiểm soát. Mặc dù Tây Ban Nha đã đồng ý là sẽ kiểm soát những người da đỏ, nhưng quân đội của chính quyền Tây Ban Nha ở đây lại không đủ mạnh để làm như vậy. Cuối cùng, Tổng thống Monroe ra lệnh cho tướng Andrew Jackson phải chặn đứng mọi vụ tấn kích của người da đỏ.

Tướng Jackson đã tuân hành lệnh của Tổng thống Monroe một cách quá mức. Dù rằng ông không có quyền cho quân tràn vào vùng đất do người Tây Ban Nha kiểm soát, nhưng ông cũng hạ lệnh cho quân sĩ dưới quyền truy kích quân da đỏ vào sâu trong đất Florida. Ông chiếm đóng luôn cả hai đồn ải của người Tây Ban Nha. Thực ra, ông đang xâm lăng và chinh phục xứ Florida. Mặc dầu nhân dân Hoa Kỳ hết sức hoan hô tán đồng ông Jackson, nhưng dù sao ông cũng tạo nên một hoàn cảnh rắc rối cho Tổng thống Monroe, người không có ý định gây thù hận với Tây Ban Nha. Vì thế cho nên hai đồn ải quân sự này lại được trao trả cho người Tây Ban Nha, và quân đội Hoa Kỳ lại rút về lãnh thổ Hoa Kỳ.

- Hoa Kỳ mua Florida

Cuộc xâm lăng của tướng Jackson vào vùng đất Florida cho thấy rõ là Tây Ban Nha không bảo vệ lãnh thổ của họ được. Hơn nữa, Tây Ban Nha lúc bấy giờ rất bận tâm với những cuộc cách mạng đang diễn ra ở Mễ Tây Cơ và Nam Mỹ (chương X). Cho nên trong một hòa ước ký kết với Hoa Kỳ vào năm 1819, Tây Ban Nha bỏ mọi quyền chiếm đất cả miền Đông lẫn miền Tây Florida. Đổi lại, chính phủ Hoa Kỳ đồng ý trả cho Tây Ban Nha khoản tiền mà họ nợ của người Hoa Kỳ là 5 triệu Mỹ kim. Hòa ước này cũng xác định biên giới giữa Hoa Kỳ và lãnh thổ do Tây Ban Nha kiểm soát ở phía tây sông Mississippi. Hòa ước này có hiệu lực vào 2 năm sau đó. Kể từ năm 1783, đây là lần thứ hai Hoa Kỳ chiếm thêm đất mới.

¨

PHẦN BA

HOA KỲ ĐÃ CHIẾM TEXAS, MIỀN TÂY NAM VÀ CALIFORNIA NHƯ THẾ NÀO?

Sau khi mua đất Florida không được bao lâu, Hoa Kỳ lại hướng về phía Tây Nam nhòm ngó vào lãnh thổ rộng lớn của Mễ Tây Cơ. Chúng ta đã thấy ở chương X, năm 1821, Mễ Tây Cơ đã tranh đấu giành được độc lập, thoát khỏi ách thống trị của Tây Ban Nha. Tân Cộng hòa Mễ Tây Cơ đòi quyền chiếm tất cả các vùng đất do người Tây Ban Nha khai khẩn, nghĩa là toàn thể vùng mà ngày nay là miền Tây Nam Hoa Kỳ (xem bản đồ). Lúc bấy giờ đã có nhiều người Hoa Kỳ đi lập nghiệp bắt đầu tiến đến vùng này. Vả lại, nhiều người cho rằng vùng đất này thuộc về Hoa Kỳ. Họ tin rằng đó là định mệnh dành sẵn cho Hoa Kỳ được mở rộng lãnh thổ chạy dài từ Đại Tây dương đến Thái Bình dương. Những người Hoa Kỳ muốn chiếm đất thêm được mệnh danh là những người theo chủ nghĩa bành trướng, vì rằng họ muốn mở rộng lãnh thổ Hoa Kỳ. Năm 1845, ông James K. Polk, một người nhiệt thành theo chủ nghĩa bành trướng lên làm Tổng thống. Trong nhiệm kỳ Tổng thống của ông, nhiều vùng đất mới được sát nhập vào lãnh thổ Hoa Kỳ. Câu chuyện về việc sát nhập các vùng đất mới sẽ được nói trong những trang kế tiếp sau đây.

¨ TEXAS TRỞ THÀNH MỘT QUỐC GIA, RỒI BIẾN THÀNH MỘT TIỂU BANG

Người Hoa Kỳ đến định cư ở Texas

Chuyện này bắt đầu vào khoảng năm 1820 ở Texas. Lúc bấy giờ vùng đất này có rất ít người đến định cư. Chỉ có một số ít người Tây Ban Nha giàu có làm chủ các đồn điền, trang trại. Họ dùng thổ dân da đỏ và người Tây Ban Nha lai da đỏ làm việc trong các trại ấp của họ. Vùng này cũng có rất nhiều trung tâm truyền giáo của các tu sĩ truyền giáo thiết lập, và một số đồn ải quân sự. Nhưng hầu hết dân cư ở đây là thổ dân da đỏ.

Năm 1822, một thanh niên tên là Stephen F. Austin dẫn một gia đình người Hoa Kỳ đến Texas lập nghiệp. Trước đó 2 năm, thân phụ của ông Stephen F. Austin đã thuyết phục chính quyền Tây Ban Nha tại Texas là hãy cho ông một giải đất rộng lớn ở đây để cho người Hoa Kỳ đến định cư. Sau khi thân phụ ông mất đi, ông Stephen F. Austin mạnh tiến thi hành kế hoạch này. Ông thu xếp với chính phủ Mễ Tây Cơ, chính quyền này vừa mới giành được độc lập, để mang người tới định cư lập nghiệp ở Texas. Ông hứa rằng dân đến định cư này sẽ thuộc về giáo hội Công giáo, sẽ trở thành công dân Mễ Tây Cơ và tuân theo luật lệ Mễ Tây Cơ. Ông Austin có thể phân phối đất đai cho dân định cư mà chỉ cần phải trả ít tiền, và thuộc địa của ông phát triển mau chóng. Tại nơi đây, dân định cư khai thác ruộng đất, làm nhà và xây trường học.

Chính quyền Mễ Tây Cơ muốn mở mang Texas nên sẵn sàng mở rộng cửa đón nhận dân định cư Hoa Kỳ đến lập nghiệp. Tiếp theo đó là một làn sóng người đến chiếm đất. Khi đó, một người định cư có thể mua được 4 ngàn mẫu mà chỉ phải trả có 30 Mỹ kim. Nhiều tiểu điền chủ ở Hoa Kỳ đến đây mua đất. Các chủ đồn điền ở miền Nam cũng đem theo gia đình và nô lệ tiến vào vùng đất màu mỡ ở Texas. Vào khoảng năm 1835, có khoảng chừng 30 ngàn người Hoa Kỳ ở Texas. Con số này lớn hơn con số người Tây Ban Nha đến đây lập nghiệp trong 300 năm qua.

- Mễ Tây Cơ lo ngại

Mễ Tây Cơ nhận thấy rằng để cho người Hoa Kỳ đến lập nghiệp ở trong lãnh thổ của họ là một sự lầm lẫn, nhưng quá trễ. Người Hoa Kỳ không sống thuần thảo với chính phủ Mễ Tây Cơ cũng như đối với người Tây Ban Nha ở Texas. Người Hoa Kỳ sử dụng ngôn ngữ khác, theo tôn giáo khác, và lối sống của họ cũng khác nữa. Hơn nữa, họ có tinh thần độc lập, không thích sống theo luật lệ của Mễ Tây Cơ. Dầu sao đi nữa, chính quyền Mễ Tây Cơ dĩ nhiên là mong muốn họ phải tuân theo luật pháp. Thật là dễ dàng cho chúng ta thấy rằng có những tranh chấp giữa người Hoa Kỳ định cư ở Texas và chính quyền Mễ Tây Cơ. Có một sự tranh chấp về vấn đề nô lệ. Luật lệ ở lãnh thổ Mễ Tây Cơ có cấm chế độ nô lệ, nhưng người Hoa Kỳ bất cần, họ vẫn mang nô lệ vào Texas.

- Dân Texas tuyên bố độc lập

Để ngăn chặn không cho những vụ tranh chấp này trở nên nghiêm trọng hơn, chính quyền Mễ Tây Cơ cố gắng chặn đứng không cho người Hoa Kỳ nhập cảnh vào Texas nữa. Sự việc này lại càng làm cho kiều dân Hoa Kỳ càng trở nên giận dữ hơn. Vì rằng họ không thích để cho họ sống lẻ loi trong đám những người mà họ không ưa. Tới khi vị tướng đầy tham vọng tên là Santa Anna lên cầm quyền ở Mễ Tây Cơ, vấn đề lại càng trở nên tệ hại hơn nữa. Kiều cư Hoa Kỳ ở Texas phản đối, chống lại sự cai trị hà khắc của tướng Santa Anna, và cuối cùng họ nổi loạn chống lại Mễ Tây Cơ. Ngày mùng 2 tháng 3 năm 1836, họ tuyên bố Texas là một quốc gia độc lập.

Mễ Tây Cơ cố gắng đè bẹp vụ nổi loạn này. Chính tướng Santa Anna dẫn quân vào Texas để trừng phạt kiều cư Hoa Kỳ. Dân Texas hai lần bị đại bại, nhưng trận cuối cùng họ chiến thắng vẻ vang. Trận đại bại lần đầu ở đồi Alamo nằm trong thành phố San Antonio. Đồn Alamo vốn là một trung tâm truyền giáo của Tây Ban Nha chung quanh có tường bao bọc. Một trăm tám mươi bảy quân Texas dưới quyền chỉ huy của đại tá William Barrett Travis lo tăng cường công sự phòng thủ trong đồn, bị tướng Santa Anna đem 3 ngàn quân Mễ đến bao vây. Mặc dầu bị quân đối phương đông hơn quá nhiều, quân Texas nhất định không chịu đầu hàng, và tiếp tục cầm cự được 13 ngày. Khi trận đánh kết thúc thì tất cả quân sĩ trong đồn đều chết cả. “Hãy nhớ đồn Alamo” trở thành tiếng thét của người dân Texas. Liền sau trận đánh đồn Alamo chấm dứt, quân đội Mễ tiến lên bao vây và tấn công quân Texas tại Goliad. Lại một lần nữa, quân địch quá đông so với quân Texas cho nên quân Texas buộc phải đầu hàng. Santa Anna hạ lệnh tàn sát hết quân Texas và rêu rao rằng họ là quân Mễ gian (phản bội quốc gia Mễ). Sự tàn ác của Santa Anna gợi lòng căm thù đối với toàn dân Texas.

- Texas thắng lợi giành được độc lập, tách rời khỏi Mễ Tây Cơ

trong trận đánh San Jacinto vào ngày 21 tháng 4 năm 1836, quân Texas đã hoàn toàn rửa nhục được những trận đại bại trước kia. Lực lượng 8 trăm quân Texas dưới quyền chỉ huy của tướng San Houston đã làm cho đạo quân Mễ đông đảo hơn phải kinh ngạc. Thét lên những tiếng thét “Hãy nhớ đồn Alamo! Đừng quên Goliad!” quân Texas giết và bắt sống gần hết quân Mễ tại đây. Chính Santa Anna cũng bị bắt trong trận này. Trận đại thắng này chấm dứt cuộc chiến. Quân Mễ buộc phải rút lui về phía bên kia bờ sông Rio Grande. Texas giành được độc lập. Năm 1836, nước Cộng Hòa Texas với ngọn cờ độc tú được thành lập. Ông San Houston, cựu thống đốc tiểu bang Tennessee trở thành vị Tổng thống đầu tiên của quốc gia này. Đệ nhất quốc hội của cộng hòa Texas nhóm họp tại Columbia. Sau này thủ đô của xứ Texas được thiết lập tại một địa điểm nằm trên bờ sông Colorado và được đặt tên là Austin, để kỷ niệm và tôn kính ông Stephen F. Austin, “cha đẻ ra xứ Texas”.

- Texas gia nhập Cộng đồng Liên bang

Dân Texas không muốn xứ Texas là một quốc gia cộng hòa độc lập lâu dài. Họ tự coi họ là người Hoa Kỳ, và mong muốn Texas phải là một phần của quốc gia Hoa Kỳ. Hơn nữa, vì Mễ Tây Cơ từ chối không chịu nhìn nhận nền độc lập của họ nên họ cảm thấy không được yên ổn. Năm 1836, Texas đệ đơn lên Quốc hội xin sáp nhập vào lãnh thổ Hoa Kỳ, nhưng có nhiều người Hoa Kỳ lại chống lại dữ dội việc thâu nhận Texas vào Cộng đồng Liên bang. Những người chống đối nói rằng Texas là một tiểu bang chấp nhận chế độ nô lệ, thâu nhận Texas vào Cộng đồng Liên bang có nghĩa là làm cho số tiểu bang chấp nhận chế độ nô lệ nhiều hơn số tiểu bang chống chế độ nô lệ. Nhiều người Mỹ khác cũng phản đối vì họ cho rằng Mễ Tây Cơ còn đòi chủ quyền ở Texas, và đe dọa sẽ sử dụng đến chiến tranh, nếu Hoa Kỳ chấp nhận Texas. Hậu quả là Thượng viện từ chối không chấp thuận đơn xin gia nhập vào Cộng đồng Liên bang của Texas.

Nước Cộng Hòa độc tú độc lập kéo dài gần 10 năm. Tuy nhiên, vào năm 1845, sau khi ông Polk đắc cử Tổng thống, tinh thần chống việc thâu nhận Texas đã giảm đi nhiều. Tháng chạp năm 1845, Texas được thu nhận vào Cộng đồng Liên bang. Ngày nay dân Texas gọi tiểu bang của họ là tiểu bang độc tú, và ngọn cờ độc tú vẫn còn phất phới tung bay.

Dân Texas rất hãnh diện về công cuộc tranh đấu oai hùng giành độc lập và chế độ Cộng Hòa ngày xưa của họ.

¨ CHIẾN TRANH BÙNG NỔ GIỮA HOA KỲ VÀ MỄ TÂY CƠ

- Mễ Tây Cơ bất bình về việc sát nhập Texas

Như chúng ta đã biết là Mễ Tây Cơ không bao giờ chịu công nhận nền độc lập của Texas. Đồng thời, Santa Anna cũng cho chính phủ hay rằng Hoa Kỳ sát nhập Texas có nghĩa là Hoa Kỳ tiến đến chiến tranh với Mễ Tây Cơ. Khi Texas gia nhập Cộng đồng Liên bang thì Mễ Tây Cơ rất căm giận Hoa Kỳ. Mễ Tây Cơ cho rằng ngay từ lúc đầu, Stephen Austin đã có ý tranh đấu giành Texas cho Hoa Kỳ. Vấn đề còn trở nên tệ hơn nữa là Texas còn mạnh bạo đòi chiếm miền phía Tây biên thùy sông Rio Grande. Mễ Tây Cơ khẳng định rằng Cộng hòa Texas chỉ có thể bao gồm giải đất xa về phía Nam và xa về phía Tây tới tận sông Nueces thôi.

- Người Hoa Kỳ nhòm ngó Tân Mễ Tây Cơ

Việc sát nhập Texas đồng thời cũng gây nên một hậu quả khác nữa. Những người Hoa Kỳ mong muốn Hoa Kỳ phải mở rộng lãnh thổ, bắt đầu nhòm ngó đến vùng đất thuộc về Mễ Tây Cơ ở ngoài lãnh thổ Texas. Các thương gia Hoa Kỳ thường lui tới qua lại Tân Mễ Tây Cơ qua các ngã đường mòn Santa Fe. Hàng năm có hàng đoàn xe lũ lượt khởi hành từ Independence, thuộc tiểu bang Missouri, băng qua đại đồng bằng (nơi mà ngày nay gọi là Kansas) để tiến tới Santa Fe ở Mễ Tây Cơ. Thị trấn này quá xa đối với những nơi cung cấp các hàng hóa của Mễ Tây Cơ nên dân định cư phải mua hầu hết các hàng hóa của thương gia Hoa Kỳ mang tới. Mặc dầu hầu hết các thương gia này kiếm được rất nhiều lời và lại trở về quê nhà, nhưng cũng có một số người ở lại Santa Fe. Người Hoa Kỳ bắt đầu mong muốn toàn thể vùng này trở thành một phần lãnh thổ của Hoa Kỳ.

- Người Hoa Kỳ nhòm ngó vào California

Vùng đất California cũng thuộc về Mễ Tây Cơ và có nhiều dân đến đây định cư hơn là ở các vùng đất khác trong xứ Mễ Tây Cơ. Khu định cư đầu tiên do các nhà truyền giáo thành lập ở California vào thời kỳ người Tây Ban Nha thống trị xứ Mễ Tây Cơ. Các nhà truyền giáo thành lập 21 trung tâm truyền giáo rải rác từ San Diego chạy dài lên phía Bắc xa hơn San Francisco để truyền giáo trong đám dân da đỏ. Quân sĩ Tây Ban Nha trấn đóng các đồn ải ở gần các trung tâm truyền giáo. Có nhiều người da đỏ đến các trung tâm này sinh sống dưới quyền hướng dẫn của các tu sĩ truyền giáo. Không bao lâu, các thị trấn của người Tây Ban Nha phát triển ở chung quanh các trung tâm truyền giáo. Nhiều người Tây Ban Nha giàu có cũng đến California lập nghiệp. Họ chiếm những khu đất rộng lớn, nuôi ngựa, nuôi súc vật và trồng trọt. Họ có những thổ dân da đỏ làm việc cho họ, và công việc làm ăn của họ tiến hành tốt đẹp. Họ rong ruổi trên lưng những con ngựa tốt đẹp và ăn mặc sang trọng như những ông bà quý tộc ở Tây Ban Nha. Tuy nhiên, họ rất ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Hẳn các bạn còn nhớ rằng chính quyền Tây Ban Nha chỉ cho phép người Tây Ban Nha định cư ở trong các thuộc địa của họ, và không muốn để cho người Tây Ban Nha giao dịch, buôn bán với các quốc gia khác. khi Mễ Tây Cơ chiếm các vùng đất lãnh thổ của Tây Ban Nha, việc buôn bán, giao dịch với các quốc gia khác được khuyến khích. Người Hoa Kỳ thấy rằng việc buôn bán ở California có thể mang lại cho họ rất nhiều lợi. Nhiều tàu thuyền đi vòng quanh mũi Horn để tiến tới các hải cảng ở California. Cũng có nhiều thương gia khác vượt đường bộ đến California. Lại có nhiều người Hoa Kỳ khác cùng đi với các đoàn thương gia này đến thiết lập các nông trại. Vào năm 1846, số người Hoa Kỳ sinh sống ở California lên đến hàng ngàn. Giống như những người Hoa Kỳ khác, những người Hoa Kỳ đến sinh sống ở California cũng thích sống dưới chính quyền riêng của họ. Người ta bàn tán rất nhiều về việc sát nhập California vào Hiệp chủng quốc. Thực ra, có nhiều người Hoa Kỳ chủ trương muốn sát nhập California và Tân Mễ Tây Cơ vào lãnh thổ Hoa Kỳ dù phải chấp nhận chiến tranh.

- Chiến tranh với Mễ Tây Cơ bùng nổ

Sự căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ càng trở nên dữ dội hơn. Tình thế như đã rất thuận tiện cho chiến tranh bùng nổ. Cuối năm 1845, Tổng thống Polk gửi một vị đặc sứ đến Mexico City với đề nghị là Hoa Kỳ mua Mễ Tây California và Tân Mễ Tây Cơ. Nhưng chính phủ Mễ Tây Cơ từ chối cả đến việc tiếp kiến vị đặc sứ Hoa Kỳ. Đầu năm 1846, khi hay tin về vụ này, Tổng thống Polk quyết định hành động chống lại Mễ Tây Cơ. Với một đạo quân nhỏ, tướng Zachary Taylor đã bảo vệ được sông Nueces trong nhiều tháng. Bấy giờ Tổng thống Polk hạ lệnh cho tướng Taylor mang quân tới bờ sông Rio Grande. Một đạo quân Mễ Tây Cơ vượt dòng sông này tiến sang tấn công Hoa Kỳ. Khi tin này tới Hoa Thịnh Đốn, Quốc hội thể theo lời đề nghị của Tổng thống Polk tuyên chiến với Mễ Tây Cơ vào đầu tháng 5 năm 1846.

- Hoa Kỳ xâm lăng Mễ Tây Cơ

Cuộc chiến tranh kéo dài 2 năm này là một cuộc chiến tranh một chiều. Tướng Taylor mang quân vượt sông Rio Grande tiến vào miền Bắc Mễ Tây Cơ, và đầu năm 1847, ông đánh bại được đạo quân của Santa Anna ở Buena Vista. Trong khi đó, đạo quân của tướng Winfield Scott từ New Orleans dùng đường biển tiến đến đổ bộ vào Veracruz ở trên bờ biển Mễ Tây Cơ. Từ đó, ông đánh mở đường ngược lên vùng núi nhằm đường tiến vào Mexico City. Khi quân đội của tướng Scott tiến tới tòa lâu đài cổ Chapultepec, và cũng là pháo đài ở gần Mexico City thì ông kêu gọi đồn này phải đầu hàng. Trong đám quân sĩ bảo vệ pháo đài này có chừng 100 sinh viên sĩ quan của trường võ bị quốc gia. Khi vị chỉ huy trưởng pháo đài này cho biết nhất định không đầu hàng, quân Mỹ tấn công mạnh và chiếm được pháo đài Chapultepec. Những sinh viên sĩ quan Mễ này đã anh dũng hy sinh trong công cuộc bảo vệ đồn này và trở thành anh hùng của dân tộc Mễ, giống như những người anh hùng Hoa Kỳ trước kia đã chết đi một cách oanh liệt để bảo vệ thành Alamo. Ngày 14 tháng 9 năm 1847, quân đội Mỹ tiến vào Mexico City. Chiến tranh thực tế chấm dứt.

- Chinh phục California và Tân Mễ Tây Cơ

Trong khi các trận đánh đang diễn ra quyết liệt ở Mễ Tây Cơ thì quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng California và Tân Mễ Tây Cơ. Việc này không gặp khó khăn vì rằng:

1. Các vùng này ở xa Mexico Ciyt

2. Chỉ có một số ít quân sĩ Mễ bảo vệ các vùng này.

Ngay khi chiến tranh vừa bùng nổ, đại tá Stephen W. Kearny đem một đạo quân tiến vào Santa Fe. Sau khi chiếm được thành phố này mà không phải đánh một trận nào, một toán trong đạo quân của ông hướng về phía Tây vượt sa mạc tiến vào California. Trong khi đó, những người Hoa Kỳ sinh sống ở California đã chuẩn bị sẵn sàng để lật đổ chính quyền Mễ. Cuộc nổi loạn này được mệnh danh là cuộc cách mạng mang cờ con gấu, vì rằng lúc bấy giờ người Hoa Kỳ mang cờ có hình con gấu xám. Ông John C. Fremont, một sĩ quan trong quân đội Hoa Kỳ ở California, trở thành nhà lãnh đạo nước Cộng hòa cờ con gấu. Ngay khi quân đội của đại tá Kearny tới đây thì cuộc nổi loạn bùng nổ. Sau một vài trận đụng độ với dân Mễ, quân đội của ông chiếm đóng toàn thể California. Cờ con gấu được thay thế bằng cờ sao sọc của Hoa Kỳ [11]. Như vậy ngay từ đầu cuộc chiến tranh với Mễ Tây Cơ, Hoa Kỳ đã kiểm soát được California và Tân Mễ Tây Cơ.

¨ HOA KỲ CHIẾM HẾT TẤT CẢ MIỀN TÂY NAM

- Chiến tranh đã mang lại cho Hoa Kỳ vùng đất rộng lớn bao la

Tháng 2 năm 1848, chính phủ Mễ Tây Cơ buộc phải cầu hòa. Mễ Tây Cơ buộc lòng phải chấp nhận sông Rio Grande làm ranh giới. Như vậy, có nghĩa là Mễ Tây Cơ nhìn nhận Texas thuộc về Hoa Kỳ (Texas vào lúc đó không những chỉ bao gồm có Texas ngày nay, mà còn choán luôn phần lớn các tiểu bang New Mexico, Colorado, Oklahoma, Wyoming và Arkansas). Theo hòa ước chấm dứt chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ thì Mễ Tây Cơ phải trao cho Hoa Kỳ một vùng đất rộng lớn gọi là “Nhượng địa Mễ Tây Cơ”. Vùng đất này bao gồm các tiểu bang California, Nevada, Utah, phần lớn tiểu bang Arizona, và phần lớn các tiểu bang New Mexico, Wyoming và Colorado. “ Nhượng địa Mễ Tây Cơ”rộng lớn gần bằng nửa lãnh thổ Mễ Tây Cơ. Bù lại Hoa Kỳ phải trả cho Mễ Tây Cơ 15 triệu tiền mặt và trả cho người Hoa Kỳ 3 triệu 250 ngàn mà chính phủ Mễ Tây Cơ còn thiếu của họ.

Không lấy gì làm khó hiểu về việc Mễ Tây Cơ thù ghét người Hoa Kỳ. Họ đã mất đi một vùng đất vô cùng rộng lớn. Mặc dầu ngày nay Mễ Tây Cơ là nước bạn tốt của Hoa Kỳ, nhưng sau cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ, người dân Mễ vẫn còn không thích người Hoa Kỳ trong nhiều năm.

- Hoa Kỳ mua thêm đất của Mễ Tây Cơ

Năm 1853, Hoa Kỳ trả cho Mễ Tây Cơ 10 triệu Mỹ kim để mua giải đất nằm ở phía Nam của vùng mà ngày nay gọi là New Mexico và Arizona. Hoa Kỳ rất cần vùng đất này để làm các đường xa lộ và thiết lộ chạy dài tới vùng duyên hải phía Tây. Vì việc mua đất này do một người Hoa Kỳ tên là Gadsden thu xếp cho nên vùng đất này được gọi là “vùng đất do ông Gadsden mua” (The Gadsden purchase). Như vậy chỉ trong vòng mấy năm, Hoa Kỳ đã chiếm được cả một giải đất rộng mênh mông chạy dài tới biên giới ở miền Tây Nam ngày nay.

¨

PHẦN BỐN

VIỆC KHÁM PHÁ RA VÀNG Ở CALIFORNIA ĐƯA ĐẾN VIỆC CALIFORNIA GIA NHẬP CỘNG ĐỒNG LIÊN BANG

Nhượng địa Mễ Tây Cơ đối với những người ham đi tìm đất định cư quả là một giải đất rộng bao la đang chờ đợi họ. Dân đi lập nghiệp người Hoa Kỳ rất thích vùng đồi núi khô khan chiếm phần lớn miền Tây Nam này. Tuy nhiên, lúc đó họ vẫn chưa nhận thức được giá trị của vùng đất này về phương diện chăn nuôi. Họ cũng không biết vùng này có các mỏ đồng, mỏ vàng và mỏ bạc, cho nên vùng đất này đã bỏ mặc cho người da đỏ trong nhiều năm. Thực sự mãi tới năm 1912 mới có đủ dân số ở New Mexico và Arizona để thành tiểu bang. Câu chuyện về California lại khác hẳn. Ngay khi California được sát nhập vào lãnh thổ Hoa Kỳ, một sự khám phá kỳ thú đã khiến cho dân chúng đổ xô đến vùng này.

- Khám phá ra vàng ở California

Vào thập niên 1840, có một người tên là John Sutter sinh sống ở California, gần thị trấn Sacramento ngày nay. Thuở thiếu thời ông Sutter sống ở Thụy Sĩ. Có sức khỏe và hiếu động, ông hướng về Tân thế giới rồi đi Mỹ châu tìm cơ hội làm giàu. Năm 1839, ông đến định cư ở California và ở đây ông tậu được một khu đất rộng. Như một vương quốc ở chốn hoang vu, ông Sutter cai trị một vùng đất bao la rộng tới hơn ngàn mẫu và có hàng trăm thổ dân da đỏ. Ông trồng lúa mì, bắp và nuôi gia súc cùng với ngựa và cừu.

Vào một buổi chiều mưa đầu năm 1848, ông James Marshall đến thăm ông. Ông James Marshall đang thiết lập một nhà máy cưa cho ông Sutter ở một nơi cách đó vài dặm. Ông Marshall thích thú đến nín thở và yêu cầu được gặp một mình ông Sutter thôi. Dưới đây là một đoạn văn mà ông Sutter ghi lại về chuyện ông Marshall đến thăm ông:

“Tôi ngạc nhiên thấy ông ấy tới. Mới trước đó một ngày, tôi đã gửi tất cả các đồ dùng cho ông ấy rồi. Tôi không thể hiểu được mục đích của cuộc viếng thăm bất ngờ này của ông ta. Tuy nhiên, tôi cũng dẫn ông ta từ văn phòng về phòng riêng của tôi- phòng khách và phòng ngủ của tôi – tôi đóng cửa lại.

Marshall nói: “Ông đóng cửa lại rồi chứ?”

Tôi trả lời: “Không, nếu ông muốn thì tôi sẽ đóng lại”. Ông ta quả là một anh bạn kỳ lạ, và với cung cách này tôi nghĩ rằng ông ta muốn nói với tôi một chuyện bí mật.

Sau đó, ông ta nói với tôi bằng một giọng rành mạch rõ ràng “Chỉ có một mình chúng ta thôi chứ?”

Tôi trả lời: “Chắc chắn là như vậy rồi”.

Ông Marshall lại yêu cầu tôi lấy ra một cái cân.

Tôi nhún vai và nghĩ đến việc chiều lòng ông ta, chính tôi đi kiếm một cái cân. Khi trở lại, tôi quên không khóa cửa lại. Marshall vội moi trong túi quần một cái gói bọc bằng vải trắng. Vừa đúng lúc ông ta mở gói đó ra để chỉ cho tôi một vật gì ở trong đó thì người thư ký của tôi chợt mở cửa đi vào làm một cái gì đó, và hắn cũng không nhận ra chúng tôi đang ở trong phòng này.

Marshall la lên: “Kìa, tôi đã nói với ông là chúng ta không nên để người khác nghe chuyện mà!”. Ông ta chụp lẹ làng cái gói vải đó đút vào trong túi quần của ông ta. Để làm cho ông ta yên lòng, tôi ra lệnh cho người thư ký đến bất ngờ này đi ra và tôi khóa cửa lại, nhưng óc tò mò của tôi nổi dậy.

Ông Marshall lại lôi cái gói ấy ra. Ông ta cẩn thận mở lớp vải ở ngoài ra rồi cầm lên chìa ra trước mặt tôi. Số lượng của gói đó độ chừng một lượng rưỡi (1 ounce ½) bụi vàng- bụi có, vẩy có, và hạt cũng có- những miếng lớn nhất không lớn hơn hạt đậu, và những hạt nhỏ nhất nhỏ hơn cả đầu kim.

Ông Marshall thì thầm: “Tôi cho rằng đó là vàng”. Mắt ông ta sáng lên và long lên sòng sọc, “nhưng những người ở nhà máy cưa cười tôi, và bảo rằng tôi điên”. Tôi xem xét lại kỹ hơn.

Sau đó tôi nói: “Phải rồi, giống như vàng, lại đây chúng ta thử xem…”

Cuộc thí nghiệm cho ta thấy rằng ông Marshall đã khám phá ra vàng.

- Những người đi tìm vàng đổ xô đến California

Không bao lâu, tin khám phá ra vàng lọt ra ngoài. Tin lan truyền ra hàng xóm, rồi lan rộng ra khắp cả California. Vào khoảng năm 1849, tin này lan truyền khắp nước Mỹ rồi khắp thế giới. Hàng ngàn dân phiêu lưu từ bỏ cửa tiệm, nông trại, văn phòng, lũ lượt đổ xô đến California. Trong khi người ta chỉ cần mất vài tuần làm việc ở mỏ vàng là có thể trở nên giàu có thì tại sao người ta lại phải cặm cụi làm việc suốt cả đời chỉ đủ kiếm sống thôi? Khách lạ lũ lượt kéo đến vùng đất của ông John Sutter. Người ta cắm trại trên đồng ruộng của ông ta, dẫm nát cả mùa màng, ăn cắp ngựa và gia súc của ông. Thành phố Sacramento ngày nay được thành lập là nằm trên đất đai của ông Sutter. Khu định cư vào tháng 4 năm 1848 chỉ có 4 căn nhà, thế mà trong một thời gian ngắn đã trở thành một thị trấn gần 10 ngàn dân. Người ta gọi những người đổ xô đến California đi kiếm vàng là những người 49. Những người này không giống những người Hoa Kỳ bình thường đi lập nghiệp. Họ là những người vô gia đình, phiêu lưu đi tìm vàng để làm giàu. Trong đám này, có những quân cờ bạc chuyên nghiệp cùng những tên tội phạm liều mạng, và cũng có những người tử tế.

- Những người đi tìm vàng đến California bằng đường bộ và bằng đường biển (xem hình trang 399)

Những người “49” đến California bằng nhiều đường khác nhau. Nhìn vào bản đồ, các bạn sẽ thấy rằng thị trấn Independence thuộc tiểu bang Missouri là điểm xuất phát cho những người dùng đường bộ. Từ đây người ta có thể dùng con đường mòn xưa cũ để đi Santa Fe, rồi vượt qua các sa mạc ở New Mexico, Arizona và California. Đi con đường này phải mất tới hai tháng, và những người đi theo con đường này phải chịu nóng nực và khát nước vì thiếu nước. Nhiều người “49” đi theo con đường mòn Oregon tới tận Đại Hồ Muối (Great Salt Lake). Từ đó, băng qua các sa mạc và vượt qua các dãy núi ở miền Bắc California. Những người này phải liều mạng ghê gớm, bất chấp cả sự nguy hiểm, như tuyết đổ vào mùa đông ở các vùng núi. Cả hai con đường xuyên lục này đều khó khăn cả. Những người đi tìm vàng cũng có thể dùng đường biển tới California. Con đường an toàn nhất nhưng lại lâu nhất là con đường đi vòng quanh mũi Horn ngược lên phía Bắc tới San Francisco. Vì đi con đường này phải mất từ 6 đến 9 tháng nên nhiều người 49 chọn con đường mau hơn bằng cách đi qua ngã Panama. Đủ mọi loại tàu chứa đầy ních những người chạy từ bờ biển Đại tây dương tới bờ biển phía Đông, eo đất Panama. Từ đây, họ vượt qua eo đất bằng cách băng rừng và lội qua các đầm lầy để đi tới bờ biển Thái bình dương. Nhiều người bị muỗi mòng, sâu bọ cắn đốt đến nỗi bị ngã bệnh hay phải bỏ mình vì bị nhuốm bệnh sốt rét. Những người sống sót lên tàu đi San Francisco.

- Đời sống ở California vào năm 1849 rất thô bạo

Những người đi tìm vàng từ San Francisco đổ xô vào sâu trong nội địa, tới các dòng sông, sườn núi, bất kể nơi nào mà người ta tìm thấy vàng. Họ cắm cọc nhận phần đất, rồi đào sỏi đá đem rửa lấy vàng. Đời sống ở nơi hầm mỏ thật là cơ cực và thô bạo. Người nào chiếm đất của người khác thì bị tòa án khu mỏ xét xử và trừng phạt. Người nào ăn cắp vàng sẽ bị xử giảo. Đánh nhau, trộm cướp, giết người là những chuyện rất thông thường ở trong các khu trại mỏ. Các trại mỏ thường mang những tên kỳ lạ như là Hangtown, Youbet, Red Dog và Ground Hog Glory. Chỉ trong vòng 10 năm, số vàng tìm được ở California lên tới 500 triệu Mỹ kim. Nhiều người đến đây từ năm đầu vào khi có nhiều vàng đã trở nên giàu có. Những người đến trễ gặp nhiều khó khăn thường lại trở về quê cũ. Nhiều người sớm nhận ra rằng họ có thể kiếm tiền bằng cách bán thực phẩm và các đồ cần dùng cho những người đi đào mỏ vàng hơn là đi đào vàng. Những người đi đào vàng mang những bị đựng bụi vàng, và khi họ đi mua đồ họ trả bằng lạng vàng thay vì trả bằng mỹ kim. 50 xu một trái trứng, 1 mỹ kim một cân hành, 50 xu một ổ bánh mì, 100 mỹ kim một đôi giày.

Giải trí chính của những người đào vàng là cờ bạc, uống rượu và đua ngựa. Bạn hãy tưởng tượng là khó khăn biết bao trong việc giữ gìn trật tự ở những nơi mà hàng ngàn người đổ xô đến làm giàu bằng đủ mọi phương cách kể cả phương cách gian trá. Tội ác ở San Francisco thì thật là đặc biệt trầm trọng ghê gớm. Người người từ khắp ngã trên thế giới đi tìm vàng đều ghé nơi đây. San Francisco phát triển mau lẹ. Nhà trọ, khách sạn, phòng trà đều được dựng lên vội vã để cung ứng cho nhu cầu của từng đoàn và từng người đi kiếm vàng. Những quân cờ bạc chuyên nghiệp, những tên tội phạm, những kẻ liều mạng đổ xô tới đây để kiếm mối trong đám những người đi đào vàng. Giết người xảy ra hàng ngày. Để tự vệ, một số những người dân tuân theo luật pháp thành lập ủy ban để giữ trật tự. Họ gọi là ủy ban canh phòng. Nhiều tên tội phạm liều mạng bị bắt đem xử và bị treo cổ. Nhiều tên khác thoát khỏi thành phố trước khi bị bắt.

- California trở thành một tiểu bang

Vào khoảng cuối năm 1849, California đã bành trướng đủ mạnh, và nhân dân California soạn thảo hiến pháp. Tháng 9 năm 1850, California được thâu nhận vào Cộng đồng Liên bang như là một tiểu bang tự do (không chấp nhận chế độ nô lệ). Vì sự di chuyển chậm chạp nên phải mất hơn một tháng sau thì California mới được tin này.

Vào khoảng năm 1860, California có tới 380 ngàn dân, hầu hết dân cư sinh sống ở phía Bắc tiểu bang. Con số này lớn gấp 10 lần dân số trước khi đó 10 năm. San Francisco đã trở thành thị trấn quan trọng với dân số hơn 50 ngàn người. Tới khi vàng không còn có nhiều nữa, nhiều khu trại trở nên hoang vắng và được gọi là thị trấn ma. Nhưng nhiều khu mỏ khác lại phát triển thành những cộng đồng sầm uất: Stockton và Sacramento ở ngay lối vào của các vùng mỏ vàng cho nên phát triển mau chóng. Hangtown được đổi tên thành Placeville và trở thành một khu định cư. Los Angeles và San Diego ở miền Nam không bị ảnh hưởng bởi phong trào đi tìm vàng. Hai thị trấn vẫn còn là những thị trấn nhỏ im lìm trong nhiều năm.

- Đoạn đường xuyên lục nối liền California với miền Đông

California cách xa các vùng đã được định cư ở Hoa Kỳ hàng hai ngàn dặm. Lẽ tự nhiên là những du khách từ duyên hải miền Đông không muốn tốn thời giờ tới nhiều tháng trời để đi đường. Cho nên người ta đã thiết lập những con đường xe thổ mộ chạy dài từ bờ sông Missouri tới các trạm ở California. Quan trọng nhất trong các con đường này là con đường chạy thư xuyên lục dùng để chuyển thư từ và chuyên chở hành khách từ Missouri tới San Francisco.

Những chiếc xe thổ mộ mệnh danh là xe Concord và dùng tới 4 hay 6 ngựa kéo và có thể chở được tới 9 hành khách và 3 túi thơ. Những chiếc xe này liên tục chạy ngày đêm và chỉ ngừng ở lại các trạm bên đường cách nhau chừng 10 đến 15 dặm để đổi ngựa. Cước phí chừng 200 mỹ kim cho một lượt đi cho một hành khác, và phải mất chừng 20 đến 25 ngày mới tới nơi. Đường đi rất nguy hiểm. Đôi khi dân da đỏ tấn công xe, cướp của, cướp ngựa và giết hại hành khách. Nguy hiểm khác đáng sợ nữa là quân cướp đường mai phục xe. Đặc biệt nhất là những xe chuyên chở vàng từ các vùng mỏ vàng mang về. Nhiều hành khách bị những quân liều mạng này cướp đoạt mất nhiều túi vàng. Không hài lòng với đồ cướp được, chúng còn thản nhiên giết hại nạn nhân của chúng.

- Ngựa chạy thư tốc hành

Tuy nhiên, đối với những thư từ quan trọng thì xe thổ mộ quá chậm. Năm 1860, người ta thiết lập hệ thống chạy thư tốc hành. Ngựa chạy tốc hành theo kiểu này chỉ cần mất từ 8 đến 12 ngày để vượt đoạn đường từ Saint Joseph, Missouri, tới Sacramento thuộc tiểu bang California. Người ta phải tuyển lựa rất cẩn thận những người đi ngựa tốc hành này. Những người này cần phải chịu khó và can đảm, vì họ phải băng qua các bãi sa mạc rộng mênh mông vượt qua các rặng núi, phải chịu đựng chống chọi với nhiều loại khí hậu khác nhau, và họ phải chiến đấu chống lại quân cướp đường và người da đỏ. Người chạy thư tốc hành này phải mặc áo bằng da hoẵng, mang súng trường và dao trận để tự vệ. Họ đi những đoạn đường dài hàng trăm dặm, chạy với tốc độ nhanh nhất, lao tới những trạm kế tiếp cách nhau từ 10 đến 15 dặm để đổi ngựa. Tới nơi, họ vội vã chuyển các túi thơ và nhảy sang ngựa mới rồi lại chạy như bay. Thời gian không tới 2 phút là họ đã chuyển xong sang ngựa mới. Người cưỡi ngựa tốc hành giỏi nhất chạy được 120 dặm trong 8 tiếng đồng hồ, dù bị quân da đỏ làm cho bị thương ở dọc đường.

Mark Twain đã đi về miền Tây bằng xe thổ mộ, ông viết đoạn văn dưới đây nói về cảm giác phải rùng mình khi nhìn thấy người cưỡi ngựa tốc hành.

“Ngay từ lúc khởi hành, chúng tôi đã có ý muốn xem người cưỡi ngựa tốc hành. Nhưng dù thế nào đi nữa, tất cả những ngựa tốc hành chạy qua chúng tôi đều nhanh như tia chớp lóe ra trong đêm tối, nên chúng tôi chỉ nghe thấy những tiếng rít, tiếng vèo nhanh như bóng ma ở sa mạc rồi biến đi trước khi chúng tôi có thể thò đầu ra ngoài cửa xe để ngó xem. Nhưng bây giờ chúng tôi có thể hy vọng đi theo nó trong một lúc lâu. Tôi có thể nhìn thấy nó trong ban ngày. Người tài xế la lên: “Hắn tới đây rồi”. Mọi người đều ngoảnh cổ ra và mọi con mắt đều mở rộng nhìn cánh đồng cỏ phẳng lì chạy dài vô tận. Một chấm đen xuất hiện nổi bật lên giữa khung trời, và rõ ràng là nó đang di động. Phải rồi, tôi nghĩ như vậy. Trong vòng một vài giây đồng hồ, chấm đen hiện lên là một con ngựa và một người cưỡi, nhấp nhô chồm lên, lao xuống, rồi lại chồm lên và lao xuống, tiến về phía chúng tôi càng lúc càng gần hơn và gần hơn nữa. Tiếng động của móng ngựa tới tai chúng tôi một cách yếu ớt. Chúng tôi lại nghe thấy tiếng la lớn, tiếng hoan hô ở trên nóc xe của chúng tôi. Một cái vẫy tay của người đi ngựa tốc hành nhưng ông ta lại không nói gì…Người và ngựa vút qua trước mắt chúng tôi nhanh như một luồng gió của trận cuồng phong còn rớt lại”.

Việc sử dụng ngựa tốc hành lâu chừng một năm. Tuy nhiên, trong thời gian ngắn ngủi này, những người cưỡi ngựa tốc hành đã trở thành những khuôn mặt quyến rũ trong đời sống Hoa Kỳ. Những hành động anh hùng của những người chạy ngựa tốc hành đã được các văn nghệ sĩ nói nhiều đến trong các tác phẩm văn chương cũng như trong điện ảnh và kịch nghệ. Vào khoảng năm 1861, công ty điều hành ngựa tốc hành thực sự không còn hoạt động nữa, nghĩa là đồng thời với đường điện tín đi San Francisco đã được hoàn thành. Tuy nhiên, người ta vẫn còn tiếp tục sử dụng các loại xe thổ mộ để chuyển vận thư từ cho tới khi đường xe lửa xuyên lục đầu tiên được hoàn thành vào năm 1869.

¨

PHẦN NĂM

HOA KỲ ĐÃ CHIẾM MỘT PHẦN CỦA XỨ OREGON

NHƯ THẾ NÀO?

Giả thử rằng bản đồ ở trang dưới đây là một trò chơi lắp hình. Trò chơi này gồm có 4 miếng gỗ thay thế cho 4 giai đoạn mà Hoa Kỳ bành trướng lãnh thổ về phía Tây từ vùng đất Louisiana cho đến khi lãnh thổ được mở rộng đến tận bờ biển Thái bình dương. Cho đến chương này, các bạn đã hiểu biết về lịch trình diễn tiến sát nhập thêm 3 miếng gỗ (ba vùng đất). Việc sát nhập Texas, nhượng địa Mễ Tây Cơ và vùng đất do ông Gadsden mua. Miếng gỗ (vùng đất) còn lại gọi là Oregon. Miếng gỗ Oregon vừa khít với trò chơi lắp hình này như thế nào?

- Bốn quốc gia cùng đòi chiếm xứ Oregon

Tất cả vùng đất nằm giữa Alaska và California gọi là xứ Oregon. Giải đất này với những núi non gấm vóc, thung lũng phì nhiêu và chằng chịt sông ngòi có biết bao thú rừng. Vào khoảng đầu thế kỷ thứ XIX có 4 quốc gia đều đòi quyền chiếm vùng đất này.

1. Tây Ban Nha bảo rằng hầu hết Oregon là của họ bởi vì khi trước Balboa khám phá ra Thái bình dương (năm 1513), ông đã tuyên bố rằng tất cả các vùng đất tiếp giáp với Thái bình dương là của Tây Ban Nha. Sau này, các nhà thám hiểm khác của Tây Ban Nha cũng đã đi di lại lại dọc theo xứ Oregon.

2. Anh quốc cũng đòi rằng Oregon là của họ, vì rằng trong chuyến đi vòng quanh thế giới vào năm 1579, Sir Francis Drake đã đi dọc theo duyên hải xứ Oregon. Và quan trọng hơn nữa là các cuộc thám hiểm của các nhà hàng hải người Anh là các ông James Cook và George Vancouver. Nhà hàng hải Cook đã thám hiểm vùng duyên hải xa hơn về phía Bắc tới tận Alaska. Nhà hàng hải Vancouver đã khám phá ra vùng Puget Sound, và đã đi vòng quanh đảo Vancouver. Chính hòn đảo này đã được đặt theo tên ông để tôn vinh ông.

3. Thế kỷ thứ XVIII nước Nga cũng đòi làm chủ xứ Oregon. Một nhà hàng hải Nga tên là Victus Bering đã khám phá ra eo biển này và ông đã dùng ngay tên ông để đặt tên cho eo biển này. Vượt qua eo biển này, ông đòi quyền chiếm Alaska cho nước Nga. Người Nga thiết lập các thuộc địa ở Bắc Mỹ và săn bắn để lấy da thú dọc theo duyên hải Alaska tới tận phía Nam California.

4. Quốc gia thứ tư cũng đòi quyền làm chủ xứ Oregon là Hoa Kỳ. Nhà hàng hải Robert Gray, người đã mang da thú từ Oregon sang Trung Hoa bán, đã đi ngược lên tới cửa sông Columbia. Công cuộc thám hiểm của các ông Lewis và Clark cũng đã đi tới cửa sông Columbia càng khiến cho Hoa Kỳ vững chắc hơn trong việc đòi quyền chiếm xứ Oregon.

- Các công ty buôn bán da thú cạnh tranh mua da thú ở Oregon

Đầu thế kỷ thứ XIX, các thương gia buôn bán da thú người Mỹ và người Anh đều nhận thấy rằng có thể làm giàu trong việc buôn bán da thú ở Oregon. Người Anh đã thiết lập các cơ sở rộng lớn để buôn bán da thú ở các khu vực chung quanh Đại hồ và vịnh Hudson. Công việc buôn bán này do công ty Hudson Bay kiểm soát. Ông John Jacob Astor là một nhân vật chỉ huy trong cơ sở buôn bán của Hoa Kỳ. Ông từ Đức tới Mỹ châu vào thời kỳ sau chiến tranh cách mạng. Astor mơ ước thiết lập một chặng thương điếm từ sông Mississippi tới bờ biển Thái bình dương. Từ các thương điếm này, da thú được chuyển vận tới một thương điếm ở Oregon rồi từ đó được gửi đi Trung Hoa. Astor tổ chức một công ty Hoa Kỳ buôn bán da thú và mướn các thương gia người Gia Nã Đại và Pháp làm việc cho ông. Năm 1811, nhân viên của ông Astor đã thực hiện một chuyến đi khá khó khăn để đi đến bờ biển Thái bình dương. Họ thiết lập một thương điếm để buôn bán da thú ở gần cửa sông Columbia. Thương điếm này gọi là Astoria. Sau khi công ty Hoa Kỳ thiết lập thương điếm ở đây không được bao lâu thì họ khám phá ra rằng người Anh cũng đã thiết lập một thương điếm ở Spokane thuộc tiểu bang Washington ngày nay. Trong một thời gian ngắn, hai công ty Anh Mỹ này tranh chấp nhau trong việc buôn bán da thú ở xứ Oregon. Nhưng trận chiến tranh 1812 đã thiêu hủy kế hoạch của ông Astor. Lúc đó, người Hoa Kỳ bán hết cổ phần cho người Anh.

- Anh quốc và Hoa Kỳ cùng làm chủ xứ Oregon

Sau trận chiến tranh 1812, cả Anh quốc và Hoa Kỳ đều mạnh mẽ đòi quyền làm chủ xứ Oregon, không bên nào chịu nhượng bộ bên nào. Năm 1818, hai nước cùng đồng ý là cùng chiếm xứ Oregon, thế có nghĩa là hai nước cùng làm chủ xứ Oregon. Liền theo đó, cả Tây Ban Nha lẫn nước Nga đều từ bỏ quyền làm chủ xứ Oregon. Tây Ban Nha đồng ý là không đòi làm chủ các vùng đất nằm ở phía Bắc vĩ tuyến 42, trong khi đó, Nga cũng không đòi chiếm đất đai ở phía Nam vĩ tuyến 54o40. Như vậy, Anh và Hoa Kỳ được tự do tiến hành kế hoạch cùng chiếm xứ Oregon.

- Người Anh đến định cư lập nghiệp ở xứ Oregon trước nhất

Kể từ năm 1818 cho đến 20 năm sau đó không có nhiều người đến xứ Oregon lập nghiệp. Chỉ có một số người buôn bán da thú, những người gan dạ khác ở miền Đông liều vượt quãng đường dài nguy hiểm băng qua các miền đại đồng bằng và núi đồi ở miền Tây. Về phía người Anh, phần lớn do công ty Hudson Bay kiểm soát. Công việc buôn bán da thú ở Oregon đã mang lại cho họ rất nhiều lời. Vào lúc này, xứ Oregon cũng không có một chính quyền bình thường. Trong đồn Vancouver có tiến sĩ John Mc Loughlin là một người Gia Nã Đại được công ty Hudson Bay mướn giữ chức vụ thống đốc. Ông Mc Loughlin là một người tốt, đối xử tử tế với dân da đỏ và sẵn sàng tiếp đón niềm nở những người Hoa Kỳ đến xứ Oregon. Ông tin rằng dân chúng ở Oregon sẽ không trông cậy vào việc buôn bán da thú để làm kế sinh nhai, mà họ sẽ trồng trọt chăn nuôi. Không bao lâu người ta trồng mùa ở những cánh đồng phì nhiêu ở chung quanh đồn Vancouver, và nhiều nông trại được khởi lập ở trong khắp xứ Oregon.

- Người Hoa Kỳ tìm hiểu về xứ Oregon

Mãi đến cuối thập niên 1830 tin tức về miền đất màu mỡ phì nhiêu ở miền Tây Bắc Thái bình dương mới lôi cuốn người Hoa Kỳ. Các tin tức này đã được các nhà truyền giáo truyền đi. Họ là những người đến Oregon truyền giáo trong đám dân da đỏ. Trong đám các nhà truyền giáo này có các ông Henry Spalding và tiến sĩ Marcus Whitman. Năm 1836, hai nhà truyền giáo này cùng với các bà vợ đi đến đồn Vancouver. Ở đây họ được ông John Mc Loughlin đón tiếp niềm nở. Các bà Marcus Whitman và Eliza Spalding là những người phụ nữ da trắng đầu tiên vượt các dãy núi miền Tây để đi đến vùng Tây Bắc.

Ông bà Whitman khởi lập một trung tâm truyền giáo ở Walla gần bờ sông Columbia. Trong suốt 11 năm trời họ đã cố gắng làm việc giúp đỡ dân da đỏ ở vùng này. Sau cùng vợ chồng ông Whitman bị giết hại bởi một số người da đỏ vì họ hiểu lầm công việc làm của gia đình ông. Tuy nhiên, trước khi xảy ra thảm trạng này, vợ chồng ông Whitman cũng đã viết thư gửi về miền Đông trong đó ông nói rõ về vùng đất màu mỡ phì nhiêu này, tả rõ khí hậu, rừng cây và việc đánh cá hồi ở xứ Oregon.

- Người Hoa Kỳ đi theo đường mòn Oregon

Những lá thư và tin tức của gia đình ông Whitman cũng như của những người khác đi tới miền Đông ngay sau khi cuộc khủng hoảng tài chánh vừa phát khởi vào năm 1837 là lúc mà nhiều người bị mất công ăn việc làm và rất chán nản. Liền sau đó, có những toa xe thổ mộ cuồn cuộn tiến về miền Tây. Con đường mà những người đi lập nghiệp này sử dụng là con đường mòn Oregon nổi tiếng. Những người đi lập nghiệp tập trung ở một vài thị trấn ở dọc sông Mississippi như là Independence, St. Joseph hay Omaha. Tại đây, họ kết hợp thành từng đoàn xe để cùng đi và cùng tự vệ chống lại dân da đỏ. Khi cỏ mùa xuân đã cao để cho ngựa và bò của họ có để ăn thì họ bắt đầu khởi hành. Chúng ta hãy cố gắng tưởng tượng đoàn xe lữ hành của đoàn người đi lập nghiệp này như thế nào. Có những người cưỡi ngựa đi trước đoàn xe khá xa để điều nghiên xem đường đi có an toàn hay không. Ngày nào cũng như ngày nào, từ sáng sớm cho đến tối đoàn toa xe che bạt rồi ngựa, rồi bò và các gia súc khác kéo lê trên con đường hướng về miền Tây dài hàng hai ngàn dặm. Đêm đến, các toa xe quây lại thành vòng tròn để đề phòng quân da đỏ đến tấn công. Nếu mọi việc đều tiến hành tốt đẹp, đoàn xe sẽ tới Oregon trước khi tuyết mùa đông đổ xuống dãy núi đá Rockies. Nếu không, họ sẽ không thể nào vượt được các vùng núi có tuyết phủ vào mùa đông. Từ chân rặng núi này, đoàn người phải trèo các dốc đứng để đi đến ngọn đèo ở phía Nam. Họ phải tìm đường để đi băng qua dãy núi Rockies sừng sững như những bức tường thành cao chót vót. Sang phía Tây dãy núi này, họ sẽ còn gặp con sông Green, và từ đây họ đi đến sông Snake. Theo sông Snake, họ đi về phía Bắc và phía Tây, và sau cùng, họ tới sông Columbia xứ Oregon.

- Chia đôi xứ Oregon

Vào đầu thập niên 1840, có tới hàng vạn người Hoa Kỳ đi tới Oregon lập nghiệp. Họ trồng trọt và lập nên những làng xóm nhỏ. Nhưng những người dân đi lập nghiệp này không hài lòng về việc cả Anh quốc lẫn Hoa Kỳ cùng làm chủ xứ Oregon. Giống như những người Hoa Kỳ định cư ở Texas và ở California, họ mong muốn có một chính quyền riêng của họ, và ở Oregon phải là một phần lãnh thổ của Hoa Kỳ. Không bao lâu, cả hai chính phủ Anh và Hoa Kỳ đều nhận thấy rằng kế hoạch đồng quản trị xứ Oregon không còn tiến hành tốt đẹp nữa.

Nhiều người Hoa Kỳ khẳng định rằng Hoa Kỳ phải chiếm toàn bộ xứ Oregon, giống như họ đã la lối ầm ĩ đòi sát nhập Texas cùng toàn thể vùng Tây Nam vào lãnh thổ Hoa Kỳ. Người chiếm kỷ lục về việc đòi Hoa Kỳ phải chiếm toàn bộ xứ Oregon là ông James K. Polk. Khi ra tranh cử Tổng thống vào năm 1844, ông nhiệt liệt ủng hộ cả hai ý nguyện này. Khẩu hiệu được mọi người nêu lên là “chiếm toàn bộ xứ Oregon hay là nhất định không” “Năm mươi bốn, bốn mươi (vĩ tuyến 54o40) hay là phải chiến đấu” đã nói lên tinh thần hăng say của dân chúng muốn chiếm xứ Oregon. Sau khi đắc cử, Tổng thống Polk khởi sự việc chiếm hữu xứ Oregon và miền Tây Nam. Vì có nhiều người Hoa Kỳ dồn dập kéo đến Oregon lập nghiệp cho nên việc buôn bán da thú của người Anh không còn mang lại cho họ được nhiều lời như trước nữa. Chính phủ Anh cũng nhận thức được điều này nên họ sẵn sàng chấp nhận một thỏa hiệp với người Hoa Kỳ chứ không chịu từ bỏ toàn bộ xứ Oregon. Hoa Kỳ cũng sẵn sàng chấp nhận một thỏa hiệp với Anh. Đầu năm 1846, cuộc tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ hầu như có thể đưa tới chiến tranh. Vào lúc này, Tổng thống Polk mà liều đi đến chiến tranh với Anh quốc thì thật là chẳng khôn ngoan chút nào. Cho nên, tháng 6 năm 1846, hai chính phủ Anh và Hoa Kỳ cùng ký kết một thỏa hiệp. Theo thỏa hiệp này thì xứ Oregon được chia thành hai phần. Mỗi phần được trao cho một quốc gia. Đường ranh giới của hai phần này là vĩ tuyến 49. Đường biên giới giữa Hoa Kỳ và Gia Nã Đại trước đây đã được định là vĩ tuyến chạy ngang từ Đại hồ đến rặng núi đá Rockies. Thỏa hiệp năm 1846 chỉ là mở rộng đường biên giới này đến Thái bình dương.

Vùng đất ở vùng Tây Bắc nằm dưới vĩ tuyến 49 được Quốc hội quy định là thổ Oregon. Dân số ở vùng này tiếp tục gia tăng, và năm 1849, một phần của lãnh thổ này được thâu nhận vào Cộng đồng Liên bang với danh nghĩa là tiểu bang Oregon. Phần lãnh thổ còn lại gọi là Washington. Mấy năm sau đó, tiểu bang Washington và Idaho được thành lập.

Trong chương này các bạn đã học về:

1. Việc chiếm được miền Đông và miền Tây Florida của Tây Ban Nha.

2. Texas gia nhập Cộng đồng Liên bang.

3. Chiến tranh với Mễ Tây Cơ để chiếm thêm đất California và vùng Tây Nam.

4. Miền Đông Bắc giáp Thái bình dương thuộc về lãnh thổ Hoa Kỳ.

Cuộc Tây tiến của dân đi lập nghiệp người Hoa Kỳ khởi đầu từ thuở “miền Tây” chỉ cách bờ biển Đại tây dương có vài dặm ở sâu trong nội địa cho đến khi cái “miền Tây” này chạy tới Thái bình dương. Lãnh thổ Hoa Kỳ ngày nay vươn ra chiếm trọn chiều ngang Bắc Mỹ dài tới 2800 dặm, từ Đại tây dương tới Thái bình dương.

 

Chú thích:


[11] Để ghi nhớ nước Cộng hòa có mang cờ con gấu ngắn ngủi, ngày nay ở California, các cột cờ đều mang hai lá cờ: Cờ Hoa Kỳ ở trên và cờ có hình con gấu ở dưới.

 

(xem tiếp : Chương XIX)

 

Trang Lịch Sử