THIỀN SƯ VẠN HẠNH

VÀ SỰ NGHIỆP VIỆT NAM

Lý Khôi Việt

16 tháng 2, 2010

Sau đêm dài man rợ, rùng rợn của thời đại Bắc Thuộc, sau thời  kỳ loạn lạc suy tàn của ba chế độ  pháp trị và bạo trị ngắn ngủi Ngô,  Đinh, Lê, tất cả đều phải được  làm lại, tất cả đều phải được  bắt đầu lại, đó là sứ mạng của thời đại. Trước họa nội chiến, trước nạn ngoại xâm, trước chế độ độc tài, tàn bạo, dân tộc cần được cứu nguy, đất nước cần được quang phục, con người cần được giải phóng.  Đó là tiếng kêu, đó là nhật lịnh của lịch sử. Dưới sự cai trị bạo ác của chế độ Lê Long Đỉnh dân tộc ta bị kéo lê lết, lầm lũi đi xuống vực thẳm, họa nội chiến chực xô đẩy dân tộc xuống đồng lầy, nạn ngoại xâm chực  đạp đầu dân tộc xuống bùn đen.

Thế rồi, trong cơn nguy biến ấy, trong giờ phút hấp hối ấy, bỗng nhiên, Thiền Sư Vạn Hạnh xuất hiện, thần tốc  vung tay, siêu việt chuyển hóa, dũng mãnh  hành hoạt đem

“TRỤ TÍCH TRẤN VƯƠNG KỲ”

(DÙNG GẬY CỦA NHÀ PHẬT ĐỂ  TRẤN GIỮ KINH KỲ CỦA NHÀ VUA)

Bằng  cái thiền trượng mầu nhiệm ấy,  Thiền Sư Vạn Hạnh đã tung mình bay  đến đứng trên bực thẳm, hùng  tráng nhảy vọt qua hố thẳm, bay bổng  qua cánh đầm lầy và Thiền Sư đã  mang cả dân tộc vượt thắng, vượt  qua, vượt lên hố thẳm diệt vong và  đầm lầy suy vi. Không những mang cả dân tộc cùng đi, Thiền Sư Vạn Hạnh còn cõng cả thời đại trên lưng để bay đi kỳ vĩ - từ vực sâu bạo trị, vô trị của các nhà Ngô, Đinh, Lê đến đỉnh cao Văn Trị và Đức Trị của thời đại Lý, Trần, thời đại hưng thịnh nhất, tuyệt vời nhất và vinh quang nhất của dân tộc.

THIỀN SƯ VẠN HẠNH LÀ AI?

 Thiền Sư là một con rồng lớn, bóng  dáng hùng vĩ của Thiền Sư ngã dài che mát cả giòng lịch sử, nhưng hình  tướng của Thiền Sư thì ẩn, khi  hiện, sử sách chỉ để lại vài  ba dấu vết đơn sơ, đơn sơ như  một bức tranh thủy mạc, đơn sơ  như tâm hồn Việt Nam.

Con người lịch sử của Thiền Sư Vạn Hạnh quá vĩ đại, lại bàng bạc như hư không nên các sử gia không thể nào thấy trọn, thấy hết, không những thế, nhiều sử gia đã không hề thấy. Các sử gia ghi rằng:

“Cuối triều Lê, khi Ngọa Triều chết, Vạn Hạnh cùng với triều thần, đứng đầu là Đào Cam Mộc, mưu lập Lý Công Uẩn lên ngôi”.

“Khi Lý Công Uẩn còn bé, sáng suốt  tinh khôn, phong tư tuấn tú khác thường,  Vạn Hạnh thấy biết ông sẽ làm nên  nghiệp lớn và nói rằng: “Người  nầy không phải là người thường,  lớn lên tất làm vua giỏi một nước”.”

“Vạn Hạnh, thiền sư ở chùa Lục  Tổ, thuở nhỏ ông đã khác thường, thông hiểu ba môn học, nhưng coi công  danh phú quý lạt lẽo, năm 21 tuổi xuất  gia với Thầy Đinh Huệ, theo học thiền  ở Chùa Lục Tổ, ngoài giờ phục  vụ, học hỏi quên mệt mỏi. Sau khi tu hành đắc đạo, nói câu nào ắt thành lời sấm”.

Đời sau, nói đến Thiền Sư, người  ta thường nhớ tới bài thơ  tán dương của Vua Lý Nhân Tôn, người lãnh đạo quốc gia, đại diện cho Đời,  đối với Thiền Sư Vạn Hạnh, người  đại diện cho Đạo:

Vạn Hạnh dung tam tế,

Chân phù cổ sấm thi,

Hương quan danh Cổ Pháp,

Trụ Tích trần vương kỳ

 (Thiền sư Vạn Hạnh hợp nhất ba cõi quá khứ, hiện tại, tương  lai;

Đúng như lời thơ tiên tri thời cổ xưa;

Quê hương danh tiếng của thiền sư là làng Cổ Pháp;

Thiền sư đã đem gậy nhà Phật để bảo vệ lãnh thổ Quốc Gia).

Trước khi có cuộc cách mạng năm 1009, Thiền Sư Vạn Hạnh đã đóng một vai trò quan trọng trong triều đình như là cố vấn của nhà vua. Khi quân Tống sang xâm lăng nước ta năm 980, Vua Lê Đại Hành hỏi Thiền Sư nếu đánh thì thắng hay bại, thiền sư trả lời là nội trong ba, bảy ngày thì giặc phải thua chạy. Rồi năm 982, khi quân Chiêm Thành bắt hai sứ giả của ta, Thiền Sư đã khuyên Vua cấp tốc xuất quân Nam chinh thì sẽ đại thắng. Quả nhiên, đối với hai vấn đề trọng đại sinh tử nầy là đương đầu với đế quốc phương Bắc và đánh dẹp phương Nam vào thời ấy đều đúng như lời Thiền Sư  tiên đoán.

Hai việc chính sự kể trên mà Thiền Sư Vạn Hạnh đã tham dự đều xảy ra dưới thời Vua Lê Đại Hành, là một vị minh quân. Đến thời  Lê Long Đỉnh, sử sách không nói  gì đến vai trò của Thiền Sư, có  lẽ Thiền Sư đã đứng ra cố vấn cho minh quân Lê Đại Hành, nhưng  đến thời hôn quân bạo chúa Lê  Long Đỉnh, lên ngôi làm những việc  bạo ác và dã man, xúc phạm nặng  nề đến Phật Giáo như dùng dao róc  mía trên đầu các sư, nên Thiền  Sư đã rút về ẩn trong bóng tối  để âm thầm chuẩn bị một cuộc  đại hành hoạt đưa dân tộc đến  kỷ nguyên ánh sáng. Chính Thiền Sư Vạn Hạnh là linh hồn của cuộc cách mạng bất bạo động vào năm 1009, Thiền Sư đã âm thầm, kiên trì  chuẩn bị và vận động cuộc cách  mạng nầy từ lâu.

Từ thuở  Lý Công Uẩn còn là một chú bé  tóc để chỏm đi làm chú tiểu  ở Chùa Cổ Pháp, gặp chú tiểu  nầy, Thiền Sư bằng tuệ giác đã  biết sau nầy chú bé sẽ trở thành  một minh quân, một bậc vĩ nhân của  dân tộc. Sử chép rằng Lý Công  Uẩn là con nuôi của Thiền Sư Lý  Khánh Vân, trụ trì Chùa Cổ Pháp  và là đệ tử của Thiền Sư  Vạn Hạnh từ thuở còn thơ. Bằng  sử liệu đơn sơ nầy, ta có thể  quả quyết rằng Lý Công Uẩn từ  thuở bé đã lọt vào mắt xanh  của Thiền Sư Vạn Hạnh và đã  được Thiền Sư giáo dục, un đúc,  hướng dẫn để trở thành một  con người lịch sử, làm tròn sứ  mệnh mà dân tộc và đạo pháp  đã giao phó. Khi làm như thế,

Thiền  Sư Vạn Hạnh không phải làm vì Phật  Giáo, vì thời đó, qua ba chế độ  độc lập Ngô, Đinh, Lê thì Phật  Giáo đã là quốc giáo ở Việt  Nam, rõ ràng Thiền Sư đã làm là  vì dân tộc, vì muốn chuyển hóa xã  hội bạo trị thành một xã hội đức  trị, biến một Quốc Gia Việt Nam mong manh,  suy vi thành một Quốc Gia Việt Nam hùng cường,  hưng thịnh. Thiền Sư đã ra tay hành  động, vừa là để tránh cho dân  tộc khỏi rơi vào vực thẳm, khỏi  trầm luân trong đầm lầy và vừa  để xây dựng trên đống tro tàn,  gạch vụn đổ nát của thời Bắc  Thuộc và thời chiến tranh, loạn lạc,  độc tài, bạo trị, một lâu đài  Việt Nam nguy nga, tráng lệ, một sự nghiệp  Việt Nam trường tồn bất tử ngàn  năm. Tuy đã âm thầm chuẩn bị và  vận động cuộc cách mạng 1009 từ  lâu và chuẩn bị trên mọi mặt, từ  sự giáo dục bản thân Lý Công  Uẩn, biến cậu bé khôi ngô tuấn  tú, thông minh khác thường nầy thành  một người tài đức vẹn toàn,  đồng thời thấm nhuần chánh pháp  để có thể trở thành một Quân  Vương Bồ Tát, để trị quốc an dân  theo chánh pháp, đến sự khai thị nhân  tâm, chuẩn bị dư luận quần chúng,  tuyên truyền vận động chính trị bằng  sấm truyền về vai trò lịch sử tất  yếu của Lý Công Uẩn, qua việc thăm dò, móc nối và tổ chức nhân sự để thực hiện cuộc đảo  chánh và sau đó là để tiến hành cuộc cách mạng.

Trong thời kỳ tiền cách mạng, chính Thiền Sư đã làm tất cả thể theo một kế hoạch dài hạn, với một kỷ thuật siêu việt, nhưng đến khi cách mạng xảy ra thì Thiền Sư không làm gì cả. Người ta không thấy Thiền Sư cầm quyền lãnh đạo. Thiền Sư chỉ ngồi yên, mỉm cười bên chén trà hay lặng lẽ cuốc đất hay đã biến mất vào hư không. Sử ghi lại rằng ngày cuộc cách mạnh xảy ra thành công tốt đẹp  và Lý Công Uẩn được suy tôn  lên làm Hoàng Đế thì Thiền Sư  Vạn Hạnh đang ngồi uống trà ở  Chùa Lục Tổ. Thiền Sư đã biết trước việc nầy và nói cho mọi  người trong chùa nghe. Họ vội vàng chạy về kinh đô để nghe tin, thì quả đúng như lời Thiền Sư nói.

Sử  sách và thế gian chỉ ghi rằng Lý Công  Uẩn lên làm vua, Đào Cam Mộc dẹp  yên các phe phái trong triều đình và  quần chúng ủng hộ cuộc cách mạng.  Còn Thiền Sư Vạn Hạnh, người như hạc vàng, đã bay vào vô tận, không để lại dấu vết, hình tướng, chỉ để lại hương thơm muôn thuở trong lòng người và lòng dân tộc.  Không những đối với cuộc cách  mạng năm 1009, và đối vớt tất  cả sự nghiệp vĩ đại khác mà  Thiền Sư Vạn Hạnh đã làm như  dời kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng  Long, kiến thiết kinh thành Thăng Long..., Thiền  Sư đều làm với tinh thần vô kỷ, vô công, vô danh và vô hành. Giúp  dân dựng nước hay hoằng pháp  độ sanh, Thiền Sư đều làm một cách bình dị, tự nhiên như uống trà, cuốc đất, thở ra, thở vào, nằm, ngồi, đi, đứng.

Qua thời đại nhà Lý từ bi, nhân bản và nhân chủ đức trị, qua thành Thăng Long, qua huyền thoại Rồng Tiên và huyền thoại Hồng Bàng, đâu đâu ta cũng thấy bóng dáng siêu thoát, kỳ vĩ của Thiền Sư vạn Hạnh. Chính Thiền Sư Vạn Hạnh đã hoàn thành sự  nghiệp Việt Nam một cách quy mô nhất, toàn diện nhất, ở mức độ  cao đẹp nhất, bao trùm nhất. Sự nghiệp của Thiền Sư Vạn Hạnh không phải là sự nghiệp của Phật Giáo Việt Nam mà thôi, mà còn là và chính là sự nghiệp Việt Nam. Thiền Sư Vạn Hạnh qua những công nghiệp phi thường nầy, đã không làm cho riêng mình, đã làm rất ít cho Phật Giáo và đã làm tất cả cho dân tộc VIỆT NAM.

Điều kỳ diệu là sau khi hoàn thành sự nghiệp lớn lao vô song nầy và giữa thời đại thịnh của dân tộc VIỆT và Đạo Phật VIỆT, Thiền Sư VẠN HẠNH đã để lại cho đời bốn câu thơ siêu thoát và bay mất hút trong cõi vô cùng của lịch sử:

THÂN NHƯ SẤM CHỚP CÓ RỒI KHÔNG

CÂY CỐI XUÂN TƯƠI, THU HÉO HON

NHÌN CUỘC THỊNH SUY ĐỪNG SỢ HÃI

THỊNH SUY: NGỌN CỎ GIỌT SƯƠNG HỒNG

 

Lý Khôi Việt

nguồn http://saigontimesusa.com/bai/tongiao/thiensuvanhanh.shtml

Trang Văn Học